Tải bản đầy đủ (.doc) (120 trang)

Đánh giá hiệu quả của chế phẩm inflapain dạng bôi ngoài da trong điều trị viêm lồi cầu ngoài xương cánh tay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.93 MB, 120 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh lý phần mềm quanh khớp là một nhóm bệnh rất thường gặp, bao gồm
các tổn thương tại chỗ của gân, bao gân, dây chằng, túi hoạt dịch khớp. Trong nhóm
bệnh này, viêm gân và bao gân vùng khuỷu tay, cổ bàn tay, vai, gối và quanh mắt cá
thường gặp nhất. Một số bệnh hay gặp như viêm gân gấp ở bàn tay, viêm mỏm trâm
quay, trâm trụ, viêm lồi cầu trong, lồi cầu ngoài xương cánh tay, viêm gân bánh
chè, lồi cầu trong xương chày, viêm gân gót (gân Achille )... Bệnh có tính chất lành
tính, không phải là bệnh gây tàn phế song thường gây ra hạn chế hoạt động hàng
ngày, giảm khả năng lao động của bệnh nhân và dễ tái phát. Theo một nghiên cứu
của McCormack và cộng sự năm 1990 ở 2261 công nhân ngành dệt tại Mỹ cho thấy,
có tới 11,6% có bệnh lý viêm gân, bao gân. Viêm lồi cầu ngoài xương cánh tay là
thể hay gặp nhất ở vùng khuỷu tay, gặp ở 1-3% dân số và thường ở độ tuổi 40 đến
60 tuổi,. Chẩn đoán chủ yếu dựa vào triệu chứng lâm sàng, các xét nghiệm đặc biệt
hiếm khi được chỉ định trừ trường hợp cần chẩn đoán phân biệt với các nguyên
nhân khác gây đau khuỷu tay như viêm khớp khuỷu tay, các thương tổn xương hoặc
mạch máu, thần kinh. Nếu được phát hiện sớm tiên lượng sẽ tốt hơn, tránh biến
chứng và phải phẫu thuật. Có nhiều phương pháp điều trị bệnh lý phần mềm quanh
khớp song điều trị chủ yếu bằng nội khoa.Các phương pháp này bao gồm hạn chế
vận động, dùng thuốc CVKS, tiêm corticoid tại chỗ, vật lý trị liệu. Việc điều trị
viêm lồi cầu ngoài xương cánh tay nhằm giảm đau, tăng khả năng vận động và nâng
cao chất lượng cuộc sống của bệnh nhân, đồng thời giảm thiểu các phản ứng phụ
xảy ra trong điều trị. Các phương pháp điều trị đều có tác dụng phụ và biến chứng,
tỉ lệ tái phát nhất định.
Vì thế, xu hướng hiện nay lại quay về với thiên nhiên, tìm các thuốc có
nguồn gốc thực vật, nhất là những cây thuốc đã được dùng trong y học cổ truyền.
Một hướng mới trong điều trị viêm lồi cầu ngoài xương cánh tay với nguồn gốc từ
thiên nhiên là chế phẩm Inflapain với thành phần chính Nanocurcumin đóng vai trò
chủ lực chữa bệnh viêm đau, sưng khớp. Hiện nay chưa có nghiên cứu hệ thống về



2

sử dụng Inflapain dạng bôi ngoài da trong điều trị viêm lồi cầu ngoài xương cánh
tay. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Đánh giá hiệu quả của chế
phẩm Inflapain dạng bôi ngoài da trong điều trị viêm lồi cầu ngoài xương cánh
tay” với 2 mục tiêu:
1. Đánh giá tác dụng của chế phẩm Inflapain dạng bôi ngoài da trong điều trị
viêm lồi cầu ngoài xương cánh tay.
2. Nhận xét tác dụng không mong muốn của phương pháp điều trị.


