Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

HỆ THỐNG THỂ LOẠI VÀ TÁC GIA TIÊU BIỂU VĂN HỌC VIỆT NAM HIỆN ĐẠI 1900 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.21 KB, 39 trang )

BÀI ĐIỀU KIỆN
HỌC PHẦN: HỆ THỐNG THỂ LOẠI VÀ TÁC GIA TIÊU BIỂU VĂN HỌC
VIỆT NAM HIỆN ĐẠI 1900 - 1945


MỤC LỤC
I – ĐẶT VẤN ĐỀ......................................................................................................1
II – GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ....................................................................................1
1. Khái niệm hiện đại hóa văn học hiện đại Việt Nam........................................1
2. Nam Cao và vấn đề hiện đại hóa trong một số truyện ngắn của Nam Cao. .4
2.1.Giới thiệu khái quát về Nam Cao.....................................................................4
2.2.Hiện đại hóa trong một số truyện ngắn viết về người nông dân của Nam
Cao…….....................................................................................................................6
2.2.1. Đề tài.............................................................................................................7
2.2.2. Cốt truyện, kết cấu.....................................................................................11
2.2.3. Xây dựng nhân vật.....................................................................................15
2.2.4. Nghệ thuật trần thuật................................................................................20
2.2.5. Giọng điệu trần thuật................................................................................23
2.2.6. Nhịp điệu trần thuật..................................................................................28
2.2.7. Lời văn đa giọng.........................................................................................31
2.2.8. Độc thoại nội tâm.......................................................................................33
III – KẾT LUẬN....................................................................................................36
TÀI LIỆU THAM KHẢO


I – ĐẶT VẤN ĐỀ
Là nhà văn xuất hiện muộn trên văn đàn của dòng văn học hiện thực giai
đoạn 1930 – 1945, Nam Cao luôn ý thức sâu sắc: sự sống còn đối với mỗi cây bút
gắn liền với yêu cầu cách tân sáng tạo trong văn chương. Vì vậy, sự đào sâu, tìm
tòi, “khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có” là đặc điểm
khá nổi bật trong các sáng tác của ông. Nam Cao đã thành công trên con đường


hiện đại hóa văn xuôi, có những đóng góp không nhỏ cho văn học nghệ thuật nước
nhà. Sự hiện đại hóa trong truyện ngắn của Nam Cao mang tính toàn diện trên cả
nội dung và hình thức, cụ thể là trên nhiều phương diện như đề tài, cốt truyện, nhân
vật, nghệ thuật trần thuật, ngôn ngữ… Ở bất cứ phương diện nào, ông cũng không
giẫm lên những lối mòn đã có sẵn mà luôn tìm một con đường đi riêng của mình
bằng tài năng và tâm huyết, bằng ý thức và cả lòng tự trọng của người nghệ sĩ chân
chính.
II – GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Khái niệm hiện đại hóa văn học hiện đại Việt Nam
Trong cuốn “Văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến 1945”, giáo sư Trần
Đăng Suyền đã nêu ra khái niệm hiện đại hóa “là quá trình làm cho văn học Việt
Nam có tính chất hiện đại, có thể nhịp bước và hòa nhập với nền văn học thế giới.
Nói văn học từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám 1945 đổi mới mạnh mẽ
theo hướng hiện đại hóa tức là khẳng định nó thoát khỏi những đặc trưng của văn
học trung đại, tạo nên được những đặc điểm, tính chất của một nền văn học hiện
đại”. Theo đó, văn học hiện đại Việt Nam phải đổi mới toàn diện trên cả mặt nội
dung và hình thức nghệ thuật, hướng tới một đối tượng lực lượng sáng tác khác và
những công chúng văn học hoàn toàn mới. Quá trình hiện đại hóa Việt Nam diễn ra
qua ba chặng và biểu hiện ở trên tất cả các thể loại văn học như tiểu thuyết, truyện
1


ngắn, thơ ca… Tuy nhiên nếu như từ đầu thế kỉ XX đến khoảng những năm 20, văn
học chỉ mới bước vào phạm trù hiện đại và đã có một số thành tựu bước đầu, nhưng
dấu ấn của thời kì văn học trung đại còn khá sâu đậm, phải đến từ năm 1930 đến
1945, với một tốc độ phi thường, văn học Việt Nam phát triển mạnh mẽ với những
tên tuổi xuất sắc như Nam Cao để hoàn tất quá trình hiện đại hóa văn học, có thể
hòa nhịp với văn học của thế giới.
Vậy nguyên nhân nào dẫn đến sự hiện đại hóa của văn học? Từ đầu thế kỉ
XX, xã hội Việt Nam đã có những biến chuyển sâu sắc. Đô thị phát triển, lớp công

chúng văn học mới ra đời và ngày càng đông đảo, ảnh hưởng của văn hóa phương
Tây, báo chí và xuất bản phát triển; tất cả những điều đó đã thúc đẩy văn học phải
nhanh chóng đổi mới theo hướng hiện đại hóa. Hiện đại hóa văn học là một yêu cầu
khách quan của thời đại. Nó là một bộ phận, một phương diện quan trọng của công
cuộc hiện đại hóa nền văn hóa Việt Nam nói chung. Hiện đại hóa văn học còn là
nhu cầu tự thân của chính nền văn học nhằm đáp ứng nhu cầu tinh thần và thẩm mĩ
mới của xã hội.
Mặt khác, mấy mươi năm đầu thế kỉ XX, xã hội Việt Nam vốn trì trệ trong
mấy ngàn năm phong kiến bỗng bừng tỉnh khi được tiếp xúc với văn hóa, khoa học
phương Tây, nó như một làn gió mới, một cơn gió lạ tưới mát tâm hồn con người.
Văn minh phương Tây tác động ngày một toàn diện, sâu sắc vào xã hội Việt Nam,
thoạt đầu ở lĩnh vực sinh hoạt vật chất và đương nhiên kéo theo những thay đổi về
mặt tâm lý, tinh thần. Một lớp người mới xuất hiện ngày một đông đảo ở các thành
thị với những nhu cầu, khát vọng sống thành thực, sống cho mình thật khác trước.
Thứ thơ cổ, thơ cách luật trở thành chiếc áo quá chật, trở thành thứ xiềng xích trói
buộc tâm hồn con người.
Có thể nói nhu cầu đổi mới văn học, phá bỏ luật lệ, khuôn thước, tạo nên
một cuộc cách mạng, một sự hiện đại hóa trong văn học giai đoạn 1930 – 1945 đã
2


được nhóm lên, manh nha từ những năm 20 của thế kỉ, đã được ít người dè dặt thử
nghiệm và thành công. Như vậy, hiện đại hóa là nhu cầu tất yếu, khách quan của
nền văn học trên cơ sở những tiền đề kinh tế, văn hóa, xã hội Việt Nam nửa đầu thế
kỉ XX. Hình thái kinh tế xã hội thay đổi từ phong kiến sang tư bản dưới hình thức
thuộc địa, từ đó dẫn đến sự phân hóa gia cấp mạnh mẽ làm thay đổi ý thức xã hội.
Từ đó hình thành đội ngũ nhà văn, nhà thơ và công chúng văn học mới khác với
thời trung đại bao gồm trí thức Tây học, tiểu tư sản, thị dân, học sinh, sinh viên,…
Tầng lớp nhà Nho không còn kéo theo đó là sự thay đổi nhanh chóng đời sống cá
nhân con người. Thời điểm này, con người với ý thức cá nhân mạnh mẽ đã bị kìm

