Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

Định tội danh các tội phạm về ma túy trong trường hợp đồng phạm theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn thành phố đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (771.95 KB, 89 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HUỲNH NHƯ THƯƠNG

ĐỊNH TỘI DANH CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TÚY
TRONG TRƯỜNG HỢP ĐỒNG PHẠM THEO
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HUỲNH NHƯ THƯƠNG

ĐỊNH TỘI DANH CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TÚY
TRONG TRƯỜNG HỢP ĐỒNG PHẠM THEO
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số
: 8.38.01.04.

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. HỒ SỸ SƠN

Hà Nội, năm 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình do tôi tự nghiên cứu; các số liệu
trong Luận văn có cơ sở rõ ràng và trung thực. Luận văn này chưa từng được
ai công bố trong các công trình khác.
Tác giả luận văn

Huỳnh Như Thương


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT CỦA ĐỊNH TỘI
DANH CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TÚY TRONG TRƯỜNG HỢP ĐỒNG
PHẠM............................................................................................................... 7
1.1. Cơ sở lý luận của định tội danh các tội phạm về ma túy trong trường hợp
đồng phạm ......................................................................................................... 7
1.2. Cơ sở pháp lý của việc định tội danh các tội phạm về ma túy trong trường
hợp đồng phạm ................................................................................................ 11
1.3. Các điều kiện đảm bảo định tội danh đúng các tội phạm về ma túy trong
trường hợp đồng phạm .................................................................................... 26
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG ĐỊNH TỘI DANH CÁC TỘI PHẠM VỀ
MA TÚY TRONG CÁC TRƯỜNG HỢP ĐỒNG PHẠM TRÊN ĐỊA
BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ................................................................... 31
2.1. Tình hình xét xử các vụ án về ma túy trong trường hợp đồng phạm tại

thành phố Đà Nẵng.......................................................................................... 31
2.2. Thực tiễn định tội danh các tội phạm ma túy trong trường hợp đồng phạm
tại thành phố Đà Nẵng..................................................................................... 34
2.3. Những tồn tại, bất cập, vướng mắc trong định tội danh các tội phạm về
ma túy trong trường hợp đồng phạm và nguyên nhân .................................... 50
CHƯƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ĐỊNH TỘI DANH ĐÚNG
CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TÚY TRONG TRƯỜNG HỢP ĐỒNG PHẠM
......................................................................................................................... 64
3.1. Tăng cường hoàn thiện pháp luật, giải thích pháp luật, tổng kết hướng
dẫn áp dụng thống nhất pháp luật ................................................................... 64
3.2. Nâng cao năng lực chuyên môn, kiến thức pháp luật, bản lĩnh chính trị,
đạo đức nghề nghiệp đối với chức danh Tư pháp, đặc biệt đối với đội ngũ


Thẩm phán, tăng cường đầu tư kinh phí đáp ứng trang bị đầy đủ các trang
thiết bị giám định ma túy. ............................................................................... 71
3.3. Các giải pháp khác bảo đảm định tội danh đúng ..................................... 73
KẾT LUẬN .................................................................................................... 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC VIẾT TẮT
BLTTHS

: Bộ luật tố tụng hình sự

BLHS

: Bộ luật hình sự


LHS

: Luật hình sự

PLHS

: Pháp luật hình sự

TNHS

: Trách nhiệm hình sự

TTHS

: Tố tụng hình sự


DANH MỤC BẢNG
Số hiệu

Tên bảng

bảng

Trang

Số liệu thống kê số vụ và số bị cáo đã xét xử
2.1.

(Sơ thẩm, phúc thẩm) về các tội phạm ma túy

trên địa bàn thành phố Đà Nẵng (2015 -

32

2018)
Mức độ tăng, giảm số vụ án, bị cáo phạm tội
2.2.

về tội phạm ma túy có đồng phạm trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng (giai đoạn 2015 -

32

2018) so với năm 2015 là năm định gốc
Số liệu tương quan (tỉ lệ) qua xét xử tội phạm
về ma túy với số liệu tỉ lệ tương quan về các
2.3.

tội phạm về ma túy trong trường hợp đồng
phạm tại thành phố Đà Nẵng (giai đoạn 2015
- 2018)

33


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, vấn đề ma tuý đã trở thành vấn đề có tính toàn cầu, tất cả các
Quốc gia đều phải đối mặt. Việc sử dụng ma tuý đang ngày càng lan rộng trong xã
hội, ở mọi tầng lớp dân cư, việc sản xuất, buôn bán ma tuý phổ biến khắp nơi trên

thế giới, đã hình thành những tập đoàn buôn bán ma tuý lớn trên phạm vi toàn cầu.
Ma tuý không những huỷ hoại sức khoẻ của nhân loại, mà còn ảnh hưởng xấu đến
nền kinh tế, đe dọa an ninh, trật tự xã hội, đe dọa sự phát triển lành mạnh của con
người và sự ổn định xã hội.
Trước sự gia tăng đáng báo động của tội phạm ma túy Đảng và Nhà nước ta đã
quan tâm chỉ đạo, kiên quyết đấu tranh nhằm ngăn chặn và từng bước đẩy lùi loại
tội phạm và tệ nạn vô cùng nguy hiểm này.

