Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Top 5 bài Phân tích hình tượng người lái đò trong tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119 KB, 22 trang )

Bài văn mẫu lớp 12
Phân tích hình tượng người lái đò trong tùy bút Người lái đò sông
Đà của Nguyễn Tuân
Dàn ý phân tích hình tượng Người lái đò
I. Mở bài
Nguyễn Tuân là cây bút tài hoa, uyên bác, cả đời say mê tìm kiếm vẻ đẹp của cuộc sống.
Ông có sở trường về thể loại tuỳ bút. Một trong những sáng tác tiêu biểu của ông là tuỳ
bút “Người lái đò sông Đà”. Tác phẩm đã khắc hoạ vẻ đẹp đa dạng vừa hung bạo vừa trữ
tình của con sông Đà và ca ngợi người lái đò giản dị mà kì vĩ trên dòng sông.
II. Thân bài
1. Giới thiệu chung.
Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” dược in trong tập tuỳ bút “Sông Đà” (1960), gồm 15 bài
tuỳ bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời kì xây dựng
CNXH ở miền Bắc. Đó là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong
kháng chiến chống Pháp,đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đến với
nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn
xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo.
Ngoài phong cảnh Tây Bắc uy nghiêm, hùng vỹ và tuyệt vời thơ mộng, NT còn phát hiện
những điểm quý báu trong tâm hồn con người mà ông gọi là “thứ vàng mười đã được thử
lửa, là chất vàng mười của tâm hồn Tây Bắc.”
Qua “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân với lòng tự hào của mình đã khắc hoạ những
nét thơ mộng, hùng vỹ nhưng khắc nghiệt của thiên nhiên đất nước qua hình ảnh con
sông Đà hung bạo và trữ tình. Đồng thời, nhà văn cũng phát hiện và ca ngợi chất nghệ sĩ,


sự tài ba trí dũng của con người lao động mới: chất vàng mười của đất nước trong xây
dựng CNXH qua hình ảnh người lái đò sông Đà.Từ đó nhà văn ca ngợi sông Đà, núi rừng
Tây Bắc vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, đồng bào Tây Bắc cần cù, dũng cảm, rất tài tử, tài
hoa.
2. Phân tích nhân vật người lái đò.
Người lái đò hiện lên trước hết là một người lao động từng trải, có nhiều kinh nghiệm đò


giang, có lòng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, nhanh nhẹn và cả sự quyết đoán nữa. Nguyễn
Tuân đưa nhân vật của mình vào ngay hoàn cảnh khốc liệt mà ở đó, tất cả những phẩm
chất ấy được bộc lộ, nếu không phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. nhà văn gọi
đây là cuộc chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông Đà, trên một
quãng thuỷ chiến ở mặt trận sông Đà. Đó chính là cuộc vựơt thác đầy nguy hiểm chết
người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một trận đánh mà đối phương đã hiện ra diện mạo
và tâm địa của kẻ thù số một :
“Đá ở đây ngàn năm vẫn mai phục hết trong dòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền
nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường
ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đá nào trông cũng
ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này… Sông Đà
đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông. Đám tảng
hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền, một cái thuyền đơn
độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn...”
Trong thạch trận ấy, người lái đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa
phóng thẳng vào mình. Khi sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc nhất là nước bám lấy
thuyền như đô vật túm thắt lưng đặng lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la
não bạt, ông lão vẫn không hề nao núng, bình tĩnh, đầy mưu trí như một vị chỉ huy, lái
con thuyền vượt qua ghềnh thác. Ngay cả khi bị thương, người lái đò vẫn cố nén vết
thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch như cái luồng sóng đánh hồi


lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. “Phá xong cái trùng vi thạch trận thứ
nhất”, người lái đò “phá luôn vòng vây thứ hai”. Ông lái đò đã nắm chắc binh pháp của
thần sông thần đá. Đến vòng thứ bà, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả,
nhưng người lái đã chủ động “tấn công”: Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa
đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong
cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái
được lượn được. Trong cuộc chiến không cân sức ấy, người lái đò chỉ có một cán chèo,
một con thuyền không có đường lùi còn dòng sông dường như mang sức mạnh siêu nhiên

của loài thuỷ quái. Tuy nhiên, kết cục cuối cùng, người lái đò vẫn chiến thắng, khiến cho
bọn đá tướng tiu nghỉu bộ mặt xanh lè vì phải chịu thua một con thuyền nhỏ bé.
Người lái đò trong tác phẩm là một người lao động vô danh, làm lụng âm thầm, giản dị,
nhờ lao động mà chinh phục được dòng sông dữ, trở nên lớn lao, kì vĩ, trở thành đại diện
của CON NGƯỜI. Người lao động nhờ ý chí kiên cường, bền bỉ, quyết tâm mà chiến
thắng sức mạnh thần thánh của thiên nhiên. Đó chính là yếu tố làm nên chất vàng mười
của nhân dân Tây Bắc.
Nổi bật nhất, độc đáo nhất ở người lái đò sông Đà là phong thái của một nghệ sĩ tài hoa.
Khái niệm tài hoa, nghệ sĩ trong sáng tác của Nguyễn Tuân có nghĩa rộng, không cứ là
những người làm thơ, viết văn mà cả những người làm nghề chẳng mấy liên quan tới
nghệ thuật cũng được coi là nghệ sĩ, nếu việc làm của họ đạt đến trình độ tinh vi và siêu
phàm. Trong người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân đã xây dựng một hình tượng người lái
đò nghệ sĩ mà nhà văn trân trọng gọi là tay lái ra hoa. Nghệ thuật ở đây là nắm chắc các
quy luật tất yếu của sông Đà và vì làm chủ được nó nên có tự do.
Quy luật ở trên con sông Đà là thứ quy luật khắc nghiệt. Một chút thiếu bình tĩnh, thiếu
chính xác, hay lỡ tay, quá đà đều phải trả giá bằng mạng sống. Mà ngay ở những khúc
sông không có thác lại dễ dại tay dại chân mà buồn ngủ. Chung quy lại, nơi nào cũng
hiểm nguy. Ông lão lái đò vừa thuộc dòng sông, thuộc quy luật của lũ đá nơi ải nước
hiểm trở này, vừa nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Vì thế, vào trận mạc, ông


thật khôn khéo, bình tĩnh như vị chỉ huy cầm quân tài ba. Mọi giác quan của ông lão đều
hoạt động trong sự phối hợp nhịp nhàng, chính xác. Xong trận, lúc nào cũng ung dung,
thanh thản như chưa từng vượt thác: sóng thác xèo xèo tan ra trong trí nhớ. Sông nước lại
thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn về cá
anh vũ, cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang ca mùa khô nổ những tiếng to như mìn
bộc phá rồi túa ra đầy tràn ruộng. Cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến
thắng vừa qua nơi ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi. Như những nghệ sĩ chân chính,
sau khi vắt kiệt sức mình để thai nghén nên tác phẩm không mấy ai tự tán dương về công
sức của mình. nhà văn Nguyễn Tuân đưa ra một lời nhận xét: Cuộc sống của họ là ngày