nén lâu trong suốt cả nghìn năm trung đại đã được nước tràn bờ, trở nên mạnh dạn
hơn khi thể hiện những khát khao tình yêu, những câu chuyện đời thường không
được nói trong văn học.
Đồng thời, đây cũng là thời kì tính chất chuyên nghiệp hóa của hoạt động
sáng tác trở nên phổ biến trong đời sống văn học. Viết văn trở thành một nghề kiếm
sống, tác phẩm trở thành một món hàng hóa có thể kiếm ra tiền, trang trải đời sống.
Vậy nên văn chương nghệ thuật càng phải đổi mới, hiện đại hóa để đáp ứng nhu
cầu của thời đại chứ không còn là đam mê, là giãi bày tâm sự, hay để giáo huấn, để
ghi chép những câu chuyện lịch sữ nữa.
Hơn nữa, đây cũng là thời kì văn học được tiếp xúc rộng rãi hơn với quần
chúng nhờ có các phương tiện hỗ trợ cho hoạt động sáng tác, giới thiệu, truyền bá
tác phẩm như nhà in, nhà xuất bản, báo chí,… Cũng chính vì thế mà mô hình nhà
văn, nhà báo bắt đầu xuất hiện nhiều ở thời kì này như Hồ Biểu Chánh, Thạch Lam,
Nguyễn Công Hoan... Chữ quốc ngữ dần thay thế chữ Hán và chữ Nôm, tạo điều
kiện thuận lợi cho văn học tiếp cận gần hơn với lớp công chúng văn học nông dân,
nhân dân. Trước đây, văn chương viết bằng chữ Hán, chữ Nôm chỉ để dành cho
người có học, biết chữ, còn bây giờ, văn chương đã trở thành thứ nghệ thuật giải trí,
3


mua vui cho cả “những người đàn bà đẹp chuyên chăm sửa móng tay và không làm
gì cả”.
Nội dung hiện đại hóa văn học diễn ra trên mọi mặt, ở nhiều phương diện, từ
sự thay đổi về quan niệm về văn học cho đến sự biến đổi các thể loại văn học và
đặc biệt là hiện đại hóa ngôn ngữ. Điều đó là bởi vì nền văn học đã chuyển đổi một
loạt kiểu nhà văn, người sáng tác từ tầng lớp Nho sĩ sang các tầng lớp thị dân, làm
biến đổi toàn diện và sâu sắc nền văn học Việt Nam
2. Nam Cao và vấn đề hiện đại hóa trong một số truyện ngắn của Nam
Cao
2.1.


Giới thiệu khái quát về Nam Cao

Nam Cao (1915/1917 – 28 tháng 11 năm 1951) là một nhà văn và cũng là
một chiến sĩ Việt Nam. Ông là nhà văn hiện thực lớn (trước Cách mạng), một nhà
báo kháng chiến (sau Cách mạng), một trong những nhà văn tiêu biểu nhất thế kỷ
20. Nam Cao có nhiều đóng góp quan trọng đối với việc hoàn thiện phong cách
truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ 20. Nam Cao tên thật là Trần
Hữu Tri (có nguồn ghi là Trần Hữu Trí). Quê ông tại làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà,
huyện Nam Sang, phủ Lý Nhân (nay là xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, Hà Nam).
Ông đã ghép hai chữ của tên tổng và huyện làm bút danh: Nam Cao. Ông xuất thân
từ một gia đình Công giáo bậc trung. Cha ông là ông Trần Hữu Huệ, làm nghề thợ
mộc và thầy lang trong làng. Mẹ ông là bà Trần Thị Minh, vừa là nội trợ, làm vườn,
làm ruộng và dệt vải.
Nam Cao từng làm nhiều nghề, chật vật kiếm sống và đến với văn chương
đầu tiên vì mục đích mưu sinh. Năm 18 tuổi vào Sài Gòn, ông nhận làm thư ký cho
một hiệu may, bắt đầu viết các truyện ngắn Cảnh cuối cùng, Hai cái xác. Ông gửi in
trên tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy, trên báo Ích Hữu các truyện ngắn Nghèo, Đui
mù, Những cánh hoa tàn, Một bà hào hiệp với bút danh Thúy Rư. Có thể nói, các
4


sáng tác "tìm đường" của Nam Cao thời kỳ đầu còn chịu ảnh hưởng của trào lưu
văn học lãng mạn đương thời. Sau này, ông mới nhận ra con đường đi đúng đắn
cho ngòi bút của mình và từng bước trở thành nhà văn lớn nhất của trào lưu văn
học hiện thực phê phán 1930 -1945. Trong số các nhà văn hiện thực, ông là cây bút
có ý thức sâu sắc nhất về quan điểm nghệ thuật của mình. Ông phê phán khá toàn
diện và triệt để tính chất thoát ly, tiêu cực của văn chương lãng mạn đương thời, coi
đó là thứ “ánh trăng lừa dối”, đồng thời yêu cầu nghệ thuật chân chính phải trở về
với đời sống, phải nhìn thẳng vào sự thật, nói lên được nỗi thống khổ của hàng triệu

nhân dân lao động lầm than (Giăng sáng).
Xuất hiện trên văn đàn khi trào lưu hiện thực chủ nghĩa đã đạt được nhiều
thành tựu xuất sắc, Nam Cao ý thức sâu sắc rằng: “Văn chương chỉ dung nạp được
những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo
những cái gì chưa có” (Đời thừa). Và Nam Cao đã thực sự tìm được cho mình một
hướng đi riêng trong việc tiếp cận và phản ánh hiện thực.
Đồng thời, ông cũng là nhà văn của chủ nghĩa hiện thực tâm lý. Sự chú ý đặc
biệt tới thế giới bên trong của con người đã quy ước hứng thú nghệ thuật ngày càng
tăng của nhà văn đối với cá tính của con người, động cơ nội tại của hành vi nhân
vật và quan hệ phức tạp của nó với hiện thực xung quanh. Đối với Nam Cao, cái
quan trong hơn cả trong nhiệm vụ phản ánh chân thật cuộc sống là cái chân thật của
tư tưởng, của nội tâm nhân vật. Xét tới cùng, cái quan trọng nhất trong tác phẩm
không phải là bản thân sự kiện, biến cố tự thân mà là con người trước sự kiện, biến
cố. Vì vậy, trong sáng tác của Nam Cao, hứng thú của những chi tiết tâm lý thường
thay thế cho hứng thú của chính bản thân các sự kiện, biến cố. Như vậy, nguyên tắc
các sự kiện, biến cố, tình tiết chỉ giữ vai trò “khiêu khích” các nhân vật, để cho
nhân vật bộc lộ những nét tâm lý, tính cách của mình. Nam Cao mong muốn khai
thác những vấn đề của cuộc sống không phải ở bề rộng mà là ở bề sâu. Thoát khỏi
cách nói chút ít về tất cả, ông đã tập trung bút lực vào việc miêu tả nội tâm của
5


nhân vật. Nhà hiện thực chủ nghĩa Nam Cao đã mở rộng việc phản ánh hiện thực
bằng cách khai thác sâu sắc thế giới tâm hồn của con người. Qua ngòi bút ông, thế
giới bên trong của con người, kể cả những “con người bé nhỏ” cũng là cả một vũ
trụ bao la! Đối với Nam Cao, việc phân tích tâm lý nhân vật không tách rời việc
phân tích cuộc sống xã hội nói chung. Thông qua việc miêu tả, phân tích tâm lý để
thể hiện những mâu thuẫn, xung đột xã hội, Nam Cao đã mở ra một khuynh hướng
phân tích mới cho phương pháp hiện thực chủ nghĩa trong văn học Việt Nam. Có
thể nói, cảm hứng phân tích phê phán thấm nhuần trong toàn bộ sáng tác của Nam

Cao. Nó là một đặc điểm nổi bật, trở thành “linh hồn”, “cốt tuỷ” chủ nghĩa hiện
thực của Nam Cao.
Đặc biệt, cái gốc, nền tảng vững chắc của chủ nghĩa hiện thực của Nam Cao
là chủ nghĩa nhân đạo. Trong mỗi trang văn của Nam Cao đều bộc lộ tấm lòng của
một con người đau đời và thương đời da diết. Nam Cao yêu thương những con
người bị cuộc đời đày đọa. Xã hội cũ đã làm cho ông đau xót khi mà đa số những
nhân vật của ông bị đẩy vào cảnh khốn cùng, không đạt được gì trong cuộc đời,
không có đủ điều kiện để phát huy những khả năng tiềm tàng ưu việt của mình.
2.2.