Do nhận thức được tính chất nguy

hiểm cùng những hậu quả to lớn tội phạm về ma túy gây ra, Chính phủ Việt Nam
cũng đã tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế nhằm nâng cao hiệu quả cuộc
đấu tranh bằng việc tham gia ký kết hiệp định song phương và đa phương với nhiều
nước và tổ chức trên thế giới trong công tác đấu tranh phòng, chống và kiểm soát
ma tuý.
Trên tinh thần kế thừa các Bộ luật trước, BLHS Việt Nam hiện quy định các
tội phạm về ma túy từ điều 247 đến điều 259 với khá nhiều điểm sửa đổi, bổ sung
quan trọng thể hiện xu hướng phát triển nhân đạo hóa, phân hóa và quốc tế hóa các
quy định về tội phạm làm tiền đề cho định tội danh đúng, trong đó có định tội danh
trong trường hợp đồng phạm. Tuy nhiên, bởi đồng phạm là trường hợp đặc biệt của
tội phạm, hơn nữa các tội phạm về ma túy có những hành vi đan xen, thường được
thực hiện bởi nhiều người nên việc định tội danh gặp rất nhiều khó khăn. Trong khi
đó định tội danh phải đảm bảo đúng tội, đúng người, đúng pháp luật.
Nghiên cứu thực tiễn định tội danh các tội phạm về ma túy có tính chất đồng
phạm tại thành phố Đà Nẵng trong những năm qua cho thấy bên cạnh những ưu
điểm, còn bộc lộ nhiều hạn chế, chưa được giải quyết, hiệu quả định tội có lúc chưa
cao, còn có nhiều bất cập về lý luận và thực tiễn chưa được giải quyết triệt để bởi

1



nhiều nguyên nhân khác nhau cần thiết phải được nghiên cứu và hoàn thiện.
Từ những nhận thức trên, thấy rằng định tội danh các tội phạm về ma túy
trong trường hợp đồng phạm có ý nghĩa rất lớn trong thực tiễn, bởi lẽ nếu định tội
danh đúng giúp công lý được thực thi nghiêm minh, nếu định tội danh sai sẽ làm
oan người vô tội, thậm chí bỏ lọt tội phạm. Đặc biệt các tội danh ma túy ảnh hưởng
nghiêm trọng đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, liên quan đến tính mạng,
sức khỏe, sinh mạng, danh dự, nhân phẩm con người. Vì vậy quá trình định tội danh
các tội phạm về ma túy đòi hỏi cần phải thận trọng, trung thực, khách quan, toàn
diện có những nghiên cứu giải pháp đồng bộ, hoàn thiện cả về nhận thức, lý luận và
thực tiễn nhằm giúp cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án có cơ sở pháp lý ổn
định để định tội danh đạt kết quả cao hơn, đó cũng là yêu cầu trong chiến lược cải
cách Tư pháp trong tình hình mới. Xuất phát từ thực tế trên, bản thân tôi đã chủ
động nghiên cứu, lựa chọn đề tài “Định tội danh các tội phạm về ma túy trong
trường hợp đồng phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà
Nẵng” làm đề tài nghiên cứu luận văn tốt nghiệp Cao học luật, chuyên ngành luật
hình sự và tố tụng hình sự.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm qua, vấn đề định tội danh nói chung và định tội danh trong
trường hợp đồng phạm đã được nhiều nhà luật học, nhiều chuyên gia trên thế giới đi
sâu tìm hiểu, nghiên cứu, như: Kudrjavxev V.N: Lý luận chung về định tội danh,
Mátxcơva, 1972; GS.TS. Võ Khánh Vinh "Lý luận chung về định tội danh", Nxb
khoa học xã hội, Hà Nội 2013.
PGS.TS. Dương Tuyết Niên: Định tội danh và quyết định hình phạt, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội 2004...
Ngoài những vấn đề lý luận như khái niệm và ý nghĩa của định tội danh, cơ sở
phương pháp luận định tội danh, cơ sở pháp lý của định tội danh, các giai đoạn của
quá trình định tội danh... các công trình nói trên ở những mức độ khác nhau có đề
cập đến định tội danh trong trường hợp đồng phạm. Đặc biệt công trình khoa học
của GS.TS. Võ Khánh Vinh đề cập sâu đến cơ sở của việc định tội danh trong


2


trường hợp đồng phạm, định tội danh hành vi phạm tội được thực hiện bằng đồng
phạm. Những tri thức được thể hiện trong các công trình nghiên cứu nói trên là tiền
đề quan trọng cho học viên thực hiện những vấn đề lý luận về định tội danh các tội
phạm về ma túy trong trường hợp đồng phạm.
Trong thời gian gần đây cũng đã công bố các luận văn thạc sỹ luật học về định
tội danh một nhóm tội hoặc một tội. Chẳn hạn, "Định tội danh tội cướp giật tài sản
theo PLHS Việt Nam từ thực tiễn Quận 1 thành phố Hồ Chí Minh" của Nguyễn
Thủy Chung, Học viện khoa học xã hội, Hà Nội, 2018; "Định tội danh tội giết người
theo PLHS Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Định" của Bùi Kim Châu Nghĩa, Học
viện khoa học xã hội, Hà Nội, 2017; "Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
theo PLHS Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hà Nội" của Nguyễn Duy Hùng, Học
viện khoa học xã hội, Hà Nội, 2017... trong những công trình khoa học này có nội
dung định tội danh trong những trường hợp đồng phạm, nhưng chủ yếu là nêu các
vụ án hình sự rồi phân tích nhận xét nêu phần lý luận thể hiện chưa được nhiều.
Cũng có một số ít luận văn đề cập nghiên cứu định tội danh một nhóm tội
trong trường hợp đồng phạm, chẳn hạn như "Định tội danh trong trường hợp đồng
phạm đối với các tội xâm phạm sở hữu từ thực tiễn tỉnh Hưng Yên" của Nguyễn
Thanh Nga, Học viện khoa học xã hội, Hà Nội, 2017; "Định tội danh các tội phạm
về ma túy trong trường hợp đồng phạm theo PLHS Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Hòa
Bình" của Đoàn Thị Thu, Học viện khoa học xã hội, Hà Nội, 2017...
Ở những mức độ khác nhau, các công trình này đều nghiên cứu khái niệm, cơ
sở pháp lý, các yếu tố tác động đến định tội danh trong trường hợp đồng phạm, song
là đối với các tội phạm khác trên các địa bàn khác. Riêng đối với luận văn Đoàn Thị
Thu nghiên cứu quy định của BLHS năm 1999 về các tội phạm về ma túy và địa
bàn nghiên cứu là tỉnh Hòa Bình. Song những kiến thức của những công trình đó ít
nhiều giúp học viên hoàn thành luận văn này.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý của định tội danh các tội

