VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHẠM ĐỨC HUÂN
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH SẮP XẾP TỔ CHỨC BỘ MÁY
CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ TẠI THÀNH PHỐ LẠNG SƠN
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
HÀ NỘI, 2019
1
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHẠM ĐỨC HUÂN
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH SẮP XẾP TỔ CHỨC BỘ MÁY
CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ TẠI THÀNH PHỐ LẠNG SƠN
Ngành: Chính sách công
Mã số: 8 34 04 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN NGỌC TOÀN
HÀ NỘI, 2019
2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vấn đề xây dựng, đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy hệ thống chính trị
tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả là nhiệm vụ xuyên suốt quá trình lãnh
đạo cách mạng của Đảng, đặc biệt từ năm 1986 đến nay. Qua mỗi giai đoạn
phát triển, công tác này càng trở nên cần thiết và cấp bách và thực tế hiện nay,
công tác này được đặt trong tổng thể công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Sắp
xếp bộ máy đồng thời cũng chính là công tác đổi mới hệ thống chính trị cho
đồng bộ với đổi mới trên lĩnh vực kinh tế, đáp ứng yêu cầu phát triển của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và tiến trình hội nhập quốc tế
đang diễn ra hết sức mạnh mẽ hiện nay. Sắp xếp tổ chức bộ máy không phải
quá trình tùy tiện, vô nguyên tắc mà trong đó phải bao hàm thực hiện nghiêm
túc, có hiệu quả nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo xây dựng và quản lý tổ
chức bộ máy, biên chế của hệ thống chính trị, phát huy vai trò quản lý của Nhà
nước và quyền làm chủ của nhân dân. Bên cạnh đó, việc bảo đảm tính chất
mới, tính tổng thể, đồng bộ, liên thông, kết hợp hài hoà giữa kế thừa, ổn định
với phát triển; giữa đổi mới bộ máy tổ chức với đổi mới phương thức lãnh đạo,
tinh giản biên chế và cải cách tiền lương; xử lý hài hoà mối quan hệ giữa Nhà
nước, thị trường và xã hội, là những vấn đề hiện thực nóng bỏng đang đặt ra
đối với hệ thống chính trị và đòi hỏi chúng ta phải có những biện pháp hữu
hiệu để giải quyết nhằm đạt được những mục tiêu phát triển.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương,
chính sách khá hiệu quả trong việc tinh giản biên chế, sắp xếp lại tổ chức bộ
máy nhằm hoàn thiện mô hình tổ chức phù hợp với yên cầu, điều kiện cụ thể
qua từng giai đoạn phát triển của đất nước. Có thể nói, với những chính sách
đúng đắn đó, hệ thống tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận tổ quốc và các đoàn
thể chính trị - xã hội được đổi mới; mối quan hệ giữa các đơn vị trong hệ thống
3
chính trị được phân định và điều chỉnh hợp lý hơn; chức năng và nhiệm vụ rõ
ràng hơn, có tính liên đới và tính trách nhiệm cao hơn để từng bước đáp ứng
yêu cầu xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, so với yêu cầu đề ra, công tác sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ
thống chính trị vẫn còn nhiều bất cập. Hệ thống cồng kềnh, nhiều tầng nấc,
nhiều đầu mối; hiệu lực, hiệu quả hoạt động chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ là
một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn tới hoạt động kém hiệu quả của các
cơ quan quản lý nhà nước. Bên cạnh đó, sự chồng chéo về chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy cũng gây ra không ít khó khăn trong việc giải
quyết các vấn đề của hiện thực phát triển của đất nước. Xuất phát từ việc phân
công, phân cấp, phân quyền giữa các ngành, các cấp và trong từng cơ quan, tổ
chức chưa hợp lý dẫn đến tình trạng bao biện, làm thay hoặc bỏ sót nhiệm vụ.
Nhiều chủ trương, chính sách được xây dựng với mục đích giải quyết triệt để
những vướng mắc trong công tác sắp xếp và tổ chức bộ máy từ Trung ương tới
địa phương, tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, với những đặc thù địa phương
cũng như những yếu tố văn hóa, xã hội, tâm lý, v.v... các chính sách của chúng
ta chưa thực sự phát huy được hiệu quả như mong muốn.
Với một đơn vị hành chính trực thuộc tỉnh, thành phố Lạng Sơn có
những điều kiện tương đối đặc thù so với các địa phương khác. Là đơn vị hành
chính trung tâm của một tỉnh biên giới có mối giao thương lớn với Trung Quốc,
nhiệm vụ phát triển được đặt ra khá nặng nề với thành phố Lạng Sơn. Để đạt
được những mục tiêu phát triển đòi hỏi thành phố phải xây dựng được hệ thống
chính trị tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển.