nào cũng chiến đấu với sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy sự sống từ tay những
cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp, đáng nhớ… Họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo.
Phải chăng người lái đò anh hùng có lẽ dễ thấy, nhưng nhìn người lái đò tài hoa, chỉ có
Nguyễn Tuân.
III . Kết bài
Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật tài hoa
uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân. Tác phẩm không chỉ ngợi ca vẻ đẹp kì vĩ thơ mộng
của thiên nhiên Tây bắc mà còn ca ngợi vẻ đẹp bình dị, anh hùng mà tài hoa của người
dân lao động nơi đây. Qua đó, nhà văn Nguyễn Tuân bộc lộ tình yêu đất nước, niềm tự
hào hứng khởi, gắn bó tha thiết với non sông Việt.
Phân tích hình tượng người lái đò - Mẫu 1
Một tác phẩm văn học lớn, có giá trị sống mãi trong lòn người đọc thì tác phẩm đó phải
xây dựng được những nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình hội tụ đầy đủ tài
năng và tâm huyết của người nghệ sĩ. Nhân vật ông lái đò trong tùy bút “Người lái đò
sông Đà” của Nguyễn Tuân là một nhân vật như thế.
Dưới ngòi bút thần kì của Nguyễn Tuân, bức tranh thiên nhiên sông Đà hiện lên vô cùng
hung bạo, trữ tình có vị trí quan trọng làm nên một tấm phông rất phù hợp để hình tượng


người lao động ở trên núi rừng Tây Bắc nổi lên với hai phẩm chất, đó là chất anh hùng và
chất nghệ sĩ mà tiêu biểu là ông lái đò rất gan dạ, dũng cảm gần hai mươi năm chiến đấu
với thác đá song nước sông Đà để tồn tại. Tay lái của ông được miêu tả là “tay lái ra hoa”.
Ông lái đò hiện lên trong những trang văn của Nguyễn Tuân đầy ấn tượng với những nét
về ngoại hình đúng là một con người của sông nước: Ông gần bảy mươi tuổi nhưng rất
chắc khỏe “thân hình gọn quánh như chất sừng, chất mun”, “tiếng nói ào ào như sông
nước”. “hai tay dài lêu nghêu như cái sào lái đò”, “hai chân khuỳnh khuỳnh như đang kẹp
chặt cái cuống lái trong tưởng tượng”… Chỉ vài nét phác họa tài hoa mà nhà văn như
chạm khắc hình tượng ông lái đò như là một anh hùng trên sông nước, vĩnh viễn đọng lại
vào trái tim bạn đọc để dự báo về nhân vật cả cuộc đời gắn với nghề lái đò và mức độ tay
nghề đã đạt đến mức nghệ sĩ.

Có lẽ bao tình cảm đam mê, yêu quý sông Đà của Nguyễn Tuân được gửi gắm vào nhân
vật ông lái đò, nên nhà văn đã để nhân vật của mình gắn bó với sông Đà đến mức máu
thịt, hiểu và yêu dòng sông đến mức thuộc lòng từng tên thác tên ghềnh hơn một nghìn
tên dù dễ hay khó đều hội tụ lắng đọng thành một dòng chảy trong trái tim của ông lái đò
hay chính là trái tim của Nguyễn Tuân. Ông thuộc dòng sông như thuộc một “bản trường
ca, thuộc đến từng dấu chấm dấu phẩy, dấu chấm than và từng đoạn xuống dòng”. “Ông
lái đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, ông đã thuộc quy luật phục kích của
lũ đá nơi ải nước”. Chính vì thế mà ông lái đò đã khuất phục, chế ngự được sự hung bạo
của dòng sông Đà. Ông không phải thần thánh mà chỉ là một người lao động bình thường
bằng xương bằng thịt nhưng với chí dũng song toàn nên ông vẫn chiến thắng thiên nhiên
nghiệt ngã để tồn tại lao động sáng tạo trong công cuộc xây dựng bảo vệ Tổ quốc. Tính
cách của ông lái đò được cụ thể qua những cuộc giao tranh dữ dội với nước, sóng, gió và
đá qua ba thạch trận. Trước hết là trùng vi thạch trận thứ nhất, người đọc đặc biệt ấn
tượng với những câu văn tả đá được nhân hóa như một đội quân: “đá tảng, đá hòn”..;, “đá
tiền vệ” đã bày ra thạch trận với năm cửa, có bốn cửa tử và một cửa sinh. Bên cạnh đó,
nhà văn sử dụng một loạt động từ trùng điệp để tô đậm sức mạnh của đội quân đá: “mai
phục”, “nhổm cả dậy”, “đứng ngồi nằm tùy theo sở thích”. “ăn chết”, ‘canh cửa”, “hất


hàm’…Cộng hưởng với những động từ là những tính từ làm nổi bật tính hung bạo: “ngỗ
ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó…Tất cả làm nổi bật thế và lực của đá sông vừa đông
vừa mạnh hung tợn, ghê sợ tạo thành thế không cân sức với ông lái đò chỉ có một mình
đơn phương độc mã để gieo vào lòng người đọc bao phấp phỏng, hồi hộp. Bên cạnh đá là
nước, “phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đá”, tạo nên âm thanh dữ
dội tăng thêm không khí chiến đấu ác liệt. Sóng nước biết tung ra các đòn đánh nguy
hiểm như đánh giáp lá cà, đánh khuýp quật vô hồi, đá trái, thúc gối…Có thể nói Nguyễn
Tuân đã rộng mở sự uyên bác tài hoa của mình để kho ngôn từ phong phú sinh động đầy
ắp trong mọi lĩnh vực của sự sống, tuôn chảy không ngừng cả các ngôn ngữ quân sự thể
thao, quân sự cũng được huy động với tần số đậm đặc để cực tả đá nước sông Đà. Đây
chính là nghệ thuật vẽ mây đẩy trăng để gián tiếp ca ngợi chí dũng song toàn của ông lái

đò. Ở chặng này, nhà văn ca ngợi ông lái đò có sức chịu đựng phi thường “ông đò cố nén
vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt cuống lái”…chỉ huy ngắn gọn kín đáo và ông đã chiến
thắng “phá song trùng vi thạch trận thứ nhất”.
Ở trùng vi thạch trận thứ hai, đá nước sóng tăng thêm nhiều cửa tử “dòng thác hùm beo
đang hồng hộc tế mạnh”, “bốn năm thủy quân không ngớt khiêu khích”…Những động từ
mạnh vẫn tiếp tục tuôn chảy không ngớt trên những trang văn cộng hưởng với phép tu từ
so sánh nhân hóa rất độc đáo giúp nhà văn biến sóng nước thành hùm thiêng, sông nước
tăng thêm sức mạnh đến đỉnh điểm của Đà giang để tiếp tục tôn lên tư thế hào hùng của
ông lái đò.
Ông lái đò “không chút nghỉ tay, nghỉ mắt phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến
thuật”, “ông đò nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá, ông đã thuộc hết quy luật
phục kích của lũ đá” nên ông chủ động tự tin nhanh nhẹn làm chủ tình thế “cưỡi lên thác
sông Đà như cưỡi hổ, nắm chặt bờm sóng, ghì cương lái, phóng nhanh, chặt đôi thác để
mở đường tiến”. Những động từ mạnh liên tiếp lại như đưa người đọc vào cuộc chiến của
sóng nước tạo ra trạng thái say như say sóng, để từ đó tôn vinh lên những nét đẹp của ông
lái đò đó là mưu trí, dũng cảm, kiên cường. Nếu ở cuộc giao tranh thứ nhất và thứ hai
Nguyễn Tuân cực tả vẻ đẹp trí dũng song toàn và phẩm chất anh hùng của ông lái đò thì ở


chặng thứ ba này Nguyễn Tuân muốn cho người đọc thấy tay lái ra hoa của ông lái đò.
Nguyễn Tuân miêu tả “bên phải, bên trái đều là luồng chết” khiến ông lái đò phải vận
dụng tài năng nghề nghiệp của mình, nâng thuyền của mình lên mặt nước như nghệ sĩ lái
mô tô bay trong không trung để “xuyên qua mặt nước”…những động từ mạnh “vút” hay
“xuyên” lặp đi lặp lại nhấn mạnh tốc độ lái thuyền nhanh mạnh, cộng với nhiều phép so
sánh liên tiếp khiến người đọc vừa cảm nhận được độ nhanh mạnh vừa cam nhận được độ
khéo léo của con thuyền trong hướng đi luồn lách tránh đội quân đá đông đúc. Nghệ thuật
lái thuyền đến đây khiến người đọc hoàn toàn tâm phục, khẩu phục. Đúng là ông lái đò
đã đạt đến mức nghệ sĩ trong nghề nghiệp của mình.
Nguyễn Tuân đích thực là một nghệ sĩ tài hoa bậc thầy trong việc ngợi ca những con
người lao động trong gian lao nguy hiểm nhưng đầy vinh quang, điển hình là hình tượng

