VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN VĂN PHÚC
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO,
BỒI DƯỠNG CÔNG CHỨC CẤP XÃ TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN PHÚ NINH, TỈNH QUẢNG NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
HÀ NỘI, năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN VĂN PHÚC
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO,
BỒI DƯỠNG CÔNG CHỨC CẤP XÃ TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN PHÚ NINH, TỈNH QUẢNG NAM
Ngành: Chính sách công
Mã số: 834.04.02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. LÊ VĂN ĐÍNH
HÀ NỘI, năm 2019
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được luận văn này, tôi xin chân thành cảm ơn đến Ban giám
đốc, các khoa, phòng và quý thầy, cô trong Học viện Khoa học Xã hội đã tận tình và
tạo điều kiện giúp đỡ cho tôi trong quá trình học tập. Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm
ơn sâu sắc đến PGS.TS. Lê Văn Đính, người thầy đã chỉ bảo, hướng dẫn, giúp đỡ
tận tình trong quá trình thực hiện và hoàn thiện luận văn: Thực hiện chính sách đào
tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã từ thực tiễn huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam.
Bên cạnh đó, tôi cũng gửi lời cảm ơn của mình đến lãnh đạo Huyện uỷ,
UBND huyện, các Phòng, Ban ngành ở huyện Phú Ninh, đặt biệt là Phòng Nội vụ,
Ban Tổ chức huyện uỷ Phú Ninh, bạn bè, đồng nghiệp, luôn quan tâm, tạo điều
kiện, chia sẻ, động viên tôi trong suốt thời gian học tập và thực hiện luận văn.
Mặc dù đã rất cố gắng trong quá trình thực hiện nhưng luận văn không thể
tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả mong nhận được sự góp ý của quý thầy, cô và
bạn bè.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn với Đề tài: “Thực hiện chính sách đào tạo, bồi
dưỡng công chức cấp xã từ thực tiễn huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam” là công
trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong Luận văn là hoàn toàn
trung thực và có nguồn gốc rõ ràng./.
HỌC VIÊN
Nguyễn Văn Phúc
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO,
BỒI DƯỠNG CÔNG CHỨC CẤP XÃ .................................................................10
1.1. Chính sách công và thực hiện chính sách công .................................................10
1.2. Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã .............................14
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc thực hiện đào tạo bồi dưỡng công chức cấp xã
...................................................................................................................................31
1.4. Kinh nghiệm đào tạo, bồi dưỡng công chức cơ sở tại một số huyện và bài học
kinh nghiệm rút ra cho huyện Phú Ninh ...................................................................34
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI
DƯỠNG CÔNG CHỨC CẤP XÃ Ở HUYỆN PHÚ NINH, TỈNH QUẢNG
NAM .........................................................................................................................38
2.1. Khái quát chung về huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam và các nhân tố ảnh
hưởng đến việc thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã huyện
Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam. ......................................................................................38
2.2. Khái quát về đội ngũ công chức cấp xã huyện Phú Ninh .................................40
2.3. Tình hình thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã ở huyện
Phú Ninh trong thời gian qua ....................................................................................42
2.4. Những bất cập, hạn chế của công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã ở
huyện Phú Ninh .........................................................................................................53
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC
ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÔNG CHỨC CẤP XÃ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN
PHÚ NINH, TỈNH QUẢNG NAM ........................................................................61
3.1. Quan điểm, căn cứ và mục tiêu nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng
công chức cấp xã huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam ...............................................61
3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi
dưỡng công chức cấp xã huyện Phú Ninh trong thời gian đến .................................63
3.3. Kiến nghị, đề xuất ..............................................................................................74
KẾT LUẬN ..............................................................................................................79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
Nội dung
CBCC
: Cán bộ, công chức
CCHC
: Cải cách
BD
: Bồi dưỡng
ĐTTH
: Đối tượng thu hút
ĐH
: Đại học
ĐT
: Đào tạo
NNL
: Nguồc nhân lực
KT-XH
: Kinh tế - xã hội
HĐND
: Hội đồng nhân dân
LLCT
: Lý luận chính trị
QLNN
: Quản lý nhà nước
TĐC
: Trình độ cao
UBND
: Ủy ban nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
Tên bảng
bảng
2.1.
2.2.
2.3.
2.4.
Trình độ chuyên môn đội ngũ công chức các xã tại huyện Phú
Ninh (Phân tích năm 2018)
Cơ cấu trình độ chuyên môn đội ngũ công chức các xã tại huyện
Phú Ninh
Số lượng, tỷ lệ và tốc độ tăng số người được đào tạo qua các
năm 2014 - 2018
Tình hình đào tạo đội ngũ công chức xã theo từng đối tượng qua
các năm 2014 - 2018
Trang
41
42
45
45
Kết quả công chức được đào tạo đúng với yêu cầu của các xã so
2.5.
với tổng số người đã tham gia đào tạo theo từng chức danh năm
47
2018
2.6.
2.7.
2.8.
2.9.
2.10.
2.11.
2.12.