Hiện đại hóa trong một số truyện ngắn viết về người nông dân của

Nam Cao
Nam Cao là một nhà văn hiện thực phê phán xuất sắc của nền văn học Việt
Nam hiện đại ở chặng đường phát triển cuối cùng với những chỗ yếu và chỗ mạnh
của nó. Thành công của ông nổi bật nhất là ở thể tài truyện ngắn. Vào những năm
cuối của thập kỉ thứ ba và những năm 30, truyện ngắn Việt Nam đã có bước phát
triển mạnh mẽ và cũng có những cách tân mới mẻ thể hiện quá trình hiện đại hóa
văn xuôi Việt Nam. Truyện ngắn đã thực sự trở thành một thể loại chiếm vị trí quan
trọng trong văn đàn lúc bấy giờ với những tác phẩm của Nguyễn Công Hoan,
Thạch Lam, Nam Cao,… Tuy nhiên, sự cách tân triệt để và toàn diện phải kể đến
những tác phẩm của Nam Cao mới thực sự đáng kể và rõ nét.
6


Bản chất của văn chương nghệ thuật là sự kế thừa và sáng tạo. Nam Cao
cũng không nằm ngoài qui luật đó. Vì vậy, sự hiện đại hóa trong các truyện ngắn
của Nam Cao không phải và cũng không thể chối bỏ truyền thống. Ngòi bút của
ông có kế thừa và phát huy những yếu tố cách tân của các nhà văn đi trước, tiếp thu
có chọn lọc những tinh hoa của văn học nước ngoài. Có thể khẳng định rằng, sẽ

không có một Nam Cao như đã có nếu như không có những Phạm Duy Tốn,
Nguyễn Bá Học, Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, Thạch Lam và những nhà văn
cùng thời khác. Sự hiện đại hóa trong truyện ngắn của Nam Cao đã cho thấy một sự
chuyển mình đáng quý của nghệ thuật viết truyện ngắn trong văn học hiện đại Việt
Nam với những sáng tạo độc đáo hơn so với văn học dân gian, văn học trung đại
hay các nhà văn hiện đại cùng thời khác. Hiển nhiên Nam Cao đã có thể thừa
hưởng rất nhiều điều từ tất cả những gì mà các tác giả văn xuôi Tự Lực văn đoàn
từng tạo ra. Chính họ đã hiện thực hóa cái phương án văn học mà khi đã thành "đại
trà" rồi thì nom có vẻ rất đơn giản, rất dễ làm: ấy là lấy mô hình tiểu thuyết Âu Tây
để tạo ra những tác phẩm với người và cảnh, cốt truyện và nhân vật xứ mình, kể
bằng tiếng nói hàng ngày của người nước mình, và sau đó ghi tất cả bằng chữ quốc
ngữ la-tinh − thứ văn tự "ngoại nhập" mà đến lúc này đã được thừa nhận và trở nên
thông dụng trong xã hội người Việt. Mô hình này tạo nên những tác phẩm mà nếu
đem so sánh với các tác phẩm tự sự truyền thống (ví dụ: cổ tích, truyện Nôm,
truyện chương hồi…) thì nó hơi ít chất Việt, tuy không quá xa lạ. Vì vậy, trong bài
luận nhỏ này, tôi xin làm rõ những điểm kế thừa, tiếp thu tinh hoa và những biểu
hiện hiện đại hóa truyện ngắn của Nam Cao viết về đề tài người nông dân trước
cách mạng tháng Tám 1945 trên nhiều phương diện.
2.2.1. Đề tài
Truyện ngắn Nam Cao thường viết về người nông dân và người trí thức trong
xã hội phong kiến đương thời. Đây là những đề tài hoàn toàn mới so với văn học
trung đại. Đặc biệt, đề tài người nông dân chiếm một số lượng lớn trong các sáng
7


tác của ông. Nếu như trong văn học trung đại, người nông dân và cuộc sống ở nông
thôn chưa được các nhà văn chú ý thì trong văn học giai đoạn đầu thế kỉ XX đến
năm 1945, lại là một đề tài được tập trung phản ánh. Người nông dân trong văn học
từ trước thế kỉ XX chỉ có dịp xuất hiện trong những bài ca dao, dân ca, văn học dân
gian được truyền miệng, còn văn học viết trung đại chỉ coi trọng những vấn đề lớn

lao, cao cả, quy phạm, mực thước, cho nên không có chỗ dành cho những thân
phận nông dân nghèo và không gian cây đa bến nước sân đình. Đến văn học đầu
thế kỉ XX, cũng viết về đề tài người nông dân nhưng văn học lãng mạn thường gắn
với những câu chuyện tình yêu của những anh phán Tây học, những nàng thôn nữ
trên cái nền của bức tranh đồng quê thơ mộng. Tuy nhiên, đứng trong hàng ngũ của
các nhà văn hiện thực phê phán, Nam Cao cũng có cái nhìn, cách phản ánh khác
đối với đề tài người nông dân trong xã hội cũ. Các nhà văn hiện thực như Nguyễn
Công Hoan, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng… thì vẽ nên một bức tranh cuộc sống khốn
khổ về vật chất của người nông dân và những phẩm chất tốt đẹp của họ, đồng thời
phê phán những bộ mặt xấu xa, bỉ ổi của tầng lớp quan lại, cường hào, ác bá ở nông
thôn.
Là nhà văn thuộc lớp sau, Nam Cao đã tiếp nối, kế thừa và phát triển phương
pháp phản ánh của các nhà văn hiện thực trước mình: phản ánh chân thực về người
nông dân và nông thôn Việt Nam trước cách mạng. Tuy nhiên, khác với các nhà
văn cùng thời khác, Nam Cao miêu tả người nông dân không phải chỉ khổ sở về vật
chất mà còn là những người bị lăng nhục một cách bất công, tàn nhẫn. Cái đói trở
thành yếu tố đẩy người nông dân vào tình trạng bần cùng hóa, lưu manh hóa và còn
là một phép thử nhân cách. Còn gì đau đớn hơn khi người đàn bà khốn khổ vì già
yếu, vì đói khát nên phải mượn cớ đi thăm cháu để được ăn một bữa cơm của nhà
bà chủ (Một bữa no). Bữa cơm cuối cùng trong cuộc đời của bà là một nỗi nhục
nhã bởi bà ăn trong sự lườm nguýt, xỉa xói của bà chủ, sự khinh bỉ của mọi người
và trong sự xấu hổ của đứa cháu. Cái chết thê thảm của bà không làm nguôi nỗi
8


giận dữ của bà chủ mà trở thành một tấm gương xấu để răn dạy lũ người ở: “Người
ta đói đến đâu cũng không thể chết, nhưng no một bữa là đủ chết. Chúng mày cứ
liệu mà ăn tộ vào!”. Vì miếng ăn mà người chồng, người cha trong tác phẩm “Trẻ
con không được ăn thịt chó” đã đánh mất đi nhân cách của mình, trở thành một kẻ
ích kỉ, tham lam và đê tiện. Cái đói và miếng ăn đã khiến chị vợ Lúng trong truyện

ngắn “Đòn chồng” trở thành một kẻ gian lận. Chị ta đã cầm một lúc hai tấm bánh
ăn, để rồi bị bà bán hàng lăng nhục ngay giữa chợ, bị mọi người khinh bỉ, bị người
chồng vũ phu đánh “thừa sống, thiếu chết”. Chị làm việc đó bởi thường xuyên bị
đói, thường xuyên thèm mà chẳng có tiền mua. Phản ánh hiện tượng đó, Nam Cao
đã cất lên “tiếng kêu cứu lấy nhân cách, nhân phẩm và nhân tính của con người
đang bị cái đói và miếng ăn làm cho tiêu mòn đi, thui chột đi, hủy diệt đi”
Viết về đề tài người nông dân, Nam Cao còn cho thấy được sự hiện đại hóa ở
chỗ ông tập trung phản ánh bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của nhân vật. Đó là
hiện tượng con người bị chính đồng loại của mình ruồng bỏ, cự tuyệt quyền được
sống như một thành viên trong cộng đồng. Những nhân vật Chí Phèo, Thị Nở, Cu
Lộ trong “Tư cách mõ”, Lang Rận, Mụ Lợi trong “Lang Rận”… là những hình
tượng điển hình cho bi kịch đó. Từ đó Nam Cao cất lên tiếng nói phê phán xã hội
thực dân nửa phong kiến Việt Nam. Cùng viết về đề tài người nông dân nhưng Ngô
Tất Tố hay Nguyễn Công Hoan chỉ chú ý phản ánh những nỗi khổ của nhân vật do
tác động của hoàn cảnh gây nên và đó là nét nổi bật chỉ Nam Cao mới có.
Một điều đáng chú ý nữa là khi viết về đề tài người nông dân, các nhà văn
hiện thực khác chỉ tập trung vào việc phản ánh ở bình diện xã hội. Đó là những
mâu thuẫn, những xung đột căng thẳng không thể dung hòa giữa giai cấp bóc lột và
giai cấp bị bóc lột thì Nam Cao chú ý miêu tả, phân tích xã hội được thực hiện qua
việc phân tích nội tâm của nhân vật. Đoạn mở đầu tác phẩm “Chí Phèo” là việc
miêu tả tiếng chửi của hắn. Chí Phèo chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi
những kẻ không chửi nhau với hắn, rồi chửi kẻ đẻ ra hắn. Sau đó, nhà văn đi vào
9