3


phạm về ma túy để đánh giá thực tiễn định tội danh các tội này trong trường hợp
đồng phạm trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, luận văn đề xuất các giải pháp bảo đảm
định tội danh đúng các tội phạm về ma túy trong trường hợp đồng phạm trong thời
gian tới.
3.2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, tác giả tập trung giải quyết các nhiệm vụ
sau đây:
- Đi sâu phân tích cơ sở lý luận về định tội danh trong trường hợp đồng phạm
như khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa, cơ sở pháp lý của định tội danh và những yếu tố
tác động, ảnh hưởng đến việc định tội danh trong trường hợp đồng phạm.
- Phân tích cơ sở pháp lý của định tội danh các tội phạm về ma túy trong
trường hợp đồng phạm mà cụ thể là các quy định của BLHS năm 2015. Sữa đổi, bổ
sung năm 2017 về các tội này.
- Phân tích, đánh giá thực trạng định tội danh các tội phạm về ma túy trong
trường hợp đồng phạm trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, phân tích chỉ ra những ưu
điểm, tồn tại, hạn chế bất cập và nguyên nhân.
- Trên cơ sở đó rút ra các kết luận và đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm bảo
đảm định tội danh đúng các tội phạm về ma túy trong trường hợp đồng phạm theo
PLHS Việt
Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn lấy các quan điểm khoa học được nêu ra trong lý luận về tội phạm

và lý luận định tội danh; các quy định của BLHS năm 2015 về các tội phạm về ma
túy, thực tiễn định tội danh các tội phạm về ma túy trong trường hợp đồng phạm
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng (giai đoạn 2015 - 2018) để nghiên cứu, phân tích,
tổng hợp những vấn đề có liên quan đến nội dung nghiên cứu của đề tài đặt ra.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Đề tài luận văn được nghiên cứu theo chuyên ngành LHS và TTHS.
- Các số liệu, vụ án hình sự được thu thập từ thực tiễn xét xử hình sự tại thành
4


phố Đà Nẵng từ năm 2015 đến năm 2018.
- Định tội danh được thực hiện bởi nhiều chủ thể, song luận văn chỉ đề cập đến
định tội danh của Tòa án tại thành phố Đà Nẵng.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận là quan điểm của Chủ nghĩa
Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, về đường lối chủ
trương chính sách của Đảng và Nhà nước về bảo vệ quyền con người được Hiến
định tại chương 2 Hiến pháp 2013.
5.2. phương pháp nghiên cứu
Luận văn còn vận dụng, sử dụng các phương pháp như: logic, phân tích, tổng
hợp, thống kê, so sánh, diễn dịch, quy nạp, phân tích án điển hình để nghiên cứu đề
tài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Bởi những kết quả nghiên cứu nhất là giải pháp được luận văn đưa ra trong
quá trình nghiên cứu đề tài, dựa trên cơ sở lý luận và hoạt động thực tiễn của Tòa án
nên chúng sẽ góp phần tích cực vào việc nhận thức sâu hơn về định tội danh các tội
phạm về ma túy trong trường hợp đồng phạm trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Đồng thời kết quả nghiên cứu còn phục vụ, cung cấp những thông tin cần thiết
cho Tòa án và các cơ quan tham gia thực hiện quyền Tư pháp, cho những người làm
công tác pháp luật áp dụng các quy định của BLHS 2015. Sữa đổi, bổ sung năm
2017 trong định tội danh các tội phạm về ma túy trong trường hợp đồng phạm để
tham khảo, nghiên cứu, vạch ra đường lối, chủ trương, chính sách, cũng như triển
khai các biện pháp điều tra, truy tố và xét xử các tội phạm về ma tuý trong trường
hợp đồng phạm ở nước ta.
7. Kết cấu của luận văn
Bố cục của luận văn ngoài phần mở đầu và phần kết luận. Luận văn được cấu

5


trúc, bố cục phân chia gồm 03 chương cụ thể như sau:
Chương 1. Cơ sở lý luận và pháp luật của định tội danh các tội phạm về ma
túy trong trường hợp đồng phạm.
Chương 2. Thực trạng định tội danh các tội phạm về ma túy trong các trường
đồng phạm trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
Chương 3. Các giải pháp bảo đảm định tội danh đúng các tội phạm về ma túy
trong trường hợp đồng phạm.

6


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT CỦA ĐỊNH TỘI DANH CÁC
TỘI PHẠM VỀ MA TÚY TRONG TRƯỜNG HỢP ĐỒNG PHẠM
1.1. Cơ sở lý luận của định tội danh các tội phạm về ma túy trong trường
hợp đồng phạm
1.1.1. Khái niệm các giai đoạn và ý nghĩa của định tội danh các tội phạm về

ma túy trong trường hợp đồng phạm
Trong lý luận hình sự Việt Nam, việc áp dụng các quy phạm PLHS được hiểu
là một quá trình đa dạng và phức tạp được tiến hành qua các giai đoạn nhất định
như: giải thích PLHS, xác định hiệu lực của văn bản pháp luật về không gian và
thời gian, định tội danh, quyết định hình phạt…
Trong đó, định tội danh là một trong những giai đoạn cơ bản, một trong những
nội dung chính của quá trình áp dụng pháp luật. Định tội danh còn là tiền đề, cơ sở
quan trọng trong việc áp dụng LHS, TTHS và các quy phạm PLHS khác.
Theo quan điểm của GS.TS Võ Khánh Vinh "Định tội danh là việc xác định
và ghi nhận về mặt pháp lý sự phù hợp giữa hành vi phạm tội cụ thể đã được thực
hiện với cấu thành tội phạm đã được quy định trong quy phạm pháp luật hình sự"
[31, tr.9-10].
Định tội là hoạt động được thực hiện ở tất cả các giai đoạn của TTHS, từ khi
khởi tố vụ án cho tới khi xét xử sơ thẩm, thậm chí là xét xử phúc thẩm, giám đốc
thẩm.
Từ những phân tích khái quát nêu trên có thể thấy được định tội danh các tội
phạm về ma túy trong trường hợp đồng phạm là việc chủ thể định tội danh xác định
và ghi nhận về mặt pháp lý sự phù hợp giữa hành vi phạm tội ma túy cụ thể được
thực hiện bởi đồng phạm với cấu thành tội phạm về ma túy được thực hiện bởi đồng
phạm đã được ghi nhận trong quy phạm pháp luật hình sự, từ đó kết luận hành vi
phạm tội ma túy cụ thể đó được thực hiện là tội gì ? thuộc trường hợp đồng phạm
hay không phải là đồng phạm làm tiền đề cho việc giải quyết đúng đắn vụ án hình