ông lái đò trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” với nhiều nét đẹp và cả chất nghệ sĩ
trong nghề.
Phân tích hình tượng người lái đò - Mẫu 2
Với mười lăm bài tùy bút và một bài thơ phác thảo sau chuyến thực tế ngược miền Tây
Bắc điệp trùng mà đầy kỳ thú, tập “Tùy bút sông Đà” của nhà văn Nguyễn Tuân ra đời
(1960) đã góp cho văn học nước nhà một tác phẩm giá trị khẳng định cuộc sống và con
người Tây Bắc trong sự nghiệp dựng xây đất nước “Người lái đò sông Đà” là một thiên
tùy bút đặc sắc trong tập tùy bút của Nguyễn Tuân. Đặc biệt hình ảnh ông lái đò dũng
cảm và tài ba đã để lại ấn tượng khó phai mờ trong tâm trí người đọc. Cùng với hình
tượng này, phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân càng rõ thêm, ấn tượng
thêm.
Nhân vật ông lái chắc chắn sẽ bị mờ nhạt nếu như tác giả chỉ miêu tả ông trong cuộc mưu
sinh phẳng lặng trên sông nước hiền hòa. Người lái đò trong tác phẩm thực sự trở thành
hình tượng chân thật và sông động là sự ký thác ý tưởng thẩm mỹ của Nguyễn Tuân, văn
sĩ suốt một đời say mê kiếm tìm và khẳng định cái đẹp. Hình tượng ông lái đò đẹp một


cách kiêu hãnh trong mối tương quan đồng hiện với nhân vật sông Đà dữ dằn mà kỳ vĩ !
Đấy cũng chính là dụng ý tư tưởng và nghệ thuật của Nguyễn Tuân, khi ông muốn “ghi”
ở đoạn này cái hình ảnh chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông Đà,
trên một quãng thủy chiến ở mặt trận sông Đà
Vẻ đẹp đầy ấn tượng về ông lái đò là sự lồn tại sống động trước thử thách ghê gớm của
dòng sông Đà. Ta hình dung như cả một “thạch trận trên sông” dàn giăng muốn bổ chụp
hòng nuốt lấy con thuyền và ông lái. Trong tình thế ấy, sông Đà mới dữ dội và kỳ quái
làm sao: “Nó bầy thạch trận trên sông. Đám tảng, đám hòn chia làm ba hàng chặn ngang
trên sông đòi ăn chết cái thuyền một cái thuyền đơn độc...”. Trong trận đồ bát quái đó
“với đá, nước thác reo hò làm thanh viện... những hòn đá bệ vệ oai phong lẫm liệt”, sông
nước mà dữ dằn như quỷ dữ. Nhưng cũng chính từ cảnh tượng dữ dội mà kỳ vĩ ấy, hình
tượng ông lái hiện lên rõ ràng trong vẻ đẹp của sức mạnh và bản lĩnh cao cường.
Thiên nhiên muốn lấn át, muốn nuốt sống, ông lái đò bình tĩnh và quả cảm vượt lên sóng

dữ: “Ông lái đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hắt lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào
mình”. Bao nhiêu thử thách của sông nước ông lái phải vượt qua. Không có nghị lực phi
thường và sự bình tĩnh chủ động làm sao ông qua được con quỷ dữ sóng nước: “có lúc
chúng muốn đội cả thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đồ vật túm thắt lưng ông lái đò
đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt...”.
Quả là nhà văn Nguyễn Tuân đã huy động một binh chủng ngôn ngữ thật đa dạng, ở
nhiều lĩnh vực để miêu tả đầy kịch tính, đầy ấn tượng về cuộc giao tranh giữa con người
(ông lái đò) và thiên nhiên (sông Đà). Những cảm giác mạnh luôn đến với ta đấy là cái dữ
dội mà kỳ vĩ của dòng nước ấy là cái bình tĩnh chủ động đầy quả cảm, đầy bản lĩnh của
ông lái đò. Con người dũng cảm tài ba và thiên nhiên dữ tợn kỳ quái cùng lao vào trong
cuộc quyết chiến. Và hình tượng ông lái đò càng về sau càng trở nên kiêu dũng, quyết liệt
đến tận cùng trong cuộc giao đấu. Ông lái vượt lên sóng dữ bằng dũng khí tuyệt vời bởi
ông “cưỡi lên thác sông Đà, phải cưỡi đến cùng như cưỡi hổ... Ông lái đò ghì cương lái


bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà miết một đường chèo
về phía cửa đá ấy”.
Một đặc điểm của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân là “thiên nhiên hay con người đều
được chú ý khám phá ở phướng diện văn hóa, mĩ thuật của nó”. Vì thế, ta còn bắt gặp ở
đây hình ảnh một ông lái đò rất mực tài hoa, nghệ sĩ bên cạnh vẻ đẹp của lòng dũng cảm
và bản lĩnh cao cường trước thử thách của thiên nhiên.
Một tư thế tuyệt đẹp của ông lái lúc “ghì cương” mà “phóng nhanh vào cửa sinh” cho ta
thấy ấn tượng về một chàng kỵ sĩ dũng mãnh và rất đỗi hào hoa. Một phong thái bình
thản, tự tin khi ông lái ứng chiến với sóng dữ”... đè sắn lên mà chặt đôi ra để mở đường
tiến”. Và hình ảnh con thuyền vượt lên “như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi
nước...” đem đến cho ta một cảm giác vừa sảng khoái, vừa hả hê trước sự chiến thắng của
ông lái - nghệ sĩ. Và đây - hình ảnh cuối của người lái đò cũng là hình ảnh tập trung của
sự ký thác tâm tình và nghệ thuật của Nguyễn Tuân.
“...Trên thác hiên ngang một người lái đò sông Đà có tư do, vì người lái đò ấy đã nắm
được cái quy luật tất yếu của dòng nước sông Đà. Hình tượng ông lái đò một con người

lao động bình dị mà phi thường được Nguyễn Tuân khắc họa như một biểu tượng đẹp của
con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng đất nước. Đây là một cách nhìn, cách
khám phá và khẳng định con người Việt Nam trong thời đại mới ! Chính vì thế tùy bút
“Người lái đò sông Đà” nói riêng và mười lăm thiên tùy bút về sông Đà của Nguyễn
Tuân nói chung đã góp phần khẳng định vẻ đẹp của cuộc sống mới và con người mới trên
đất nước Việt Nam chúng ta.
Bài tùy bút “Người lái đò sông Đà” mà ấn tượng mạnh mẽ là cuộc vượt thác sông Đà của
ông lái đò giúp chúng ta nhận ra một điều lý thú: vẻ đẹp hào hùng tài hoa của những
người lao động bình thường nơi có dòng sông ngọn thác hoang vu kia là có thật. Chủ
nghĩa anh hùng cách mạng đâu chì có ở nơi chiến trường với tiếng súng tiếng bom gầm.