Trong những năm gần đây, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương,
chính sách về tinh giản biên chế, sắp xếp tổ chức bộ máy với mục tiêu xây
dựng được bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả như Nghị quyết số
4
10-NQ/TW, ngày 09/2/2007 về “Đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ
quan Đảng, định hướng đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan Nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội”, Kết luận số 64KL/TW, ngày 28/5/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI một số
vấn đề về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ
sở; Nghị quyết số 39-NQ/TW, ngày 17/4/2015 của Bộ chính trị về tinh giản
biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; Nghị quyết số
16/2000/NQ-CP ngày 18/10/2000 của Chính phủ về việc tinh giản biên chế
trong các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp; Nghị định số 132/2007/NĐCP ngày 8/8/2007 về chính sách tinh giản biên chế; Nghị định số
108/2014/NĐ-CP, ngày 20/11/2014 của Chính phủ về chính sách tinh giản biên
chế... Thực hiện chỉ đạo của Trung ương, Tỉnh, cấp ủy, chính quyền thành phố
đã ban hành các chương trình, kế hoạch để triển khai thực hiện công tác tinh
giản biên chế sắp xếp lại tổ chức bộ máy. Tuy nhiên, cũng giống như tình trạng
của các địa phương, việc triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách chưa
đem lại hiệu quả như mong muốn: tinh giản biên chế chưa gắn với sắp xếp tổ
chức bộ máy, chưa sàng lọc được những cán bộ công chức năng lực yếu, kém
ra khỏi bộ máy mà chủ yếu vận dụng giải quyết chế độ theo nguyện vọng, chưa
mạnh dạn thí điểm sắp xếp tổ chức bộ máy các cơ quan hành chính, đội ngũ
cán bộ cấp xã, khối thôn còn lớn hoạt động kém hiệu quả... vì vậy bộ máy tổ
chức của thành phố Lạng Sơn hiện nay cũng khá cồng kềnh, hoạt động chưa
thật sự hiệu quả như kỳ vọng. Tình trạng chồng chéo về chức năng và nhiệm vụ
của một số đơn vị trực thuộc thành phố gây ra những khó khăn nhất định trong
công tác điều hành và chỉ đạo hoạt động tại địa phương. Bên cạnh đó, tư duy
bao cấp trong hoạt động của bộ máy chính quyền không những không giúp cho
vấn đề tinh giản biên chế được thực hiện trơn tru mà ngược lại, tình trạng công
chức, viên chức không đảm đương được vị trí và nhiệm vụ của mình ngày một
5
gia tăng. Những điều này đặt ra đòi hỏi phải có những phân tích, đánh giá và đề
xuất một hệ thống giải pháp đồng bộ để hoàn thiện và thúc đẩy mạnh mẽ chính
sách tinh giản biên chế, sắp xếp bộ máy tổ chức hoạt động thật sự có hiệu quả
tại thành phố Lạng Sơn.
Với nhận thức như vậy, chúng tôi lựa chọn chủ đề “Thực hiện chính
sách sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tại thành phố Lạng Sơn”
làm đề tài luận văn Thạc sĩ Chính sách công của mình với hi vọng đóng góp
một phần nghiên cứu của mình vào quá trình thực hiện chính sách sắp xếp tổ
chức bộ máy một cách có hiệu quả, góp phần thúc đẩy sự phát triển của địa
phương nói riêng, của đất nước nói chung trong giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trước khi có Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25/10/2017 của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khoá XII “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ
chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”,
dưới sự lãnh đạo của Đảng, việc đổi mới, sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của
hệ thống chính trị được nhìn nhận là một quá trình liên tục từ những năm 1986
đến nay, được đề ra trong các văn kiện Đại hội và nghị quyết của nhiều Hội
nghị Trung ương, như: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Đảng
ta đã chỉ rõ: “Việc đổi mới hệ thống chính trị nhất thiết phải trên cơ sở nghiên
cứu và chuẩn bị nghiêm túc, không cho phép gây mất ổn định chính trị dẫn đến
sự rối loạn. Nhưng không vì vậy mà tiến hành chậm trễ đổi mới hệ thống chính
trị, nhất là về tổ chức bộ máy và các bộ; mối quan hệ giữa đảng, Nhà nước và
nhân dân, bởi đó là điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội và thực hiện
dân chủ”. Văn kiện Hội nghị Trung ương 8, khóa VII xác định cải cách nền
hành chính là nhiệm vụ trọng tâm của việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước.
Hội nghị Trung ương 7 (khóa VIII) đã ban hành Nghị quyết số 13-NQ/TW,
ngày 16/8/1999 về “Một số vấn đề về tổ chức, bộ máy của hệ thống chính trị về
6
tiền lương, trợ cấp xã hội thuộc ngân sách nhà nước”; Hội nghị Trung ương 5
(khóa IX) đã ban hành Nghị quyết số 17-NQ/TW, ngày 18/3/2002 về “Đổi mới
và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở xã phường, thị trấn”; Hội nghị
Trung ương 4 (khóa X) đã ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW, ngày 09/2/2007
về “Đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan Đảng, định hướng đổi mới,
kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể chính trị - xã hội” và gần đây nhất là Kết luận số 64-KL/TW, ngày
28/5/2013 của Ban Chấp hành trung ương đảng khoá XI một số vấn đề về tiếp
tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở; Nghị quyết
số 39-NQ/TW, ngày 17/4/2015 của Bộ chính trị về tinh giản biên chế và cơ cấu
lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Bên cạnh đó Chính phủ cũng đã ban
hành nhiều chính sách liên quan đến đổi mới sắp xếp tổ chức bộ máy như:
Nghị quyết số 16/2000/NQ-CP ngày 18/10/2000 của Chính phủ về việc tinh
giản biên chế trong các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp; Nghị quyết số
09/2003/NQ-CP ngày 28/7/2003 về sửa đổi, bổ sung Nghị quyết số
16/2000/NQ-CP ngày 18/10/2000 của Chính phủ về việc tinh giản biên chế
trong các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp; Nghị định số 132/2007/NĐCP ngày 8/8/2007 về chính sách tinh giản biên chế; Nghị định số
108/2014/NĐ-CP, ngày 20/11/2014 của Chính phủ về chính sách tinh giản biên
chế, v.v.... Các văn bản nêu trên, nhìn chung đều thể hiện khá rõ chủ trương,
mục tiêu, giải pháp thực hiện việc tinh giản biên chế, sắp xếp tổ chức bộ máy
đó là: Đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy từ trung ương đến cơ sở nhằm xây
dựng bộ máy đồng bộ, tinh gọn, có tính ổn định, phù hợp với chức năng nhiệm
vụ; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có số lượng hợp lý, có phẩm chất
chính trị, đạo đức, trình độ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ ngày càng cao, đáp
ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị và có tiền lương, thu nhập bảo đảm
cuộc sống. Việc hoàn thiện hệ thống chính trị theo hướng đổi mới căn bản cần
7
phải được thực hiện quyết liệt hơn nữa. Các nghị quyết, kết luận của Đảng,
nghị định của Chính phủ đã đưa ra các nhóm giải pháp cụ thể cho hệ thống
chính trị, từ hệ thống tổ chức của Đảng, hệ thống tổ chức của Nhà nước; chính
quyền địa phương; MTTQ và các đoàn thể. Có thể nói, những chủ trương, nghị
quyết, chính sách của Đảng và Nhà nước nêu trên chính là cơ sở lý luận để
chúng ta đi sâu vào nghiên cứu, phân tích và đánh giá những vấn đề có liên
quan.