Trình độ lý luận chính trị của đội ngũ công chức xã được đào
tạo qua các năm
Trình độ lý luận chính trị của đội ngũ công chức xã năm 2018
Trình độ tin học của công chức các xã được đào tạo qua các
năm 2014 - 2018
Trình độ ngoại ngữ của công chức các xã được đạo tạo qua các
năm 2014 – 2018 (Trình độ Ngoại ngữ Anh văn B)
Mức độ đánh giá về cơ sở, kinh phí và quản lý công tác đào tạo
Mức độ đánh giá về nội dung và thời gian thực hiện công tác
đào tạo
Kiểm tra đánh giá công việc sau khi đào tạo
48
48
49
50
51
52
53
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự nghiệp đổi mới đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa
lịch sử nhất định. Những thành công đó không tách rời những đóng góp của đội ngũ
cán bộ, công chức các cấp nói chung và trong đó phải kể đến là vai trò rất quan
trọng của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã. Cán bộ, công chức cấp xã là những
người trực tiếp lãnh đạo và tổ chức thực hiện mọi chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước tại cơ sở. Đồng thời, cán bộ, công chức cấp xã
cũng là những người gần dân, sát dân, là cầu nối giữa Đảng với Nhân dân, thường
xuyên lắng nghe, giải quyết và đề đạt ý kiến, nguyện vọng chính đáng của Nhân dân
với Đảng và Nhà nước
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói “Cấp xã là nơi gần gũi dân nhất, là nền tảng ,
cấp xã làm được việc thì mọi việc đều xong xuôi”. Cán bộ, công chức cấp xã có vai
trò hết sức quan trọng, là cấp chính quyền sát dân nhất, là cấp trực tiếp vận động
nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, thực hiện khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân
trong xây dựng và thực hiện các nhiệm vụ kinh tế-xã hội. Hội nghị lần thứ 7, Ban
chấp hành Trung ương khóa 12 đã ban hành Nghị quyết số 26, ngày 19 tháng 5 năm
2018 về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm
chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ [9,tr.1]. Nghị quyết nêu rõ: “đội ngũ
cán bộ các cấp có bước trưởng thành, phát triển về nhiều mặt, chất lượng ngày càng
được nâng lên, từng bước đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước; cơ cấu độ tuổi, giới tính, dân tộc, ngành nghề, lĩnh vực công
tác có sự cân đối, hợp lý hơn; nguồn cán bộ quy hoạch khá dồi dào, cơ bản bảo đảm
sự chuyển tiếp giữa các thế hệ”. Đồng thời nêu rõ: “đội ngũ cán bộ có lập trường tư
tưởng, bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, lối sống giản dị, gương mẫu, có ý
thức tổ chức kỷ luật, luôn tu dưỡng, rèn luyện, trình độ, năng lực được nâng lên,
phấn đấu, hoàn thành nhiệm vụ được giao. Nhiều cán bộ năng động, sáng tạo, thích
ứng với xu thế hội nhập, có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế. Đa số cán
1
bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội ở
các cấp có năng lực, phẩm chất, uy tín.” [9,tr.1,2]
Tuy nhiên, trong thực tiễn đội ngũ công chức nói chung, công chức cấp xã nói
riêng vẫn còn bộc lộ những yếu kém, bất cập về kiến thức, năng lực, trình độ trước
những yêu cầu mới. Một số công chức chưa được đào tạo, bồi dưỡng một cách có
hệ thống, vì vậy, gặp nhiều khó khăn, lúng túng, thậm chí va vấp, vi phạm trong
thực hiện nhiệm vụ. Bên cạnh đó, trước tác động tiêu cực của cơ chế thị trường, một
bộ phận công chức cấp xã suy thoái về phẩm chất đạo đức, quan liêu, cửa quyền, vi
phạm dân chủ, tham ô… dẫn đến bị kỷ luật, thậm chí bị truy tố, xét xử theo pháp
luật. Những điều đó đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín, tính hiệu quả, hiệu lực
của cơ quan quản lý nhà nước địa phương. Nhận thấy được điều đó, Nghị quyết 26
nêu rõ: “đội ngũ cán bộ đông nhưng chưa mạnh; tình trạng vừa thừa, vừa thiếu cán
bộ xảy ra ở nhiều nơi; sự liên thông giữa các cấp, các ngành còn hạn chế. Tỉ lệ cán
bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số chưa đạt Mục tiêu đề ra. Thiếu
những cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, nhà khoa học và chuyên gia đầu ngành trên
nhiều lĩnh vực. Năng lực của đội ngũ cán bộ chưa đồng đều, có mặt còn hạn chế,
yếu kém; nhiều cán bộ, trong đó có cả cán bộ cấp cao thiếu tính chuyên nghiệp, làm
việc không đúng chuyên môn, sở trường; trình độ ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp và
khả năng làm việc trong môi trường quốc tế còn nhiều hạn chế. Không ít cán bộ trẻ
thiếu bản lĩnh, ngại rèn luyện” [ 9, tr.2,3].
Huyện Phú Ninh là huyện mới được thành lập của tỉnh Quảng Nam, đang
trong quá trình xây dựng, hội nhập và phát triển. Điều đó đòi hỏi chính quyền huyện
nhà liên tục thực hiện đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức trên nhiều lĩnh vực
trong nhiều năm. Tuy nhiên, công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức xã, của huyện
Phú Ninh vẫn còn tồn tại một số hạn chế: nội dung, chương trình vẫn còn trùng lặp,
lạc hậu; ý thức học tập, bồi dưỡng nghiệp vụ của một bộ phận công chức xã chưa
cao, điều kiện bảo đảm thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng lạc hậu...Vì vậy, chất
lượng đội ngũ công chức xã, thị trấn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển trong
tình hình mới. Từ thực tiễn đó, việc nghiên cứu, đánh giá một cách khoa học về
công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức xã tại huyện Phú Ninh có ý nghĩa
2
quan trọng, thiết thực; là cơ sở để hoạch định chiến lược đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
công chức cơ sở có chất lượng, đủ khả năng hội nhập và xây dựng chính quyền địa
phương vững mạnh.
Xuất phát từ những lý do nêu trên học viên chọn đề tài: “Thực hiện chính sách
đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã từ thực tiễn huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng
Nam” để nghiên cứu làm luận văn cao học chuyên ngành chính sách công.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
ĐTBD công chức là một trong những lĩnh vực không mới, được nhiều nhà
khoa học, nhà quản lý quan tâm nghiên cứu. Liên quan đến vấn đề này đã có một số
công trình và bài viết, sách chuyên khảo của các nhà khoa học công bố. Nhiều công
trình đã nghiên cứu về công tác cán bộ, đào tạo, bồi dưỡng công tác cán bộ có liên
quan dến luận văn như:
-Những yêu cầu cải cách công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, của
Ngô Thành Can, 2013, Bộ Nội vụ, Nxb Viện khoa học tổ chức nhà nước. Tác giả đã
làm rõ mục tiêu đào tạo, xác định mục tiêu đào tạo và nhu cầu học tập. Mục tiêu đào
tạo, bồi dưỡng là trang bị cho đội ngũ cán bộ, công chức có tầm nhìn, có năng lực
thực tế đáp ứng yêu cầu vị trí công tác, bảo đảm tính chuyên nghiệp.