phân tích, giải thích, truy tìm nguyên nhân xã hội đã xô đẩy người nông dân vào
con đường lưu manh hóa. Đẻ ra Chí Phèo với tư cách một con người là một người
đàn bà khốn khổ nào đó. Những đẻ ra cái thằng lưu manh Chí Phèo là Bá Kiến, là
nhà tù thực dân và là những định kiến xã hội. Kẻ không cho Chí Phèo lấy Thị Nở,
không cho anh ta quyền sống như một người lương thiện cũng chính là cái định

kiến cổ hủ ấy. Chí Phèo có thể giết chết Bá Kiến nhưng không thể thay đổi được
những định kiến của xã hội. Chính vì vậy mà anh ta phải tự giết mình. Phản ánh bi
kịch của Chí Phèo, Nam Cao đã cho người đọc thấy hình ảnh một xã hội ngột ngạt,
vô nhân đạo. Cái xã hội ấy đã xô đẩy những con người như Chí Phèo vào con
đường tội lỗi. “Giá trị hiện thực sâu sắc, khả năng khái quát cao độ, sức mạnh phê
phán độc đáo của “Chí Phèo” trước hết được bộc lộ ở sự khám phá, phát hiện và
phân tích sâu sắc, thỏa đáng quy luật nghiệt ngã đó trong xã hội thực dân nửa
phong kiến”
Một trong những cách tân sáng tạo của Nam Cao ở đề tài người nông dân là
sự phản ánh tình trạng con người bị tha hóa, bị lưu manh hóa mà vẫn khát khao
quay về làm người lương thiện. Nếu như người nông dân trong những câu chuyện
cổ tích, ngụ ngôn truyền thống đã xấu thì rất xấu, đóng vai là kẻ phản diện từ đầu
đến kết thúc truyện thì các nhà văn hiện đại đã biết khám phá chiều sâu bản tính
con người. Cho rằng bản tính con người không đơn giản, nhất phiến, một chiều.
Viết về người nông dân trong xã hội hiện đại, các nhà văn đã cho họ những cuộc
đời riêng và tính cách riêng. Thế nhưng, người nông dân trong sáng tác của các nhà
văn đương thời là những con người dù trong bất kì hoàn cảnh nào cũng giữ được
phẩm chất tốt đẹp của mình. Chị Dậu trong “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố cũng bị đẩy
đến bước đường cùng nhưng không vì thế mà đánh mất phẩm tiết. Mợ Du trong tác
phẩm cùng tên của Nguyên Hồng miêu tả như một con người bị biến chất. Nhưng
sự lưu manh hóa của Tám Bính diễn ra ở thành thị, khi chị ta đã là một người thuộc
tầng lớp thị dân chứ không còn là nông dân. Như vậy, người nông dân trong truyện
10


ngắn từ xưa đến nay luôn là những con người biểu tượng cho nhân cách thật thà,
chất phác, phẩm chất tốt đẹp và chỉ đến Nam Cao mới có những sự miêu tả xấu xí
như vậy ở người nông dân Việt Nam. Trong truyện ngắn của Nam Cao, tình trạng
người nông dân bị lưu manh hóa đã trở thành một hiện tượng mang tính quy luật.
Đó là những Năm Thọ, Binh Chức, Chí Phèo và hậu duệ của Chí Phèo. Đó cũng

chính là Cu Lộ trong “Tư cách mõ”, là Đức trong “Nửa đêm”… Nhưng những con
người bị đẩy đến con người cùng ấy vẫn chưa hoàn toàn mất hết tính người. Có thể
nói, phát hiện mới mẻ của nhà văn về người nông dân là sự “khẳng định mạnh mẽ
bản chất đẹp đẽ của họ ngay cả khi họ bị vùi dập đến mất cả hình người, tính
người”. Bên trong cái ngoại hình méo mó, xộc xệch của “con quỷ dữ” Chí Phèo là
sự tiềm ẩn của nhân tính, nhân phẩm và nỗi khát khao có một cuộc sống bình
thường, lương thiện, một gia đình nhỏ “Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải,
chúng bỏ lại một con lợn nuôi để làm vốn liếng”. Bên trong cái ngoại hình “ma chê
quỷ hờn” của Thị Nở là một trái tim biết yêu thương, một nỗi khao khát hạnh phúc
và không ít biểu hiện của một tấm lòng nhân hậu.
2.2.2. Cốt truyện, kết cấu
Trong các thể loại truyện trung đại hay tiểu thuyết chương hồi, cốt truyện
đóng vai trò quan trọng bậc nhất và không thể có chuyện nào không có cốt truyện.
Trong truyện cổ, do cảm giác thời gian tuyến tính và chu kỷ song hành, nên cốt
truyện thường có mô-típ: con người từ cõi trần lên cõi tiên, rồi từ cõi tiên trở lại cõi
trần, từ thời gian tuyến tính đi lên thời gian chu ky rồi quay về thời gian tuyến tính.
Truyện Từ Thức lên tiên sống với thế giới phi thời gian, sau đó trở về lại cõi trần và
thấy trăm năm đã trôi qua. Đến ngòi bút của những nhà văn hiện thực như Nguyễn
Công Hoan, cốt truyện vẫn được đề cao. Yếu tố tạo nên sức hấp dẫn trong các tác
phẩm của ông chính là những tình huống truyện bất ngờ. Trong các truyện ngắn của
Hồ Biểu Chánh, Tự lực văn đoàn, mạch truyện chỉ diễn biến theo dòng thời gian,
cốt truyện, kết cấu tuy đã bỏ được cách viết kết cấu chương hồi như văn học trung
11


đại nhưng vẫn còn rất đơn giản. Thế nhưng, Nam Cao đã có những đổi khác trong
cách phản ánh hiện thực so với văn học trung đại hay các nhà văn cùng thời. Ông
chú ý nhiều hơn tới cách thể hiện những suy ngẫm của mình trên cơ sở của việc
phân tích hiện thực. Vì vậy, cách tổ chức, sắp xếp câu chuyện hay cốt truyện cũng
được Nam Cao sáng tạo, vượt thoát khỏi khuôn hình của truyện ngắn trước đó. Nhà