Trong bài viết Đổi mới tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực,
hiệu quả yêu cầu từ thực tiễn, tác giả Xuân Phong đăng trên tạp chí Xây dựng
Đảng, số 6-2017 đã chỉ ra những hạn chế, bất cập: Tổ chức bộ máy cồng kềnh,
nhiều đầu mối, nhiều tổ chức, số lượng công việc không đều. Nếu xét theo từng
khối đảng, Nhà nước, MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội đã thấy tổ chức
bộ máy cồng kềnh, nhiều đầu mối. Nếu xét trong mối quan hệ công tác giữa 3
khối cũng thấy sự chồng chéo, trùng lắp nhiều tổ chức có đối tượng và chức
năng, nhiệm vụ tương đồng; nhiều tổ chức cùng làm một việc. Cơ cấu cán bộ
bất hợp lý, nhiều phòng ban chỉ có lãnh đạo, không có nhân viên. Một số cơ
quan quá nhiều việc (ban tổ chức tỉnh ủy), nhưng cũng có một số cơ quan ít
nhiệm vụ như ban nội chính, ban dân vận,... nhiều cơ quan, đơn vị còn chồng
chéo, tương đồng về chức năng, nhiệm vụ (tổ chức với nội vụ; nội chính với
thanh tra, kiểm tra...).
Trao đổi về thực tiễn thực hiện ở cơ sở, tác giả Minh Anh trong bài viết
Từ kết quả bước đầu thí điểm một mô hình, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 9-2017
nhận định: Sự chồng chéo, “lấn sân” của nhiều tổ chức chính trị- xã hội đã cản
trở nhiều hiệu quả hoạt động của mỗi tổ chức, đồng thời là một nguyên nhân
gây khó tinh giản biên chế. Sắp xếp lại, kiện toàn tổ chức bộ máy của Mặt trận
tổ quốc và các tổ chức chính trị- xã hội sẽ là bước ngoặt trong thực hiện cải
cách hành chính, tinh giản biên chế, tạo được phong cách làm việc chuyên
8
nghiệp, hoạt động có hiệu quả. Đó là mục đích của việc đổi mới tổ chức và
hoạt động của các cơ quan Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị- xã hội.
Tác giả Hà Thanh trong bài viết Tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ
máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ của thời kỳ mới đăng trên Tạp chí Cộng sản số 133 (1-2018)
khẳng định: Thực hiện các nghị quyết, kết luận của Trung ương, tổ chức bộ
máy của hệ thống chính trị tuy từng bước được sắp xếp, kiện toàn theo hướng
tinh gọn, điều chỉnh hợp lý hơn, song vẫn còn những hạn chế, yếu kém. Vì vậy,
tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị phải đặt trong
tổng thể nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng, gắn với tinh giản biên chế, cơ
cấu lại và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; bảo đảm
tính tổng thể, đồng bộ, liên thông, kết hợp hài hòa giữa kế thừa, ổn định với đổi
mới, phát triển.
Bàn về vấn đề tinh giản biên chế, sắp xếp bộ máy tổ chức trọng hệ thống
chính trị, tác giả Quang Lê trong bài viết Tinh giản biên chế và yêu cầu dứt
khoát của Chính phủ, Báo điện tử Chính phủ ngày 29/01/2018 nhận định trong
khi dư luận xã hội và cả các cơ quan chức năng nói nhiều đến việc tinh giản
biên chế thì trong thực tế lại đang diễn ra tình trạng ngược lại: biên chế vẫn
đang tăng lên. Nguyên nhân, theo tác giả chính là vấn đề việc giải quyết tinh
giản biên chế chủ yếu theo nguyện vọng cá nhân, chưa thể hiện trách nhiệm
của người đứng đầu và căn cứ vào kết quả đánh giá, phân loại cán bộ, công
chức, viên chức [13].
TS. Nguyễn Thị Thanh Thủy trong bài viết Tinh giản biên chế trong bộ
máy hành chính nhà nước - vấn đề và giải pháp đăng trên Tạp chí Tổ chức Nhà
nước, ngày 10/5/2017 cho rằng mục đích của tinh giản biên chế không chỉ đơn
thuần là giảm cơ học số lượng nhân sự (thay đổi về lượng) mà hơn thế, đây là
cách thức để các cơ quan nhà nước tinh lọc lại nhân sự (thay đổi về chất) nhằm
9
làm cho hoạt động của cơ quan nhà nước có hiệu quả hơn, đáp ứng tốt hơn nhu
cầu của người dân trong điều kiện ngân sách nhà nước còn hạn hẹp. Tuy nhiên,
quá trình thực hiện tinh giản biên chế ở nước ta trong những năm qua đã không
đạt được mục tiêu mong muốn. Vì thế, cần phải tiếp tục thực hiện tinh giản
biên chế với những cách thức khác cùng với các giải pháp khắc phục những
hạn chế trong việc thực hiện tinh giản biên chế thời gian qua [23].
Chỉ rõ thực trạng của vấn đề thực thi chính sách tinh giản biên chế ở
nước ta hiện nay, tác giả Văn Tất Thu trong công trình Thực trạng, nguyên
nhân tăng biên chế và các giải pháp tinh giản biên chế đăng tải trên Tạp chí Tổ
chức Nhà nước ngày 29/02/2016 đã cho rằng nguyên nhân chủ yếu chính là
chính sách của chúng ta chưa rõ ràng [22]. Việc sát nhập và chia tách các đơn
vị hành chính cấp cơ sở còn tùy tiện, chưa có lộ trình cụ thể. Tác giả nhận định
chủ trương cải cách, sắp xếp, hoàn thiện tinh gọn bộ máy chính là để tinh giản
biên chế, giảm số lượng CBCC, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ
máy. Cơ sở khoa học và thực tiễn để xác định tổ chức bộ máy, biên chế phù
hợp với từng cơ quan chưa được làm rõ. Xã hội hóa dịch vụ công còn chậm,
chưa có đầu mối thống nhất quản lý biên chế cho cả hệ thống chính trị. Việc
chuyển cán bộ cấp xã thành công chức trên diện quá rộng.