-Một số vấn đề lý luận về định chế pháp luật công vụ, công chức, Lương Thanh
Cường (2011), Nxb. Chính trị - , Hà Nội. Tác giả đã nêu lên những vấn đề lý luận và
thực tiễn về định chế công vụ, công chức, đưa ra một số giải pháp tiếp tục hoàn thiện
chế định pháp luật công vụ, công chức một cách thống nhất, đồng bộ, góp phần xây
dựng nền công vụ công khai, minh bạch và hiệu quả.
- PGS, TS Nguyễn Thanh Tuấn, - Th.S Phạm Ngọc Hà (Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh), Kiện toàn, chuẩn hóa các chức danh cán bộ chủ chốt cấp
xã đáp ứng yêu cầu thời kỳ mới, Tạp chí Lý luận chính trị số 7-2015: Bài viết phân
tích vai trò của đội ngũ chủ chốt cấp xã và phương hướng đổi mới, hoàn thiện các
chức danh cán bộ chủ chốt ở xã: Thứ nhất, đổi mới, hoàn thiện tổ chức và hoạt động
của Đảng ủy, HĐND, UBND, MTTQ và tổ chức chính trị - xã hội ở xã trong điều
kiện có sự tác động của nhiều mối quan hệ làng (xã) để thúc đẩy đổi mới, hoàn
thiện các chức danh chủ chốt ở xã. Thứ hai, thể chế hóa vị trí, vai trò, chức năng,
3
nhiệm vụ của các chức danh Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND,
Chủ tịch MTTQ cấp xã. Thứ ba, nâng cao năng lực, trình độ, tiến tới chuẩn hóa đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã.
- Nguyễn Viết Xuân (Ban Tổ chức Tỉnh ủy Quảng Bình), Xây dựng đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp xã ở Quảng Bình, Theo xaydungdang.org.vn: Bài viết đã phân
tích thực trạng và đề xuất các giải pháp để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp xã của Quảng Bình trong thời gian tới: Một là, tăng cường công tác giáo
dục chính trị tư tưởng, nâng cao bản lĩnh chính trị, đạo đức cách mạng của đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp xã. Hai là, xây dựng tiêu chuẩn cụ thể và cơ cấu lại đội ngũ cán
bộ chủ chốt cấp xã. Ba là, thực hiện đồng bộ, đúng quy định các khâu, quy trình của
công tác cán bộ. Bốn là, quản lý và thực hiện tốt chính sách cán bộ, thực hiện
nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, đồng thời thực hành và mở rộng dân chủ
trong quản lý cán bộ. Năm là, đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp ủy đối với
công tác cán bộ
- TS. Ngô Thành Can có nhiều bài viết công tác bồi dưỡng công chức như:
Nâng cao hiệu quả bồi dưỡng công chức, TS Ngô Thành Can, Tạp chí Lao động và
Xã hội, số 338 - 7/2008. Đổi mới, nâng cao hiệu quả bồi dưỡng, bồi dưỡng công
chức, TS Ngô Thành Can, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 175/8-2010. Những yêu
cầu cải cách công tác bồi dưỡng công chức, TS Ngô Thành Can, Bộ Nội vụ,
2013… Những bài viết này đã trình bày quá trình đào tạo bồi dưỡng, những yếu tố
ảnh hưởng đến hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng, những việc cần làm để nâng cao hiệu
quả công tác đào tạo, bồi dưỡng.
- Nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở
Thành phố Đà Nẵng, Hoàng Hữu Nghị - Tạp chí phát triển kinh tế - xã hội thành
phố Đà Nẵng, năm 2010. Bài viết đã phân tích kết quả đạt được, hạn chế, bất cập về
chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở Thành phố Đà Nẵng và
đề xuấtmột số giải pháp nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức ở Thành phố Đà Nẵng.
- Nguyễn Thị La (Học viện quốc gia), Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
trong quá trình cải cách, Tạp chí Cộng sản 9/2015. Bài viết đã trình bày thực trạng
4
và một số giải pháp tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức.
- Ths. Đào Thị Tùng - Học viện Chính trị - khu vực III, Kinh nghiệm trong
đào tạo, bồi dưỡng công chức ở một số nước, Tạp chí Tổ chức nhà nước Online,
7/5/2014. Tác giả đã trình bày khái quát kinh nghiệm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
công chức ở Trung Quốc, Singapore, Pháp. Từ thực tiễn xây dựng đội ngũ công
chức của những quốc gia trên, tác giả đã rút ra một số kinh nghiệm cho công tác đào
tạo, bồi dưỡng công chức ở nước ta.
- Luận văn thạc sĩ của Trần Ngọc Nhiều (2014), Nâng cao chất lượng đào tạo
đội ngũ cán bộ trẻ tỉnh Quảng Nam hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh [47]. Trên
cơ sở khái quát nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác
đào tạo cán bộ, luận văn tập trung đi sâu đánh giá thực trạng chất lượng đào tạo đội
ngũ cán bộ trẻ tỉnh Quảng Nam hiện nay; từ đó, đề xuất các giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng đào tạo đội ngũ cán bộ trẻ trong thời gian tới đáp ứng yêu cầu xây
dựng tỉnh Quảng Nam thành tỉnh công nghiệp trước năm 2020.
- Nguyễn Phước Sơn (2015), Đào tạo, bồi dưỡng công chức xã người dân tộc
thiểu số trên địa bàn các huyện miền núi, tỉnh Quảng Nam, Luận văn Thạc sĩ Quản
lý công, Học viện. Luận văn này đã tập trung vào nội dung: Khái quát lý luận chung
về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã; đánh giá thực trạng công tác đào
tạo, bồi dưỡng và đề xuất những giải pháp cơ bản, góp phần nâng cao chất lượng
đào tạo, bồi dưỡng công chức xã người dân tộc thiểu số các huyện miền núi, tỉnh
Quảng Nam.