văn đưa những cái hằng ngày vào trong văn học, đó là những suy nghĩ, tâm lí đời
thường của con người. Vì vậy mà tính chất tự truyện khá rõ nét. Yếu tố để nhà văn
dựng truyện là sự phân tích tâm lí nhân vật chứ không phải là các cốt truyện có thứ
tự lớp lang. Vì vậy, truyện ngắn của ông ít quan tâm đến vấn đề cốt truyện và thậm
chí có những tác phẩm còn không có cốt truyện. Ở một số tác phẩm, cốt truyện chỉ
là cái cớ để nhà văn phân tích tâm lí con người. Trong truyện ngắn “Mua nhà”, nhà
văn đã đi từ sự băn khoăn, mặc cảm của nhân vật “tôi” trước cái nhà lụp xụp, hôi
hám của mình đến việc tìm ra lí do chính đáng để vay tiền mua nhà mới, rồi đến
những dằn vặt, hối hận về chuyện mua nhà. Đặc điểm cốt truyện theo tâm lí nhân
vật này của Nam Cao đã phá vỡ những kiểu kết cấu quen thuộc trong truyện ngắn
đương thời của Nguyễn Công Hoan, Bùi Hiển, Thanh Tịnh, Ngô Tất Tố… Trong
truyện “Nhỏ nhen”, câu chuyện về cuộc sống của bốn anh chàng Giang, Tá, Du, Hồ
chỉ là cái cớ để nhà văn triết lí về sự nhỏ nhen của con người và đưa ra một nhận
định: “Khi đã công nhiên bênh vực những cái nhỏ nhen thì lại không thể nhỏ nhen
như người khác được”. Như vậy, với kiểu kết cấu theo sự phát triển tâm lí nhân vật
đã tạo điều kiện cho nhà văn đi sâu vào những ngóc ngách của tâm hồn, khiến nhân
vật của ông bộc lộ toàn bộ đời sống bên trong của mình.
Đặc biệt, trong một số truyện ngắn của Nam Cao, chúng ta còn thấy được
hiện tượng đan cài, chồng chéo hai cốt truyện trong một tác phẩm. Đây là một cách
tân mới mẻ của nhà văn ở phương diện cốt truyện góp phần không nhỏ vào quá
trình hiện đại hóa. Ở truyện ngắn “Lão Hạc”, cốt truyện người đọc có thể nhận ra
ngay là số phận của Lão Hạc. Nhưng ẩn sau đó là một cốt truyện khác: sự nhận biết
12


về Lão Hạc. Nhân vật vợ ông giáo nhìn Lão Hạc như một người lẩm cẩm; Binh Tư
nhìn Lão Hạc như một tên trộm cắp và giả dối; cái nhìn của ông giáo thì là một quá
trình: từ chưa hiểu đến hiểu, từ thái độ dửng dưng đến cảm thông và kính trọng…
Rõ ràng, ở cốt truyện thứ nhất, nhà văn mới chỉ phản ánh hiện thực, ở cốt truyện
thứ hai thì là sự phân tích, lí giải xã hội. Đó mới là nội dung, tư tưởng mà tác giả

muốn gửi gắm.
Điểm đặc biệt trong cốt truyện của Nam Cao hơn so với các nhà văn khác đó
là những hành động bên ngoài của nhân vật không phải là yếu tố chủ yếu để tạo nên
tác phẩm, mà chỉ đóng vai trò “khiêu khích” để nhân vật bộc lộ tính cách và tình
trạng tâm lí. Vì vậy, ta ít gặp những biến cố thúc đẩy sự phát triển của hành động,
của cốt truyện. Những biến cố thường được miêu tả trong mối quan hệ ảnh hưởng,
tác động tới thế giới tâm hồn nhân vật. Trong truyện ngắn “Mua nhà”, sự kiện được
phản ánh là việc nhân vật “tôi” mua được một cái nhà rẻ. Tuy nhiên, trong tác
phẩm, nhà văn không miêu tả tỉ mỉ truyện mua nhà mà tập trung vào việc phản ánh
tác động của sự kiện đó đối với cảm xúc, suy nghĩ của nhân vật. Khi biết người bán
nhà cho mình định dùng tiền để gỡ gạc, anh ta đã can ngăn rồi lại ngẫm nghĩ: “Hắn
đã muốn chết thì cho hắn chết… Hắn không bán cho tôi thì bán cho người khác”.
Thế nhưng, cái điệp khúc “Ta không mua thì người khác…” không làm cho anh ta
vững tâm khi thấy đứa trẻ mồ côi tội nghiệp, con của chủ nhà” có vẻ thù ghét tôi
lắm”. Và khi tiếng nức nở của đứa trẻ gọi người mẹ quá cố vang lên thì anh ta
không còn tự an ủi mình được nữa. Anh thấy “Tim tôi động một cái, giống như
bước hụt. Rồi nó lại đập loạng choạng. Tôi hơi lảo đảo”. Anh tự dày vò mình “Tôi
ác quá! Tôi ác quá!”. Đó là những xung đột tâm lí diễn ra trong nội tâm của nhân
vật, những hối hận, những phân tích, lí giải để rồi rút ra một triết lí vừa đau đớn
vừa sâu sắc: “Hạnh phúc chỉ là một cái chăn quá hẹp. Người này co thì người kia bị
hở”

13


Những đặc điểm khác lạ của Nam Cao nói trên đã dẫn đến kết cấu cốt truyện
có nhiều thay đổi. Kiểu kết cấu theo năm bước của tác phẩm tự sự nếu như là đặc
điểm chủ yếu của truyện ngắn đương thời, qua các tác phẩm của Nguyễn Công
Hoan, Bùi Hiển, Thanh Tịnh, Ngô Tất Tố… thì đã bị phá vỡ trong truyện ngắn của
Nam Cao. Truyện của ông có thể nương theo trục thời gian, dõi theo cuộc đời nhân

vật hay một chặng dài trong cuộc đời của nhân vật. Nhiều tác phẩm của ông được
kết cấu theo quy luật phát triển tâm lí của nhân vật. Kiểu kết cấu theo sự phát triển
tâm lí của nhân vật đã tạo điều kiện cho nhà văn đi sâu vào những ngóc ngách của
tâm hồn, khiến nhân vật của ông bộc lộ toàn bộ đời sống bên trong của mình.
Ta cũng gặp kiểu kết cấu theo số phận nhân vật trong một số truyện ngắn của
ông. Nhà văn dõi theo những chặng đời của nhân vật để từ đó giúp người đọc rút ra
những đánh giá về nhân vật. Truyện “Dì Hảo” được nhà văn chia làm ba phần, mỗi
phần là một mảnh đời của nhân vật dì Hảo. Phần đầu là lí do dì Hảo đến làm con
nuôi, quan hệ thân thiết của nhân vật “tôi” đối với dì. Phần thứ hai là đoạn đời từ
khi dì đi lấy chồng và người vợ lẽ. Cả ba phần của tác phẩm hợp lại thành số phận
của nhân vật. Đó là nỗi khổ cực của những con người hiền lành chất phác. Họ càng
cố gắng nhịn nhục thì lại càng phải gánh chịu thua thiệt trong cuộc sống.
Kết cấu luận đề là một kết cấu được sáng tạo dựa trên truyện trung đại như
“Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ. Nếu như Nguyễn Dữ sau khi kể xong một
câu chuyện thường có một đoạn kết bàn luận về ý nghĩa của câu chuyện thì ở các
tác phẩm của Nam Cao cũng có những câu văn mang tính chất luận đề, triết lí như
vậy. Tuy nhiên, nhà văn Nam Cao đã biết cách sáng tạo, vận dụng nhuần nhuyễn
những câu văn luận đề trong khi miêu tả, khi kể chuyện. Đặc biệt, tác phẩm được
xây dựng trên cơ sở minh họa cho một tư tưởng có sẵn của nhà văn. Nhiều khi đọc
câu chuyện đó, chúng ta tự nhận ra triết lí của nhà văn ẩn đằng sau đó. Đó là sự nhỏ
nhen đến mức khó tin của con người (Nhỏ nhen); là một quy luật: khi con người bị
14


lăng nhục, bị cự tuyệt quyền làm người thì họ sẽ trở thành những kẻ lưu manh (Tư
cách mõ)…
Truyện ngắn của Nam Cao còn có sự sáng tạo trong việc xây dựng theo kết
cấu vòng tròn như trong tác phẩm “Chí Phèo” của Nam Cao, mở đầu câu chuyện
xuất hiện hình ảnh cái lò gạch cũ là nơi Chí Phèo được anh đi thả ống lươn nhặt về
và kết thúc cũng là hình ảnh cái lò gạch cũ thoáng xuất hiện trong đầu Thị Nở. Và