3

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN

1.1. Bệnh viêm lồi cầu ngoài xương cánh tay
1.1.1. Giải phẫu định khu vùng khuỷu tay
Giải phẫu vùng khuỷu tay
- Gân cơ.
+ Mặt ngoài có các cơ: cơ cánh tay quay, cơ duỗi cổ tay quay dài, cơ duỗi cổ
tay quay ngắn, cơ duỗi các ngón tay, cơ ngửa. Các cơ này bám vào lồi cầu ngoài
xương cánh tay.
+ Mặt trước có cơ cánh tay ở sâu và cơ nhị đầu ở nông. Mặt sau có gân cơ tam
đầu bám vào mỏm khuỷu và bao thanh dịch mỏm khuỷu ở nông.
+ Mặt trong có các cơ: cơ sấp tròn, cơ gấp cổ tay quay, cơ gan tay dài, cơ gấp
cổ tay trụ, cơ cơ gấp chung các ngón tay nông, cơ gấp chung các ngón tay sâu. Các
cơ này có nguyên uỷ bám vào lồi cầu trong xương cánh tay.


Hình 1.1. Các cơ bám vào lồi cầu ngoài xương cánh tay
- Dây chằng: có 5 nhóm dây chằng, gồm dây chằng bên quay, bên trụ, trước,
sau, và dây chằng vòng quay bám vào xương trụ và xương quay


4

Hình 1.2. Các dây chằng của khuỷu
- Bao khớp: bọc cả 3 diện khớp (khớp cánh tay-trụ, cánh tay-quay, trụ-quay)
1.1.2. Định nghĩa
Viêm lồi cầu ngoài xương cánh tay là tình trạng viêm gân cơ duỗi tại chỗ bám
vào xương lồi cầu ngoài khuỷu tay ( viêm mỏm trên lồi cầu ngoài).LCN xương
cánh tay là nơi bám của gân các cơ duỗi cổ tay quay, cơ duỗi chung các ngón, cơ
duỗi ngón út, cơ khuỷu.Khoảng 40-50% người chơi tenis bị viêm lồi cầu ngoài
xương cánh tay, vì vậy bệnh này còn có tên là “Sưng đau khuỷu tay do chơi tenis”
(Tenis elbow) .Khi cơ co, lực co sẽ tác động thông qua gân để kéo cổ tay và các
ngón tay duỗi ra. Đầu kia của gân bám vào xương, có tác dụng làm cho xương
chuyển động. Khi gấp duỗi cổ tay, các cơ duỗi cổ tay và ngón tay co lại. Lực co sẽ
truyền qua các gân làm cho bàn tay nắm chặt vợt hơn. Việc sử dụng quá mức các cơ


5

và gân vùng cẳng tay và khuỷu là nguyên nhân chính gây ra tổn thương này. Các
động tác lặp đi lặp lại dẫn đến tình trạng căng giãn quá mức của các cơ và gây nên
tổn thương. Bệnh có thể kéo dài từ 6 tháng đến 2 năm và có thể tự hồi phục. Tuy
nhiên vẫn cần các phương pháp điều trị để bệnh ổn định nhanh, tránh gây đau đớn
và ảnh hưởng đến sinh hoạt của người bệnh.

Hình 1.3. Minh họa cơ chế gây bệnh

1.1.3. Chẩn đoán
Triệu chứng lâm sàng ,,
- Đau khu trú ở vùng mặt ngoài ngoài khuỷu tay, cũng có khi đau lan lên trên
và xuống dưới; đau tăng khi làm các động tác xoay cẳng tay, gấp duỗi ngón tay,
nắm chặt tay, chống đối gập cổ tay, đau có thể tăng vào buổi chiều tối. Tuỳ mức độ
tổn thương mà có thể làm giảm sức nắm của bàn tay.
- Khám bên ngoài ít khi thấy sưng, nóng, đỏ; Ấn vào LCN đau tăng lên hoặc
đau chói. Khám cơ lực nắm tay hai bên có thể thấy giảm sức nắm bên tổn thương..,
- Vận động khớp khuỷu tay bình thường.
- Cozens test
+ Bác sỹ dùng một tay đặt ngón cái lên lồi cầu ngoài xương cánh tay của bệnh
nhân, giữ khuỷu tay bệnh nhân ở tư thế gấp 90 độ và úp sấp cẳng tay, tay còn lại
nắm bàn tay bệnh nhân. Bệnh nhân sẽ thấy đau chói tại lồi cầu ngoài khi bệnh nhân
duỗi cổ tay có đối lực bởi bác sỹ.
+Bác sỹ duỗi thẳng khuỷu tay bệnh nhân, úp sấp cẳng tay, gấp và xoay cổ tay
bệnh nhân ra ngoài sẽ gây đau tại lồi cầu ngoài xương cánh tay.