Đọc hết “Người lái đò sông Đà” mà tâm trí ta vẫn như hiển hiện hình ảnh ông lái đò dũng
mãnh và hào hoa với con thuyền nhỏ cưỡi lên sóng dữ mà đi tới mà chiến thẳng, vẻ đẹp
ấy huy hoàng và tráng lệ làm sao!
Phân tích hình tượng người lái đò - Mẫu 3
Nguyễn Tuân là một trong những cây bút tiêu biểu của văn xuôi hiện đại. Mỗi tác phẩm
của ông là một bài ca về cái đẹp của cuộc sống, của con người, với tư tưởng, tình cảm
gắn bó với đất nước quê hương. Nguyễn Tuân được người đọc đặc biệt chú ý về phong
cách nghệ thuật rất riêng và rất độc đáo của ông. Người lái đò Sông Đà, đó là một bài tùy
bút, cũng là một bài thơ bằng văn xuôi đã thể hiện được những nét tiêu biểu về phong
cách đó.
Người lái đò Sông Đà trước hết là một tác phẩm viết về một con người và một con sông.
Nhưng dưới ngòi bút đầy hứng thú và tài hoa của ông mọi cảnh vật thiên nhiên đều trở
thành những công trình mĩ thuật, con người đều trở thành những nghệ sĩ điêu luyện. Bằng
sự tiếp cận quan sát và khả năng mô tả cùng với một kho chữ nghĩa vô cùng giàu có,
chuẩn xác, Nguyễn Tuân đã dựng lên những bức tranh hết sức sống động, những hình
tượng kì vĩ giàu sức hấp dẫn trong thiên tùy bút độc đáo này.
Người lái đò trên sông Đà trong tác phẩm, trước hết là một ông già bảy mươi tuổi, đã
giành một phần lớn đời mình cho nghề lái đò dọc trên sông Đà. Đó là một người lái đò

lão luyện: “Trên dòng sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi, chính tay giữ
lái độ sáu chục lần..." trong thời gian hơn chục năm làm cái nghề đầy nguy hiểm và gian
khổ này. Đây là một con người từng trải, hiểu biết, rất thành thạo trong nghề lái đò, và đã
đạt đến trình độ “bằng cách lấy mắt và nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng tất cả những
luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở”. Nguyễn Tuân tiếp tục bày tò sự khâm
phục đối với con người này. "Sông Đà, đối với ông lái đò ấy, như một trường thiên anh
hùng ca mà ông đã thuộc đến cả những dấu chấm than, chấm câu và cả những đoạn


xuống dòng". Thật là một cách so sánh “rất văn chương" đầy thú vị và cũng "rất Nguyễn
Tuân".
Hình tượng người lái đò với “cái đầu bạc quắc thước ấy đặt trên một thân hình cao to và
gọn quánh như chất sừng, chất mun" và những cánh tay vẫn là cánh tay của một "chàng
trai', "trẻ tráng quá", Nguyễn Tuân đã gọi đó là một thứ “Vàng mười”, ông đã đứng trước
những thách thức của con sông Đà với những thế lực của những bãi đá ghê gớm, những
cạm bẫy đầy kinh hoàng: “Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân
giời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có
chiếc nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc thuyền nào nhô
vào đường ngoặt sóng là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền". Và một mình
một thuyền ông đã giao chiến như một dũng sĩ: hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi
sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Mặt nước hò la vang dậy quanh minh, ùa vào mà bè
gẫy cán chèo, vũ khí trên cánh tay mình”, và sóng nước “thúc vào gối bụng và hông
thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng
ông đò, đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt. Có lúc tưởng như
ông lái đò bị nhấn chìm dưới dòng sông... Cách miêu tả chân thực và táo bạo này cho
thấy sức mạnh ghê gớm của dòng thác hung dữ, con người chỉ cần lóa mắt, lỡ tay một
chút là phải trả giá bằng sinh mạng của mình.
Nhưng dũng cảm và gan dạ chưa đủ, mà cái quan trọng hơn là tài nghệ của người cầm lái
để lái con đò đến mức điêu luyện và nghệ thuật. Tác giả so sánh người lái đò sông Đà với
người lái xe lao xuống dốc đèo, tuy rất nguy hiểm nhưng người lái xe còn có phanh chân,

phanh tay, có tiến lên, lùi lại, "còn như cái thuyền mà lao xuống thác thì chả có cái phanh
nào cả, chỉ có lao đi chứ không lùi lại, không lao trúng tim luồng nước thì thuyền quay
ngang mà ụp, chứ không có lùi gì cả..”, vẫn bằng phương pháp so sánh, nhưng với những
hình ảnh táo bảo, khơi gợi lạ lùng, tác giả đã tả sông Đả thiên biến vạn hóa, mỗi chỗ như
có một bầy nguy hiểm riêng, đòi hỏi người lái đò phải có một cách ứng phó riêng. Có chỗ
thì nước sông "reo lên như đun sôi lên một trăm độ muốn hất tung đi một cái thuyền đang
phải đóng vai một cái nắp ấm nước đang sôi khổng lồ". “Có luồng nước đi lầm vào thì


chết ngay". Lại có những “hút nước" xoáy sâu như lòng giếng “cái hút nó hút xuống,
thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi"...
Thật là một dòng sông Đà đầy hiểm trờ, đầy nguy nan cho con người. Thế nhưng, “ông
lái đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cải cuống lái..." Mặc dù mặt “méo
bệch đi" vì những đòn hiểm, nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ
huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái”.
Rõ ràng qua cách miêu tả đến tột cùng sự dữ dội của con sông, Nguyễn Tuân nhằm đến
một mục đích lớn: ca ngợi sự dũng cảm, tài trí của con người, ca ngợi sự chiến thắng vĩ
đại của ông lái đò, đã vượt bao thác ghềnh, sóng to gió cả đưa con đò về đến bến bình
yên, không phải chỉ một lần, mà hàng trăm lần, suốt mười lăm năm làm người lái thuyền
vượt sông Đà. Cuộc đọ sức giữa con người và thiên nhiên thật ghê gớm, căng thẳng, đầy
sáng tạo và con người đã chiến thắng, trở về cuộc sống thanh bình: "Thế là hết thác.
Dòng sông vặn mình vào một cái bến cát có hang lạnh (...). Sông nước lại thanh bình.
Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam...".
Cảm hứng lãng mạn đậm đà trong sáng, lan tỏa trong từng câu văn tả thực, tạo cho đoạn
văn một sức lôi cuốn không thể cưỡng nổi. Đó là một bài ca về lao động, về con người
lao động. Sau mười năm làm nghề lái đò, cả sau khi đã thôi nghề vài chục năm, trên ngực
người lái đò vẫn còn "bầm tụ” một “củ khoai nâu", với Nguyễn Tuân, “đó cũng là cái
hình ảnh quý giá của một thứ huân chương lao động siêu hạng".
Cảm ơn nhà văn Nguyễn Tuân đã cho chúng ta thưởng thức một công trình nghệ thuật
đầy sáng tạo. Ngoài việc cung cấp cho chúng ta những kiến thức và tri thức về cuộc sống,

về văn hóa và lịch sử địa lí, về ngôn ngữ..., tác phẩm còn là một khối kiến trúc thẩm mĩ
độc đáo, giúp ta cảm thụ được cái đẹp một cách sâu sắc, cái đẹp của con người cụ thể,
con người lao động Người lái đò Sông Đà. Nguyễn Tuân đích thực là một nghệ sĩ tài hoa
bậc thầy trong việc ngợi ca những con người lao động gian lao nguy hiểm nhưng đầy
vinh quang.


