Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

Áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (686.11 KB, 71 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN QUANG THÔNG

ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP
NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
QUẬN CẨM LỆ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN QUANG THÔNG

ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP
NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
QUẬN CẨM LỆ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
Mã số
:
838.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐINH THỊ MAI

HÀ NỘI, năm 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các nội dung
nghiên cứu trong luận văn là trung thực. Những kết quả khoa học nghiên cứu trong
luận văn chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào. Tôi xin chịu hoàn
toàn trách nhiệm về lời cam đoan của mình.
Tác giả luận văn

Nguyễn Quang Thông


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG CÁC BIỆN
PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ ......................5
1.1. Khái niệm .............................................................................................................5
1.2. Đặc điểm của áp dụng các biện pháp ngăn chặn..................................................9
1.3. Các yếu tố tác động đến việc quy định và áp dụng các biện pháp ngăn chặn
theo pháp luật tố tụng hình sự ...................................................................................10
CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015
VỀ ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN VÀ THỰC TIỄN ÁP
DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN CẨM LỆ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG .............14
2.1. Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 về áp dụng các biện pháp
ngăn chặn...................................................................................................................14

2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật Tố tụng hình sự về các biện
pháp ngăn chặn trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng ..............................32
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TẠI QUẬN CẨM LỆ, THÀNH PHỐ ĐÀ
NẴNG .......................................................................................................................49
3.1. Tăng cường nhận thức về các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự ........49
3.2. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự ...52
3.3. Tăng cường hướng dẫn các quy định về biện pháp ngăn chặn trong tố tụng
hình sự .......................................................................................................................55
3.4. Kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan bảo vệ pháp luật của quận Cẩm Lệ;
bồi dưỡng, nâng cao có chất lượng đội ngũ cán bộ thực thi các biện pháp ngăn
chặn theo pháp luật tố tụng hình sự ..........................................................................56
3.5. Tăng cường sự phối hợp giữa Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra và
các cơ quan hữu quan khác trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong tố
tụng hình sự ...............................................................................................................57


3.6. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về các biện pháp
ngăn chặn...................................................................................................................57
KẾT LUẬN ..............................................................................................................59
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLTTHS

Bộ luật Tố tụng hình sự

BPNC


Biện pháp ngăn chặn

CQĐT

Tè tông h×nh sù

TTHS

Tố tụng hình sự

VKS

Viện kiểm sát

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Kết quả áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người trong các vụ án hình
sự từ năm 2014 đến năm 2018 ..................................................................................34
Bảng 2.2. Số liệu người bị tạm giữ so với người bị khởi tố bị can từ năm 2014
đến năm 2018 trên địa bàn quận Cẩm Lệm thành phố Đà Nẵng ..............................37
Bảng 2.3. Thống kê tình hình áp dụng BPNC tạm giam từ 2014 đến 2018 trên
địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng ...............................................................38


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự là một trong những cách thức
thực hiện tính quyền lực nhà nước do cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng theo
trình tự, thủ tục được pháp luật tố tụng hình sự quy định. Việc áp dụng các biện
pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự gắn liền với việc hạn chế một số quyền, lợi
ích hợp pháp của công dân được Hiến pháp ghi nhận, đảm bảo. Do vậy, việc áp
dụng các biện pháp ngăn chặn đòi hỏi phải hết sức thận trọng, khách quan, đúng căn
cứ mà pháp luật tố tụng hình sự quy định.
Thực tiễn đã chứng minh rằng, việc áp dụng biện pháp ngăn chặn trong tố
tụng hình sự không tuân theo trình tự, thủ tục, xâm phạm các quyền cơ bản của
công dân được quy định trong Hiến pháp, giảm sút lòng tin của Nhân dân đối với
các cơ quan bảo vệ pháp luật; tạo cớ cho các thế lực thù địch xuyên tạc, vu cáo nhà
nước ta vi phạm “nhân quyền”, chia rẽ Đảng, Nhà nước với Nhân dân. Qua thực
tiễn áp dụng các biện pháp ngăn chặn tại quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng vẫn còn
những hạn chế như trên. Do đó, việc nắm vững các biện pháp ngăn chặn trong tố
tụng hình sự là điều hết sức quan trọng, cần thiết giúp các cơ quan thực thi pháp luật
tránh được những sai sót, góp phần nâng cao hiệu quả trong quá trình điều tra, truy
tố, xét xử.
Chính vì vậy, tôi lựa chọn đề tài: “Áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng”
để làm luận văn tốt nghiệp, chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Qua hơn 12 năm thi hành Bộ luật tố tụng hình sự 2003, đã có rất nhiều tác giả
tập trung nghiên cứu về các biện pháp ngăn chặn, từ nghiên cứu trong phạm vi rộng
là tất cả các biện pháp, đến nghiên cứu từng biện pháp cụ thể; Có rất nhiều giáo
trình, tài liệu, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ cho đến các đề tài khoa học,..tiếp cận
đề tài này ở nhiều góc độ khác nhau như:
- Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội.
1