Tác giả Lê Vĩnh Tân trong công trình nghiên cứu Tinh giản biên chế và
cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo tinh thần Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 6 khóa XII trên Tạp chí Cộng sản ngày 10/06/2018 đã nhận
định rằng tinh giản biên chế gắn với cơ cấu lại, nâng cao chất lượng, sử dụng
hiệu quả đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; giảm chi thường xuyên và góp
phần cải cách chính sách tiền lương..
Trong diễn đàn “ Về đổi mới, sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy hệ thống
chính trị ở tỉnh phía bắc” trên tạp chí Xây dựng Đảng số ra ngày 12/11/2018,
Tác giả Vũ Ngọc Dũng, Vụ trưởng Vụ địa phương I, Ban Tổ chức Trung ương
10
đã rút ra 11 kinh nghiệm trong hơn 3 năm thực hiện việc đổi mới, sắp xếp cơ
cấu lại và thí điểm một số mô hình về tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế trong
hệ thống chính trị các tỉnh trong khu vực phía Bắc [4], cụ thể:
Thứ nhất, đổi mới phải bắt đầu xuất phát từ thực tiễn: Phải tiến hành rà
soát một cách tổng thể và hết sức kỹ lưỡng tổ chức bộ máy của cả hệ thống
chính trị từ cấp tỉnh, đến cơ sở; đánh giá quá trình hoạt động, triển khai thực hiện
chức năng nhiệm vụ; đánh giá hiệu quả đạt được, theo hướng: tự đơn vị đánh
giá, cấp trên trực tiếp đánh giá, đội ngũ công chức làm việc tại cơ quan đánh giá,
lãnh đạo cơ quan đánh giá. Sau đó, nhận định đánh giá của Tỉnh ủy để thấy được
những mặt mạnh, yếu tố bất cập, yếu tổ chồng chéo, đan xen và cách tháo gỡ; đề
xuất những giải pháp thiết thực, hiệu quả để thống nhất triển khai thực hiện.
Thứ hai, phải có quyết tâm chính trị cao: Sắp xếp lại tổ chức bộ máy thực
sự không đơn giản, khi thực hiện sẽ kéo theo nhiều vấn đề cần được nghiên cứu
thấu đáo để giải quyết, đó là: (i1) Ảnh hưởng trực tiếp đến tư tưởng do thay đổi
môi trường làm việc, phải rời bỏ bộ phận mà công chức, viên chức đang làm,
phải làm thêm nhiều việc hơn, làm những việc mới, chưa quen...; (i2) Khi hợp
nhất số lượng lãnh đạo sẽ giảm, nên việc sắp xếp đội ngũ cán bộ một cách hợp lý
là hết sức quan trọng, tránh gây tâm tư và mất động lực... (i3) Vấn đề chế độ
chính sách khi thực hiện tinh giảm do sắp xếp lại, cần phải được sử lý một cách
linh hoạt, đồng bộ. Vì vậy, đòi hỏi người đứng đầu tổ chức phải quyết liệt, dám
làm và biết cách làm, tạo động lực để cơ quan mới hoạt động tốt hơn.
Thứ ba, phải tạo được sự đồng thuận: Trước hết phải đồng thuận về chủ
trương từ lãnh đạo cao nhất đến cán bộ, công chức, viên chức và người lao động;
phải phân tích một cách thấu đáo về hiệu quả đạt được khi thay đổi tổ chức,
những lợi ích chung của cơ quan, đơn vị, người dân; trong đó, cần phân tich sự
hy sinh về quyền lợi cá nhân, nhưng nhất thiết phải giải quyết thấu tình đạt lý, ưu
11
tiên chính sách cao nhất có thể, hoặc đề xuất cơ chế hỗ trợ riêng để cán bộ chia
sẻ, đồng tình với tổ chức.
Thứ tư, phải kiên trì, bền bỉ thuyết phục: Mô hình hợp nhất chưa có trong
tiền lệ, nên không có khuôn mẫu, không có hướng dẫn thực hiện, thậm chí mô
hình mới có thể làm mất đi tổ chức mà ngành dọc đang chỉ đạo. Hơn nữa, khi
thực hiện không tránh khỏi những khó khăn, vướng mắc; nên không cầu toàn,
vừa làm vừa rút kinh nghiệm, đồng thời vừa điều chỉnh để từng bước hoàn thiện.
Vì vậy phải xây dựng đề án một cách cụ thể, chi tiết, đưa ra được hướng tháo gỡ
những bất cập mới xuất hiện, tạo được sự thống nhất cao trong tập thể lãnh đạo.
Thứ năm, phải có lộ trình thực hiện khoa học: Khi hợp nhất các cơ quan,
tổ chức phải nghiên cứu kỹ thời điểm khi có đủ điều kiện hợp nhất. Trong đó, có
tính đến điều kiện của địa phương (về địa lý, quy mô dân số, trụ sở làm việc khi
bố trí hợp nhất); ý chí người đứng đầu; năng lực đội ngũ; thực hiện bồi dưỡng
chuyên môn nghiệp vụ để đáp ứng chuẩn ngạch bậc, đáp ứng vị trí việc làm mới;
nên làm thí điểm trước, sau đó rút kinh nghiệm rồi mới triển khai ra diện rộng.
Thứ sáu, phải đặc biệt quan tâm đến công tác cán bộ: Trước khi thực hiện
hợp nhất phải thực hiện nhất thể hóa chức danh người đứng đầu, đồng thời có lộ
trình và rất thận trọng về công tác cán bộ. Cần bố trí, sắp xếp, điều chuyển một
cách hợp lý để phát huy năng lực, sở trường của cán bộ. Việc lựa chọn cán bộ đủ
tầm và am hiểu lĩnh vực, uy tín và có phẩm chất để bố trí là cực kỳ quan trọng,
quyết định sự thành công của tổ chức bộ máy mới; đây là một bài học cực kỳ
quan trọng để dẫn đến sự thành công trong việc sắp xếp tổ chức bộ máy.
