Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

Đương nhiên xoá án tích theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn tại thành phố hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (847.46 KB, 94 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN ĐÌNH KỲ

ĐƯƠNG NHIÊN XÓA ÁN TÍCH THEO PHÁP
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
TẠI THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Hà Nội, 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN ĐÌNH KỲ

ĐƯƠNG NHIÊN XÓA ÁN TÍCH THEO PHÁP
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
TẠI THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN TRÍ TUỆ



Hà Nội, 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Đương nhiên
xoá án tích theo pháp luật hình sự Việt Nam từ
thực tiễn tại thành phố Hải Phòng” là công trình
nghiên cứu của bản thân tôi. Các số liệu, kết quả
nghiên cứu trình bày trong luận văn là trung thực,
được trích dẫn từ các nguồn công khai, hợp pháp,
không sao chép từ bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Đình Kỳ


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU……………………………………………………………………..1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ XOÁ ÁN TÍCH
VÀ ĐƯƠNG NHIÊN XOÁ ÁN TÍCH....................................................... 7
1.1 Khái niệm án tích và xoá án tích ...........................................................
7
1.2 Khái niệm đương nhiên xoá án tích ..................................................... 14
1.3 Ý nghĩa của đương nhiên xoá án tích.................................................. 15
1.4 Đương nhiên xoá án tích theo pháp luật Hình sự của một số nước ....
17
1.5 Sơ lược quy định của pháp luật Hình sự về đương nhiên xoá án tích 20
Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ

ĐƯƠNG NHIÊN XÓA ÁN TÍCH TẠI THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG ..... 38
2.1 Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật hiện hành về đương nhiên xoá án
tích tại Thành phố Hải Phòng ..................................................................... 38
2.2 Những khó khăn vướng mắc và nguyên nhân của những khó khăn,
vướng mắc đó trong thực hiện chế định đương nhiên xoá án tích tại thành
phố Hải Phòng ............................................................................................. 43
Chương 3: KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT VÀ THỰC HIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ ĐƯƠNG
NHIÊN XOÁ ÁN TÍCH TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG 51
3.1 Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về đương
nhiên xóa án tích ......................................................................................... 51
3.2. Một số kiến nghị thực hiện quy định của pháp luật về đương nhiên xóa
án tích tại Thành phố Hải Phòng................................................................. 55
KẾT LUẬN…………………………………………………………………67
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………69


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt

Chữ viết đầy đủ

HĐND

Hội đồng nhân dân

LLTP

Lý lịch tư pháp


NĐ – CP

Nghị định của Chính phủ

STP

Sở Tư pháp BLHS

Bộ Luật hình sự BLTTHS

Bộ Luật

Tố tụng hình sự
Thông tư liên tịch Bộ Tư pháp TTLT - BTP - TANDTC -

Tòa án nhân dân Tối cao -

VKSNDTC - BCA - BQP

Viện kiểm sát nhân dân tối cao Bộ Công an - Bộ Quốc phòng

TTLT-BTP-BCA
UBND

Thông tư liên tịch Bộ Tư pháp Bộ Công an
Ủy ban nhân dân


DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Số hiệu


Tên biểu đồ

biểu đồ
2.1

Kết quả xử lý vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Hải
Phòng từ 2014-2018

Trang
38

Tỷ lệ số người được đương nhiên xoá án tích so với số người
2.2

được xoá án tích trên địa bàn thành phố Hải Phòng giai đoạn

40

2014-2018
2.3

Nguyên nhân người bị kết án không tiến hành các thủ tục
đương nhiên được xoá án tích

41


MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình cải cách tư pháp của giai đoạn xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, xoá án tích là một trong những
chế định pháp luật quan trọng bởi nhiều nguyên nhân. Thứ nhất là có một số
quy định về chế định xoá án tích trong luật hình sự hiện hành còn bộc lộ
những
hạn chế nhất định, chưa đáp ứng được những yêu cầu của việc xây dựng xã
hội công bằng, dân chủ. Thứ hai là sự phát triển của các lĩnh vực chính trị - xã
hội. Trong quá trình hội nhập quốc tế, vấn đề xoá án tích nói riêng và các quy
định của luật hình sự cũng luôn phải vận động và phát triển để đáp ứng những
yếu cầu của xã hội. Việc nghiên cứu về xoá án tích còn để tìm ra những nhận
thức thống nhất, tránh gây khó khăn trong việc áp dụng các quy định của pháp
luật trên thực tiễn. Bởi người được xoá án tích thì sẽ được coi như chưa bị kết
án và sẽ không bị coi là có tiền án, nếu phạm tội lần tiếp theo sẽ không tính để
xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm. Như vậy, nó sẽ giúp cho những người
đã từng lầm lỡ có cơ hội làm lại cuộc đời, giảm bớt mặc cảm, bởi quá khứ tội
lỗi của mình và không bị cộng đồng phân biệt đối xử.
Mặc dù có tầm quan trọng là như vậy nhưng những vấn đề liên quan đến
chế định xoá án tích vẫn chưa được các tác giả trong và ngoài nước quan tâm
đúng mực trong thời gian qua. Việc nghiên cứu một cách hệ thống những vấn
đề lý luận và thực tiễn áp dụng các chế định xoá án tích từ đó đề ra các giải
pháp để hoàn thiện hơn nữa Bộ luật Hình sự Việt Nam, giải quyết các vướng
mắc trong quá trình áp dụng luật trên thực tiễn là cần thiết, đáp ứng yêu cầu
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Chính vì vậy tác giả lựa chọn đề tài: “Đương nhiên xoá án tích theo
pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tại thành phố Hải Phòng” làm đề tài
nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ của mình.