- Các đề tài khoa học, sách chuyên khảo, các bài viết khoa học như: Tác giả Lê
Cảm và Đỗ Thị Phượng với bài viết “Tư pháp hình sự đối với người chưa thành
niên: những khía cạnh pháp lý hình sự, tố tụng hình sự, tội phạm học và so sánh luật
học, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 20 năm 2004.
Bên cạnh đó, có nhiều bài viết đăng trên tạp chí Công an nhân dân, tạp chí
Kiểm sát, tạp chí Nhà nước và pháp luật cũng tập trung phân tích, đề cập đến những
khó khăn, vướng mắc, những giải pháp về việc áp dụng biện pháp ngăn chặn trên
từng địa bàn cụ thể với những đặc trưng riêng biệt của từng địa phương.
Trước tình hình trên cho thấy, việc nghiên cứu đề tài "Áp dụng các biện pháp
ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận Cẩm Lệ, thành
phố Đà Nẵng " trong giai đoạn hiện nay là rất cần thiết, vừa có tính lý luận, vừa có
tính thực tiễn, góp phần đảm bảo thực hiện đúng pháp luật trong lĩnh vực này trên
địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ thực trạng áp dụng biện pháp ngăn chặn trên địa bàn quận
Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng mà đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng
biện pháp ngăn chặn tại quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng từ năm 2014 đến năm
2018.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ lý luận về các biện pháp ngăn chặn;
- Thực trạng áp dụng các biện pháp ngăn chặn trên địa bàn quận Cẩm Lệ,
thành phố Đà Nẵng và làm rõ tình hình áp dụng các biện pháp ngăn chặn trên địa
bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng từ năm 2014 – 2018; kết quả đạt được,
nguyên nhân, những hạn chế, khó khăn và giải pháp.
- Phân tích các quy định của pháp luật TTHS về các BPNC liên quan đến đối
tượng, thẩm quyền, điều kiện, thủ tục áp dụng;
- Dự báo về tình hình áp dụng các biện pháp ngăn chặn trên địa bàn quận Cẩm
Lệ thành phố Đà Nẵng và đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng.
2



4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn dựa trên các quan điểm khoa học, các quy định của pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam về các BPNC, thực tiễn áp dụng các biện pháp đó trên địa bàn
quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nãng để nghiên cứu các vấn đề về các biện pháp ngăn
chặn và thực tiễn áp dụng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Để đạt hoàn thành nhiệm vụ đã đề ra, luận văn tập trung làm rõ các vấn đề
trọng tâm sau:
- Phân tích làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về BPNC;
- Phân tích các quy định của pháp luật TTHS về BPNC có liên quan đến đối
tượng, điều kiện, thẩm quyền, thủ tục áp dụng;
- Phân tích thực tiễn áp dụng BPNC trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà
Nẵng, thực tiễn áp dụng các biện pháp đó trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà
Nẵng, qua đó, có những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng BPNC.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác–Lê
nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời quán triệt các quan điểm của Đảng, Nhà
nước ta về xây dựng Nhà nước và pháp luật trong đó có vấn đề áp dụng BPNC .
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
- Phương pháp thống kê, so sánh, phân tích tổng hợp.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
- Phương pháp tham khảo chuyên gia.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đánh giá chính xác thực tiễn áp dụng các BPNC trên địa bàn quận Cẩm Lệ,

thành phố Đà Nẵng, những kết quả và rút ra được nguyên nhân, khó khăn, bất cập
3


và hạn chế, đưa ra những đề xuất, kiến nghị có cơ sở lý luận và thực tiễn.
Các kiến nghị, đề xuất này có giá trị tham khảo trong quá trình áp dụng các
biện pháp ngăn chặn của các cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn quận Cẩm Lệ,
thành phố Đà Nẵng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo, học tập cho sinh viên, học viên các
trường luật, cán bộ nghiên cứu…
7. Kết cấu của luận văn
Kết cấu luận văn gồm 3 chương, cụ thể:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo
pháp luật tố tụng hình sự
Chương 2. Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về áp dụng biện pháp
ngăn chặn và thực tiễn áp dụng trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng.
Chương 3. Giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp ngăn
chặn tại quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng

4


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP
NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm
1.1.1. Khái niệm, phân loại các biện pháp ngăn chặn
1.1.1.1. Khái niệm các biện pháp ngăn chặn
Các BPNC trong tố tụng hình sự là một trong những cách thức thực hiện tính

quyền lực nhà nước do cơ quan chức năng, người có thẩm quyền áp dụng theo trình
tự, thủ tục được quy định tại chương VII của BLTTHS năm 2015. “Trước đây,
những biện pháp này được quy định trong luật 103-SL/005 ngày 20/5/1957, Sắc luật
002-SLt ngày 18/6/1957 và Sắc lệnh số 02-SL ngày 15/3/1976 bao gồm việc bắt,
giam, tha, khám xét và được gọi là những biện pháp cưỡng chế” [40].
Qua quá trình nghiên cứu luật TTHS, việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực
tiễn dẫn đến hình thành khái niệm các BPNC đã, đang có nhiều quan điểm khác
nhau giữa các nhà nghiên cứu. Qua nghiên cứu, tác giả trích dẫn một vài quan điểm
như sau:
Có quan điểm cho rằng: “Những BPNC là những biện pháp cưỡng chế trong
TTHS được áp dụng đối với bị can, bị cáo hoặc đối với người chưa bị khởi tố (trong
trường hợp bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang) nhằm ngăn
chặn hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật
hoặc có hành động gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án” [4,
tr.36]. Khái niệm trên đã làm rõ được đối tượng áp dụng là bị can, bị cáo hoặc
người chưa bị khởi tố nhưng bị bắt khẩn cấp hoặc quả tang, mục đích áp dụng là
ngăn chặn hành vi nguy hiểm cho xã hội, ngăn chặn tội phạm. Tuy nhiên, khái niệm
này lại chưa làm rõ được chủ thể áp dụng các BPNC.
Trong BLTTHS năm 2015 có hiệu lực từ 01/01/2018, mặc dù các nhà làm luật
không đưa ra một khái niệm cụ thể về BPNC, song tại Điều 109 BLTTHS năm
2015 quy định: “Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người
5


bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm
tội hoặc để đảm bảo thi hành án, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
trong phạm vi, thẩm quyền của mình có thể áp dụng biện pháp giữ người trong
trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi
khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh” [37].
Từ quá trình nghiên cứu tác giả có thể nêu ra khái niệm BPNC, theo đó: “Các

BPNC là biện pháp cưỡng chế TTHS do cơ quan hoặc người có thẩm quyền theo
quy định của pháp luật áp dụng đối với người bị buộc tội, khi có căn cứ chứng tỏ
người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục
phạm tội hoặc để đảm bảo thi hành án, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng trong phạm vi, thẩm quyền của mình có thể áp dụng biện pháp giữ người trong
trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi
khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh”.
1.1.1.2. Phân loại biện pháp ngăn chặn
Căn cứ vào mục đích áp dụng thì các biện pháp ngăn chặn được quy định
trong Bộ luật TTHS năm 2015 có thể chia thành 2 nhóm:
- Nhóm 1: bao gồm những biện pháp ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa người bị
buộc tội bỏ trốn hoặc gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án như: Giữ người trong
trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi
khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh.
- Nhóm 2: bao gồm các biện pháp cưỡng chế nhằm đảm bảo thu thập chứng cứ
như: Áp giải, dẫn giải, kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản.
1.1.2. Khái niệm áp dụng các biện pháp ngăn chặn
Tiến hành áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người đã, đang và sẽ thực
hiện hành vi phạm tội được các nhà khoa học Việt Nam nói riêng, các nhà khoa học thế
giới nói chung tiếp cận, nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau, có những quan điểm
khác nhau, nhưng nhìn chung đều nhằm mục đích ngăn chặn tội phạm, đặc biệt các
biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự nước ta còn mang tính nhân văn sâu sắc.
Áp dụng biện pháp ngăn chặn thuộc một trong nhóm của biện pháp cưỡng
6


chế, mang tính cưỡng chế nghiêm khắc nhất buộc người phạm tội dừng ngay
việc thực hiện hành vi phạm tội hay bỏ trốn tạo thuận lợi cho việc điều tra, truy
tố, xét xử cũng như để đảm bảo thi hành án. Các biện pháp ngăn chặn khi được
áp dụng sẽ tác động trực tiếp đến quyền tự do, lợi ích hợp pháp của công dân

được Hiến pháp ghi nhận.
Trên cơ sở khái niệm biện pháp ngăn chặn nói chung nêu trên và các quy định
về biện pháp ngăn chặn giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm
giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh quy
định tại các Điều 110, Điều 111, Điều 112, Điều 113,... BLTTHS 2015 rút ra khái
niệm giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt
tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh như sau:
Khái niệm biện pháp ngăn chặn giữ người trong trường hợp khẩn cấp:
“Giữ người trong trường hợp khẩn cấp là trường hợp giữ người khi có căn cứ
để xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng, hoặc sau khi thực hiện tội phạm người đó bỏ trốn hoặc
tiêu hủy chứng cứ”.
Khái niệm biện pháp ngăn chặn bắt người:
Trong giáo trình luật Tố tụng hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà
Nội, 2005, Biện pháp bắt người được tác giả viết: “Bắt người là biện pháp ngăn
chặn trong tố tụng hình sự được áp dụng đối với bị can, bị cáo hoặc trong trường
hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang thì áp dụng cả đối với người chưa bị khởi tố
nhằm ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa người phạm tội trốn tránh pháp luật, tạo điều
kiện thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự” [16].
Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm
và để phù hợp từng hành vi phạm tội diễn ra trong thực tế, khoản 2, Điều 109 Bộ
luật TTHS năm 2015 quy định các trường hợp bắt người bao gồm: Bắt người bị giữ
trong trường hợp khẩn cấp; bắt người phạm tội quả tang; bắt người đang bị truy nã;
bắt bị can, bị cáo để tạm giam; bắt người bị yêu cầu dẫn độ.
Đối với trường hợp bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đã được thể
7