6

Hình 1.4. Minh họa test Cozens
Triệu chứng cận lâm sàng
+ Các xét nghiệm máu không có thay đổi gì đặc biệt trừ khi có bệnh lý toàn thân.
+ Chụp X quang nơi tổn thương chủ yếu giúp phân biệt với các bệnh lý khác
hoặc bệnh lý kèm theo có tổn thương tại khớp như viêm khớp dạng thấp, gút, thoái
hoá khớp…Trên X quang có thể phát hiện hình ảnh calci hoá ở đầu gân.
+ Siêu âm gân cơ bằng đầu dò tần số cao (7,5-20 MHz). Hình ảnh tổn thương
có thể thấy kích thước gân to hơn, giảm đậm độ siêu âm và có thể có tụ dịch bao
quanh gân. Ngoài ra siêu âm còn phát hiện đứt gân từng phần hoặc hoàn toàn, tình
trạng calci hoá ở đầu gân. Đối với viêm bao gân, thường thấy bao gân dày lên…Tuy

vậy giá trị chính xác cao chỉ ở các vị trí phần mềm dầy và rộng.
+ Chụp cộng hưởng từ cho thấy hình ảnh toàn thể của cơ, xương, khớp vùng
tổn thương giúp cho đánh giá chính xác các tổn thương của cả cơ, xương, khớp.
Chẩn đoán phân biệt
Viêm màng hoạt dịch khớp khuỷu
Hội chứng đường hầm xương quay
Đau lan từ khớp vai.
Fibromyagia (đau do xơ cơ xương).


7

Điều trị
- Giảm hoặc ngừng vận động cẳng tay (thường 4-6 tuần)
- Chườm lạnh 2-3 lần/ ngày nếu sưng đau nhiều, mỗi lần 20-30 phút.
- Thuốc giảm đau, CVKS : uống, bôi tại chỗ.
- Tiêm Corticoid tại lồi cầu ngoài xương cánh tay
1.1.4. Các phương pháp điều trị viêm lồi cầu ngoài xương cánh tay
,,,
1.1.4.1. Bằng thuốc
- Giảm đau như Paracetamol; codein ...
- Thuốc CVKS dùng đường uống hoặc tại chỗ: dùng 1-2 tuần.
- Là nhóm thuốc có hoạt tính chống viêm và không chứa nhân steroids, có tác
dụng chống viêm,giảm đau và hạ nhiệt. Cơ chế tác dụng chủ yếu là ức chế các chất
trung gian hoá học gây viêm, nhất là prostaglandine (PG), ngoài ra thuốc CVKS còn
ức chế di chuyển bạch cầu, làm bền vững màng lysosome làm ngăn cản giải phóng
các enzym phân giải .
- Tai biến do CVKS:
+ Rối loạn tiêu hoá, viêm gan.
+ Viêm loét dạ dày tá tràng, xuất huyết tiêu hoá.

+ Phát ban, mề đay, bọng nước...
Theo nghiên cứu của Polisson R (1996), tác dụng phụ trên đường tiêu hóa khi sử
dụng NSAIDs đường uống xuất hiện ở 30% bệnh nhân.
-Giãn cơ như : Tolperisone, eperisone…
1.1.4.2. Tiêm corticoid
Corticoid có tác dụng trên nhiều giai đoạn khác nhau của quá trình viêm, không
phụ thuộc nguyên nhân gây viêm. Tiêm corticoid tại chỗ là phương pháp điều trị thông
dụng trong bệnh lý phần mềm quanh khớp, song vẫn chưa có bằng chứng rõ ràng về
hiệu quả lâu dài cũng như chưa có phác đồ cụ thể được khuyến cáo.
Tai biến do tiêm corticoid tại chỗ:
+ Đau sau tiêm vài giờ, có thể kéo dài một vài ngày.
+ Nhiễm trùng.