1



2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Như đã đề cập ở trên, các chế định pháp luật về xoá án tích rất quan trọng
nhưng cũng rất phức tạp, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu, tìm hiểu, tuy nhiên,
trong khoa học Luật Hình sự, vấn đề này chưa được quan tâm đúng mức.
Xoá án tích chỉ được đề cập một cách chính thức trong Bộ luật hình sự
năm 1985 và được hoàn thiện trong Bộ luật Hình sự năm 1999 bằng việc quy
định chế định xoá án tích, còn trước đó, nó chưa được quy định quy định trong
bất kì văn bản nào. Chính vì vậy, các nhà khoa học đầu tư nghiên cứu chế định
này còn hạn chế. Sau khi được quy định chính thức, nhiều nhà khoa học đã bắt
đầu bắt tay vào nghiên cứu dù ở cấp độ không cao. Các nghiên cứu này chỉ
dừng lại ở các công trình nghiên cứu chung về chế độ xoá án tích hoặc một
phần đề cập đến nhận thức hoặc phân biệt án tích, xoá án tích.
- Các đề tài nghiên cứu được phát hành thành giáo trình, sách chuyên
khảo:
“ Những vấn đề cơ bản trong khoa học Luật Hình sự” ( phần chung) của
tác gia Lê Cảm, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005;
“ Xoá án – mô hình lý luận về Bộ luật Hình sự Việt Nam” của tác giải
Phạm Hồng Hải, NXB Khoa học và xã hội Hà Nội, 1993;
“Xoá án tích” của tác giả Trần Đình Nhã,
Ngoài ra còn được đề cập trong giáo trình Luật Hình sự của các trường
Đại học Luật Hà Nội, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, khoa Luật – Đại
học Quốc gia Hà Nội,… hay các cuốn Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự
Việt Nam của Viện khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp.
- Các đề tài nghiên cứu là luận văn, luận án bao gồm: “Chế định xoá án
tích trong Bộ luật Hình sự Việt Nam 1999” của Nguyễn Thị Minh Hương (
khoá luận tốt nghiệp cử nhân Luật 2001); “Chế định xoá án tích trong Luật
hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Lan (khoá luận tốt nghiệp cử nhân
Luật năm
2003); “Miễn chấp hành hình phạt và xoá án tích trong Luật Hình sự Việt

2


Nam” của Tô Thanh Phong (2014). Ngoài ra còn có luận văn thạc sỹ của
Nguyễn Xuân Hiệp “Chế định xoá án tích trong Luật Hình sự Việt Nam”.
- Các bài viết đăng trên báo, tạp chí: “Án tích theo Bộ luật Hình sự 1999”
của tác giả Hồ Sỹ Sơn (2001),….
- Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) ra đời cùng với
tác phẩm Bình luận khoa học Bộ luật hình sự 2015 của Nguyễn Ngọc Hoà,
Đinh Văn Quế,… cũng đã đưa ra những quan điểm riêng về chế định đương
nhiên xoá án tích.
Các đề tài nghiên cứu hạn chế cùng với các quan điểm, cách thức giải
quyết vấn đề khác nhau đã chưa thực sự đem lại kết quả tốt nhất mà các nhà
nghiên cứu mong muốn về chế định xoá án tích. Những bất cập, chưa phù hợp
với thực tiễn, … khiến cho việc áp dụng chưa thống nhất, còn nhiều khó khăn
sẽ là cơ sở để các nhà khoa học tiếp tục tiến hành nghiên cứu để tìm ra pháp
pháp thay đổi hữu hiệu nhất.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Trong luận văn của mình, tác giả tập trung tập trung nghiên cứu các vấn
đề lí luận, các quy định của pháp luật về đương nhiên xoá án tích và thực tiễn
áp dụng các quy định về xoá án tích trong Luật Hình sự Việt Nam. Đồng thời,
luận văn cũng sẽ chỉ ra những bất cập, tồn tại, những vướng mắc trong quá
trình áp dụng các quy định luật vào thực tiễn từ đó đề xuất ra các giải pháp
nâng cao hiệu quả thực hiện nhằm phục vụ công tác đấu tranh và chống tội
phạm, bảo vệ chế độ, bảo vệ quyền con người.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn làm rõ cơ sở lý luận chung của xoá án tích và đương nhiên xoá
án tích, khái quát quá trình hình thành và phát triển của chế định này trong
lịch sử lập pháp Việt Nam.