hiện ở nội dung giữ người trong trường hợp khẩn cấp. Do đó phạm vi nghiên cứu
biện pháp bắt người trong phần này bao gồm: Bắt người phạm tội quả tang; bắt

người đang bị truy nã và bắt bị can, bị cáo để tạm giam.
Khái niệm biện pháp ngăn chặn tạm giữ:
Tạm giữ là biện pháp ngăn chặn được áp dụng đối với người bị giữ trong
trường hợp khẩn cấp, những người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang,
người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy
nã của cơ quan tiến hành tố tụng.
Khái niệm biện pháp ngăn chặn tạm giam:
Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo nhằm cách ly họ ra khỏi xã hội trong một
thời gian nhất định phục vụ cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.
Khái niệm biện pháp bảo lĩnh:
Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn để thay thế biện pháp tạm giam, có thể áp
dụng đối với bị can, bị cáo khi có cá nhân hoặc tổ chức làm giấy cam đoan được Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án đồng ý và cam đoan không để bị can, bị cáo
tiếp tục phạm tội, bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Khái niệm biện pháp ngăn chặn đặt tiền để bảo đảm:
Đặt tiền để bảo đảm là biện pháp ngăn chặn để thay thế biện pháp tạm giam do
Cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng đối với bị can, bị cáo để bảo đảm sự có mặt của
họ theo giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng.
Khái niệm biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú:
“Cấm đi khỏi nơi cư trú là biện pháp ngăn chặn có thể được áp dụng đối với bị
can, bị cáo có nơi cư trú cụ thể, có lý lịch rõ ràng nhằm đảm bảo sự có mặt của họ
theo giấy triệu tập của Cơ quan tiến hành tố tụng” [37].
Khái niệm biện pháp ngăn chặn tạm hoãn xuất cảnh:
Tạm hoãn xuất cảnh là biện pháp ngăn chặn có thể áp dụng đối với bị can, bị
cáo, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố nhằm ngăn chặn ngay việc người
8



đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ.
Từ những các khái niệm trên, qua nghiên cứu có thể đưa ra khái niệm áp dụng
biện pháp ngăn chặn đối với người phạm tội như sau: “Áp dụng biện pháp ngăn
chặn đối với người phạm tội trong giai đoạn điều tra là áp dụng biện pháp cưỡng
chế trong TTHS do người có thẩm quyền áp dụng đối với bị can, người bị truy nã
hoặc đối với những người chưa bị khởi tố (trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm
tội quả tang), từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi nhằm ngăn chặn những hành vi nguy
hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc
có hành động cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án”.
1.2. Đặc điểm của áp dụng các biện pháp ngăn chặn
1.2.1. Căn cứ áp dụng
Theo quy định tại Điều 109 BLTTHS 2015, căn cứ áp dụng các biện
pháp ngăn chặn trong hoạt động điều tra vụ án bao gồm các căn cứ sau:
- Để kịp thời ngăn chặn tội phạm
Mỗi tội phạm xảy ra đều gây nên những hậu quả nhất định cho các quan hệ xã
hội được pháp luật bảo vệ. Vì vậy, việc kịp thời ngăn chặn tội phạm trước khi tội
phạm xảy ra hoặc trong khi tội phạm đang xảy ra có ý nghĩa rất lớn trong việc bảo
vệ kịp thời những đối tượng được pháp luật bảo vệ đang bị tội phạm xâm hại, góp
phần tích cực vào việc ngăn ngừa và hạn chế hậu quả do tội phạm gây ra. Với ý
nghĩa đó, để kịp thời ngăn chặn tội phạm được coi là một căn cứ để áp dụng các
biện pháp ngăn chặn.
Như vậy, kịp thời ngăn chặn tội phạm là việc ngăn ngừa tội phạm khi nó đang
trong quá trình chuẩn bị thực hiện hoặc khi nó đang diễn ra.
Đối tượng áp dụng: Người chưa bị khởi tố bao gồm người bị giữ trong trường
hợp khẩn cấp, người bị bắt giữ do phạm tội quả tang.
Nội dung căn cứ: Khi có tài liệu, chứng cứ cho rằng một người đang chuẩn bị
thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, hay khi
phát hiện một người đang thực hiện tội phạm.
- “Khi có đủ căn cứ, cơ sở chứng minh bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc
9