-Nâng cao năng lực thực thi công vụ của công chức cấp xã ở Tây Ninh,
Nguyễn Thị Tươi (2013), Luận văn thạc sĩ Quản lý công, Học viện . Từ thực tiễn
năng lực công chức cấp xã ở Tây Ninh, tác giả đánh giá thực trạng và đề ra các giải
pháp nhằm nâng cao năng lực đội ngũ công chức này, góp phần thực hiện sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Tây Ninh.
-Chất lượng công chức cấp xã huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế, Hoàng
Thị Thu Hương (2014), Luận văn thạc sĩ Quản lý công, Học viện . Trên cơ sở lý luận
về công chức cấp xã, các tiêu chí đánh giá công chức cấp xã, tác giả đã nghiên cứu,
5
đánh giá thực trạng chất lượng công chức cấp xã, qua đó đề xuất phương hướng và giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng công chức cấp xã, góp phần củng cố, xây dựng chính
quyền cơ sở huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
-Đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị,
Nguyễn Thị Khởi (2014), Luận văn Thạc sĩ Quản lý công, Học viện . Luận văn đã
tập trung vào nội dung: xác định nhu cầu, nội dung chương trình, phương pháp đào
tạo, chế độ hỗ trợ và đánh giá sau đào tạo; đồng thời đề xuất nhiều giải pháp nhằm
hoàn thiện công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã trên địa bàn huyện Vĩnh
Linh, tỉnh Quảng Trị.
-“Đào tạo, bồi dưỡng công chức các cơ quan nhà nước tỉnh Quảng Bình”, Trần
Hải Quỳnh (2015), luận văn đánh giá đúng thực trạng đào tạo, bồi dưỡng và quản lý
nhà nước về công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức tỉnh Quảng Bình; đồng thời cũng
đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hoạt động quản lý nhà nước về đào tạo,
bồi dưỡng công chức tỉnh Quảng Bình.
Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập một số vấn đề lý luận về cán bộ,
công chức; xây dựng đội ngũ CBCC như: khái niệm cán bộ, công chức, một số nội
dung về cán bộ, công chức, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng CBCC. Từ đó
rút ra những thành tựu cũng như những hạn chế trong công tác đào tạo, bồi dưỡng
CBCC đến hiện nay, chưa có công trình nào đề cập, nghiên cứu đến vấn đề đào tạo,
bồi dưỡng CBCC cấp xã trên địa bàn huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam. Vì vậy,
luận văn nghiên của tác giả không trùng lặp với các công trình nghiên cứu khoa học
của các tác giả khác đã được công bố. Nhưng các tài liệu, công trình nghiên cứu
khoa học ở trên là những tư liệu quan trọng, có giá trị về mặc thực tiễn giúp cho
việc nghiên cứu và hoàn thiện luận văn này.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Học viên nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về công tác đào tạo, bồi dưỡng
công chức cấp xã tại huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam từ đó xác định được các nội
dung, căn cứ để đề xuất các giải pháp mang tính thiết thực, hiệu quả.
6
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn sẽ tập trung thực hiện
một số nhiệm vụ trọng tâm sau:
Luận văn thể hiện được cơ sở lý luận và thực tiễn về công tác đào tạo, bồi
dưỡng công chức cấp xã hiện nay như: Các khái niệm, vị trí, vai trò của công chức
cấp xã; mục tiêu, nguyên tắc, yêu cầu, qui trình, sự cần thiết đối với công tác đào
tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã để nghiên cứu. Tập trung đánh giá các yếu tố ảnh
hưởng cũng như thực trạng trong công tác đào tạo, bồi dưỡng đối với công chức cấp
xã trên địa bàn huyện Phú Ninh; Nêu lên những ưu điểm, tồn tại, hạn chế, bất cập,
nguyên nhân của các hạn chế đó. Từ đó, đề xuất một số biện pháp mang tính chất
khả thi, đồng bộ hơn, đồng thời kiến nghị đối với các cấp ủy, chính quyền va các cơ
quan có liên quan nhằm tiếp tục nâng cao chất lượng, đào tạo, bồi dưỡng đối với
công chức cấp xã tại huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam, nhằm phá huy tốt nhất đội
ngũ công chức của Phú Ninh nói chung và đội ngũ cán bộ công chức cấp xã nói
riêng trong thời gian đến.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu về thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng
công chức cấp xã tại huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu công tác đào tạo, bồi dưỡng công
chức cấp xã ở huyện Phú Ninh, từ việc phân tích nhu cầu cần thiết phải bồi dưỡng,
dào tạo đến xây dựng chương trình, nội dung đào tạo; xây dựng kế hoạch và tổ chức
triển khai thực hiện dào tạo, bồi dưỡng. Đối tượng đào tạo bồi dưỡng theo qui định
của nghị định 92-NĐ/CP của Chính phủ đối với các chức danh công chức cấp xã:
Chỉ huy trưởng Quân sự; Trưởng Công an; Đị chính-xây dựng; Tài chính-kế toán;
Văn hóa xã hội; Tư pháp hộ tịch.
- Về không gian: Luận văn tập trung nghiên việc thực hiện chính sách đào tạo,
bồi dưỡng công chức cấp xã ở 11 xã, thị trấn trên địa bàn huyện Phú Ninh, tỉnh
Quảng Nam.
7
- Về thời gian: từ năm 2014 - 2018.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng, Nhà nước về đánh giá chính sách đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức.