Thứ bảy, xây dựng quy chế làm việc: Bộ máy mới, chưa có tiền lệ phải
chú trọng xây dựng quy chế hoạt động để đảm bảo vận hành một cách đồng bộ,
tránh sát nhập một cách cơ học. Việc phân công nhiệm vụ phải theo hướng: một
người thực hiện nhiều nhiệm vụ; một nhiệm vụ chỉ giao cho một người chủ trì và
12
chịu trách nhiệm chính. Xây dựng quy trình thực hiện nhanh, gọn, loại bỏ khâu
trung gian trong vận hành của bộ máy.
Thứ tám, tạo sự khích lệ lan tỏa: Trong quá trình triển khai thực hiện một
mô hình mới thí điểm, nên chọn địa phương, đơn vị có điều kiện thực hiện tốt
nhất, Tỉnh ủy phải bám sát để lãnh đạo, chỉ đạo và đồng hành cùng hướng dẫn
tháo gỡ, rút kinh nghiệm; bên cạnh đó, nghe báo cáo kết quả từ cách làm mới
cũng là cách tạo ra sự lan tỏa tốt nhất. Sau khi thực hiện thí điểm, nhất thiết phải
tiến hành sơ kết, đánh giá nghiêm túc, rút kinh nghiệm; đồng thời thấy hiệu quả
phải được triển khai đồng bộ ngay ra diện rộng.
Thứ chín, phải có sự đột phá một cách mạnh dạn: Khi thấy vấn đề đã chín
muồi, đã có thực tế kiểm nghiệm, đã có lộ trình triển khai hiệu quả, đã có sự
chuẩn bị nhân sự thì phải có quan điểm chỉ đạo rõ ràng, dứt khoát, nhanh, dứt
điểm, không chần chừ.
Mười, phải có sự chỉ đạo sát sao, giám sát việc thực hiện, nhất là vấn đề
kiểm soát quyền lực khi thực hiện nhất thể hóa chức danh bí thư cấp ủy đồng
thời là chủ tịch UBND cấp huyện, cấp xã: Ngăn ngừa tối đa những tiêu cực do
tập trung quyền lực, bằng cách phân định thẩm quyền giữa các cấp theo hướng
tăng cường phân cấp; yêu cầu xây dựng quy chế mới trong đó quy định rõ quyền
hạn, trách nhiệm của người đứng đầu ở từng chức danh. Đồng thời tăng cường
kiểm tra, thanh tra, giám sát của cấp trên đối với việc thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn của cấp dưới…; tăng cường giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội; chọn được cán bộ có phẩm chất, đạo đức
để bố trí nhất thể hóa là nhân tố quyết định.
Mười một, phải thường xuyên tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ
Chính trị, Ban Bí thư, của Chính phủ và các ban, bộ, ngành Trung ương trong
triển khai thực hiện: Việc đổi mới, sắp xếp, cơ cấu lại và thực hiện thí điểm một
số mô hình tổ chức bộ máy theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, sẽ
13
phát sinh những vấn đề mới, khó chưa có trong tiền lệ và các quy định của Đảng,
pháp luật của Nhà nước. Do vậy, rất cần được sự quan tâm chỉ đạo, tạo điều kiện
và sự đồng thuận từ các cơ quan Trung ương, để kịp thời tháo gỡ khó khăn,
vướng mắc trong quá trình triển khai, thực hiện đạt hiệu quả.
Đây là những công trình mà trong quá trình xây dựng luận văn chúng tôi
đã khảo sát. Tuy vậy, có thể đánh giá khái quát rằng đến nay chưa thật sự có
nhiều đề tài, công trình khoa học nghiên cứu, đi sâu tìm hiểu, đưa ra giải pháp tổ
chức thực hiện thực hiện chính sách đổi mới sắp xếp tổ chức bộ máy trong hệ
thống chính trị thành phố Lạng Sơn trong giai đoạn hiện nay mà mới chỉ dừng
lại ở mức độ chung nhất, những chính sách áp dụng cho toàn bộ hệ thống chính
trị. Chính vì vậy, việc khảo cứu tài liệu để triển khai đề tài Thực hiện chính sách
sắp xếp tổ chức bộ máy trong hệ thống chính trị tại thành phố Lạng Sơn sẽ đóng
vai trò tiên phong trong công cuộc nghiên cứu chính sách có liên quan tại một
địa phương cụ thể.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu thực trạng thực hiện chính sách sắp xếp tổ chức bộ
máy trong hệ thống chính trị tại thành phố Lạng Sơn để từ đó đề xuất các kiến
nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của việc thực hiện
chính sách này trong các giai đoạn tiếp theo.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, nghiên cứu những vấn đề lý luận về chính sách và thực hiện
chính sách sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị.
Thứ hai, nghiên cứu và đánh giá những thành công và hạn chế trong việc
thực hiện chính sách sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tại thành phố
Lạng Sơn
14
Thứ ba, đề xuất một số giải pháp tổ chức thực hiện chính sách sắp xếp tổ
chức bộ máy của hệ thống chính trị thành phố Lạng Sơn phù hợp với điều kiện
thực tế trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn việc thực hiện chính sách sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống
chính trị thành phố Lạng Sơn
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu việc tổ chức thực hiện chính sách sắp xếp tổ chức bộ
máy của hệ thống chính trị thành phố Lạng Sơn giai đoạn 2013 – 2018, trong đó
chú trọng giai đoạn 2015 – 2018.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được triển khai dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm và đường lối của Đảng Cộng sản Việt
Nam về xây dựng và phát triển hệ thống chính trị. Bên cạnh đó, luận văn bám sát
các chính sách và pháp luật của Nhà nước về sắp xếp tổ chức bộ máy đáp ứng
yêu cầu của tiến trình hội nhập quốc tế hiện nay.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
5.2 Phương pháp nghiên cứu
Với định hướng nghiên cứu đã trình bày ở trên, đề tài sử dụng một số
phương pháp như sau:
Phương pháp thu thập thông tin: Thu thập thông tin về việc thực hiện
chính sách sắp xếp tổ chức bộ máy qua các phương tiện truyền thông, sách báo,
internet, đồng thời tham khảo các quyết định, các công văn của cơ quan và một
số giáo trình khác.