Phân tích hình tượng người lái đò - Mẫu 4
Bằng ngòi bút độc đáo, uyên bác, tài hoa, cùng lòng yêu thiên nhiên sâu sắc và những
khám phá mới mẻ trong chuyến đi trải nghiệm thực tế ngược dòng Tây Bắc, Nguyễn
Tuân đã viết nên những trang bút ký đặc sắc, tái hiện một cách độc đáo vẻ đẹp kỳ vĩ, thơ
mộng được ví như bản trường ca bất tận rừng già của sông Đà. Song song với hình tượng
con sông Đà vừa dữ dội vừa dịu dàng ấy, là hình ảnh người lái đò sông Đà can trường,
dũng cảm, độc hành đưa con đò mưu sinh chiến đấu với con sông Đà vừa hung hiểm vừa
xinh đẹp.
Nguyễn Tuân đã có nhận xét ban đầu như thế này “Cuộc sống của người lái đò sông Đà
quả là một cuộc chiến đấu hằng ngày với thiên nhiên, một thứ thiên nhiên Tây Bắc có
nhiều lúc trông nó thành ra diện mạo và tâm địa của một kẻ thù số một”. Để thấy rằng
cuộc sống mưu sinh trên dòng sông hùng vĩ kiêu ngạo ấy phải vất vả, gian lao biết mấy,
có lẽ là nơi chỉ giành cho những chàng trai lực lưỡng trẻ khỏe, đủ can đảm mà chiến đấu
với con sông mang tâm tình bất định “lúc van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn
mà chế nhạo”, như một con thú với tiếng rống “như một ngàn con trâu mộng đang lồng
lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa…”. Ấy thế mà chẳng như chúng ta hằng tưởng
tượng, người lái đò ấy lại là một ông lão, phải, là một ông lão đã tầm bảy mươi, ở độ tuổi
thất thập cổ lai hi, với bao người là độ tuổi được an hưởng tuổi già, chứ chẳng phải lênh
đênh kiếm kế mưu sinh trên sóng nước hiểm trở.
Nguyễn Tuân đã xây dựng một hình tượng người lái đò đầy xuất sắc với hai vai trò nổi
bật, vừa là một chiến sĩ can trường trên mặt trận sông nước với vũ khí duy nhất là mái
chèo, vừa là một người nghệ sĩ tài hoa hằng ngày vẫn viết nên bản những bản hùng ca
tuyệt đẹp về sức mạnh của những con người lao động. Theo Nguyễn Tuân, ông lái đò đã

xuôi ngược trên sông Đà không dưới trăm lần, trong đó đã có tới 60 lần ông cầm lái
chính. Hình ảnh ông lái đò Lai Châu hiện lên với một vẻ ngoài đầy phong sương, cơ thể
in hằn mùi sông nước, gắn liền với nghề nghiệp của ông “tay lêu nghêu như cái sào, chân
khuỳnh ra như kẹp lấy một cái bánh lái tưởng tượng, giọng nói ào ào như thác lũ sông


Đà, nhãn giới vòi vọi như nhìn về một bến xa nào đó,…” đặc biệt trên ngực ông có nhiều
“củ nâu” đó là vết tích của những ngày tháng chiến đấu vật lộn với sông Đà, mà Nguyễn
Tuân đã dí dỏm ví nó như là “những huân chương lao động siêu hạng”.
Ông lái đò không phải là người an phận ngược lại ông thích đương đầu với hiểm nguy,
khó khăn, với những pha hành động gay cấn, thế nên ông thích đi qua những ghềnh thác
khó nhằn của con sông Đà, ông bảo rằng: “Chạy thuyền trên khúc sông không có thác nó
dễ dạy, chân tay dễ buồn ngủ”. Dù tuổi đã cao, nhưng ông luôn mang một tâm hồn trẻ
khỏe, hiếu chiến, bản tính mạnh mẽ, can trường, niềm tin yêu cuộc sống, cùng sự gắn bó
với nghề nghiệp và con sông Đà hùng vĩ, công việc của ông nghiễm nhiên trở thành niềm
đam mê bất diệt, là niềm vui trong cuộc sống lao động vốn vất vả của ông. Chỉ bằng
những nét khái quát như vậy, hình ảnh ông lái đò của Nguyễn Tuân đã để lại một dấu ấn
sâu sắc, ấn tượng trong lòng độc giả. Sông Đà trong lòng ông lái đò như một bản thiên
anh hùng ca mà ông đã thuộc lòng, thuộc đến “từng dấu chấm câu, dấu chấm than, cả
những đoạn xuống dòng”, sự tài hoa, tỉ mẩn ấy được tác giả ví như “đóng đanh vào
lòng”. Ông lái đò cũng nắm vững “binh pháp của thần sông thần núi”, như một vị tướng
tài vận dụng xuất sắc binh pháp Tôn Tử “biết địch biết ta, trăm trận trăm thắng”, lại cũng
như một người nghệ sĩ chuyên nghiệp nắm rõ cái mặt trận nghệ thuật đầy cam go của mà
ông đã theo đuổi gần hết đời người. Trong cuộc chiến không cân sức, giữa người lái đò lẻ
loi, cùng con sông Đà hung bạo, nguy hiểm, ông lái đò như một người hùng cưỡi chiến
mã, tay vung gươm vượt qua kẻ địch, như chiến thần Triệu Vân của Tam Quốc, đơn
thương độc mã phá vòng vây quân thù, chỉ khác mỗi điều mặt trận của ông là mênh mông
sóng nước.
Trên cái mặt trận hung hiểm, trèo thác vượt ghềnh ấy, đòi hỏi người chiến sĩ phải cực kỳ
dũng cảm và bình tĩnh để ứng phó với mọi sự biến đổi khôn lường, giảo hoạt của con

sông, bởi chỉ sơ sẩy một chút thôi thì đến mạng cũng chẳng còn, nói gì đến chuyện làm
một người nghệ sĩ tài hoa trên con sông Đà nghệ thuật. Nguyễn Tuân đã đặt cho những
khó khăn, cửa ải mà ông lái đò phải vượt qua một cái tên rất “nhà binh” và cũng đầy tính
nghệ thuật là “trùng vi thạch trận”. Ông lái đò đã xuất sắc lần lượt vượt qua những cửa ải