cách xây dựng kết cấu vòng tròn này đã thể hiện được dụng ý nghệ thuật của Nam
Cao trong tác phẩm.
Như vậy, xét trên lĩnh vực cốt truyện, truyện ngắn của Nam Cao đã có những
bước tiến vượt bậc so với văn xuôi trung đại và truyện ngắn cùng thời. Ông đã phá
vỡ những nguyên tắc thông thường của cốt truyện và đưa vào tác phẩm những lối
kết cấu mới mẻ, độc đáo. Nam Cao là nhà văn đầu tiên viết truyện ngắn như là tiểu
thuyết trong văn học Việt Nam. Các kiểu kết cấu đa dạng trong truyện ngắn của
ông tiềm ẩn nhiều ý nghĩa và vì vậy, truyện ngắn của ông mang tính chất là những
“đoản tiểu thuyết”.
2.2.3. Xây dựng nhân vật
Nhân vật là một yếu tố quan trọng của truyện ngắn. Trong văn học dân gian,
văn học trung đại, nhân vật thường xuất hiện là kiểu nhân vật chức năng với những
hoạt động chỉ nhằm thực hiện một số chức năng trong truyện. Tác giả văn học trung
đại thường quan niệm “văn dĩ tải đạo”, vì vậy, văn chương xoay quanh những chủ
đề quen thuộc của đạo đức nhà Nho. Con người xuất hiện trong dòng văn học này,
lẽ dĩ nhiên là con người cộng đồng, con người quân quốc… mang lí tưởng “trí quân
trạch dân”, mang khát vọng xây dựng một xã hội Nghiêu Thuấn. Vì vậy, nhân vật
trong truyện trung đại cũng là những con người cao cả, mang một chức năng xã hội
nào đó. Đặc biệt, tiếng nói của nhân vật là tiếng nói của nhà văn. Nhân vật trở
thành cái loa phát ngôn cho những tư tưởng giáo huấn của nhà Nho. Đến thế kỉ
15


XVIII – XIX, xuất hiện những nhân vật có sự cựa quậy về cái tôi bản ngã, phản
ứng lại lễ giáo phong kiến; những con người mất dần niềm tin vào những giá trị của
đạo đức nhà Nho, cảm nhận được sự cô độc, lạc lõng đồng thời không ngừng khát
khao về tình yêu và hạnh phúc. Tuy nhiên, sự cựa quậy đó không nhiều, nhân vật
vẫn chưa có hình hài, tính cách mà đại diện cho những kiểu người, những chuẩn
mực phẩm chất riêng và chịu sự chi phối sâu sắc bởi tư tưởng, ngòi bút của tác giả.
Đầu thế kỉ XX, ở trong các tác phẩm của Nguyễn Công Hoan có xây dựng các nhân

vật loại hình như quan Huyện Hinh… để phản ánh tính cách, đạo đức của một loại
người nhất định, đó là tính cách “ăn bẩn” của bọn quan lại. Tuy nhiên, đến ngòi bút
của Nam Cao, ông đã xây dựng các nhân vật tính cách đạt đến mức độ có cá tính
cao và các nhân vật tự nhận thức. Cách xây dựng kiểu nhân vật này đã cho thấy sự
sáng tạo, tiếp thu văn học phương Tây để góp phần hiện đại hóa truyện ngắn Việt
Nam, khiến cho các nhân vật truyện ngắn không còn đơn tuyến, một chiều, cứng
nhắc, khô khan.
Nếu như Nguyễn Công Hoan xây dựng nhân vật như những diễn viên trên
sân khấu hài kịch, Thạch Lam xây dựng nhân vật với những bức tranh tâm trạng
nhẹ nhàng, trữ tình man mác… thì Nam Cao không xây dựng nhân vật như các nhà
văn trước mình. Ông tập trung vào xây dựng những tính cách điển hình trong sự
phát triển tự thân của nhân vật. Sự hiện đại hóa của truyện ngắn Nam Cao thể hiện
ở chỗ ông xây dựng các tính cách nhân vật có chiều sâu suy nghĩ, tâm lí, tư tưởng
và nhiều khi nó dễ bị thay đổi bởi những tác động của hoàn cảnh, môi trường xã
hội. Bằng ngòi bút phân tích, miêu tả tâm lí đặc sắc, Nam Cao đã xây dựng được
những hình tượng nhân vật thú vị. Nhân vật Cu Lộ trong “Tư cách mõ” được nhà
văn miêu tả như một điển hình của sự tha hóa. Sự thay đổi tính cách của anh ta từ
người lương thiện, người có lòng tự trọng đến sự đánh mất nhân cách là do tác
động của môi trường xã hội. Chính sự khinh bỉ, chế giễu của mọi người đã đẩy anh
ta vào sự trả thù bằng cách cố tỏ ra không biết nhục. Nhà văn đã cay đắng mà thốt
16


lên rằng: “Hỡi ôi! Thì ra lòng khinh, trọng của chúng ta có ảnh hưởng đến nhân
cách của người khác nhiều lắm; nhiều người không biết gì là tự trọng, chỉ vì không
được ai trọng cả”. Tuy nhiên, sự thay đổi tính cách của Cu Lộ còn là do sự tự vận
động của anh ta. Từ sự xấu hổ, anh ta càng ngày càng lì lợm hơn. Từ lúc “làm mõ”
vì mảnh vườn, anh đã chủ động trong việc lấy cỗ về cho vợ con ăn, tìm đủ mọi
cách để xoay người khác từ lượm lúa, đến bữa ăn, tiền phong bao trong ngày tết.
“Cứ như vậy, hắn tiến bộ mãi trong nghề nghiệp mõ”.

Tính cách nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao là một ví
dụ sinh động cho sự tác động của hai yếu tố hoàn cảnh. Sự tha hóa của Chí Phèo là
bởi tác động của hoàn cảnh, sự thức tỉnh của hắn cũng một phần là do hoàn cảnh,
nhưng cũng là sự vận động tự thân của tính cách nhân vật. Từ một kẻ lương thiện,
“lành như đất”, trải qua những năm tháng tù tội, Chí trở thành con quỉ của làng Vũ
Đại, rồi Thị Nở xuất hiện như một biểu hiện của tình thương đã lại khơi lại con
người khát khao lương thiện trong Chí. Là một đứa trẻ bị bỏ rơi, Chí được những
con người lương thiện nuôi nấng, và khi trưởng thành, hắn hiền như cục đất. Sự
hiền lành và nhút nhát của Chí khiến Bà Ba, vợ Bá Kiến, bực tức mà bảo: “Mày
thực thà quá! Con trai gì hai mươi tuổi đã như ông già”. Ấy vậy mà, sau khi ở tù ra,
Chí đã biến đổi hẳn. Hắn trở thành một thằng say rượu liều lĩnh, “Dám độc lực chọi
nhau với lí trưởng, Chánh tổng, Bá hộ, tiên chỉ làng Vũ Đại, Chánh hội đồng kì
hào, huyện hào, Bắc kì nhân dân đại biểu, khét tiếng đến cả trong hàng huyện”. Và
cùng với những cơn thèm rượu, với sự nham hiểm của Bá Kiến, Chí từng bước trở
thành con quỷ của làng Vũ Đại, một kẻ mất hết tính người. Nhưng cuộc đời của
hắn, tính cách của hắn không phải mãi mãi là như vậy. Lương tâm và nhân cách của
Chí Phèo đã thức tỉnh. Sự thức tỉnh ấy có phần là do trận ốm đã làm thay đổi sinh lí
dẫn đến sự thay đổi tâm lí. Đó cũng là do tâm lí sợ cô đơn đã khiến Chí muốn sống
lương thiện, khát khao hòa mình với mọi người. Nhưng yếu tố quan trọng nhất là
do bản chất của Chí lương thiện. Cái ước mơ bình dị mà đẹp đẽ của Chí “Có một
17


gia đình nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải”, ngày nào vẫn luôn tiềm ẩn
trong Chí. Vì thế mà khi tỉnh rượu, cảm giác đầu tiên của hắn là nỗi buồn khi nhớ
về ước mơ xưa. Bản chất lương thiện ấy đã được sự chăm sóc của Thị Nở và tình
yêu của người đàn bà khốn khổ ấy thức tỉnh. Anh khát khao lương thiện và dõng
dạc cất tiếng đòi quyền “được làm người lương thiện!”. Chí vung lưỡi dao giết Bá
Kiến bởi hắn đã đày đọa mình, đã xúc phạm tới nhân phẩm của mình.
Trong truyện Trung đại, nhân vật thường được xây dựng đơn tuyến, nghĩa là