3


Những những vấn đề lý luận chung đó, luận văn đi vào nghiên cứu việc
áp dụng các quy định đương nhiên xoá án tích của Bộ luật hình sự Việt Nam.
Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề bất cập, tồn tại, vướng mắc trong quá trình
áp dụng trên thực tiễn và từ đó đề xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn
thiện chế định đương nhiên xoá án tích để tạo ra sự đồng bộ trong việc áp
dụng để đảm bảo hiệu quả và tính thống nhất cao.
4. Đối tûơng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về đương nhiên xoá án tích – một khía cạnh của chế
định xoá án tích, cụ thể là nghiên cứu các vấn đề: khái niệm án tích, xoá án
tích, đương nhiên xoá án tích, điểu kiện đương nhiên xoá án tích, thủ tục
đương nhiên xoá án tích,… Tuy nhiên, để luận văn được sâu sắc, cũng cần
phải nghiên cứu các vấn đề liên quan khác của Luật Hình sự và Luật tố tụng
Hình sự như: quyết định hình phạt, hình phạt, thời giạn thi hành hình phạt,
miễn trách nhiệm hình sự,… nhằm làm rõ hơn chế định xoá án tích theo Luật
Hình sự Việt Nam.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về đương nhiên xoá án tích theo Bộ luật Hình sự
Việt Nam hiện hành. Đồng thời cũng đề cập đến các quy định của Bộ luật Tố
tụng Hình sự, Luật Thi hành án Hình sự, Luật Lý lịch tư pháp, nhằm giải
quyết đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu.
Luận văn còn nghiên cứu các thực tiễn áp dụng các quy định của pháp
luật
Hình sự Việt Nam về đương nhiên xoá án tích.
5. Cô sở lý luận và phûông pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận mà tác giả vận dụng để nghiên cứu là chủ nghĩa duy vật

biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử theo quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin, kết hợp với tư tưởng Hồ Chí Minh và các chính sách của Đảng và nhà
nước về tội phạm, về án tích và vấn đề xoá án tích. Bên cạnh đó, các thành tựu
về triết học,
4


lịch sử, các học thuyết chính trị - pháp lý của các nhà nghiên cứu đi trước cũng
là những cơ sở lý luận quan trọng giúp tác giả có cơ sở đi sâu vào nghiên cứu.
Trong quá trình nghiên cứu luận văn, tác giả sử dụng rất nhiều các
phương pháp cả những phương pháp cụ thể và phương pháp đặc thù của khoa
học Luật Hình sự như phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, hệ thống,
đối chiếu, phương pháp điều tra, thống kê xã hội học... Để tổng hợp được tất
cả các kiến thức khoa học Luật Hình sự phục vụ nghiên cứu luận văn. Việc
vận dụng nhiều phương pháp nghiên cứu kết hợp với việc tham khảo, lấy ý
kiến của các vị chuyên gia, các nhà nghiên cứu khác về lĩnh vực liên quan
cũng đóng góp không nhỏ vào thành công của bài luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Luận văn với những vấn đề lí luận và thực tiễn có ý nghĩa quan trọng:
6.1. Ý nghĩa lí luận của đề tài:
Luận văn là một công trình khoa học có hệ thống, là một tài liệu tham
khảo thiết thực và bổ ích cho các bạn sinh viên, học viên, các bạn nghiên cứu
sinh tại các cơ sở đào tạo luật không chỉ trong lĩnh vực Tư pháp hình sự mà
còn hướng tới trở thành một tài liệu thiết thực và toàn diện cho các nhà nghiên
cứu, các nhà lập pháp,…
Kết quả của đề tài sẽ là một nguồn kiến thức bổ ích phục vụ cho việc
trang bị những kiến thức chuyên sâu cho các cán bộ trong quá trình công tác
tại cơ quan điều tra, viện kiểm sát, toà án nhân dân hay các cơ quan thi hành
án, các quan nhà nước có thẩm quyền… về các vấn đề án tích và xoá án tích
trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự đảm bảo khách quan và chính xác.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài:
- Luận văn với những nội dung cơ bản về chế định xoá án tích góp phần
xác định đúng đắn các căn cứ, điều kiện, thủ tục của việc áp dụng các chế định
xoá án tích đối với những người đã bị kết án, những người đã thi hành bản án