hung hiểm ấy một cách điêu luyện, mặc dù có những lúc đã bị thương, nhưng nỗi đau
đớn ấy chẳng thấm vào đâu so với việc bị mất mạng. Bằng kinh nghiệm dày dạn và lòng
dũng cảm, một tinh thần vững chãi cùng lòng tự tin đã “nắm chắc binh pháp của thần
sông thần núi”, cũng hiểu rõ phải chống trả, tránh né làm sao để qua được ải đầu tiên, ông
lái đò bước vào “trùng vi thạch trận thứ nhất” đầy căng thẳng. Có những lúc trúng đòn
hiểm, đau đớn đến “mặt méo bệch đi”, nhưng ông làm sao dám buông lỏng, chỉ cố nhịn
đau mà “kẹp chặt lấy cuống lái”, bình tĩnh vượt qua trùng vi thạch trận thứ nhất, thế là
qua được một ải. Không một phút nghỉ tay nghỉ mắt, ở trùng vi thạch trận thứ hai ông lập
tức thay đổi chiến thuật “đánh nhanh thắng nhanh”, không cho con sông Đà có một cơ
hội phải kích nào.
Vòng thứ hai này có phần hung hiểm hơn trước khi “tăng thêm nhiều cửa tử để lừa con
thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch sang bờ hữu ngạn”. Thế nhưng cái bẫy đó cũng
chẳng qua nổi con mắt tinh tường của ông lái đò, bởi ông đã nắm chắc “quy luật phục
kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này”. Ông ví lái đò qua khúc này như “cưỡi hổ phải
cưỡi tới cùng”, phải nắm đúng cái “bờm sóng” , rồi cứ thế “phóng nhanh vào cửa sinh, lái
miết một đường chéo về phía cửa đá ấy”. Ngặt thay lại có một bọn đá định lôi con thuyền
vào tập đoàn cửa tử, thì ông đò “vẫn nhớ mặt bọn này”, bọn thác đá vẫn không ngừng
khiêu khích, nhưng chúng chỉ như đang làm trò hề trước mặt ông đò, bởi ông đã tự tin
“tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên chặt đôi mà mở đường tiến”. Thế là
xong nốt ải thứ hai, nhanh và chuẩn xác. Nói nghe thì dễ đấy, nhưng có mấy ai đủ bình
tĩnh và tay chèo điêu luyện để nhằm trúng vào cửa sinh như ông lái đò Lai Châu? Còn
một ải cuối nữa, ải này “ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết, luồng sống ỏ
chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác”, mới nghe đã thấy khó khăn đủ
bề, nhưng ông đò rất mạnh dạn “phóng thẳng thuyền, chọc thủng giữa cửa đó” ,“thuyền

như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước”. Vậy là qua hết cả ba ải, mà ải nào cũng
nguy hiểm vô cùng, con sông lại trở về với vẻ thanh bình, lặng lẽ.
Đọc hết đoạn vượt thác đầy cam go, gay cấn của ông lái đò Lai Châu, ta cứ cảm tưởng
mình vừa coi một bộ phim hành động nghẹt thở, hồi hộp đến từng phút giây, mà ông lái


đò chính là nhân vật chính. Hình ảnh người lao động anh hùng, hằng ngày chiến đấu vật
lộn với thiên nhiên trong nguy hiểm trùng trùng đã làm nổi bật lên vẻ đẹp và sức mạnh
của con người trước thiên nhiên hùng vĩ và kiêu ngạo. Đây là một cuộc chiến không cân
sức, nhưng bằng sự thông minh, gan dạ, kiên cường bất khuất, con người lao động đã chế
ngự, vượt lên trên cái sự khiêu khích, hằn học của thiên nhiên. Hình tượng ông lái đò
được tác giả xây dựng trên hai vai trò, vừa là người chiến sĩ anh hùng, quả cảm, vừa là
người nghệ sĩ tài ba đã viết nên một bản hùng ca tuyệt đẹp về cuộc sống lao động, về
nghệ thuật chèo lái trên con sông Đà rộng lớn. Nguyễn Tuân có một quan điểm nghệ
thuật đầy mới mẻ, có phần tương đồng với một số tác giả như Nam Cao hay Nguyễn Huy
Tưởng, ông cho rằng nghệ thuật không phải chỉ là những người nghệ sĩ với những hình
tượng thơ mộng, mơ hồ cao xa như mây-trăng, gió-núi, mà người làm nghệ thuật còn là
những người lao động, vốn đã nhuần nhuyễn, đạt đỉnh cao điêu luyện trong chính nghề
nghiệp của mình thì cũng là người làm nghệ thuật chân chính, thứ nghệ thuật ấy chính là
nghệ thuật trong lao động. Bởi trong những con người ấy chất chứa cả một niềm đam mê
sâu sắc, niềm tin yêu, luôn tìm cách sáng tạo, đột phá, tạo ra những cung đường mới mẻ
cho nghề nghiệp của mình.
Hình tượng người lái đò sông Đà được xây dựng rất thành công qua ngòi bút độc đáo và
sáng tạo của Nguyễn Tuân. Trong hơi thở văn chương ấy, nhà văn đã khẳng định được tài
năng và sức mạnh cường đại của con người, cuộc chiến không cân sức giữa con người lao
động và thiên nhiên kỳ bí vốn có nhiều cam go, vất vả. Nhưng bằng sự thông minh, sáng
tạo, đức tính kiên cường, tỉ mỉ vốn ăn sâu vào máu của những người lao động, họ đã
chiến thắng một cách huy hoàng, vẻ vang nhất, trở thành người nghệ sĩ tài ba trên chính
mặt trận tìm kế sinh nhai của mình.
Phân tích hình tượng người lái đò - Mẫu 5

Nguyễn Tuân là một cây bút xuất sắc của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. "Người lái đò
Sông Đà" trích trong "Tùy bút Sông Đà" (1960). Đây là kết quả chuyến đi thực tế đến với
Tây Bắc năm 1958 để kiếm tìm "chất vàng" của thiên nhiên và chất vàng mười trong tâm


hồn con người. Đọc tác phẩm, ta bắt gặp hình ảnh Sông Đà với hai nét tính cách hung
bạo và trữ tình. Và nổi bật bên hình tượng ấy là người lái đò dũng cảm tài hoa trên sông
nước.
Điểm đặc biệt đầu tiên của nhân vật này chính là không có tên gọi cụ thể mà tên của ông
gắn liền với nghề nghiệp, địa danh: "ông lái đò Lai Châu". Điều này thể hiện, ông là đại
diện cho vẻ đẹp người lái đò trên sông nước, cần mẫn. Người lái đò là một ông lão 70
tuổi. Ông đã dành một phần lớn cuộc đời của mình để lái đò dọc trên Sông Đà. Bây giờ
ông đã thôi nghề khoảng mười năm." Trên sông ông xuôi ông ngược trên 100 lần, giữ tau
lái chính khoảng 60 lần". Chỉ bằng vài câu ngắn gọn giới thiệu về người lái đò, độc giả
phần nào đã hình dung ra ngoại hình và tố chất của ông. Đọc tiếp tác phẩm, ta có thể thấy
được điều đó.
Ông lái đò hiện lên là người khỏe mạnh, từng trải, ngoại hình và tố chất được tạo nên bởi
nét đặc thù của môi trường lao động là trên sông nước. "Tay ông lêu nghêu như cái sào,
chân ông lúc nào cũng khuỳnh ra như kẹp lấy một cuống lái tưởng tượng. Giọng ông ào
ào, nhỡn giới cao vòi vọi". Nguyễn Tuân gọi con người này là "thứ vàng mười" bởi ông
đã đứng trước thử thách và chiến thắng Sông Đà. Trước hết ở ông lái đò Lai Châu là
người tài hoa trí dũng, có phong thái ung dung của người nghệ sĩ. Ông tài trí, từng trải,
lão luyện trong nghề, đạt đến trình độ "lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng tất
cả những luồng nước của những con thác hiểm trở". Nguyễn Tuân đã bày tỏ lòng khâm
phục của mình đối với người lái đò bằng cách so sánh, liên tưởng độc đáo "sông Đà đối
với ông lái đò như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc cả dấu câu chấm than
và cả đoạn xuống dòng". Ông thuộc rõ quy luật phục kích của đá, biết rõ cửa tử cửa sinh.
Lòng dũng cảm của ông được thể hiện qua ba thạch trận. Vòng một sông Đà hiện lên như
một kẻ thù nham hiểm sải quyệt, không chỉ sóng gió mênh mang, hút nước, thác nước mà
còn bầy binh bố trận "bọt tung trắng xóa cả một chân trời đá". Đá mai phục ngàn năm