điều tra, truy tố, xét xử của cơ quan tiến hành tố tụng”.
Đối tượng áp dụng: “Người bị buộc tội là bị can, bị cáo”.
Nội dung căn cứ: Khi có tài liệu, chứng cứ chứng tỏ bị can, bị cáo tiếp tục
phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội.
Để có có thể nhận định bị can, bị cáo có thể phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp
tục phạm tội thường dựa vào một số dấu hiệu sau: Hành vi thực tế đang diễn ra của
bị can, bị cáo; nhân thân của bị can, bị cáo; điều kiện thực tế của bị can, bị cáo có
thể sẽ tiếp tục phạm tội.
- Để bảo đảm thi hành án
Để bảo đảm thi hành án là việc bảo đảm các phán quyết của Tòa án khi có
hiệu lực sẽ được thực thi đúng pháp luật.
Một người đã có bản án của Tòa án nhưng bản án này chưa có hiệu lực, xét
thấy người đó sẽ gây khó khăn cho hoạt động thi hành án trong thời gian chờ bản án
này có hiệu lực thì cơ quan có thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn.
1.2.2. Chủ thể áp dụng
Theo quy định tại Điều 109 BLTTHS 2015, “chủ thể áp dụng là cơ quan,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng” [37].
1.2.3. Trình tự, thủ tục áp dụng
Sau khi Tòa án cấp sơ thẩm tuyên phạt tù, nếu có căn cứ cho rằng bị cáo có
thể bỏ trốn hoặc tiếp tục gây án thì tòa án có thể quyết định bắt giam ngay để đảm
bảo thi hành án.
Đối với bị cáo không bị tạm giam, nhưng bị Tòa án cấp phúc thẩm phạt tù thì
Tòa án ra quyết định bắt giam ngay để đảm bảo thi hành án, trừ trường hợp hoãn thi
hành hình phạt tù.
1.3. Các yếu tố tác động đến việc quy định và áp dụng các biện pháp
ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự
1.3.1. Các yếu tố tác động đến quy định các biện pháp ngăn chặn trong Bộ
luật tố tụng hình sự

Khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn vào thực tiễn cuộc sống có rất nhiều yếu
10


tố tác động đến như: hệ thống văn bản còn chưa đồng bộ, chưa mang tính cụ thể; áp
dụng biện pháp ngăn chặn tác động trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, đặc biệt là quyền tự do thân thể do Hiến pháp quy định; Năng lực chuyên
môn của các nhà làm luật cũng tác động không nhỏ đến việc áp dụng pháp luật. Qua
đó, ta thấy các yếu tố sau có thể tác động trực tiếp đến việc áp dụng pháp luật:
Thứ nhất, hệ thống pháp luật đặc biệt là hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam tác động rất lớn hay áp dụng các BPNC trong luật TTHS Việt Nam.
Từ thực tiễn áp dụng biện pháp ngăn chặn trong công tác điều tra khám phá tội
phạm nhằm hoàn thiện các quy định, quy phạm pháp luật liên quan đến các biện
pháp ngăn chặn ngày 01/01/2018 Bộ luật TTHS năm 2015 đã chính thức có hiệu lực
cơ bản đã đáp ứng yêu cầu thực tiễn về trình tự, thủ tục của việc khởi tố, điều tra,
truy tố và xét xử vụ án hình sự nói chung và về các BPNC nói riêng.
Thứ hai, Xuất phát từ thực tiễn áp dụng biện pháp ngăn chặn trong công tác
phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Trong khi tiến hành áp dụng biện pháp ngăn chặn, có thời điểm việc áp dụng
biện pháp này hay biện pháp khác cần có sự chính xác một cách toàn diện. Đã có
thời điểm vì việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp đại trà, giữ người trong
trường hợp khẩn cấp không đúng quy định của pháp luật dẫn đến việc bắt oan. Đã
có những ý kiến cho rằng cần phải bãi bỏ biện pháp giữ người trong trường hợp
khẩn cấp. Tuy nhiên, giữ người trong trường hợp khẩn cấp là biện pháp cần thiết
dùng để ngăn chặn ngay người có hành vi chuẩn bị thực hiện tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng, cũng như khi xét thấy cần ngăn chặn ngay việc
người phạm tội trốn hoặc tiêu huỷ chứng cứ của vụ án. Chính vì thế, không thể bãi
bỏ biện pháp ngăn chặn này được.
Thứ ba, năng lực chuyên môn của các nhà làm luật cũng tác động lớn đến việc
quy định các biện pháp ngăn chặn.