phân chia thiện ác rõ ràng, không có sự đấu tranh nội tâm nhân vật, phần người và
phần bản năng trong con người và rất ít được miêu tả ngoại hình. Trong các truyện
ngắn của Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố thì nhân vật thường được xây dựng có
sự tương đồng giữa tính cách và ngoại hình. Chẳng hạn như nhân vật Huyện Hinh
trong “Đồng hào có ma” (Nguyễn Công Hoan) là một vị quan “ăn bẩn” nên ngoại
hình “béo quá…râu không có chỗ nào lách ra ngoài được”, còn chị Dậu (Ngô Tất
Tố) thì được xây dựng đẹp cả ngoại hình lẫn phẩm chất đại diện cho người phụ nữ
nông thôn Việt Nam; thì Nam Cao lại xây dựng nhân vật mang tính cách phức tạp,
thường đối lập giữa tính cách và ngoại hình. Bên trong cái vẻ đạo mạo, sang trọng
và tiếng cười “Tào Tháo” của Bá Kiến (Chí Phèo) là cả một tâm địa gian ngoan,
xảo quyệt, đã từng đẩy bao người lương thiện vào đường cùng, trở thành những kẻ
lưu manh, phục vụ cho những mưu mô, nham hiểm của hắn. Bên trong ngoại hình
xấu “ma chê quỉ hờn” như Thị Nở lại là một con người giàu lòng nhân ái, khát khao
tình yêu và hạnh phúc. Những tình cảm mà Thị Nở dành cho Chí Phèo là rất người,
rất đáng trân trọng. Cái bề ngoài nhếch nhác của Lang Rận, sự dở hơi của Mụ Lợi
(Lang Rận) khác xa với bản chất của họ, không thể là nguyên cớ để lăng nhục họ.
Như mọi người, họ có quyền sống, có quyền yêu thương, có quyền được hạnh
phúc. Tình cảm, sự chăm sóc lẫn nhau của họ chính là tình người đẹp đẽ, cần phải
được trân trọng, cần phải được cảm thông. Trong bài viết “Về các nhân vật dị dạng
trong tác phẩm Nam Cao”, Trần Thị Việt Trung đã viết: “Phải chăng Nam Cao
18


muốn nhấn mạnh tính chất khốc liệt và tàn bạo của xã hội Việt Nam trong thời kì
đen tối nhất. Sự bế tắc đến mức dồn nén đã xô đẩy con người vào ngõ cụt của cuộc
đời. Nó làm méo mó đi, dị dạng đi cả tâm hồn và thể xác của bao người dân hiền
lành, lương thiện và vô tội”. Xây dựng những nhân vật trong sự đối lập giữa ngoại
hình và nội tâm, đặc biệt là những nhân vật xấu xí về ngoại hình nhưng bản chất là
lương thiện, là tốt đẹp, Nam Cao còn muốn đưa ra một cách nhìn con người. Cái
triết lí “nhìn mặt mà bắt hình dong” của ông cha ta có lẽ không còn đúng nữa, ít

nhất là với nhân vật của Nam Cao. Chúng ta cần phải có cái nhìn đúng đắn hơn:
“Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta
chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi… Toàn những cớ để cho ta tàn
nhẫn, không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương, không bao giờ ta
thương…”. Quan niệm ấy, cách nhìn ấy là biểu hiện của tư tưởng nhân đạo cao cả,
là một trong những yếu tố quan trọng chi phối cách xây dựng nhân vật của nhà văn.
Bên cạnh đó, Nam Cao còn xây dựng các nhân vật tự nhận thức chính mình.
Điều này chưa từng có trong văn học dân gian, văn học trung đại hay trong truyện
ngắn của các tác giả cùng thời. Đi sâu vào nội tâm nhân vật, Nam Cao thường để
cho nhân vật tự nhận thức về mình. Sự phát triển của tâm lí nhân vật Chí Phèo
trong tác phẩm cùng tên chính là quá trình tự nhận thức. Sau trận ốm, Chí thấy
mình cô độc, lẻ loi, nhận thấy được tuổi già sẽ đến. Khi được ăn bát cháo hành của
Thị Nở, hắn thấy như muốn được sống lương thiện, được hòa mình với mọi người.
Cuối tác phẩm, khi Chí Phèo đâm chết và Bá Kiến và đâm chết chính mình cũng
chính là lúc hắn nhận thức được tình cảnh của mình không thể sống cuộc đời bình
thường được nữa.
Trong tác phẩm, Nam Cao ít khi miêu tả thiên nhiên, nếu có thì cũng chỉ là
một thủ pháp nghệ thuật để soi sáng tâm lí nhân vật. Còn văn học trung đại thì
thường miêu tả thiên nhiên để gợi tình cảm của con người, lấy thiên nhiên làm
chuẩn mực của cái đẹp. Và thiên nhiên trong văn học trung đại là một đối tượng trữ
19


tình quan trọng góp phần làm nên đặc trưng của một thời vàng son của văn học thời
kì phong kiến. Hình ảnh trăng nhễ nhại, “những tàu chuối nằm ngửa, ưỡn cong
cong lên hứng lấy trăng xanh rời rợi như là ướt nước, thỉnh thoảng bị gió lay lại
giẫy lên đành đạch như là hứng tình” trong truyện ngắn “Chí Phèo”, chỉ là một yếu
tố để thể hiện sự “ngứa ngáy” của phần “con” trong con người Chí Phèo. Hai bức
tranh thiên nhiên khác hẳn nhau, mặc dù cùng một thời điểm, qua cái nhìn của
người chồng và người vợ trong truyện ngắn “Trẻ con không được ăn thịt chó” là hai

bức tranh tâm cảnh, thể hiện hai trạng thái tâm lí khác nhau. Như vậy, thiên nhiên
trong tác phẩm chỉ là yếu tố để thể hiện tâm lí của nhân vật.
Phương thức xây dựng nhân vật của Nam Cao là những tìm tòi sáng tạo của
nhà văn. Đó là yếu tố quan trọng khiến truyện ngắn của ông là một bước ngoặt lớn,
đánh dấu sự phát triển vượt bậc của truyện ngắn Việt Nam theo hướng hiện đại hóa.
Sức thu hút của truyện ngắn Nam Cao với người đọc, phải chăng phần lớn là từ yếu
tố này?
2.2.4. Nghệ thuật trần thuật
Sự hiện đại hóa ở văn xuôi của Nam Cao còn biểu hiện ở chỗ ông sử dụng
phương thức trần thuật, cách tổ chức độc thoại, đối thoại. Nắm vững tâm lí con
người và tập trung thể hiện quá trình tâm lí, xây dựng tính cách cho nên Nam Cao
rất chủ động trong cách kể chuyện. Ông thường đi theo diễn biến tâm lí, theo dòng
suy tưởng của nhân vật mà dựng chuyện chứ nhiều khi không theo trình tự thời
gian. Cách dẫn chuyện của Nam Cao rất sinh động, linh hoạt. Ông thường kết hợp
và chuyển dịch linh hoạt nhiều điểm nhìn trần thuật như trần thuật khách quan, trần
thuật nửa trực tiếp, trần thuật từ điểm nhìn nhân vật. Nhà văn thường ít trần thuật
một cách khách quan mà nhanh chóng trao quyền trần thuật cho nhân vật. Điều này
đã cho thấy sự hiện đại hóa hoàn toàn trong văn xuôi hiện đại so với văn học dân
gian, văn học trung đại. Trong văn học dân gian, văn học trung đại, điểm nhìn trần
20


thuật luôn luôn là đơn nhất, đó có thể là chính tác giả hoặc từ một nhân vật xưng
“tôi”. Điểm nhìn đó xuyên suốt tác phẩm và không có sự chuyển hóa linh hoạt như
truyện ngắn Nam Cao. Ngay cả những nhà văn cùng thời như Nguyễn Công Hoan,
Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng cũng chưa đạt đến sự sáng tạo nghệ thuật trần thuật như
Nam Cao. Là nhà văn của “Chủ nghĩa nhân đạo thống thiết”, Nguyên Hồng thường
biểu hiện cảm xúc trực tiếp, còn Nguyễn Công Hoan chỉ trung thành với kiểu trần
thuật khách quan. Với Nam Cao, đọc văn ông thấy thú vị bởi sự đa điểm nhìn của
nó. Đoạn văn mở đầu “Chí Phèo” thể hiện sinh động sự luân chuyển nhanh chóng,