bày binh bố trận những binh pháp tôn tử. Ở vòng này gồm năm cửa trận, bốn cửa tử, một
cửa sinh chia thành ba tuyến tiền vệ, trung vệ và hậu vệ. Phối hợp với đá và thác nước hò


la vang dậy làm thanh điệp cho đá. Đá oai phong lẫm liệt tiến lùi thách thức còn sóng
nước như quân liều mạng. Nhưng ông lái đò vẫn giữ chặt mái chèo để khỏi bị hất tung ra
trận địa sóng. Ông cố nén vết thương kẹp chặt cuống lái kiên cường vượt qua cơn võ
chiến. Đến vòng hai, sông Đà lúc này mở ra nhiều cửa tử hơn, chỉ có một cửa sinh nằm
lập lờ phía tả ngạn. Dòng thác hùm beo hồng hộc thế mạnh. Bọn thủy quân cửa ải xô ra
níu thuyền vào cửa tử. Ông lái đò cùng chiếc thuyền cưỡi trên con sông như cưỡi trên
lưng hổ. Ông nắm chắc bờm sóng, ghì cương lái miết vào cửa sinh. Bốn năm bọn thủy
quân cứ ào nước xô ra níu thuyền vào cửa tử. Dòng sông như con thú hoang lồng lên đòi
ăn chết con thuyền. Nhưng ông già dằn mặt từng đứa nắm chắc quy luật của thần sông
thần đá không hề nao núng, tỉnh táo, sáng tạo thay đổi chiến thuật chiến thắng Sông Đà.
Bị thua ông lái đò ở hai vòng trước, trùng vi thứ ba, dòng thác càng trở nên điên cuồng
dữ dội hơn. Ít cửa ra vào, bên phải bên trái đều là cửa tử, luồng sống ở giữa ngay cạnh
voi đá vọng về xong ông lái đò vẫn bình tĩnh dũng cảm phóng thẳng thuyền. Thuyền vút
vút qua cánh cổng đá để rồi chiến thắng đi qua.
Không chỉ dũng cảm tài ba, người lái đò yển sông còn mang phong thái nghệ sĩ. Sau cuộc
vượt thác mọi nguy hiểm như tan biến "sóng nước xèo xèo tan trong trí nhớ". Họ lại đốt
lửa nướng ống cơm lam bàn chuyện cá anh vũ, cá rồng xanh như không có gì xảy ra".
Mặc dù ngày ngày họ phải vật lộn đối mặt với hiểm nguy rình rập. Đó là vẻ đẹp của một
tâm hồn nghệ sĩ.
Trong xây dựng nhân vật ông lái đò, Nguyễn Tuân chú ý khắc họa nét tài hoa của nghệ sĩ
"nhân vật phải là người nghệ sĩ trong nghề nghiệp". Nhà văn chú ý tạo tình huống thử
thách để nhân vật bộc lộ bản chất của mình. Sông Đà càng hung bạo bao nhiêu, người lái
đò càng tài hoa dũng cảm bấy nhiêu. Nhà văn am hiểu nhiều ngành nghệ thuật quân sự,
thể thao kết hợp với nghệ thuật miêu tả so sánh liên tưởng độc đáo qua ngôn ngữ phong
phú để làm nổi bật sông Đà và người lái đò Sông Đà. Tóm lại, thành công trong xây dựng
nhân vật ông lái đò Lai Châu đã trở thành sức hút riêng của tác phẩm trong nền văn học

nước nhà.


Phân tích hình tượng người lái đò - Mẫu 6
Mỗi khi nhắc đến những nhà văn viết tùy bút xuất sắc của nền văn học hiện đại Việt Nam
chúng ta không thể không nhắc tới nhà văn Nguyễn Tuân. Vùng đất Tây Bắc với những
núi cao, thác ghềnh hiểm trở đã lôi cuốn ngòi bút của Nguyễn Tuân, để rồi năm 1960 ông
xuất bản tập tùy bút Sông Đà trong đó có tùy bút Người lái đò sông Đà . Hình tượng nghệ
thuật xuyên suốt tác phẩm là hình ảnh ông lái đò Lai Châu được nhà văn tiếp cận tài hoa
– nghệ sĩ.
Ông lái đò năm nay khoảng chừng bảy mươi tuổi , ông sinh ra và lớn lên ngay bên bờ
sông Đà “quê ông ở ngay chỗ ngã tư sông sát tỉnh”. Ông có một ngoại hình đặc biệt,
mang đậm dấu ấn nghề nghiệp : thân hình ông cao lớn “gọn quánh như chất sừng, chất
mun”, “tay dài lêu nghêu như cái sào”, “chân lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh như gò lại kẹp
lấy một cái cuống lái tưởng tượng” rồi “ giọng ông ào ào như tiếng nước thác”. Mọi thứ
của ông giờ đây như đã hòa nhịp với con sông lúc hung hãn lúc lại dịu êm này , họ hòa
vào nhau theo năm tháng , hòa vào nhau trong từng hơi thở nhịp nhàng, ăn ý một cách
đến lạ lùng.
Đối với ông lái đò thì sông Đà như một bản trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc
đến cả những cái chấm than, chấm câu và cả những đoạn xuống dòng. Ông “nhớ tỉ mỉ
như đóng đanh vào trong lòng tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm
trở”, “nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá”, làm chủ được dòng sông. Đó là tư thế
và sự hiểu biết của con người làm chủ thiên nhiên , làm chủ hoàn cảnh. Ông hiểu về con
sông cặn kẽ như hiểu chính bản thân mình vậy , có hiểu ông mới ngự trị , mới làm bạn
được với nó . Thật đúng là “thứ vàng mười đã qua thử lửa” giống như cách mà nhà văn
Nguyễn Tuân vẫn nói.
Nếu ai đó nghĩ rằng chở đò là một nghề dễ dàng chỉ cần đến sức khỏe thì chắc hẳn người
đó đã nhầm. Chở đò là một nghệ thuật đòi hỏi ở người lái đò sự thông minh, khôn khéo,
trí dũng, tài ba. Cuộc chiến giữa ông lái đò và sông Đà là một cuộc chiến không cân sức .