Trong thực tiễn thực hiện pháp luật ở nước ta, năng lực chuyên môn của các
nhà làm luật cũng tác động lớn đến việc quy định các biện pháp ngăn chặn. Thực tế
đã chứng minh nếu nhà làm luật ngồi viết luật, để áp dụng luật vào thực tiễn công
11


tác điều tra, khám phá tội phạm. Bên cạnh đó, nhà làm luật là người có năng lực
chuyên môn cao thì việc sắp xếp khoa học, đồng bộ, có hướng dẫn cụ thể, rõ ràng
cũng góp phần cho việc triển khai thực hiện áp dụng pháp luật.
1.3.2. Các yếu tố tác động đến việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong
luật tố tụng hình sự Việt Nam
Việc áp dụng các BPNC trong vụ án hình sự là hoạt động tố tụng hết sức phức
tạp, bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đến những quyền cơ bản của con người được Hiến
pháp quy định. Do vậy, khi cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng biện pháp ngăn chặn
phải thận trọng, khách quan, đúng quy định của pháp luật. Việc đó đòi hỏi phải dựa
trên rất nhiều yếu tố, như:
- Nội dung của các quy phạm pháp luật TTHS về các BPNC trong TTHS
Các quy phạm pháp luật về các BPNC được quy định tại Chương VII của Bộ
luật TTHS Việt Nam năm 2015 có hiệu lực từ 01/01/2018. BLTTHS năm 2015 đã
sửa đổi, bổ sung thêm rất nhiều quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục của việc
áp dụng các BPNC. Điều này góp phần làm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử
được nhanh chóng, chính xác hơn. Tuy nhiên, vẫn còn một số các quy định giải
thích và hướng dẫn về các BPNC còn chưa hợp lý làm cho việc áp dụng trong thực
tế thi hành các biện pháp ngăn chặn còn chưa phù hợp dẫn đến chưa chính xác dễ
xảy ra oan sai.
- Năng lực, trách nhiệm, ý thức của người áp dụng các BPNC
TTHS là các quy phạm có ảnh hưởng trực tiếp tới quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân. Vì vậy, cán bộ tiến hành tố tụng phải là những người có năng lực,
phẩm chất đạo đức tốt, đảm bảo các tiêu chuẩn theo quy định, nhằm mang lại hiệu
quả cao nhất cho hoạt động điều tra không để xảy ra oan, sai.

Quá trình thực thi, áp dụng các BPNC trong từng vụ án hình sự cụ thể chịu tác
động không nhỏ bởi yếu tố khách quan của người áp dụng các BPNC. Điều tra viên
là người được Thủ trưởng CQĐT phân công trực tiếp thụ lý các vụ án, tiến hành các
hoạt động tố tụng theo quy định của pháp luật nhưng họ không có quyền áp dụng
BPNC mà chỉ có trách nhiệm, nghĩa vụ tham mưu cho Thủ trưởng, Phó thủ trưởng
12


CQĐT các cấp trong việc áp dụng các BPNC. Quá trình thực thi pháp luật TTHS
chịu tác động rất lớn từ năng lực chuyên môn, kinh nghiệm của Điều tra viên, bởi
điều tra viên có hiểu biết rộng, nắm vững pháp luật sẽ giúp Thủ trưởng, Phó Thủ
trưởng hạn chế thấp nhất sai phạm. Mặt khác, Điều tra viên có kiến thức hạn chế,
chưa nghiên cứu sâu về các biện pháp ngăn chặn, chưa hiểu hết ý nghĩa của các biện
pháp ngăn chặn về đối tượng áp dụng, căn cứ áp dụng, thẩm quyền, thủ tục và thời
hạn áp dụng các BPNC, cũng như chưa nghiên cứu sâu các văn bản hướng dẫn thi
hành thì rất dễ dẫn đến việc áp dụng các BPNC một cách tuỳ tiện, không đầy đủ và
thiếu chính xác.
Tiểu kết Chương 1
BPNC là những biện pháp cưỡng chế TTHS do cơ quan hoặc người có thẩm
quyền theo quy định của pháp luật áp dụng đối với người bị buộc tội, khi có căn cứ
chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ
tiếp tục phạm tội hoặc để đảm bảo thi hành án.
Trải qua hơn 30 năm thi hành các bộ luật tố tụng hình sự áp dụng các quy
phạm pháp luật về bắt người, tạm giữ, tạm giam ...Pháp luật tố tụng hình sự ngày
càng được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng chống tội
phạm, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta. Ngày 01/01/2018 Bộ luật tố tụng
hình sự 2015 chính thức có hiệu lực mở ra một trang mới trong việc thực thi pháp
luật tố tụng cũng như áp dụng các biện pháp ngăn chặn đã được thay đổi,đảm bảo
tốt hơn mục đích TTHS, phù hợp với thực tiễn công tác đấu tranh phòng chống tội
phạm ở Việt Nam.