5


hoặc hết thời hạn thi hành bản án để họ có thể bớt mặc cảm, tránh bị xã hội xa
lánh và có cơ hội làm lại cuộc đời.
- Luận văn sẽ đưa ra những đề xuất, định hướng và giải pháp tổng thể để
hoàn thiện các quy định của pháp luật về xoá án tích trong Bộ luật Hình sự nói
chung đồng thời tạo ra sự thống nhất và hiệu quả trong việc áp dụng các quy
định pháp luật này phù hợp với yêu cầu của cuộc cải cách tư pháp và xã dựng
nhà nước pháp quyền theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
- Kết quả từ những phân tích của luận văn sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong hoạt động truy cứu trách nhiệm
hình sự, góp phần nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng chống tội
phạm ở nước ta.
7. Kết cấu của luận vân
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận vân gồm 3 chûông:
Chûông 1: Một số vấn đề lý luận chung về xoá án tích và đương
nhiên xoá án tích.
Chûông 2: Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về đương nhiên xoá
án tích tại Thành phố Hải Phòng
Chûông 3: Kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật và thực
hiện quy định của pháp luật về đương nhiên xoá án tích trên địa bàn thành
phố Hải Phòng.


6


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ XOÁ ÁN TÍCH
VÀ ĐƯƠNG NHIÊN XOÁ ÁN TÍCH
1.1 Khái niệm án tích và xoá án tích
1.1.1 Khái niệm án tích
Trong khoa học Luật hình sự Việt Nam có rất nhiều quan điểm về khái
niệm án tích:
PSG.TS Phạm Hồng Hải cho rằng: “Án tích là hậu quả pháp lý của bản
án kết tội mà Toà án tuyên đối với người phạm tội, là một tình tiết có ý nghĩa
pháp lý trong việc đánh giá tính chất nguy hiểm của tội phạm và của người
phạm tội khi tội phạm được thực hiện trong thời gian người ấy mang án
tích”[24].
ThS. Hồ Sỹ Sơn cũng đưa ra quan điểm: “Án tích là vết tích đã từng bị
kết án của người phạm tội; xuất hiện khi người đó đã chấp hành xong hình
phạt và được xoá án để trở thành người chưa bị kết án khi người này đáp ứng
được những điều kiện mà Bộ luật Hình sự quy định hoặc tồn tại một khi người
đã bị kết án dù đã chấp hành xong hình phạt nhưng chưa đáp ứng được
những điều kiện được quy định trong Bộ luật hình sự và người đó còn phải
chịu tình tiết định khung tăng nặng hình phạt nếu tội phạm trong thời gian
mang vớt tích đã từng bị kết án hoặc phải chịu trách nhiệm hình sự về những
hành vi vi phạm pháp luật mà theo quy định của Bộ luật Hình sự, vết tích đã
từng bị kết án là yếu tố điều kiện cấu thành tội phạm” [42].
Luật gia Nguyễn Thị Lan: “Án tích là một dấu ấn cho thấy, người có án
tích đã từng bị kết án vì đã phạm tội” [32].
PGS. TSKH Lê Cảm: “Án tích là hậu quả pháp lý của việc người bị kết
án bị áp dụng hình phạt theo bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của Toà án
và là giai đoạn cuối cùng của việc thực hiện trách nhiệm hình sự, thể hiện

trong
7


việc người bị kết án mặc dù đã chấp hành xong bản án (bao gồm hình phạt
chính, hình phạt bổ sung và các quyết định khác của Toà) nhưng vẫn chưa hết
án tích hoặc chưa được xoá án tính theo quy định của pháp luật hình sự”
[11].
Các quan điểm của các nhà nghiên cứu nêu trên đã phần nào thể hiện
được những nội dung cơ bản của án tích. Tuy nhiên, trên thực tế không phải
mỗi bản án kết tội của Toà án đều làm phát sinh án tích như trường hợp miễn
trách nhiệm hình sự bởi đã miễn trách nhiệm hình sự không làm phát sinh án
tích. Án tích cũng không phải là việc thực hiện trách nhiệm hình sự hoặc việc
kết án cũng không phải là dấu hiệu chung nhất của việc người phạm tội được
xoá án tích.
Mặc dù tồn tại nhiều quan điểm khác nhau, tuy nhiên, tác giả thấy rằng
để có thể hiểu được bản chất của vấn đề này, chúng ta cần đưa ra được những
bản chất pháp lý, nội dung cũng như giới hạn của án tích.
Về bản chất pháp lý: Án tích là hậu quả pháp lý của việc phạm tội, là một
trong những sự thể hiện của trách nhiệm hình sự.
Về điều kiện: Án tích chỉ xuất hiện khi có đầy đủ các điều kiện sau:
- Có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Toà án;
- Người bị kết án bị áp dụng hình phạt;
Chỉ khi đáp ứng đầy đủ và đồng thời hai điều kiện nêu trên thì mới có án
tích. Về giới hạn của án tích: Án tích chỉ tồn tại trong khoảng thời gian
từ khi
bản án kết tội của Toà án có hiệu lực pháp luật đến khi được xoá bỏ (đương
nhiên được xoá án tích hay xoá án tích theo quyết định của Toà án).
Từ những phân tích trên, tác giả mạnh dạn đưa ra định nghĩa: “Án tích là
là hậu quả pháp lý của việc phạm tội mà người bị kết án phải chịu hình phạt