Ngoài ra, luận văn kế thừa có chọn lọc những công trình khoa học của các tác
giả đi trước về vấn đề đánh giá chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháo hệ thống hóa, tổng hợp, phân tích các tài liệu tham khảo; Điều
tra xã hội học và tổng hợp, thống kê, phân tích luận giải; Điền giả, nghiên cứu khảo
sát tại cấp xã… nhằm phục vụ cho quá trình nghiên cứu, phân tích, đánh giá về thực
trạng và các giải pháp mang tính hiệu quả có tính khả thi, có khả năng áp dụng vào
thực tiễn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Hệ thống hóa cơ sở lý luận về thực hiện chính sách công nói chung và thực
hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức xã, thị trấn nói riêng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Từ những số liệu thực tế, các giải pháp đề ra trong luận văn có thể giúp các cơ
quan hoạch định chính sách có thể tham khảo và có những chính sách thiết thực,
hiệu quả trong công tác bồi dưỡng, đào tạo công chức cấp xã đáp ứng với yêu cầu
thực tiễn hiện nay. Luận văn nghiên cứu thành công sẽ là nguồn tư liệu tham khảo
quan trọng giúp các cấp lãnh đạo, chỉ đạo, thiết kế, xây dựng nên chương trình,
khung đào tạo, bồi dưỡng đối với đội ngũ công chức cấp xã phù hợp, sát đúng với
thực tiễn trong tình hình hiện nay. Luận văn có thể là nguồn tư liệu tham khảo để
các cơ quan, nghiên cứu sinh, các tác giả sau này tiếp tục nghiên cứu, phát triển
trong tương lai.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mục lục, lời mở đầu, danh mục các bảng và danh mục tài liệu
8
tham khảo, đề tài chia làm 3 chương: chương 1: Cơ sở lý luận về thực hiện chính
sách đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã; Chương 2: Thực trạng thực hiện chính
sách đào tạo bồi dưỡng, công chức xã ở huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam; Chương
3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức xã ở
huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam.
9
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO,
BỒI DƯỠNG CÔNG CHỨC CẤP XÃ
1.1. Chính sách công và thực hiện chính sách công
1.1.1. Chính sách công
Có rất nhiều quan điểm về chính sách công, tùy theo cách tiếp cận và góc độ
xem xét, cho đến nay cuộc tranh luận về khái niệm chính sách công vẫn là một chủ
đề sôi động và khó đạt được sự nhất trí rộng rãi. Hiện nay, ở nước ta cũng có nhiều
cách tiếp cận khác nhau về chính sách công: Từ điển giải thích thuật ngữ hành hính
quan niệm: "Chính sách công là chiến lược sử dụng các nguồn lực để làm dịu bớt
những vẫn đề của quốc gia hay những mối quan tâm của nhà nước. Nó tạo thời cơ,
giữ gìn hạnh phúc và an toàn cho mọi người; tạo ra an toàn tài chính và bảo vệ an
toàn Tổ quốc"[28,tr.99-100].Các nhà khoa học của Học viện Chính trị - Quốc gia
Hồ Chí Minh cho rằng: Chính sách công là “Chương trình hành động của nhà nước
nhằm giải quyết các vấn đề cụ thể”[57,tr.114]; “Chương trình hành động hướng
đích của chủ thể nắm hoặc chi phối quyền lực công cộng” [29.tr.235]; "Chính sách
công là thuật ngữ dùng để chỉ một chuỗi các quyết định hoạt động của nhà nước
nhằm giải quyết một vấn đề chung đang đặt ra trong đời sống kinh tế - xă hội theo
mục tiêu xác định" [35]; “Chính sách công là định hướng hành động do nhà nước
lựa chọn để giải quyết các vấn đề phát sinh trong đời sống cộng đồng, phù hợp với
thái độ chính trị và điều kiện kinh tế - xã hội trong mỗi thời kỳ” [30.tr.267-293];
“Chính sách công là định hướng hành động do nhà nước lựa chọn để giải quyết
những vấn đề phát sinh trong đời sống cộng đồng phù hợp với thái độ chính trị
trong mỗi thời kỳ nhằm đảm bảo cho xã hội phát triển ổn định, bền vững”
[24,tr.167]. Theo PGS.TS Đỗ Phú Hải (2012), “chính sách công là một tập hợp các
quyết định có liên quan của Nhà nước nhằm lựa chọn mục tiêu cụ thể và các giải
pháp thực hiện giải quyết các vấn đề của xã hội theo mục tiêu tổng thể đã xác định”
[27, tr.203].
10
Mặc dù các quan niệm trên còn có nhiều điểm khác nhau, nhưng tất cả các ý
kiến đều xem xét Chính sách công với tư cách là sản phẩm có mục đích của nhà
nước, chính quyền nhằm tác động đến đời sống của nhân dân.Từ những phân tích
trên, thuật ngữ chính sách công có thể hiểu như sau: Chính sách công là tổng thể
chương trình hành động của nhà nước, nhằm giải quyết những vấn đề có tính cộng
đồng trên các lĩnh vực của đời sống xã hội theo phương thức nhất định nhằm đạt
được các mục tiêu đề ra và đảm bảo cho xã hội phát triển bền vững, ổn định [25].