13


CHƯƠNG 2
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015 VỀ ÁP
DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN CẨM LỆ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
2.1. Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 về áp dụng các
biện pháp ngăn chặn
2.1.1. Biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp
Giữ người trong trường hợp khẩn cấp là tiến hành giữ người khi có đủ căn cứ,
cơ sở để xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, hoặc sau khi thực hiện tội phạm người đó bỏ trốn
hoặc tiêu hủy chứng cứ nhằm đảm bảo cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử.
Theo quy định tại khoản 1, Điều 110 Bộ luật TTHS năm 2015 thì khi thuộc
một trong các trường hợp sau đây thì được giữ người trong trường hợp khẩn cấp:
Trường hợp 1: Có đủ căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội
phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Trong trường hợp này, Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải có đủ
thông tin, tài liệu để xác định một người cụ thể đang chuần bị thực hiện tội phạm rất
nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng về một trong các tội phạm được
quy định tại các điều 108, 109, 110, 111, 112, 113, 114, 115, 116, 117, 118, 119,
120, 121, 123, 134, 168, 169, 207, 299, 300, 301, 302, 303 và 324 của Bộ luật hình
sự năm 2015. Ngoài những tội danh nêu trên thì không được tạm giữ người trong
trường hợp khẩn cấp.
Tuy nhiên đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ có thể giữ người
trong trường hợp khẩn cấp khi người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm quy định
tại điều 123 và Điều 168 của Bộ luật hình sự 2015.
Trường hợp 2: Đồng phạm, người bị hại, người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm

chính mắt trông thấy, xác nhận đúng là người đã thực hiện hành vi phạm tội, xét thấy
cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn nhằm che giấu hành vi phạm tội của mình;
14


Để giữ người trong trường hợp này cần phải có đủ hai điều kiện:
- Thứ nhất: Người cùng thực hiện tội phạm hoặc bị hại hoặc người có mặt
tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt nhìn thấy và xác nhận đúng là người đã thực
hiện tội phạm.
Chính mắt nhìn thấy được hiểu là họ trực tiếp chứng kiến sự việc phạm tội xảy
ra chứ không phải do nghe người khác kể lại, thuật lại. Xác nhận đúng là người đã
thực hiện tội phạm là sự khẳng định một người cụ thể nào đó đã thực hiện tội phạm
thông qua những dấu hiệu nhận biết nào đó chứ không phải là sự phỏng đoán hay
nghi vấn.
- Thứ hai: Cần tiến hành ngăn chặn ngay việc người đó trốn nhằm che giấu
hành vi phạm tội của mình. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có căn cứ cho
rằng nếu không bắt giữ họ thì có thể họ sẽ bỏ trốn gây khó khăn cho công tác điều
tra, khám phá vụ án. Việc nhận định một người có khả năng bỏ trốn hay không bỏ
trốn. Cơ quan chức năng có thẩm quyền căn cứ vào hành vi của người đó, căn cứ
vào nhân thân, lai lịch, hành vi phạm tội và điều kiện thực tế của người đó.
Trường hợp 3: “Có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở hoặc nơi làm
việc hoặc trên phương tiện của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần
ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ” [83].
Dấu vết tội phạm là những phản ánh vật chất có liên quan đến tội phạm tồn tại
trên vật mang vết như: Dấu vết máu trên quần áo, dấu vết trầy xước trên phương
tiện giao thông. Khi phát hiện có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở hoặc
trên phương tiện của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn
ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ thì cơ quan có thẩm quyền tiến
hành giữ người bị nghi thực hiện tội phạm đó trong trường hợp khẩn cấp.
Chú ý: Việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với người từ đủ 14 tuổi

đến dưới 16 tuổi thì ngoài các căn cứ trên đây chỉ có thể áp dụng biện pháp này đối
với họ về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại
một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173,
178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ
15


luật hình sự. Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị giữ trong trường
hợp khẩn cấp về tội nghiêm trọng do cố ý, tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm
trọng (Điều 419 Bộ luật TTHS năm 2015).
Những người có quyền ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp được quy
định tại Khoản 2, Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
* Trình tự, thủ tục:
Khi tiến hành giữ người trong trường hợp khẩn cấp phải có lệnh của cơ quan
điều tra và lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp phải có sự phê chuẩn của Viện
Kiểm sát cùng cấp. Còn công tác tiến hành bắt, công cụ, phương tiện, ... do cơ quan
điều tra thực hiện theo đúng quy trình, quy định của pháp luật. Người thi hành lệnh
phải đọc lệnh, giải thích lệnh, giải thích quyền và nghĩa vụ của người bị giữ trong
trường hợp khẩn cấp và lập biên bản về việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp;
giao lệnh cho người bị giữ.
Tại Điểm 4, Điều 110, BLTTHS năm 2015 quy định thời gian giữ người trong
trường hợp khẩn cấp như sau: “Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi giữ người trong
trường hợp khẩn cấp hoặc nhận người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp thì Cơ quan
điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải lấy
lời khai ngay và những người quy định tại điểm a và điểm b khoản 2, Điều 110 Bộ
luật TTHS năm 2015 phải ra quyết định tạm giữ, ra lệnh bắt người bị giữ hoặc trả tự
do ngay cho người đó. Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp phải gửi
ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền kèm theo tài
liệu liên quan đến việc giữ người để xét phê chuẩn” [37].
Bên cạnh đó, Bộ luật tố tụng hình sự 2015 cũng quy định rõ khi tiếp nhận, bắt