7


sự về các tội phạm về ma túy.
Tóm lại, định tội danh các tội phạm về ma túy trong trường hợp đồng phạm
được xem là hoạt động áp dụng PLHS được thể hiện trên cơ sở xác định đầy đủ,
chính xác, khách quan những tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội được thực hiện,

đó là những quy phạm PLHS được cụ thể hóa trong cấu thành tội phạm tương ứng
nhằm xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu đặc trưng của một cấu thành tội phạm
nhất định với các tình tiết cụ thể của từng hành vi phạm tội.
1.1.2. Các giai đoạn của định tội danh các tội phạm về ma túy trong trường
hợp đồng phạm
Từ khái niệm định tội danh, có thể xác định việc định tội danh các tội phạm về
ma túy trong trường hợp đồng phạm bao gồm ba quá trình:
Một là, xác định đầy đủ, chính xác, khách quan các tình tiết cụ thể của hành vi
phạm tội về ma túy được thực hiện bằng đồng phạm đã xảy ra trên thực tế. Quá
trình này bao gồm các hoạt động chứng minh và thực hiện các biện pháp tố tụng
khác theo quy định của BLTTHS
Hai là, phải nhận thức đúng đắn các quy định của BLHS về yếu tố đồng phạm,
về cấu thành tội phạm tương ứng của tội phạm ma túy.
Ba là, xác định sự phù hợp giữa hành vi phạm tội cụ thể được thực hiện và cấu
thành tội phạm tương ứng thuộc trường hợp đồng phạm.
Ba quá trình trên được phân tích độc lập với nhau về mặt lý thuyết, nhưng
trong thực tế nó liên quan chặt chẽ với nhau, quan hệ qua lại và hoà quyện với nhau
thành một quá trình thống nhất được đồng thời thực hiện trong cả quá trình định tội
mà không tách rời nhau.
Như vậy, định tội danh các tội về ma túy trong trường hợp đồng phạm xét đến
cùng là hoạt động pháp luật, là giai đoạn của áp dụng PLHS và các pháp luật khác
như pháp luật TTHS, pháp luật về tổ chức điều tra hình sự, luật phòng chống và
kiểm soát ma túy... Trong khi đó, áp dụng pháp luật là một quá trình gồm nhiều giai
đoạn khác nhau, trong đó định tội danh và quyết định hình phạt là các giai đoạn
quan trọng, cơ bản của quá trình đó. Vậy việc định tội bao gồm những nội dung gì

8


là một câu hỏi cần được xác định cụ thể. Các tội phạm về ma tuý là những hành vi

nguy hiểm cho xã hội, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách
cố ý, xâm hại đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà Nước về các chất ma tuý. Việc
thực hiện đồng thời cả ba quá trình trong việc định tội nhằm đi đến những quyết
định sau đây:
Hành vi được thực hiện có cấu thành tội phạm hay không. Hay nói cách khác,
người bị truy cứu TNHS có phạm tội hay không. Trước hết cần xác định tội danh
đối với hành vi phạm tội nhằm xác định xem người bị truy cứu TNHS phạm tội gì,
điều luật nào của BLHS quy định về tội đó.
Thực tế, một hành vi có thể cấu thành một tội phạm nhưng cũng có những
trường hợp một hành vi cũng có thể cấu thành nhiều tội phạm riêng lẽ. Thông
thường nếu có sự tranh chấp về các cấu thành khác nhau về hành vi phạm tội thì chủ
thể định tội danh cần dựa vào mối quan hệ giữa chúng (cái chung, cái riêng và cái
đơn nhất) để xác định cụ thể cấu thành tội phạm nào cho phù hợp nhất với hành vi
phạm tội được thực hiện để xác định tội danh tương ứng cho cụ thể. Nếu đó là quan
hệ giữa cấu thành tội phạm cơ bản cái chung với cấu thành tội phạm tăng nặng hoặc
giảm nhẹ TNHS (cái riêng) thì định tội danh theo cấu thành riêng. Nếu có sự tranh
chấp giữa các cấu thành riêng với nhau tức cấu thành tội phạm cùng có dấu hiệu
tăng nặng (hoặc cùng có dấu hiệu giảm nhẹ) thì xác định tội danh theo cấu thành
nặng nhất (hoặc nhẹ nhất).
Nếu có sự tranh chấp giữa cấu thành riêng với nhau vừa có dấu hiệu tăng nặng
đặc biệt, vừa có dấu hiệu giảm nhẹ đặc biệt thì xác định tội danh theo cấu thành
giảm nhẹ hơn. Thông thường tội phạm do các điều luật tương ứng của phần các tội
phạm và ở phần chung quy định tại Điều 14 BLHS; Điều 15 BLHS và Điều 17
BLHS 2015 (Sữa đổi, bổ sung năm 2017) vv...
Trái lại sau khi xác định tội danh được thực hiện theo điều luật nào của BLHS,
chủ thể định tội tiếp tục xác định cấu thành tội phạm tăng nặng hoặc giảm nhẹ (nếu
có) đối với người phạm tội. Để định tội danh theo cấu thành tội phạm tăng nặng hay
giảm nhẹ, trước hết hành vi của người phạm tội phải thoả mãn các dấu hiệu đặc