15
Phương pháp so sách, phân tích và tổng hợp: Đây là phương pháp được
áp dụng nhiều nhất để viết một bài báo cáo khoa học hoàn chỉnh, đúng quy định,
bảo đảm chất lượng.
Phương pháp đánh giá: Đánh giá quá trình thực hiện chính sách sắp xếp tổ
chức bộ máy trên địa bàn thành phố Lạng Sơn để từ đó đề ra những giải pháp
nhằm khắc phục những tồn tại, bất cập
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài góp phần bổ sung những vấn đề lý luận có liên quan cũng như chỉ
ra các giải pháp có tính chất định hướng nhằm bổ sung vào quá trình hoàn thiện
chính sách sắp xếp tổ chức bộ máy hiện nay của Việt Nam.
16
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Góp phần đổi mới việc thực hiện chính sách sắp xếp tổ chức bộ máy của
hệ thống chính trị tại thành phố Lạng Sơn để từ đó năng cao hiệu quả chất lượng
của việc thực hiện chính sách trong những năm tiếp theo.
Góp phần cung cấp thêm những cơ sơ khoa học cho các cơ quan, phòng,
ban, ngành thành phố Lạng Sơn trong quá trình hoạch định và tổ chức thực thi
chính sách một cách hiệu quả, góp phần phát triển kinh tế- xã hội, xây dựng hệ
thống chính trị của thành phố ngày càng ổn định, vững mạnh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 3 chương.
Chương 1. Những vấn đề chung về chính sách sắp xếp tổ chức bộ máy
của hệ thống chính trị.
Chương 2. Thực trạng thực hiện chính sách sắp xếp tổ chức bộ máy của
hệ thống chính trị thành phố Lạng Sơn hiện nay.
Chương 3. Giải pháp tổ chức thực hiện chính sách sắp xếp tổ chức bộ
máy của hệ thống chính trị thành phố Lạng Sơn.
17
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH SẮP XẾP
TỔ CHỨC BỘ MÁY CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
1.1. Chính sách công và thực hiện chính sách công
1.1.1. Chính sách công và những đặc trưng cơ bản
Cho đến nay, chúng ta vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về chính
sách mặc dù đã có rất nhiều nghiên cứu về vấn đề này. Trên thế giới có thể kể
đến một số khái niệm về chính sách như:“Chính sách là một quá trình hành
động có mục đích theo đuổi bởi một hoặc nhiều chủ thể trong việc giải quyết các
vần đề mà họ quan tâm” (James Anderson) hay“Chính sách là quyết tâm và
định hướng. Chính sách định hướng nhưng không bao gồm các chương trình và
chi tiết hành động”(Glen Milne)... Tại Việt Nam, Từ điển bách khoa Việt Nam
đã đưa ra khái niệm về chính sách như sau: “Chính sách là những chuẩn tắc cụ
thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được thực hiện trong một thời
gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó”. Chúng ta có thể hiểu chính
sách là hành động do các nhà lãnh đạo hay nhà quản lý đề ra để giải quyết một
vấn đề nào đó thuộc phạm vi thẩm quyền của mình.
Trên thế giới hiện nay cuộc tranh luận về khái niệm chính sách công vẫn
chưa có hồi kết. Các học giả xuất phát từ góc nhìn của mình đưa ra những khái
niệm chính sách công rất khác nhau“Chính sách công là tập hợp các quyết định
có liên quan lẫn nhau của một nhà chính trị hay một nhóm nhà chính trị gắn liền
với việc lựa chọn các mục tiêu và các giải pháp để đạt được các mục tiêu đó”
(William Jenkin). Theo quan điểm này, chính sách công là một tập hợp các
quyết định khác nhau có liên quan với nhau trong một khoảng thời gian dài mà
trong đó chủ thể ban hành chính sách công là các cơ quan nhà nước. Có thể nói,
18
chính sách công nhằm vào những mục tiêu nhất định theo mong muốn của nhà
nước và bao gồm các giải pháp để đạt được mục tiêu đã chọn.
Theo Thomas R. Dye “Chính sách công là cái mà chính phủ lựa chọn làm
hay không làm” Định nghĩa này của Thomas R. Dye hướng tới vấn đề thừa nhận
rằng các chính sách phản ánh sự lựa chọn làm hay không làm. Việc quyết định
không làm cũng có thể quan trọng như việc quyết định làm và chính sách là cái
chính phủ làm hoặc không làm chứ không phải là cái mà họ muốn làm hoặc lập
kế hoạch để làm.
Theo Peter Aucoin “Chính sách công bao gồm các hoạt động thực tế do
chính phủ tiến hành” Aucoin cho rằng, chính sách có thể vừa là hành động riêng
biệt của chính phủ vừa là kết quả của hàng loạt quyết định đa dạng.
B. Guy Peter đưa ra định nghĩa “Chính sách công là toàn bộ các hoạt động
của nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của mọi công
dân” Định nghĩa này tiếp cận ở góc độ tác động của chính sách công đến đời
sống của người dân với tư cách là một cộng đồng.
Ở Việt Nam, PGS.TS Lê Chi Mai (Học viện Hành chính Quốc gia) đưa ra
cách hiểu về thuật ngữ chính sách công “là thuật ngữ dùng để chỉ một chuỗi các
quyết định hoạt động của nhà nước nhằm giải quyết một vấn đề chung đang đặt
ra trong đời sống kinh tế - xã hội theo mục tiêu xác định”.
* Đặc trưng của chính sách công
Theo cách hiểu như trên, chính sách công có bốn đặc trưng cơ bản đó là:
Thứ nhất, chủ thể ban hành chính sách công là nhà nước, cụ thể là các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền ban hành chính sách.
Thứ hai, các quyết định của nhà nước mang tính hành động, tức là bao
hàm trong nội dung lý luận có cả những hành vi thực tiễn. Chính sách công
không chỉ thể hiện dự định của nhà nước về một vấn đề cụ thể mà còn phải bao
gồm biện pháp và bước đi cụ thể nhằm thực hiện các hành vi.