-Tuy nhiên, do đặc điểm của hệ thống chính trị và hệ tư tưởng cho nên vấn đề
nghiên cứu về chính sách công mới chỉ được đề cập trong khoảng gần 20 năm trở
lại đây - đặc biệt từ khi chúng ta chấp nhận cơ chế thị trường với định hướng xã hội
chủ nghĩa và chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân. Hiện nay, ở nước ta cũng có nhiều cách tiếp cận
mới về chính sách công: Giữa quyết sách chính trị (của Đảng cầm quyền) và chính
sách công (của Nhà nước) có mối quan hệ chặt chẽ với nhau: Chính sách công là
một dạng biểu hiện cụ thể của quyết sách chính trị của Đảng cầm quyền (cương
lĩnh, đường lối…); nó thể hiện ý chí của Nhà nước trong việc tổ chức, quản lý, điều
hành một lĩnh vực hoạt động nào đó của đời sống xã hội.Quyết sách chính trị của
Đảng cầm quyền và Chính sách công có điểm chung - đó là sự thể hiện ý chí giai
cấp cầm quyền, giai cấp thống trị xã hội. Trong đó; Quyết sách chính trị của Đảng
cầm quyền là cơ sở đường lối của các Chính sách công và Chính sách công là hình
thức thực tế, hình thức pháp lý, là công cụ để thể hiện Quyết sách chính trị. Bất cứ
một chủ thể lãnh đạo quản lý chính trị nào (cụ thể là Đảng cầm quyền ) sau khi đề
ra một Quyết sách chính trị nào đó đều lưu tâm đến việc Quyết sách chính trị đó
phải được các cơ quan trong bộ máy nhà nước, chính quyền thể chế hoá chính sách
công như thế nào; và ngược lại để nhà nước có được những Chính sách công đúng
đắn thì không thể không dựa trên sự định hướng của các Quyết sách chính trị của
Đảng cầm quyền. Tất nhiên; sự phân biệt giữa Quyết sách chính trị và Chính sách
công chỉ có tính tương đối. Bởi vì có những Chính sách công nhiều khi do khả
năng, quy mô, phạm vi điều chỉnh và tác động của nó trong đời sống xã hội quá lớn
(nhiều khi nó tính “ưu trội” do hiệu quả tác động vào các quan hệ xã hội của nó có
11
tính “ trực tiếp” nhờ đặc trưng “cưỡng chế” của nó) thì cũng có thể xem nó như một
Quyết sách chính trị. Ở Việt Nam trên các phương tiện thông tin đại chúng và các
báo thường dùng cụm từ "Chính sách của Đảng và Nhà nước", do đó có nhiều ý
kiến cho rằng, Đảng cũng là chủ thể ban hành sách công? Điều này có thể giải thích
bằng thực tế “đặc thù” trong tổ chức, hoạt động của Hệ thống chính trị của nước ta:
Ở Việt Nam, Đảng Cộng sản là lực lượng chính trị duy nhất lãnh đạo Nhà nước,
lãnh đạo xă hội. Đảng Cộng sản Việt Nam là tổ chức chính trị, là Đảng duy nhất
lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh chính trị, các nghị
quyết, chủ trương, đó chính là những căn cứ định hướng, chỉ đạo để các cơ quan
trong bộ máy Nhà nước ban hành các Chính sách công.
Quan niệm tiếp cận trên cho rằng, “công” hàm nghĩa - hướng đến lợi ích
chung, tập thể, số đông, khác biệt với mục tiêu vì cá nhân. Cách tiếp cận này thừa
nhận Đảng, các tổ chức chính trị - xã hội và thậm chí cả chủ thể trong khu vực tư
nhân, khu vực hỗn hợp (hợp tác công - tư) cũng là chủ thể của chính sách công,
miễn là chính sách ấy vì giá trị nhân văn, hướng đến số đông thành viên trong tổ
chức, cộng đồng, quốc gia. Ở góc độ này, chính sách của Đảng, các tổ chức chính
trị - xã hội, thậm chí cả doanh nghiệp nhằm giải quyết các lợi ích công cũng được
công nhận là chính sách công (theo Oxford English Dictionary, chính sách công là
một đường lối hành động được thông qua hoặc theo đuổi bởi chính quyền, đảng,
nhà cai trị, chính khách).
Từ thực tiễn đất nước, hiện nay quan điểm mới của một số nhà nghiên cứu ở
Việt Nam cho rằng: Chính sách công là tổng thể chương trình hành động của các
chủ thể chính trị có thẩm quyền (Đảng cầm quyền, Nhà nước, tổ chức chính trị- xã
hội…) về việc lựa chọn các mục tiêu và giải pháp nhằm giải quyết những vấn đề có
tính cộng đồng trên các lĩnh vực của đời sống xã hội theo phương thức nhất định để
đảm bảo cho xã hội phát triển bền vững, ổn định [25].
1.1.2. Thực hiện chính sách công
Thực hiện chính sách công là quá trình biến các chính sách thành những kết
quả trên thực tế thông qua các hoạt động có tổ chức trong bộ máy nhà nước, nhằm
hiện thực hoá những mục tiêu mà chính sách đã đề ra; là toàn bộ quá trình hoạt
12
động của chủ thể theo các cách thức khác nhau nhằm hiện thực hóa nội dung chính
sách công một cách có hiệu quả [ 25,tr.19].
Như vậy, thực hiện chính sách công là toàn bộ quá trình chuyển ý chí của chủ
thể trong chính sách thành hiện thực với các đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu
định hướng.
Tầm quan trọng của việc thực hiện chính sách có tầm quan trọng là để nhằm
hiện thực hoá những mục tiêu mà chính sách đã đề ra; nếu không có việc thực hiện
chính sách để đạt được những kết quả nhất định thì những chủ trương, chế độ chỉ là
những khẩu hiệu. Việc thực hiện chính sách bao gồm các bước cơ bản sau đây: Bước
1: xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách, bao gồm: Kế hoạch về tổ
chức, điều hành như hệ thống các cơ quan tham gia, đội ngũ nhân sự, cơ chế thực
hiện; kế hoạch cung cấp nguồn vật lực như tài chính, trang thiết bị; kế hoạch thời
gian triển khai thực hiện; kế hoạch kiểm tra, đôn đốc thực hiện chính sách; dự kiến
về quy chế, nội quy về tổ chức và điều hành thực hiện chính sách. Bước2: Phổ biến
tuyên truyền chính sách: Công đoạn này giúp cho nhân dân, các cấp chính quyền hiểu
được nội dung, ý nghĩa của chính sách và giúp cho chính sách được triển khai thuận lợi
và có hiệu quả. Bước 3: Phân công phối hợp thực hiện chính sách: Một chính sách
thường được thực hiện bởi nhiều chủ thể, bao gồm cơ quan, đơn vị chủ trì, các tổ
chức phối hợp; do đó phải có sự phối hợp, phân công hợp lý để hoàn thành tốt
nhiệm vụ. Bước 4: Duy trì chính sách: Để chính sách được phát huy tốt thì việc duy
trì chính sách hiệu quả là bước quan rọng nhằm phát huy tốt chính sách đó trong
thực tiễn. Bước 5: Điều chỉnh chính sách, việc làm này là cần thiết, diễn ra thường
xuyên trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách. Trong điều chỉnh phải giữ được
mục tiêu ban đầu của chính sách, các điều chỉnh phải mang tính hợp lý, điều chỉnh các
giải pháp, cơ chế để thực hiện hiệu quả chính sách đã đề ra. Hoạt động này phải hết sức
cẩn thận và chính xác, không làm biến dạng chính sách ban đầu. Bước 6: Theo dõi,
kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách: Bất cứ triển khai chính sách nào thì cũng
phải kiểm tra, đôn đốc để đảm bảo các chính sách được thực hiện đúng, và sử dụng có
hiệu quả mọi nguồn lực. Công tác kiểm tra này cũng giúp cho các đối tượng thực hiện
nhận ra những hạn chế của mình để điều chỉnh bổ sung, hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu
13
quả của chính sách. Bước 7: Tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm trong việc thực hiện
chính sách [25, tr.19-23].