9



trưng của cấu thành cơ bản được quy định trong điều luật, rồi mới xác định có cấu
thành tội phạm tăng nặng hoặc giảm nhẹ hay không?
1.1.3. Ý nghĩa của định tội danh các tội phạm về ma túy trong trường hợp
đồng phạm
Định tội danh đúng các tội phạm về ma túy trong trường hợp đồng phạm có ý
nghĩa sâu rộng đến tất cả các mặt của đời sống, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,
đạo đức và pháp lý rất lớn. Thể hiện sự nghiêm minh, công bằng của pháp luật, thể
hiện ý chí của Nhân Dân.
Định tội đúng sẽ loại trừ việc kết án vô căn cứ những người có hành vi không
nguy hiểm cho xã hội, không trái PLHS và tạo tiền đề pháp lý cho việc quyết định
hình phạt công bằng đối với những người phạm tội.
Vì vậy, định tội danh đúng các tội phạm về ma túy trong trường hợp đồng
phạm có ý nghĩa rất lớn về mặt pháp lý, là điều kiện cần thiết và quan trọng của việc
thực hiện chính sách pháp luật của nhà nước trong công tác đấu tranh phòng, chống
tội phạm nói chung, tội phạm ma túy nói riêng nhằm bảo vệ có hiệu quả các lợi ích
của Đảng, của Nhà nước và của Công dân.
Hậu quả của việc định tội danh các tội phạm về ma túy trong trường hợp đồng
phạm rất phức tạp, nhưng hậu quả cơ bản nhất trong số đó là việc áp dụng hình phạt
hoặc những biện pháp tác động khác do luật quy định. Do đó, việc định tội danh ảnh
hưởng rất lớn đến lợi ích xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Trường hợp định tội danh không đúng tác động đến việc quyết định hình phạt
không công bằng đối với người phạm tội, mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến các các
biện khác như áp dụng không có căn cứ hoặc không áp dụng một loạt các hạn chế
pháp lý khác "quyết định hình phạt bổ sung", áp dụng hoặc không áp dụng đặc xá,
miễn TNHS, giảm thời hạn chấp hành hình phạt, tính toán không đúng thời hiệu, án
tích…vi phạm trực tiếp đến lợi ích hợp pháp của người bị kết án, ảnh hưởng đến
quyền con người được hiến định trong Hiến pháp 2013.
Nếu sai lầm khi định tội danh đối với hành vi người phạm tội có lỗi cấu thành

tội phạm nghiêm trọng nhưng vì lý do gì đó đã tác động lại định tội nhẹ hơn so với

10


lỗi người phạm tội. vì vậy khi định tội danh cần phải hết sức thận trọng, khách
quan, đánh giá chứng cứ một cách toàn diện, đầy đủ. Nếu định tội danh sai vi phạm
các nguyên tắc pháp chế, nguyên tắc công bằng trong hoạt động tố tụng cần phải
kiên quyết chống, loại trừ ra khỏi hoạt động Tư pháp.
Định tội danh đúng còn có ý nghĩa làm cơ sở cho việc kết thúc điều tra, truy
tố; là cơ sở để xác định các loại thẩm quyền; áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố
tụng (biện pháp ngăn chặn); áp dụng các thời hạn tố tụng giúp cho các hoạt động tố
tụng được thực hiện đúng đắn, bảo đảm lợi ích công dân.
Từ góc độ thực tiễn, định tội danh đúng các tội phạm về ma túy trong trường
hợp đồng phạm giúp cho việc thống kê, xác định chính xác tình hình tội phạm về
ma túy để trên cơ sở đó đánh giá chính xác tình hình tội phạm nói chung và tình
hình các tội phạm về ma túy nói riêng, từ đó khắc phục những tồn tại nhằm đưa
công tác xét xử đi vào trọng tâm của chiến lược cải cách Tư pháp.
1.2. Cơ sở pháp lý của việc định tội danh các tội phạm về ma túy trong
trường hợp đồng phạm
1.2.1. Các quy phạm PLHS được áp dụng trong khi định tội danh
BLHS 2015 được hiểu gồm hai phần là quy phạm pháp luật phần chung và
quy phạm pháp luật phần riêng. Trong đó phần chung nêu nhiệm vụ, nguyên tắc,
chế định cơ bản của LHS Việt Nam, không nêu dấu hiệu cụ thể của bất kỳ hành vi
phạm tội nào.
Phần các tội phạm nêu mô hình cụ thể của tội phạm và chế tài tương ứng đối
với mỗi tội phạm được quy định đó. Cả hai phần (Phần chung và phần riêng) của
BLHS có mối quan hệ hữu cơ, gắn bó liên hệ mật thiết với nhau, bổ trợ cho nhau
không thể thiếu trong quá trình định tội danh với ý nghĩa là cơ sở pháp lý để truy
cứu TNHS với người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định

trong luật Hình sự.
Việc áp dụng phần các tội phạm cụ thể cần phải dựa trên các nguyên tắc, các
luận điểm chung được quy định ở phần chung của BLHS . Tình tiết đó phải được
cân nhắc khi tiến hành định tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội. Trong hoạt
động Tư pháp, định tội có nghĩa là lựa chọn một quy phạm pháp luật cụ thể mà nó