theo bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật, gánh chịu trong thời gian nhất định
kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật đến khi hậu quả pháp lý của nó bị xoá bỏ
theo quy định của pháp luật”.
8


- Đặc điểm của án tích
Về đối tượng: Án tính tồn tại đối với người bị kết án bằng bản án buộc
tội của Toà án. Án tích là một đặc điểm nhân thân gắn liền với người đã từng
phạm tội và bị kết án. Do đó, không có tội phạm thì không có án tích, chỉ có
người phạm tội mới phải mang án tích.
Về phạm vi: Không phải bất cứ người phạm tội bị kết án nào cũng mang
án tích. Đối tượng mang án tích chỉ là những người bị kết án bằng bản án có
hiệu lực của Toà án và bị tuyên áp dụng hình phạt. Bởi người bị kết án nhưng
được áp dụng các biện pháp tư pháp khác như đưa vào trường giáo dưỡng,
giáo dục tại xã, phường, thị trấn… theo quy định tại Điều 95 và Điều 96 Bộ
luật Hình sự năm 2015 hay biện pháp buộc công khai xin lỗi, bồi thường thiệt
hại theo quy định tại Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015 sẽ không phải chịu
hậu quả pháp lý này. Đối với người được miễn trách nhiệm hình phạt hoặc áp
dụng các biện pháp tư pháp thì thực tế án tích không tồn tại với họ.
Về thời điểm xuất hiện án tích:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Án tích xuất hiện từ khi bản án kết tội có
hiệu lực pháp luật và những người phạm tội mới trong thời gian kháng cáo,
kháng nghị, chờ xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm sẽ không trở
thành đối tượng có án tích và sẽ không bị áp dụng những hậu quả pháp lý bất
lợi do việc còn án tích như bị áp dụng các tình tiết tái phạm, tái phạm nguy
hiểm khi phạm các tội mới.
Quan điểm thứ hai cho rằng: Án tích chỉ xuất hiện trong một khoảng thời
gian nhất định sau khi đã chấp hành xong hình phạt .
Nhìn chung, các quan điểm này đều chưa hợp lý. Về bản chất, bản án kết

tội của Toà sẽ làm xuất hiện án tích đối với người phạm tội ngay sau khi bản
án đó được tuyên. Nếu thời gian kháng cáo, kháng nghị hoặc thời gian chấp
hành hình phạt không được coi là thời gian mang án tích thì khi xét xử tội
phạm mới sẽ không đánh giá đúng mức độ nguy hiểm của tội phạm mới
thực hiện

9


trong thời gian này. Tóm lại, án tích xuất hiện ngay sau khi người phạm tội bị
Toà án kết tội bằng một bản án buộc tội có hiệu lực pháp luật.
Về thời hạn tồn tại: Án tích chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian nhất
định. Án tích là đặc điểm nhân thân xấu và việc mang án tích có thể mang lại
những hậu quả pháp lý bất lợi cho người mang án tích nên không thể buộc họ
phải vĩnh viễn mang án tích cho một tội danh. Do đó, án tích có thể được xoá
sau một thời gian đủ để chứng tỏ người phạm tội đã “hoàn lương” – không còn
nguy hiểm đối với xã hội nữa. Đây được coi là thời gian thử thách đối với
người bị kết án chấp hành xong hình phạt. Thời hạn của án tích được bắt đầu
từ khi bản án của Toà án được tuyên, kết thúc khi được xoá bỏ theo quy định
của pháp luật.
- Hậu quả pháp lý của việc mang án tích
Án tích có thể mang lại những hậu quả pháp lý bất lợi cho người mang án
tích. Sự bất lợi của việc mang án tích đối với người bị kết án và bị áp dụng
hình phạt được thể hiện ở nhiều phương diện:
Người mang án tích trình lý lịch tư pháp cũng như các giấy tờ chứng thực
về nhân thân của người phạm tội sẽ ghi “có tiền án”, đồng thời chỉ rõ loại tội
phạm cũng như hình phạt dành cho tội phạm đó. Khi đó, án tích như một vét
nhơ trong lý lịch của người phạm tội, dẫn tới nhiều hậu quả xã hội bất lợi đối
với người phạm tội.
Do tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội mà trong một số lĩnh vực,