8

+ Đứt gân.
+ Teo da tại chỗ; mảng sắc tố da.
Các chế phẩm corticoid thường dùng là :
Hydrocortison acetat: là loại tác dụng nhanh, thời gian bán huỷ ngắn.
Depo-Medrol (Methyl prednisolon acetat): tác dụng kéo dài
Diprospan (Betamethasone dipropioate) loại tác dụng kéo dài
1.1.4.3. Vật lý trị liệu
Nguyên tắc là dùng các tác động nhiệt như chiếu hồng ngoại hoặc tác động
điện của các sóng điện từ, hoặc tác động của thuốc bằng điện phân đưa thuốc thấm
sâu vào khớp, hoặc tác động cơ học của xoa bóp, kết hợp tập vận động khớp
khuỷu… nhằm tăng tuâng hoàn tại chỗ, giảm đau và chống viêm.
1.1.4.4. Điều trị bằng đông y
Đông y điều trị bằng xoa bóp bấm huyệt, xoa lăn day quanh khớp khuỷu sau
đó chuyển sang bấm các huyệt, dùng thang thuốc sắc uống.

Điều trị đông y cũng giống như điều trị vật lý có ưu điểm là không dùng
thuốc nhưng nhược điểm là kéo dài và khi xoa bóp bấm huyệt, kéo nắn sẽ gây cho
bệnh nhân đau đớn.
1.1.4.5. Điều trị bằng phẫu thuật
Khi điều trị bảo tồn không hiệu quả, chỉ định phẫu thuật được đặt ra, nhằm
mục đích cắt lọc tổ chức gân tổn thương, giải phóng gân tổn thương và tổ chức
thoái hóa. Đây là phương pháp điều trị can thiệp, chi phí cao, bệnh nhân phải được
gây mê, do đó có thể có những tai biến, nên chỉ định phải được xem xét kĩ.
1.1.4.6. Điều trị bằng liệu pháp huyết tương giàu tiểu cầu (PRP)
Sự phát triển ứng dụng huyết tương giàu tiểu cầu là một hi vọng mới trong khi
các biện pháp điều trị khác như CVKS, tiêm corticoid tại chỗ, vật lý trị liệu… có
nhiều hạn chế trong điều trị các bệnh lý gân mạn tính, do tính kháng trị của các tổn
thương này. PRP trở nên phổ biến và được sử dụng rộng rãi do tính an toàn, tự
nhiên của chế phẩm, đồng thời hạn chế được việc bệnh nhân phải phẫu thuật.
M.Ferrari năm 1987 là tác giả đầu tiên khuyến khích nghiên cứu thực nghiệm liệu
pháp huyết tương giàu tiểu cầu tự thân. Hiện nay tiểu cầu được biết đến không


9

chỉ quá trình đông máu mà còn trong việc sản xuất nhiều protein hoạt tính sinh
học chịu trách nhiệm thu hút đại thực bào, thúc đẩy tăng trưởng mạch máu, phân
chia tế bào, tổng hợp collagen. Chế phẩm này được cho là có chứa nồng độ cao
của các yếu tố tăng trưởng, mà về mặt lý thuyết có thể tăng cường chữa lành gân.
Kỹ thuật chung liên quan đến việc trích xuất máu của bệnh nhân, ly tâm và tiêm lại
huyết tương vào lồi cầu ngoài. Quan điểm về huyết tương giàu tiểu cầu tự thân
cũng được thay đổi qua nhiều nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng. Phương pháp
này hiện đang được nhiều bác sĩ lâm sàng chú ý, nhất là các bác sĩ y học thể thao
vì ngoài tác dụng hồi phục nhanh các tổn thương, phương pháp này còn ít tốn kém,
thực hiện nhanh và dễ dàng.