hòa lẫn thú vị các điểm nhìn: của người trần thuật khách quan, của người nghe Chí
Phèo chửi, của dân làng Vũ Đại và của chính Chí Phèo. Nhân vật ông giáo trong
“Lão Hạc” không chỉ đóng vai trò người kể để phản ánh hiện thực mà đồng thời
còn tự kể về mình. Điểm nhìn của truyện ngắn được chuyển đổi linh hoạt từ tác giả
sang nhân vật ông giáo để có lúc tạo cảm giác nghi ngờ với nhân cách của lão Hạc
thông qua những suy nghĩ của ông giáo, có lúc lại trần thuật khách quan để cho
thấy được vẻ đẹp phẩm chất của nhân vật. Cách xây dựng điểm nhìn trần thuật linh
hoạt này đã góp phần thể hiện quá trình tự nhận thức của ông giáo. Đó là sự tự thể
hiện những thay đổi trong quan niệm, cách nhìn về Lão Hạc, từ chỗ hiểu lầm, dửng
dưng đến nghi ngờ “con người đáng kính ấy cũng theo gót Binh Tư ư?” và đến cuối
truyện thì là một sự thấu hiểu: “Không! Cuộc đời chưa hẳn đã đáng buồn, hay vẫn
đáng buồn nhưng lại đáng buồn theo một nghĩa khác”. Từ những diễn biến trong
nội tâm của nhân vật, người đọc nhận ra một cách nhìn con người, một nỗi cảm
thông, trân trọng đối với những số phận đau khổ nhưng luôn đấu tranh và tự đấu
tranh để hướng thiện. Trong truyện ngắn “Mua nhà”, nhà văn đã để cho nhân vật tự
phán xét, sám hối. Đó là những độc thoại nội tâm có tính chất tự thú đầy đau đớn
và xót xa. Người đọc không nhận thấy sự kể lể mà được dẫn dắt để đi vào thế giới
nội tâm đầy dằn vặt của nhân vật. Trong “Đui mù”, nhà văn đã thông qua nhân vật
Hùng (được tác giả kể bằng ngôi thứ nhất), để đưa ra một cảm nhận về con người.
21


Hùng căm giận người đàn bà có hình thức giống với Nga, vợ mình, khi thị diễn trò
chung thủy với chồng để rồi, chỉ ngay khi chồng dời khỏi nhà đã dan díu với người
đàn ông khác. Hùng thấy lòng mình tan nát khi phát hiện ra vợ mình, cái người đàn
bà mình rất mực yêu thương, rất mực chung thủy, lại phản bội mình một cách cũng
trớ trêu, cũng đáng căm giận như người đàn bà kia. Và khi tự thú “trái tim tôi thì
tan nát mất rồi”, Hùng thấy buồn nản, đau đớn khi nhận ra sự thực quá phũ phàng,
quá đắng cay. Câu chuyện của Hùng giúp ta nhận thấy một con người trong sáng,
chung thủy, một con người luôn luôn trân trọng tình yêu và hạnh phúc nhưng đã

phải gánh chịu nỗi đau của cuộc đời. Người đọc xót thương anh và trân trọng anh!
Ở truyện “Cái mặt không chơi được”, nhân vật “tôi” tự nhận thức được trạng thái
cô đơn của mình để từ đó, dằn vặt suy tư, dò tìm nguyên nhân và tìm cách giải
thích. Người đọc nhận ra tấn bi hài kịch của nhân vật và xót thương, cảm thông đối
với nhân vật. Cái kết của truyện, khi nhân vật tôi muốn kêu lên sung sướng: “Tôi
đã thấy! Tôi đã thấy, tôi đã thấy người tình của tôi đây rồi”, phải chăng là sự thể
hiện một quan niệm về cuộc đời: không nên quá tuyệt vọng, quá bi quan. Hạnh
phúc, tình yêu sẽ đến với chúng ta khi mình bằng lòng với chính mình, vững tin ở
mình. Như vậy, hóa thân vào nhân vật, nhà văn không chỉ giúp nhân vật tự bộc lộ
nội tâm của mình, mà còn thể hiện trực tiếp quan niệm về cuộc đời, về con người
và về nghệ thuật. Vì vậy, những tác phẩm đó mang tính chất tự truyện khá rõ.
Sự đa dạng, biến hóa trong phương thức trần thuật ở truyện ngắn của Nam
Cao còn thể hiện ở việc kết hợp tự nhiên giữa đối thoại với độc thoại nội tâm, giữa
khai triển cốt truyện với khắc họa tính cách. Trong những trang truyện “Chí Phèo”,
“Lão Hạc”, “Mua nhà”… lời đối thoại cũng bao hàm lời độc thoại hay lời độc thoại
có lúc cũng bao hàm đối thoại ngầm. Cũng chính vì vậy, Nam Cao thường đan xen
các giọng điệu, lời nhân vật hay lời tác giả, có lúc thật khó tách bạch. Điều này chỉ
đến Nam Cao mới có. Trong truyện ngắn “Mua nhà” nhà văn đã để cho nhân vật tự
phán xét và xám hối. Đó là những lời độc thoại nội tâm có tính chất tự thú đầy đau
22


đớn, xót xa. Người đọc không nhận thấy sự kể lể mà được dẫn dắt để đi vào thế
giới nội tâm đầy dằn vặt của nhân vật. Trong truyện ngắn “Chí Phèo”, để phản ánh
những diễn biến tâm trạng của Thị Nở, trong cái đêm gặp gỡ với Chí, nhà văn đã sử
dụng những đoạn độc thoại nội tâm khá đặc sắc. Sau khi đưa Chí vào nhà và trở về,
Thị Nở không sao ngủ được. Thị suy nghĩ, “Thị cười, thị thấy không buồn ngủ và
thị cứ lăn ra, lăn vào”. Rồi thị thấy Chí Phèo đáng thương, thấy kiêu ngạo vì đã cứu
hắn và thấy “yêu hắn”. Sự thương yêu ấy đã khiến thị nghĩ đến món cháo hành, nấu
và mang đến cho Chí. Sự chăm sóc của Thị Nở với Chí không còn là sự thương hại

mà còn thể hiện khao khát yêu thương của người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn bị
người ta tránh như “tránh hủi”. Qua sự miêu tả đó, nhà văn đã khẳng định bản chất
tốt đẹp của Thị Nở, khẳng định thị cũng là một con người lương thiện. Sự yêu
thương, trân trọng của nhà văn với nhân vật cũng được bộc lộ rõ nét. Như vậy, khi
kể tâm trạng nhân vật bằng lời của nhân vật, thì cũng có nghĩa là nhà văn đã để cho
nhân vật tự bộc lộ, tự “phơi bày” đời sống bên trong của mình. Đồng thời, nhà văn
cũng chêm xen những lời đánh giá khách quan thể hiện cái nhìn đa chiều của mình.
2.2.5. Giọng điệu trần thuật
Trong văn xuôi trung đại, giọng điệu trần thuật thường không được thể hiện
rõ. Giọng điệu trần thuật của tác giả truyện trung đại thường là giọng khách quan
kể về một sự việc, một nhân vật, một câu chuyện nào đó ở một nơi nào đó và không
hề kèm theo bất kì quan điểm, thái độ gì. Trong thơ ca trung đại, giọng điệu có thể
dễ dàng nhận thấy được nhưng trong văn xuôi trung đại thì không có. Cũng có lúc,
tác giả trung đại bộc lộ quan điểm đánh giá thông qua những đoạn văn giáo huấn
cuối tác phẩm nhưng nhìn chung đó vẫn chỉ là giọng bình luận của người ngoài
cuộc thể hiện bài học đạo đức mà tác phẩm mang lại. Chỉ đến đầu thế kỉ XX, các
nhà văn mới bắt đầu tạo cho mình một giọng điệu riêng. Tuy nhiên, mỗi nhà văn
mỗi khác góp phần tạo nên một nền văn xuôi hiện đại đa thanh, đa giọng điệu. Là
nhà văn trào phúng, luôn nhìn thấy những cái lố lăng, kệch cỡm, giọng điệu chủ
23


×