pháp luật còn hạn chế quyền của người mang án tích. Ví dụ như Luật Nuôi
con nuôi năm 2010 quy định: “người chưa được xoá án tích về một trong các
tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của người khác;
ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cháu, người có công
nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thành niên vi
phạm pháp luật,….sẽ không được nhận con nuôi”.
Việc mang án tích có thể là căn cứ để xác định hành vi phạm tội là tái
phạm hay tái phạm nguy hiểm. Điều 53 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về Tái
phạm, tái phạm nguy hiểm:
10


“1. Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xoá án tích mà
lại thực hiện hành vi p hạ m tộ i do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội
về t ội
p hạ m rất nghiêm trọng, tộ i p hạ m đặ c b i ệt nghiêm trọ ng do vô ý.
[37].
2. Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm:
a) Đã bị kết án về t ội p hạ m rất nghiêm t rọn g , tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm
tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý;[37]
b) Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội
do cố ý.”
Theo đó, dấu hiệu “chưa xoá án tích” chính là dấu hiệu quan trọng để
xem xét hành vi phạm tội của người phạm tội có tái phạm hay tái phạm nguy
hiểm hay không. Đây sẽ là căn cứ để xác định việc áp dụng tình tiết tăng nặng
trách nhiệm Hình sự theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình
sự
2015 hay tình tiết định khung hình phạt của các tội phạm cụ thể.
Ví dụ: Điểm p khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về Tội

giết người:
“ Người nào giết người thuộc một trong những trường hợp sau đây, thì
bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình;…..p) Tái phạm
nguy hiểm”[37].
Đối với các tội phạm khác, khi có dấu hiệu còn án tích và yếu tố tái phạm
tái phạm nguy hiểm không được áp dụng làm tình tiết định khung hình phạt
thì hành vi phạm tội mới thường bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm
hình sự theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
Đối với một số cấu thành tội phạm, dấu hiệu “chưa xoá án tích” trở
thành một trong những yếu tố định tội. Theo đó, nếu người phạm tội không có
án tích thì mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm pháp luật chưa cao, người
11


vi phạm có thể không bị truy cứu trách nhiệm hình sự mà chỉ bị xử lý hành
chính. Tuy

12


nhiên, dấu hiệu “có tiền án” đã khiến mức độ nguy hiểm của hành vi tăng lên
và người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Ví dụ: Điểm b khoản 1 Điều 173 quy định về tội trộm cắp tài sản:
“Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng
đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong
các trường hợp sau đây thì bị phạt tải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc
phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm: ……b) Đã bị kết án về tội này hoặc một trong
các tội quy định tại Điều 168,169,170,171,172,174,175 và 290 của Bộ luật
này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm”. [37].
Việc mang án tính dẫn đến rất nhiều các hậu quả pháp lý bất lợi đối với

những người mang án tích. Quy định này thể hiện sự nghiêm trị của pháp luật
Hình sự đối với những người phạm tội, đặc biệt là những đối tượng không biết
hối cải vẫn tái phạm.
1.1.2. Khái niệm xoá án tích
Việc kết án là một sự kiện khách quan và không gì có thể xoá bỏ được sự
kiện bị kết án của người phạm tội. Tuy nhiên, án tích không phải đặc điểm
nhân thân có tích chất vĩnh viễn. Với tính chất nhân đạo của pháp luật Hình sự
nhằm giúp xoá bỏ mặc cảm tội lỗi với những người đã từng bị kết án, giúp họ
tái hoà nhập với cộng đồng, Bộ luật Hình sự đã quy định, án tích chỉ tồn tại
trong một thờ gian nhất định và khi đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định
của pháp luật thì án tích có thể được xoá bỏ.
Cũng tương tự như án tích, xoá án tích cũng là một khái niệm với rất
nhiều quan điểm và lập trường nghiên cứu khác nhau.
PGS.TS Trần Đình Nhã thì định nghĩa: “Xoá án tích là sự thừa nhận về
mặt pháp lý người bị kết án không còn mang án tích và vì vậy không còn chịu
hậu quả do việc kết án mang lại” [35]. Quan điểm này đi theo khía cạnh
đương nhiên được xoá án tích. Và như vậy thì sẽ không thể hiện hết được nội
dung của việc xoá án tích bởi bên cạnh pháp luật quy định về đương nhiên
được xoá án tích
13