giữ người trong trường hợp khẩn cấp thì những người có thẩm quyền phải giải ngay
người bị bắt kèm theo tài liệu, chứng cứ có liên quan đến sân bay, bến xe, bến
cảng.. đi chuyến đầu tiên trở về cơ quan có thẩm quyền. Trong thời hạn 12 giờ kể từ
khi tiếp nhận người bị giữ, Cơ quan điều tra phải tiến hành lấy ngay lời khai báo
cáo Thủ trưởng hoặc Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra đó phải ra quyết định tạm
giữ, ra lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp hoặc trả tự do ngay cho
16


người đó nếu không có chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của người đó.
Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp phải gửi ngay cho Viện kiểm
sát cùng cấp kèm theo tất cả tài liệu, chứng cứ có liên quan đến việc giữ người để
xét phê chuẩn lệnh bắt.
Trong vòng 12 giờ khi nhận hồ sơ đề nghị xét phê chuẩn về bắt giữ trong
trường hợp khẩn cấp thì VKS phải ra ngay quyết định phê chuẩn hoặc không phê
chuẩn để cơ quan điều tra tiến hành thực hiện.
Theo điểm 5, Điều 110 BLTTHS năm 2015 thì Hồ sơ đề nghị Viện kiểm sát
cùng cấp phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp gồm:
- “Văn bản đề nghị Viện kiểm sát phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong
trường hợp khẩn cấp”; “Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, lệnh bắt người
bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, quyết định tạm giữ”; “Biên bản giữ người trong
trường hợp khẩn cấp”; “Biên bản ghi lời khai của người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp”; “Chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc giữ người trong trường
hợp khẩn cấp” [37].
- Thông báo về việc giữ người, bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp.
Sau khi giữ người, bắt người, người ra lệnh giữ người, quyết định bắt người
phải thông báo ngay cho những người liên quan theo quy định của luật biết. Tuy
nhiên, trong một số trường hợp việc thông báo có thể gây cản trở truy bắt đối tượng
khác hoặc cản trở điều tra thì sau khi những cản trở đó không còn, người ra lệnh giữ
người, lệnh hoặc quyết định bắt người, Cơ quan điều tra nhận người bị giữ, người bị

bắt phải thông báo ngay cho cho gia đình người bị giữ, bị bắt, chính quyền xã,
phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc,
học tập biết.
2.1.2. Biện pháp bắt
Bắt là biện pháp ngăn chặn được cơ quan chức năng có thẩm quyền áp dụng
đối với người bị buộc tội, người đang bị truy nã, người bị yêu cầu dẫn độ nhằm kịp
thời ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa người phạm tội trốn tránh pháp luật, tạo điều
kiện thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.
17


Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm
và để phù hợp từng hành vi phạm tội diễn ra trong thực tế, khoản 2, Điều 109 Bộ
luật TTHS năm 2015 quy định các trường hợp bắt người bao gồm: bắt người bị giữ
trong trường hợp khẩn cấp; bắt người phạm tội quả tang; bắt người đang bị truy nã;
bắt bị can, bị cáo để tạm giam; bắt người bị yêu cầu dẫn độ.
Đối với trường hợp bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đã được thể
hiện ở nội dung giữ người trong trường hợp khẩn cấp; trường hợp bắt người bị yêu
cầu dẫn độ sẽ được nghiên cứu trong phần hợp tác quốc tế ở các bậc học cao hơn.
Do đó phạm vi nghiên cứu biện pháp bắt người trong phần này bao gồm: Bắt người
phạm tội quả tang; bắt người đang bị truy nã và bắt bị can, bị cáo để tạm giam.
- Bắt người phạm tội quả tang:
Bắt người phạm tội quả tang là trường hợp bắt người khi người đó đang
thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị
đuổi bắt để phục vụ cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử.
Căn cứ quy định tại khoản 1, Điều 111 Bộ luật TTHS năm 2015 thì bắt người
phạm tội quả tang trong 3 trường hợp sau:
Trường hợp 1: Người đang thực hiện tội phạm thì bị phát hiện.
Đây là trường hợp một người đang thực hiện hành vi phạm tội được mô tả
trong một cấu thành tội phạm cụ thể (Ví dụ: đang dùng dao đâm, chém người khác,

đang dùng súng uy hiếp để cướp tài sản) thì tội phạm bị phát hiện. Hành vi phạm tội
có thể đã gây ra hậu quả của tội phạm hoặc chưa gây ra hậu quả, có thể thực hiện
trong một thời gian ngắn hoặc trong một thời gian dài (hành vi tàng trữ trái phép vũ
khí, quân dụng, chất ma tuý).
Trường hợp 2: Ngay sau khi người đó thực hiện tội phạm thì bị phát hiện và bị
bắt giữ.
Trường hợp này người phạm tội vừa thực hiện xong tội phạm, chưa kịp chạy
trốn, xóa dấu vết thì bị phát hiện. Thông thường sự có mặt của người phạm tội tại hiện
trường kết hợp cùng dấu vết tội phạm mà họ gây ra là chứng cứ để buộc họ mà họ
không thể chối cãi về hành vi phạm tội của mình. Tuy nhiên, trong trường hợp người
18


×