Bởi sông Đà có một lực lượng hùng hậu nào thì vách đá, nào thì những cái hút nước xoay
tít sâu hun hút và cả những hàng chông đá nằm ngầm dưới lòng sông nữa. Ấy vậy mà ông
lão chỉ có một mình “đơn phương độc mã” chiến đấu, vũ khí duy nhất có trong tay là cán
chèo . Để chiến đấu với một Sông Đà quỷ quyệt trong việc bày binh bố trận thì ông lái đò
càng phái nắm chắc tài chèo, giữ vững tinh thần và đặc biệt phải “nắm chắc binh pháp
của thần sông thần đá” thì mới có thể thắng được trong trận đấu sinh tử này.
Trận thủy chiến diễn ra căng thẳng đến nghẹt thở với ba “hiệp đấu”. Ở vòng vây thứ nhất
thác Sông Đà mở ra “năm của trận”, có bốn “cửa tử”, một “cửa sinh”. Cửa sinh nằm “lập
lờ ở phía tả ngạn”. Khi con thuyền xuất hiện, phối hợp với đá, nước thác reo hò làm
“thanh viện” cho đá, những hòn đá bệ vệ oai phong lẫm liệt. Có hòn đá trông nghiêng thì
y như là đang hỏi cái thuyền “phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến”. Hòn đá khác thì
lùi lại một chút và “thách thức” cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào. Không một chút nao
núng, ông đò hai tay giữ mái chèo để khỏi bị hất lên khi sóng trận địa phóng thẳng vào
mình. Nhìn thấy con thuyền và người lái đò, mặt nước “hò la vang dậy”, ùa vào mà “bẻ
gãy cán chèo”. Sóng nước thì như thể quân liều mạng, vào sát nách mà “đá trái mà thúc
gối” vào bụng và hông thuyền, có lúc chúng “đội cả thuyền lên”. Nước bám lấy thuyền
như đô vật “túm lấy thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra”. Ông đò đã bị thương, nhưng
ông “cố nén vết thương”, hai chân vẫn “kẹp chặt lấy cuống lái”. Cuộc chiến đã đến hồi
quyết liệt, sóng nước “đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm” vào chỗ hiểm. Nhưng
trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy “ngắn gọn tỉnh táo” của người
cầm lái. Và ông lái đò đã phá xong cái “trùng vi thạch trận” vòng thứ nhất của thác Sông
Đà.
Không một chút nghỉ tay, ông lái đò tiếp tục phá luôn vòng vây thứ hai của thác Sông Đà.
Ở vòng thứ hai này, thác Sông Đà lại “tăng thêm nhiều cửa tử” để đánh lừa con thuyền.
Vẫn chỉ có một cửa sinh. Nếu ở vòng thứ nhất, cửa sinh nằm “lập lờ phía tả ngạn”, thì ở
vòng thứ hai này, cửa sinh lại “bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn”. Đó chính là khó khăn,
thách thức đối với người lái đò. Nhưng ông lái đò đã “thuộc qui luật phục kích” của lũ đá
nơi ải nước hiểm trở này. Ông hiểu rằng cưỡi lên thác Sông Đà phải “cưỡi đến cùng như



là cưỡi hổ”. Cuộc chiến của ông lái đò ở vòng thứ hai đã bắt đầu. Nắm chặt cái bờm sóng
đúng luồng, ông đò ghì cương lái bám chắc lấy luồng nước đúng mà “phóng nhanh vào
cửa sinh” rồi “lái miết một đường chéo” về phía cửa đá ấy. Thấy con thuyền tiến vào, bốn
năm bọn thủy quân bên bờ trái liền “xô ra” định níu con thuyền “lôi vào tập đoàn cửa tử”
mà tiêu diệt. Nhưng ông lái đò vẫn “nhớ mặt” bọn này, đứa thì ông tránh mà “rảo bơi
chèo lên”, đứa thì ông “đè sấn lên mà chặt đôi ra” để mở đường tiến. Những luồng tử đã
bỏ hết lại sau thuyền, chỉ còn vẳng tiếng reo hò của của sóng thác luồng sinh. Tuy vậy,
bọn chúng vẫn “không ngớt khiêu khích”, dù cái thằng đá tướng đứng ở cửa vào đã “tiu
nghỉu cái mặt xanh lè” vì bị thua cái thuyền du kích nhỏ bé.
Vượt qua vòng thứ hai, ông lái đò còn phải vượt qua vòng thứ ba nữa. Ở vòng vây thứ ba
này, thác Sông Đà ít cửa hơn nhưng bên phải bên trái đều là “luồng chết” cả. Cái “luồng
sống” ở chặng thứ ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ. Ông lái đò đã hiểu điều đó. Ông
cứ “phóng thẳng thuyền” chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền của ông đò “vút qua” cổng đá
cánh mở cánh khép với ba tầng cửa: cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng. Con thuyền
của ông đò “như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái
lượn được”. Vượt qua vòng vây thứ ba cũng là vượt qua hết thác Sông Đà. Ông lái đò
như một người chỉ huy lão luyện, đầy bản lĩnh và kinh nghiệm. Ông là một nghệ sĩ tài
hoa với nghề vượt thác leo ghềnh.
Ông lái đò quả thật là một chiến tướng nhưng cũng là một tay lái tài hoa. Mỗi đường
chèo của ông đều là nghệ thuật làm đẹp cho đời và trong lao động. Sau chiến thắng ông
lái đò lại trở về với cuộc sống đời thường bình dị. Ông cùng với nhà đò “đốt lửa trong
hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ cá dầm xanh…, cũng chả thấy
ai bàn thêm lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi cửa ải nước đủ tướng dữ quân tợn
vừa rồi”. Bởi lẽ với họ những trận chiến như vừa rồi đã trở thành một phần trong cuộc
sống của họ, có gì mà phải bàn tán, phải suy ngẫm, tất cả đã trở thành máu thịt , là sợi
dây kết nối và gắn bó họ với nơi này.


Thông qua việc miêu tả trận thủy chiến tác giả Nguyễn Tuân đã cho người đọc thưởng

thức cái “thú chơi ngôn từ” độc và lạ của ông. Một loạt các động từ được sử dụng dày
đặc, kèm theo đó là hàng loạt các tính từ diễn tả cơn cuồng nộ của dòng Đà giang cũng
như tài trí của ông lái đò. Đó là một cuộc hỗn chiến giữa người và sông nước đến nghẹt
thở. Nguyễn tuân còn vận dụng kiến thức của nhiều ngành nghề để soi chiếu đối tượng,
tạo cảm giác về một trận thỷ chiến đầy kịch tính, đầy sôi động vfa không hề kém phần
hấp dẫn.
Để viết về dòng Đà giang và ông lái đò một cách cặn kẽ và chi tiết đến vậy thì không
phải ai cũng có thể viết được, phải yêu, phải hiểu và gắn bó lăm mới viết được kĩ đến
vậy. Điều này như một minh chứng chân thực cho sự hi sinh vì nghệ thuật của tác giả
Nguyễn Tuân. Ông đã dành cả cuộc đời mình để đi tìm cái đẹp, cái thật trong con người
và cuộc đời. Ông quan niệm rằng vẻ đẹp tài hoa của người nghệ sỹ không chỉ thể hiện
trong lĩnh vực nghệ thuật mà nó còn được thể hiện trong tất cả mọi lĩnh vực của đời sống
con người. Khi con người đạt đến trình đô điêu luyện trong công việc của mình thì khi đó
vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ sẽ tỏa sáng.
Bài tùy bút của tác giả Nguyễn Tuân đã đưa người đọc đi từ ngạc nhiên này đến ngạc
nhiên khác một cách tự nhiên đến lạ kì. Hình ảnh gợi ra xuyên suốt bài tùy bút là hình
ảnh ông lái dò gạo cội và dòng sông Đà giang hung hãn nhưng cũng đồng thời gửi vào
tâm trí độc giả một liên tưởng về một ông lái đò Nguyễn Tuân như một ông lái bậc thầy,
ông lái con thuyền ngôn từ trên một dải sông văn chương không kém những thác ghềnh
chông gai. Ông đã tạo nên một khúc khải hoàn ca về những con người lao động chân
chính trong thời kì mới.



×