thì còn có trường hợp được xoá án tích theo quyết định của Toà án (phải được
Toà án xem xét và ra quyết định).
Ths. Đinh Văn Quế lại cho rằng: “Xoá án tích là xoá bỏ bản án hình sự
đối với một người đã bị Toà kết án, là sự thể hiện tinh thần nhân đạo trong
Luật Hình sự nước ta… là để cho người bị kết án không mặc cảm tội lỗi của
mình, tạo điều kiện làm ăn, sinh sống lương thiện, hoà nhập với cộng đồng”.
PGS.TSKH Lê Cảm lại dùng thuật ngữ xoá án tích để định nghĩa xoá án
tích, tạo nên một định nghĩa trừu tượng và gây khó hiểu cho người đọc khi

muốn tìm hiểu sâu về vấn đề này: “Xoá án tích là việc chấm dứt trách nhiệm
hình sự của người bị kết án do người đó được xoá án tích theo các quy định
của pháp luật Hình sự, trên cơ sở sự xem xét và quyết định của Toà án, công
nhận là chưa bị kết án” [11].
ThS. Phạm Thị Học đưa ra quan niệm: “Trong luật Hình sự Việt Nam,
khái niệm xoá án tích được hiểu là việc xoá bỏ việc án mang tích thể hiện ở sự
công nhận coi như là chưa bị kết án đối với người trước đó đã bị Toà án xét
xử, kết tội”.
Do có nhiều quan điểm của các nhà nghiên cứu khác nhau nên người đọc
đã gặp khó khăn trong quá trình tìm hiểu. Khoa học Luật Hình sự đã dựa trên
những nghiên cứu thông nhất có tính chất chỉ đạo của việc áp dụng các quy
định của Luật Hình sự Việt Nam về xoá án tích đã đưa ra một khái niệm khái
quát và tương đối đầy đủ:
“Xóa án tích là chế định của luật hình sự Việt Nam thể hiện ở việc xóa
bỏ hậu quả pháp lý, xóa bỏ trách nhiệm hình sự đối với người bị kết án và
phải chịu hình phạt theo bản án đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án khi có
đủ các điều kiện của pháp luật quy định và người đó được coi như chưa bị kết
án.”
Xoá án tích là một chế định pháp luật nhân đạo của Luật Hình sự thể hiện
sự thừa nhận của nhà nước về mặt pháp lý người bị kết án không còn mang án

14


tích nữa và không phải tiếp tục gành chịu bất kỳ hậu quả pháp lý nào do việc
bị kết án mang lại. Người được xoá án tích được coi là chưa bị kết án. Điều đó

15



có nghĩa là kể từ thời điểm án tích được xoá, họ trở thành những người hoàn
toàn bình thường về mặt Tư pháp, không ai có thể căn cứ vào sự kiện họ đã bị
kết án trước đây để hạn chế quyền lợi của họ. Sau khi được xoá án tích, mọi
giấy tờ liên quan đến căn cước, lý lịch của họ đều được ghi là “không có án
tích” và nếu người đó lại phạm vào tội mới thì cũng không bị xác định là tái
phạm, tái phạm nguy hiểm.
1.2 Khái niệm đương nhiên xoá án tích
Xóa án tích là một chế định thể hiện rõ tính nhân đạo trong chính sách
pháp luật của nhà nước, nhằm giúp người đã từng phạm tội tái hòa nhập cộng
đồng một cách thuận lợi hơn. Thời gian qua đã chứng minh, đó là một chính
sách đúng đắn trong việc giúp người phạm tội có cơ hội sửa sai lỗi lầm và hạn
chế việc phân biệt đối xử đối với những đối tượng đã từng là một người phạm
tội. Chế định xoá án tích được quy định từ Điều 69 đến Điều 73 Bộ luật Hình
sự 2015. Theo đó, việc xoá án tích đối với người đã chấp hành xong bản án có
hiệu lực pháp luật của Toà án bằng một trong hai cách: Đương nhiên được xoá
án tích và xoá án tích theo quyết định của Toà án. Người được xoá án tích coi
như chưa bị kết án.
Đương nhiên xoá án tích là trường hợp người bị kết án được coi là không
có án tích khi đáp ứng các điều kiện nhất định theo quy định của pháp luật mà
không cần có quyết định của cơ quan có thẩm quyền.
Theo quy định của pháp luật Hình sự Việt Nam hiện hành, để được
đương nhiên xoá án tích, người bị kết án phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện
theo quy định của pháp luật. Tuỳ thuộc vào từng loại tội phạm cũng như mức
hình phạt mà pháp luật quy định những điều kiện cụ thể để đương nhiên được
xoá án tích. Nhìn chung, người phạm tội nếu muốn được đương nhiên xoá án
tích phải đáp ứng đồng thời hai điều kiện:
- Đã chấp hành xong bản án
- Không phạm tội mới trong thời gian luật định