11


đề cập tới trường hợp cụ thể nào đó. Quy phạm PLHS phần các tội phạm quy định
TNHS đối với mỗi hành vi phạm tội.
Như vậy, khi tiến hành định tội danh đối với mỗi hành vi nguy hiểm cho xã hội
cần phải căn cứ vào cả quy định phần chung và quy định phần các tội phạm của
BLHS, đồng thời phải kết hợp viện dẫn một cách chính xác và đầy đủ điều, khoản,
điểm hay một số điều luật liên quan, bao quát được toàn bộ hành vi nguy hiểm cho
xã hội được nêu trong phần các tội phạm của BLHS.
Khi áp dụng quy phạm pháp luật cần đặc biệt chú ý tới hiệu lực của điều
khoản được viện dẫn về không gian và thời gian. Để định tội danh trước hết, căn cứ
chủ yếu vào BLHS năm 2015 (Sữa đổi, bổ sung năm 2017) các quy phạm pháp luật
hiện tại được áp dụng khi định tội danh các tội phạm về ma túy trong trường hợp
đồng phạm được nhà làm luật quy định cả ở phần chung lẫn cả ở phần các tội phạm
cụ thể của BLHS, trong số đó có thể kể đến: Điều 2 BLHS năm 2015 "cơ sở của
trách nhiệm hình sự"; Điều 3 "nguyên tắc xử lý"; các điều 5, 6 và 7 BLHS năm 2015
về "hiệu lực của BLHS"; Điều 8 "khái niệm tội phạm"; Điều 12 "tuổi chịu trách
nhiệm hình sự"; Điều 14 "chuẩn bị phạm tội"; Điều 15 "phạm tội chưa đạt"; Điều 16
"tự ý nữa chừng chấm dứt việc phạm tội"; Điều 21 "tình trạng không có năng lực
trách nhiệm hình sự"; Điều 27 "thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự"vv...; các điều
luật được quy định tại chương XX BLHS năm 2015.
Việc định tội danh các tội phạm về ma túy trong trường hợp đồng phạm ngoài
các quy định được ghi nhận trong BLHS năm 2015, còn phải kết hợp với các văn

bản hướng dẫn dưới luật như thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTANDTC ngày 24/12/2007, Thông tư liên tịch 08/2015/TTLT-BCA-VKSNDTCTANDTC-BTP ngày 14/11/2015; Các Nghị quyết của Quốc hội; Nghị quyết của Hội
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Nghị định Chính phủ ban hành (kèm theo
danh mục các chất ma túy và tiền chất ma túy).
1.2.2. Cấu thành tội phạm - mô hình pháp lý của định tội danh các tội phạm
về ma túy trong trường hợp đồng phạm
Bản chất của quá trình định tội là quá trình tìm sự giống nhau giữa các dấu
hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được xác định với các dấu hiệu tương ứng
của cấu
12


thành tội phạm do BLHS quy định. Do vậy, cấu thành tội phạm là cơ sở pháp lý của
việc xác định một hành vi nguy hiểm cho xã hội xảy ra trong thực tế là tội phạm, vì
PLHS quy định cấu thành tội phạm mà nhờ đó ta xác định được sự phù hợp của các
dấu hiệu của một hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể được coi là cơ sở thực tế của
việc định tội.
Với ý nghĩa là cơ sở pháp lý của việc định tội danh, xác định tội phạm trước
hết phải thõa mãn yếu tố khách thể theo điều 8 BLHS năm 2015. Theo đó điều luật
quy định, liệt kê tất cả các hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong
BLHS ...; đồng thời xác định tội phạm là một thể thống nhất gồm bốn yếu tố: khách
thể, mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan của tội phạm. Các yếu tố này quan hệ
chặt chẽ với nhau, thế nhưng mỗi yếu tố lại có ý nghĩa riêng và có thể tách ra
nghiên cứu một cách độc lập tương đối trong mối quan hệ với các yếu tố khác. Vì
vậy, trong khoa học pháp lý hình sự khi nghiên cứu quá trình định tội danh người ta
tách riêng xem xét việc định tội danh theo từng nhóm dấu hiệu nêu trên của tội
phạm.
Theo truyền thống, việc định tội danh các tội phạm về ma túy trong trường
hợp đồng phạm được tiến hành theo các nhóm yếu tố đặc trưng của cấu thành tội
phạm cụ thể. Định tội danh theo các nhóm yếu tố khách quan của tội phạm (khách
thể và mặt khách quan) và định tội theo các nhóm yếu tố chủ quan của tội phạm

(chủ thể và mặt chủ quan).
Cấu thành tội phạm được quy định trong BLHS là cơ sở pháp lý duy nhất của
việc định tội. Khi định tội danh, chủ thể chỉ việc lấy các quy định của BLHS làm
căn cứ duy nhất để so sánh với hành vi phạm tội đã được thực hiện trên thực tế.
Xét khía cạnh các tội phạm về ma túy thì so với các loại tội phạm khác được
quy định trong BLHS năm 2015, tội phạm ma túy là loại tội phạm phát sinh muộn
hơn so với một số tội phạm khác. Nhưng tội phạm ma túy, lại phát triển nhanh cả về
số lượng và quy mô cũng như tính chất và mức độ nguy hiểm cao cho xã hội, không
những gây ra những thiệt hại to lớn cho lợi ích của nhà nước và xã hội, của công
dân mà còn làm băng hoại đạo đức, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức

13


khỏe của con người, ảnh hưởng tới việc phát triển giống nòi, gây mất trật tự an
ninh, an toàn xã hội.
Như vậy, tội phạm ma túy được hiểu đó là những hành vi nguy hiểm cho xã
hội, do người có năng lực TNHS, đủ tuổi chịu TNHS theo quy định của BLHS, thực
hiện có lỗi, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý, sử dụng các chất ma túy của
Nhà nước, từ đó gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của xã hội và của công dân,
gây mất trật tự an toàn xã hội.
Khi nói đến tội phạm bao giờ cũng là một thể thống nhất gồm bốn yếu tố:
khách thể, mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan. Các yếu tố này quan hệ chặt chẽ
với nhau, thế nhưng mỗi yếu tố lại có ý nghĩa riêng và có thể tách ra nghiên cứu
một cách độc lập tương đối trong mối quan hệ với các yếu tố khác. Vì vậy, trong
khoa học pháp lý hình sự khi nghiên cứu quá trình định tội danh người ta tách riêng
xem xét việc định tội danh theo từng nhóm dấu hiệu nêu trên của tội phạm, xem xét
các dấu hiệu tương ứng đã được mô tả trong cấu thành tội phạm tại phần các tội
phạm cụ thể tại chương XX của BLHS 2015.
Căn cứ vào các nhóm quan hệ xã hội khác nhau được LHS bảo vệ. BLHS đã