19
Thứ ba, chính sách công giải quyết các vấn đề cụ thể do thực tiễn xã hội
đặt ra theo những nhu cầu và mục đích cụ thể.
Thứ tư, chính sách công gồm tập hợp các quyết đinh có liên quan với
nhau nhằm giải quyết mục đích chính sách của nhà nước trước yêu cầu của thực
tiễn xã hội.
1.1.2. Thực hiện chính sách công
Có thể hiểu thực hiện chính sách là quá trình chuyển đổi ý chí, quyết tâm
và những nỗ lực của chủ thể chính sách trong việc hoạch định chính sách nhằm
giải quyết những vấn đề cụ thể phát sinh trong đời sống xã hội ra ngoài hiện
thực. Đây là bước chuyển quan trọng bậc nhất trong chu trình chính sách, là
bước hiện thực hóa chính sách trong đời sống xã hội. Tất nhiên, chất lượng và
hiệu quả của việc thực hiện chính sách phụ thuộc nhiều vào năng lực của chủ thể
chính sách cũng như chủ thể chịu sự tác động của chính sách trong thực hiện
chính sách. Trong quá trình thực thi chính sách, các nguồn lực vật chất, tài chính,
khoa học công nghệ và con người được đưa vào các hoạt động có tính định
hướng để đạt được các mục tiêu đã đề ra. Nói cách khác, đây là quá trình kết hợp
giữa con người với các nguồn lực vật chất, tài chính, khoa học công nghệ nhằm
sử dụng các nguồn lực này một cách có hiệu quả theo những mục tiêu đề ra.
Chủ thể thực thi chính sách trước hết là quan trọng nhất là các cơ quan
hành chính nhà nước, bởi vì đây chính là các cơ quan có nhiệm vụ quản lý và tổ
chức triển khai các công việc hàng ngày của Nhà nước. Tuy nhiên, các cơ quan
lập pháp và tư pháp cũng như các tổ chức Đảng, đoàn thể cũng có vai trò quan
trọng trong việc huy động và tổ chức lực lượng tham gia triển khai chính sách.
1.2. Hệ thống chính trị và vấn đề sắp xếp, tổ chức bộ máy
1.2.1. Hệ thống Chính trị
Hệ thống chính trị là một hệ thống các tổ chức (thiết chế) gắn liền với
quyền lực chính trị của nhân dân, được tổ chức để thực hiện các nhiệm vụ và
20
quyền hạn do nhân dân giao phó và ủy quyền; đây là phương thức quan trọng để
nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình dưới các hình thức, cấp độ khác
nhau.
Theo quy định tại Hiến pháp năm 2013, hệ thống chính trị nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm:
- Đảng Cộng sản Việt Nam (là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội);
- Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân;
- Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận;
- Các tổ chức chính trị - xã hội khác (Công đoàn Việt Nam, Hội Nông dân
Việt Nam, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt
nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam).
Hệ thống chính trị ở nước ta được tổ chức theo một hệ thống từ Trung
ương đến cơ sở.
1.2.2. Tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị
1.2.2.1. Tổ chức bộ máy của Đảng Cộng sản Việt Nam
Ngoài cơ quan lãnh đạo của Đảng ở Trung ương là Ban Chấp hành Trung
ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, hệ thống tổ chức của Đảng gồm:
- Hệ thống các đảng bộ, chi bộ (có 68 đảng bộ trực thuộc Trung ương;
1.290 đảng bộ cấp huyện và tương đương; 57.093 tổ chức cơ sở đảng).
- Các đảng đoàn, ban cán sự đảng (ở Trung ương có 40 đảng đoàn, ban
cán sự đảng; ở mỗi cấp tỉnh có từ 9-11 đảng đoàn, ban cán sự đảng; Thành phố
Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh có nhiều hơn).
- Các cơ quan tham mưu, giúp việc chuyên trách của cấp ủy (ở Trung
ương có 8 cơ quan; ở cấp tỉnh có 6 cơ quan; ở cấp huyện có 5 cơ quan).
- Các đơn vị sự nghiệp của cấp ủy (ở Trung ương có 4 đơn vị, ở cấp tỉnh
có 2 đơn vị; ở cấp huyện có 1 đơn vị).
21
- Các ban chỉ đạo (ở Trung ương có 4 ban chỉ đạo), Hội đồng Lý luận Trung
ương và các ban bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cán bộ ở Trung ương, ở cấp tỉnh.
1.2.2.2. Tổ chức bộ máy Nhà nước
Hệ thống tổ chức của Nhà nước bao gồm hệ thống các cơ quan: Quốc hội,
Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân và chính
quyền địa phương theo các cấp. Các cơ quan nhà nước hoạt động theo nguyên tắc
quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các
cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
- Quốc hội (cơ quan lập pháp): có Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng
Dân tộc, Kiểm toán Nhà nước, 9 ủy ban của Quốc hội và Văn phòng Quốc hội,
Ủy ban Thường vụ Quốc hội có 2 ban và Viện Nghiên cứu lập pháp.
- Chủ tịch nước: Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại. Thực hiện
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ công tác theo quy định của Hiến
pháp. Bộ Chính trị quy định về mối quan hệ lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị,
Ban Bí thư đối với Chủ tịch nước. Văn phòng Chủ tịch nước là cơ quan giúp
việc Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước.
- Chính phủ (cơ quan hành pháp): Cơ cấu tổ chức của Chính phủ gồm 27
thành viên (Thủ tướng, 5 phó thủ tướng và các bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan
ngang bộ) và 30 cơ quan, trong đó có 18 bộ, 4 cơ quan ngang bộ, 8 cơ quan
thuộc Chính phủ.
- Các cơ quan tư pháp (Tòa án và Viện kiểm sát)
Tổ chức bộ máy của hệ thống tòa án nhân dân gồm 4 cấp: Tòa án nhân
dân tối cao, tòa án nhân dân cấp cao, tòa án nhân dân cấp tỉnh và tòa án nhân dân
cấp huyện. Hệ thống viện kiểm sát nhân dân có bốn cấp, gồm: Viện Kiểm sát
nhân dân tối cao, viện kiểm sát nhân dân cấp cao, các viện kiểm sát nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, viện kiểm sát nhân dân huyện, quận, thị
22
xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương; hệ thống tổ chức viện kiểm sát quân sự
các cấp.