1.2. Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã
1.2.1. Khái quát về công chức cấp xã
1.2.1.1. Khái niệm công chức, công chức cấp xã
Khái niệm công chức
Tại điều 4 của Luật Cán bộ công chức ngày 13/11/2008 của Quốc hội được
định nghĩa như sau “Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm
vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan,
đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên
nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà
không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý
của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức
chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế
và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo,
quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của
đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật”[37, tr.1-2].
Khái niệm công chức cấp xã
Điều 4 Luật cán bộ, công chức 2008 quy định cán bộ xã, phường, thị trấn (gọi
chung là cấp xã) là công dân Việt Nam được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ
trong thường trực Hội đồng nhân dân (HĐND), Ủy ban nhân dân (UBND), bí thư,
phó bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội.
Khái niệm công chức xã: Công chức cấp xã là công dân Việt Nam được
tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc UBND cấp xã,
trong biên chế và hưởng lương từ Ngân sách Nhà nước (khoản 3, điều 4 Luật
CBCC năm 2008).
Theo quy định tại nghị định 92/2009/NĐ-CP của chính phủ, tại khoản 2 , điều
3, công chức cấp xã có các chức danh sau đây: Trưởng Công an; Chỉ huy trưởng
Quân sự; Văn phòng - thống kê; Địa chính - xây dựng - đô thị và môi trường (đối
14
với xã, thị trấn) hoặc địa chính - nông nghiệp - xây dựng và môi trường (đối với
xã); Tài chính - kế toán; Tư pháp - hộ tịch; Văn hoá - xã hội.
1.2.1.2. Đặc điểm đội ngũ công chức cấp xã
Từ vị trí, vai trò của công chức xã đã cho thấy những đặc điểm chung của
công chức xã hiện nay, thì bên cạnh đó thực tế còn có đặc điểm riêng biệt đó là:
Công chức xã hầu hết là người địa phương, cư trú sinh sống tại địa phương,
có quan hệ với người dân về mặt kinh tế, văn hóa, tình cảm và đời sống sinh hoạt
hằng ngày. Trong bản thân con người của công chức xã đều chứa đựng các yếu tố:
là người dân, người cùng thôn xóm, người đại diện Nhà nước, các yếu tố này vừa
thống nhất, vừa mâu thuẫn, xung đột nhau, chi phối các hoạt động của họ, nhất là
việc giải quyết những vấn đề có liên quan đến mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân cộng đồng - nhà nước.
Phần lớn đội ngũ công chức xã trưởng thành từ địa phương, chỉ có một số ít
tăng cường từ trên về địa phương.
Nhận xét chung: Từ những đặc điểm chung và riêng nêu trên cho thấy, hoạt
động của đội ngũ công chức cấp xã là hoạt động quản lý nhà nước về mặt chuyên
môn. Do đó, quyền và nghĩa vụ của họ phải được quy định rõ ràng sát với yêu cầu
nhiệm vụ thực tiễn, tạo nên động lực tinh thần cho đội ngũ công chức xã hoạt động
đạt nhiều hiệu quả.
1.2.2. Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã
1.2.2.1. Khái niệm về đào tạo, bồi dưỡng công chức xã
Nhận thức được tầm quan trọng của việc đào tạo, bồi dưỡng công chức trong
giai đoạn hiện nay, Đảng ta đã chủ trương: “Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức với chương trình, nội dung sát đúng, phù hợp; chú trọng đội ngũ cán bộ
xã. Có chương trình kế hoạch đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng thường xuyên cán
bộ, công chức nhà nước”[36, tr 217-218,339]. Việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức là việc làm thường xuyên, liên tục, có tính định hướng và cần tập rung
triển khai đồng bộ, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.
Trên cơ sở các chủ trương của Đảng, nhà nước đã thể chế hóa các quy định về
đào tạo, bồi dưỡng công chức thành pháp luật và các văn bản liên quan. Theo đó,
15
Nhà nước ta coi việc đào tạo, bồi dưỡng công chức cũng là nghĩa vụ, quyền lợi của
công chức cần được thể chế hóa trong Luật cán bộ, công chức: “Cán bộ, công chức
phải thường xuyên học tập để nâng cao trình độ, được tạo điều kiện để học tập nâng
cao trình độ, được quyền nghiên cứu khoa học, sáng tác” [37].
Đào tạo, bồi dưỡng được thống nhất theo các điểm sau. Thông thường, đào tạo
được cho là “quá trình tác động đến con người làm cho người đó lĩnh hội và nắm
vững những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo... một cách có hệ thống nhằm chuẩn bị cho
người đó thích nghi với cuộc sống và khả năng nhận một sự phân công lao động
nhất định”. Đào tạo là một quá trình làm cho người ta trở thành người có năng lực
đáp ứng theo các tiêu chuẩn nhất định.
Đào tạo là một quá trình làm cho chủ thể trở thành người có năng lực thực sự,
theo tiêu chuẩn nhất định, bồi dưỡng là quá trình làm tăng thêm năng lực hoặc phẩm
chất của người đó. Về thời gian thì đào tạo có thời gian dài hơn, thời gian từ 12
tháng trở lên, xong dào tạo được cấp bằng hoặc chứng chỉ đào tạo, bồi dưỡng chỉ
được cấp chứng nhận đã hoàn thành khóa, chương trình bồi dưỡng theo đợt. Việc so
sánh hai khái niệm đào tạo và bồi dưỡng sẽ giúp hiểu sâu hơn về nội hàm của hai
vấn đề, giúp cho việc đánh giá đúng thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng công
chức. Ở đây chúng ta cần đưa ra một định nghĩa chung cho đào tạo bồi dưỡng cán
bộ công chức.