16



Pháp luật thể hiện rõ chính sách phân hóa tội phạm cũng như tính nghiêm
trị đối với những hành vi gây nguy hiểm cao cho xã hội bằng cách quy định
đối với từng loại tội phạm và mức phạt mà có thời hạn để được đương nhiên
xoá án tích khác nhau. Tội phạm mang tính chất nguy hiểm cho xã hội cao,
hình phạt nặng thì thời hạn để được đương nhiên xoá án tích càng lâu, và
ngược lại, nếu tội phạm mang tính nguy hiểm cho xã hội thấp, hình phạt nhẹ
thì thời hạn đương nhiên được xoá án tích sẽ nhanh hơn. Thời gian mang án
tích cũng là thời gian thử thách để khuyến khích cũng như bảo đảm người
phạm tội biết hối cải về tội lỗi của mình, có ý thức nghiêm chỉnh chấp hành các
quy định của pháp luật nên tội phạm càng nguy hiểm thì thời gian thử thách
càng phải kéo dài.
1.3 Ý nghĩa của đương nhiên xoá án tích
Điều 69 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về xoá án tích như sau:
1. “Người bị kết án được xoá án tích theo quy định tại các điều từ Điều
70 đến Điều 73 của bộ luật này. Người được xoá án tích coi như chưa bị kết
án.
Người bị kết án do lỗi vô ý về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm
trọng và người được miễn hình phạt không bị coi là có án tích” [37].
Theo quy định trên, một người sau khi được xoá án tích thì được coi như
là chưa bị kết án. Chính vì vậy, xoá án tích có nghĩa lớn cả mặt chính trị pháp lý, mặt xã hội.
Thứ nhất, về mặt chính trị - pháp lý:
Luật quy định: “Người được xoá án tích coi như chưa bị kết án” vì vậy
xoá án tích thể hiện sự công nhận, coi như chưa bị kết án đối với người đã
từng bị Toà án xét xử, kết tội. Khi một người được xoá án tích phạm tội mới
thì Toà án sẽ không được căn cứ vào tiền án trước đó để xác định là tái phạm
hay tái phạm nguy hiểm. Có nghĩa là kể từ thời điểm được xoá án án tích,
người phạm tội sẽ trở thành người bình thường về mặt tư pháp và không ai có


17


thể căn cứ vào việc họ đã bị kết án trước đây để hạn chế quyền lợi của họ.
Sau khi được

18


xoá án, họ trở thành người “không có án tích” và nếu người đó phạm tội mới
thì được coi như phạm tội lần đầu.
Với chế định xoá án tích, một mặt góp phần đảm bảo cho việc thực hiện
nhất quán nguyên tắc công bằng, mặt khác phản ánh nguyên tắc nhân đạo, tôn
trọng quyền con người của pháp luật Hình sự. Vì pháp luật cần thiết phải quy
định các chế tài nghiêm khắc để nghiêm trị và răn đe người phạm tội, nhưng
không thể thiếu tính nhân đạo. Xã hội muốn có công bằng và nhân đạo thì xã
hội đó phải có một hệ thống pháp luật vì con người. Xã hội cũng không thể ổn
định và phát triển nếu như pháp luật của xã hội ấy không vì con người. Nhưng
nếu pháp luật không mở đường cho sự hoàn lương của người bị kết án thì
pháp luật đã không mang được đúng ý nghĩa mong muốn của nó.
Thứ hai, về mặt xã hội: Quy định của pháp luật về xoá án tích nếu được
Toà án áp dụng đúng đắn và chính xác trong thực tiễn sẽ đem lại hàng loạt các
lợi ích xã hội.
Xoá án tích thể hiện sự nhìn nhận của pháp luật vào chiều hướng thay đổi
tích cực của người phạm tội, khích lệ, động viên họ nhìn nhận ra những điều
sai trái mà mình đã mắc phải, đồng thời cho họ cơ hội để nhìn lại cuộc đời;
Xoá án tích còn có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình học tập, lao động
và ảnh hưởng đến đời sống của những người này, nhất là đối với những người
phạm tội chưa thành niên;
Việc đương nhiên xoá án tích sẽ giúp cho những người đã từng lầm lỡ có

cơ hội làm lại cuộc đời, xoá đi cảm giác mặc cảm bởi quá khứ tội lỗi của mình
và tránh được kì thị của người khác, dễ dàng hoà nhập với cộng đồng;
Việc đương nhiên xoá án tích còn mang tính phòng ngừa tội phạm cao.
Bởi lẽ đương nhiên xoá án tích đã góp phần động viên người phạm tội tích cực
cải tạo, học tập, lao động và ngăn ngừa họ phạm tội mới để nhanh chóng trở
thành người lương thiện, có ích cho xã hội.

19


×