phân tội phạm thành các nhóm, quy định tại các chương của BLHS với các cấu
thành tội phạm cụ thể. Trong đó cấu thành tội phạm của các tội phạm về ma túy
cũng có những đặc điểm chung như các tội phạm khác được quy định như sau:
* Khách thể của các tội phạm về ma tuý
Ma túy là loại độc dược gây nghiện cho người sử dụng các chất ma túy. Con
người chỉ cần sử dụng một vài lần chất ma túy hoặc chất hướng thần sẽ bị mắc
nghiện, có nhu cầu đòi hỏi thường xuyên với liều lượng ngày một nhiều hơn, nếu
không có biện pháp quản lý triệt để sẽ tác động, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình
hình an ninh, trật tự và ma túy được xem là cội nguồn của các tội phạm khác. Chính
vì vậy, Nhà nước cần phải độc quyền quản lý, nghiêm cấm việc trồng cây thuốc
phiện hoặc các loại cây khác có chứa chất ma túy. Nghiêm cấm các hoạt động sản
xuất, tàng trữ, mua bán, vận chuyển, chiếm đoạt các chất ma túy, cũng như các tiền
chất ma túy dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy. Điều 8 BLHS 2015 quy

14


định cụ thể chi tiết về khách thể chung của tội phạm được LHS Việt Nam bảo vệ.
Do vậy, khách thể tội phạm ma túy được hiểu đó là đã xâm phạm tới chính
sách chế độ độc quyền quản lý, sử dụng của Nhà nước về ma túy, về hành vi đã
phạm vào các điều quy định tại chương XX BLHS 2015 đó là các chất ma túy, tiền
chất ma túy và các vật dụng phục vụ sản xuất, vận chuyển, tiêu thụ và việc sử dụng
trái phép chất ma túy. Hiện chúng ta xác định các chất ma túy, các chất hướng thần
và các tiền chất ma túy dựa trên cơ sở tham khảo các bảng quy định về các chất ma
túy và các chất hướng thần chủ yếu theo quy định BLHS và danh mục các chất ma
túy, tiền chất ma túy do Chính phủ ban hành.
Đối tượng tác động của tội phạm là các chất ma túy như thuốc phiện; lá, rễ,
thân, cây, cành, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca ; Hêrôin ; côcain ;
Methamphetamine ; Amphetamine ; MDMA ... và các tiền chất để sản xuất ra
chất ma tuý (quy định BLHS, danh mục về chất ma túy và tiền chất ma túy tại

NĐ/82/2013/ NĐ-CP ngày
19/7/2013; NĐ126/2015/NĐ-CP ngày 09/12/2015 và mới đây chính phủ ban hành
Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 sữa đổi, bổ sung một số quy định các
chất ma túy và tiền chất ma túy). Theo quy định của BLHS 2015 thì thấy hầu hết
các tội phạm về ma túy đều được quy định là những tội có cấu thành hình thức. Hậu
quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Tội phạm được coi là
hoàn thành từ thời điểm người phạm tội đã thực hiện hành vi khách quan.
* Mặt khách quan của các tội phạm về ma tuý
Hành vi khách quan của các tội phạm về ma túy. Đó là những hành vi thực
hiện những điều mà Nhà nước cấm các cá nhân làm hoặc có thể là những hành vi
của những người có trách nhiệm được Nhà nước giao đã không thực hiện, thực hiện
không đầy đủ hoặc làm những việc ngoài phạm vi những quy định về quản lý, sử
dụng chất ma túy. Tùy thuộc vào từng tội danh cụ thể được quy định tại chương XX
BLHS năm 2015 mà đó có thể là hành vi trồng cây thuốc phiện, cây cô ca, cây cần
sa hoặc các loại cây khác có chứa chất ma túy; sản xuất trái phép chất ma túy; tàng
trữ trái phép chất ma túy, mua bán trái phép chất ma túy, chiếm đoạt chất ma túy;
tàng trữ, vận chuyển mua bán hoặc chiếm đoạt chất ma túy dùng vào việc sản xuất
15


trái phép chất ma túy; sản xuất, tàng trữ vận chuyển hoặc mua bán phương tiện,
dụng cụ dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma túy vv... Tất cả các
dạng hành vi nguy hiểm cho xã hội nêu trên được thực hiện bằng hành động, tức
người phạm tội làm một việc mà pháp luật hình sự cấm làm. Một số tội phạm về ma
túy có cấu thành vật chất, tức người phạm tội chỉ cần thực hiện hành vi mô tả trong
cấu thành tội phạm cơ bản là tội đã hoàn thành và đã có tội.
Cần lưu ý rằng, đối với các tội phạm về ma túy có cấu thành vật chất, khi
không có dấu hiệu hậu quả thể hiện ở số lượng gam chất ma túy, số lượng cây có
chứa chất ma túy, tiền chất ma túy ở thể lỏng hoặc thể rắn vv..., thì vẫn cấu thành
tội phạm nếu có một trong các dấu hiệu định tội khác như đã bị xử phạt hành chính

về hành vi đó hoặc đã bị kết án nhưng chưa xóa án tích... Ngoài cấu thành tội phạm
cơ bản, nhà làm luật còn xây dựng các cấu thành tội phạm tương ứng.
* Chủ thể của các tội phạm về ma túy
Chủ thể của các tội phạm về ma túy là các cá nhân. Năng lực TNHS của người
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội thể hiện ở việc người đó có khả năng nhận
thức hoặc điều khiển hành vi.
Người có năng lực TNHS là người có một trong hai yếu tố trên. Như vậy thiếu
một trong hai yếu tố thì người thực hiện hành vi nguy hiểm vẫn phải chịu TNHS.
Các tội phạm ma túy thì chỉ có tội trồng cây thuốc phiện, cây côca, cây cần sa
hoặc các loại cây khác có chứa chất ma túy (Điều 247) thuộc loại tội phạm nghiêm
trọng, về độ tuổi theo quy định tại Điều 12 BLHS về tuổi chịu TNHS, thì chủ thể
của hai tội phạm này chỉ có thể là người từ đủ 16 tuổi trở lên. Còn 12 điều luật quy
định các tội phạm về ma túy còn lại đều là các tội phạm rất nghiêm trọng và đặc biệt
nghiêm trọng, do vậy nếu người phạm tội bị truy tố theo khoản 2 của các tội này thì
chủ thể của tội phạm có thể là những người có từ đủ 14 tuổi trở lên. Theo quy định
tại Điều 12 BLHS 2015, trong nhóm các tội phạm về ma túy thì người từ đủ 14 trở
lên nhưng chưa đủ 18 tuổi chỉ phải chịu TNHS đối với các tội danh sau: tội sản xuất
trái phép chất ma túy (Điều 248); tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Điều 249); tội
vận chuyển trái phép chất ma túy (Điều 250); tội mua bán trái phép chất ma túy