- Chính quyền địa phương gồm có hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân
các cấp, được tổ chức và hoạt động theo quy định của Hiến pháp, Luật tổ chức
chính quyền địa phương.
1.2.2.3. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị xã hội
MTTQ và các đoàn thể chính trị xã hội (Công đoàn, Đoàn thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Cựu chiến binh, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân) được
tổ chức từ Trung ương đến cơ sở cùng với các tổ chức quần chúng khác đã từng
bước đổi mới về nội dung, phương thức hoạt động, khắc phục một bước tình
trạng hành chính hoá, coi trọng nhiệm vụ tập hợp và giáo dục vận động đoàn
viên, hội viên và nhân dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, góp phần
xây dựng Đảng, chính quyền, đẩy mạnh phong trào thi đua lao động sản xuất
xoá đói giảm nghèo, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
- Cơ quan của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam gồm: Ở T rung ương có Ủy
ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và cơ quan tham mưu, giúp việc, ở địa phương có Ủy ban và
Ban Thường trực, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh, cấp huyện, cấp
xã và cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp tỉnh, cấp huyện. Dưới cấp xã có ban
công tác mặt trận ở thôn, tổ dân phố và tương đương.
- Hệ thống tổ chức Bộ máy của Công đoàn gồm: Tổng Liên đoàn Lao
động Việt Nam; 63 liên đoàn lao động tỉnh, thành phố và 20 công đoàn ngành ở
Trung ương và tương đương; 713 liên đoàn lao động cấp huyện và 1.245 công
đoàn ở địa phương. Công đoàn các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế,
khu công nghệ cao; công đoàn tổng công ty và một số công đoàn cấp trên trực
tiếp cơ sở đặc thù khác; 126.527 công đoàn, nghiệp đoàn cơ sở.
23
- Hội Nông dân Việt Nam tổ chức theo 4 cấp từ Trung ương đến cơ sở:
Trung ương Hội Nông dân Việt Nam, 63 Hội Nông dân cấp tỉnh; 681 Hội Nông
dân cấp huyện; 10.575 Hội Nông dân cấp xã, 95,359 chi hội, 158.538 tổ hội. Cả
nước có trên 10,5 triệu hội viên. Tất cả xã, phường, thị trấn có nông dân thì đều
có tổ chức Hội Nông dân.
- Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam gồm 4 cấp: Trung ương Hội Liên hiệp
Phụ nữ Việt Nam; 63 Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh, thành phố và 2 tổ chức Hội Phụ
nữ của lực lượng vũ trang; hơn 700 hội Liên hiệp Phụ nữ cấp huyện; 14.423 hội
Liên hiệp Phụ nữ cấp xã và tương đương (trong đó có 11.162 hội Liên hiệp Phụ
nữ xã, phường, thị trấn).
- Hệ thống tổ chức Hội Cựu chiến binh Việt Nam gồm 4 cấp: Trung ương
Hội Cựu chiến binh Việt Nam; 110 Hội Cựu chiến binh Việt Nam cấp tỉnh
(trong đó có 63 Hội Cựu chiến binh tỉnh, thành phố thuộc Trung ương); 837 Hội
Cựu chiến binh Việt Nam cấp huyện và 16.462 Hội Cựu chiến binh Việt Nam
cấp cơ sở.
- Hệ thống tổ chức của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh gồm 4
cấp: Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh; 67 tỉnh, thành đoàn
và tương đương; 1.502 tổ chức Đoàn cấp huyện và tương đương; 44.454 Đoàn
cơ sở và chi đoàn cơ sở; cả nước có trên 6,4 triệu đoàn viên.
1.2.3. Một số vấn đề về chính sách sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống
chính trị
1.2.3.1. Kết quả đạt được
Trong những năm qua, Đảng ta đã có một số chủ trương, nghị quyết, kết
luận về xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị và tổ chức thực hiện đạt
được những thành quả, quan trọng, góp phần vào thành tựu to lớn, có ý nghĩa
lịch sử của sự nghiệp đổi mới.
24
Công tác quán triệt, tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng
viên về đổi mới, sắp xếp tổ chức, bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn được
các cấp ủy, tổ chức đảng quan tâm, chỉ đạo, triển khai thực hiện bằng nhiều hình
thức cụ thể, phù hợp.
Các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị, tổ chức của nhà nước, Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội đã thể chế hóa, cụ thể hóa chủ trương,
đường lối về đổi mới, sắp xếp tổ chức, bộ máy tinh gọn thành các quy định, quy
chế, pháp luật, điều lệ, chương trình, kế hoạch... để thực hiện.
Hệ thống tổ chức bộ máy của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể chính trị – xã hội được củng cố, từng bước kiện toàn hợp lý hơn; chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ công tác giữa các cơ quan, tổ chức của
hệ thống chính trị được bổ sung và ngày càng hoàn thiện, chất lượng hoạt động
từng bước được nâng lên.
Việc tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức
theo Nghị quyết của Bộ Chính trị đã có một số kết quả, biên chế cán bộ, công
chức của cả hệ thống chính trị bước đầu đã được kiểm soát.
1.2.3.2. Hạn chế, bất cập
Một số cấp ủy, tổ chức đảng còn lúng túng, bị động trong lãnh đạo, chỉ
đạo; vẫn còn tình trạng bao biện, làm thay hoặc buông lỏng, bỏ sót sự lãnh đạo
đối với các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị;
Thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng chưa
được làm rõ.
Đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị chưa theo kịp với
đổi mới kinh tế, chưa phù hợp với thể chế kinh tế thị trường, định hướng xã hội,
chủ nghĩa và hội nhập quốc tế sâu rộng. Tổ chức bộ máy của các tổ chức trong
hệ thống chính trị chưa tinh gọn, còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, hiệu lực, hiệu
quả hoạt động chưa cao; số lượng tổ chức sự nghiệp công lập tăng nhanh. Việc
25