Như vậy, thực tiễn có rất nhiều cách tiếp cận về đào tạo, bồi dưỡng. Trong
luận văn được thuật ngữ đào tạo được hiểu là hoạt động truyền thụ kiến thức, kỹ
năng theo quy định của từng cấp học, bậc học nhằm hình thành và phát triển một
cách có hệ thống các tri thức, trình độ, năng lực của con người. Bồi dưỡng là quá
trình cập nhật, trang bị kỹ năng, nâng cao kiến thức làm việc.
Đào tạo, bồi dưỡng chính là việc tổ chức những cơ hội cho người ta học tập,
nhằm giúp tổ chức đạt được mục tiêu của mình bằng việc tăng cường năng lực, làm
gia tăng giá trị của nguồn lực cơ bản quan trọng nhất là con người, là cán bộ công
chức làm việc trong tổ chức. Việc đào tạo, bồi dưỡng tác động trực tiếp đến nhu cầu
của con người, giúp họ làm việc tốt hơn, phát huy được năng lực, tiềm năng của
mình vào công việc có hiệu quả. Với các mục tiêu và quan điểm như vậy đào tạo,
16
bồi dưỡng CBCC nhằm tới các mục đích [3] sau:
- Nâng cao năng lực làm việc của CBCC, phát huy khả năng thực tế của họ
trong công việc.
- Tạo điều kiện để CBCC phát triển, đáp ứng được nhu cầu năng lực của mình
trong thực tiễn.
- Giảm thời gian học tập, làm quen với công việc mới của CBCC do thuyên
chuyển, đề bạt, thay đổi nhiệm vụ và đảm bảo cho họ có đầy đủ khả năng làm việc
một cách nhanh chóng và tiết kiệm.
Dó đó, đào tạo, bồi dưỡng là hoạt động nhằm:
- Bổ sung, nâng cao kiến thức, trang bị những kỹ năng cần thiết liên quan đến
công việc của mình;
- Thay đổi thái độ và hành vi;
- Nâng cao hiệu quả thực hiện công việc;
- Hoàn thành những mục tiêu của cá nhân và của tổ chức.
Đào tạo và phát triển là một nhiệm vụ quan trọng trong tổ chức. Hoạt động
đào tạo, bồi dưỡng không những giúp nâng cao năng lực cho cán bộ công chức mà
còn đáp ứng được nhu cầu về nhân lực của chính tổ chức trong tương lai.
1.2.2.2.Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã
Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã là quá trình biến các chủ
trương, phương hướng và biện pháp liên quan đến hoạt động đào tạo, bồi dưỡng công chức
cấp xã để hiện thực hoá những mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng nhằm xây dựng được đội ngũ
công chức đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đề ra.
Việc thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã như thế nào phụ
thuộc vào các bộ phận (cơ quan nhà nước hoạch định chính sách, cơ quan chấp
17
hành thực hiện chính sách, đối tượng thụ hưởng chính sách) và các bước cơ bản
trong việc thực hiện chính sác. Trên thực tế các bộ phận nói trên nhiều khi không
tách biệt độc lập một cách tuyệt đối mà có sự đan xen, lồng ghép với nhau.
1.2.2.3. Mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã
Để xây dựng một chương trình đào tạo, trước tiên chúng ta cần phải xác định
mục tiêu đào tạo. Xác định mục tiêu đào tạo là xác định cái đích đến, tiêu chuẩn cần
đạt, những kết quả cần đạt được của người tham gia đào tạo khi kết thúc chương trình
đào tạo. Đẩy mạnh thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng nhằm xây dựng và nâng cao
chất lượng đội ngũ CBCC xã có đủ kiến thức, trình độ năng lực quản lý, điều hành,
thành thạo về chuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện
tốt công tác quản lý Nhà nước trên các lĩnh vực ở địa phương. Mục tiêu đào tạo, bồi
dưỡng là trang bị cho đội ngũ CBCC có tầm nhìn, có năng lực làm việc thực tế đáp
ứng với yêu cầu của vị trí công tác, đảm bảo tính chuyên nghiệp, hướng tới việc phát
triển năng lực cạnh tranh. Như vậy việc đào tạo, bồi dưỡng phải chuyển từ đào tạo lý
thuyết sang thực hành, từ đào tạo dựa theo định hướng của cung (đào tạo theo cái mà
ta có) sang đào tạo theo cầu (đào tạo cái mà người ta cần).
- Mục tiêu chung: Xây dựng đội ngũ công chức xã nhằm tạo ra một đội ngũ
công chức đồng bộ, có số lượng, cơ cấu hợp lý, có phẩm chất chính trị đạo đức, lối
sống tốt; có trình độ và năng lực chuyên môn đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị ở
cơ sở trong từng giai đoạn cách mạng.
- Mục tiêu cụ thể:
Một là: Tạo ra một đội ngũ công chức xã có số lượng, cơ cấu hợp lý:
+ Tính hợp lý trong việc xây dựng đội ngũ công chức xã biểu hiện ở việc tinh
giản biên chế một cách tối ưu, đảm bảo gọn nhẹ, hoạt động có chất lượng, trong đó
mỗi cá nhân công chức phát huy được hết năng lực, sở trường của mình có thể đảm
bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, đảm bảo cho bộ máy hoạt động thông suốt
và hiệu quả.
+ Tính hợp lý còn biểu hiện ở chỗ số lượng công chức không quá đông, nếu
không sẽ gây dư thừa, lãng phí nguồn nhân lực, đồng thời cũng không quá ít, vì nó
tạo ra sức ép lớn trong công việc, gây ra sự mệt mỏi, căng thẳng trong công chức.
18