16


(Điều 251); tội chiếm đoạt chất ma túy (Điều 252). Riêng Điều 259 quy định "tội vi
phạm quy định về quản lý chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng
thần" thì chủ thể của tội phạm còn có dấu hiệu quy định là người có trách nhiệm
trong công tác này (chủ thể đặc biệt).
* Mặt chủ quan của các tội phạm về ma túy
Nội dung của mặt chủ quan của tội phạm thể hiện quan hệ tâm lý của bị cáo
đối với hành vi nguy hiểm và hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà y thực

hiện. Tùy thuộc vào tội phạm cụ thể mà Mặt chủ quan của các tội phạm về ma túy
có lỗi (cố ý hoặc vô ý), động cơ và mục đích phạm tội. Phản ánh mối liên hệ giữa ý
thức và ý chí của người phạm tội với hành vi nguy hiểm cho xã hội mà người đó
thực hiện. Hình thức lỗi cố ý hay vô ý là sự kết hợp giữa nhận thức và ý chí đối với
hành vi phạm tội và hậu quả của tội phạm. Khi định tội danh theo mặt chủ quan cần
xác định nội dung yếu tố lý trí và ý chí đối với loại hành vi phạm tội cụ thể.
Khi xây dựng cấu thành tội phạm loại này hay loại khác, người làm luật đưa
vào trong nội dung mặt chủ quan của tội phạm quan hệ tâm lý của bị cáo đối với tất
cả các tình tiết thực tế mà những tình tiết ấy cũng được người làm luật nêu trong nội
dung của khách thể và mặt khách quan của tội phạm. Khi định tội danh nếu có sự
trùng hợp giữa các tình tiết thực tế của hành vi nguy hiểm cho xã hội với các dấu
hiệu nói về mặt chủ quan của tội phạm thì không được định tội danh hành vi đó như
một tội phạm thuộc dạng trên.
Tất cả những gì được nêu trong cơ cấu của khách thể và mặt khách quan tội
phạm cần được phản ánh trong nội dung chủ quan của tội phạm. Mặt chủ quan của
tội phạm được xác định thông qua yếu tố khách quan.
Mỗi một loại hành vi đều thông qua động cơ hoặc mục đích nào đó của con
người quyết định. Đây là những dấu hiệu bắt buộc nằm trong nội dung của mặt chủ
quan của tội phạm.
Động cơ, mục đích có ý nghĩa pháp lý khác nhau trong định tội. Đó có thể là
dấu hiệu của tội phạm; cũng có thể chỉ là dấu hiệu định khung hay có ý nghĩa quyết
định hình phạt. Riêng các tội phạm về ma túy đa số đều phạm tội theo lỗi cố ý trực

17


tiếp. Riêng người phạm tội vào các tội quy định tại Điều 256 và điều 259 BLHS
2015 có thể là lỗi cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp.
Các tội phạm về ma túy là nhóm tội phạm có tính nguy hiểm cao, là những tội
phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng, do

vậy ngoài cấu thành tội phạm cơ bản, nhà làm luật còn quy định các cấu thành tội
phạm tăng nặng, tức những cấu thành tội phạm mà trong đó có những tình tiết trên
hoặc thuộc về hành vi hoặc thuộc về nhân thân người thực hiện hành vi làm cho
mức đọ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội cao hơn cần xử lý nghiêm khắc
hơn. Chính vì vậy, trong 13 điều luật quy định các tội về ma túy thì có ba điều luật
có quy định mức hành phạt cao nhất là chung thân hoặc tử hình (Điều 248, 250,
251), sáu điều luật quy định mức hình phạt cao nhất là từ hai mươi năm tới tù chung
thân (Điều 249,252, 253, 255, 257, 258), một điều luật có mức hình phạt quy định
cao nhất là đến mười lăm năm (Điều 256), hai điều luật có mức còn lại có mức hình
phạt cao nhất là 15 năm (Điều 254, 259), một điều luật quy định hình phạt thuộc
trường hợp nghiêm trọng hình phạt cao nhất tới 07 năm. Bên cạnh những hình phạt
chính rất nghiêm khắc, đối với các tội phạm về ma túy, BLHS còn quy định hình
phạt bổ sung như phạt tiền với mức thấp nhất là năm triệu đồng và cao nhất là tới
500 triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, bị cấm đảm nhiệm những
chức vụ, cấm hành nghề hoặc công việc nhất định từ một năm đến năm năm, phạt
quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm. So với BLHS năm 1985 thì
hình phạt bổ sung đối với các tội phạm về ma túy là bắt buộc song theo quy định
của BLHS năm 1999 và BLHS 2015 thì hình phạt bổ sung được quy định không
phải là bắt buộc, mà có thể áp dụng hoặc không áp dụng tuỳ theo từng trường hợp
cụ thể.
1.2.3. Các dấu hiệu của đồng phạm theo BLHS Việt Nam năm 2015
Điều 17 BLHS 2015 quy định đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên
cố ý cùng thực hiện tội phạm. Cũng như các tội phạm khác thì để xác định đồng
phạm ở các tội phạm về ma túy, thì cũng áp dụng tương tự cần căn cứ vào các dấu
hiệu khách quan cũng như mặt chủ quan của tội phạm.

18



×