1.1.5. Tình hình nghiên cứu trên thế giới và trong nước:
Trong vài thập niên gần đây, các nghiên cứu trên thế giới chủ yếu tìm hiểu về mô
bệnh học gân, các yếu tố nguy cơ gây bệnh và hiệu quả của các phương pháp điều trị.
Nghiên cứu mô bệnh học gân không có nhiều, vẫn còn nhiều giới hạn về hiểu
biết bệnh học gân, nổi bật là các nghiên cứu của Khan KM và cộng sự ,
Có rất nhiều nghiên cứu về hiệu quả các phương pháp điều trị bệnh viêm lồi
cầu ngoài xương cánh tay, song kết quả ít có sự thống nhất.
Nghiên cứu của Coombes và cộng sự, 2010 đánh giá hiệu quả và tính an toàn
của phương pháp tiêm corticosteroid và các phương pháp tiêm khác.Cơ chế tác
dụng của corticosteroid giúp giảm phản ứng viêm tại chỗ và giảm đau.
Corticosteroid tiêm vượt trội hơn NSAIDs trong bốn tuần, và cũng vượt trội hơn so
với các phương pháp điều trị khác, từ đánh giá ngắn hạn cho đến 6 tháng nhưng
trong đánh giá có hệ thống được tiến hành bởi Smidt và cộng sự , không có bằng
chứng về sự khác biệt đáng kể giai đoạn trung và dài hạn liên quan đến ưu thế của
tiêm corticosteroid tại chỗ . Thuốc chống viêm không steroid (NSAID) cũng được
nghiên cứu cho thấy hiệu quả trong việc giảm nhẹ các triệu chứng, và không có sự
khác biệt giữa các NSAID uống và tại chỗ . Tiêm máu tự thân cũng cho kết quả tốt
trong ngắn hạn đã được báo cáo bởi Creaney L và cộng sự năm 2011, Kazemi M và
cộng sự năm 2010 ,, tuy nhiên, không có lợi ích trong việc theo dõi lâu dài và chỉ


10

được khuyến cáo cho những trường hợp tái phát khi các phương thức điều trị khác
thất bại.
Tiêm huyết tương giàu tiểu cầu (PRP). Kết quả tốt đã được báo cáo bởi Mishra
A và cộng sự năm 2006 . Gosens và cộng sự năm 2011 cũng đã xuất bản một nghiên
cứu so sánh hiệu quả điều trị viêm lồi cầu ngoài xương cánh tay, sử dụng PRP và
corticosteroid, với 2 năm theo dõi. Một nhóm 100 bệnh nhân được phân ngẫu nhiên
để nhận được tiêm hoặc PRP hoặc corticosteroid, và kết luận là nhóm được điều trị

bằng tiêm PRP tại chỗ đạt được hiệu quả giảm đau lớn hơn và cải thiện chức năng
hơn so với nhóm còn lại .
Một nghiên cứu được công bố vào năm 2005 so sánh hiệu quả của tiêm độc tố
botulium so với giả dược. Wong và cộng sự đã báo cáo kết quả tốt hơn liên quan
đến đau sau một khoảng thời gian 12 tuần, trong một nhóm dùng thuốc, so với giả
dược.
Nghiên cứu của Hay và cộng sự (1999) ở 3 nhóm viêm LCN xương cánh tay
được điều trị bằng 3 phương pháp khác nhau: Tiêm corticoid tại chỗ, thuốc CVKS
uống, chỉ thuốc giảm đau thông thường. Đánh giá sau 4 tuần thấy triệu chứng cải
thiện ở 82% bệnh nhân nhóm tiêm corticoid tại chỗ, 48% ở nhóm dùng CVKS, 50%
ở nhóm dùng giảm đau thông thường. Kết quả các nghiên cứu thường không có
nhiều cơ sở chắc chắn về bằng chứng cho điều trị . Labelle và cộng sự (1992) đã
tổng kết có hệ thống 185 nghiên cứu về các phương pháp điều trị viêm lồi cầu ngoài
xương cánh tay. Tác giả nhận thấy hầu hết các thiết kế nghiên cứu là không tốt, và
kết luận vẫn còn thiếu bằng chứng hỗ trợ cho các phương pháp điều trị hiện hành .
Một nghiên cứu trong nước của Nguyễn Trần Trung năm 2016 trên 31 bệnh
nhân được tiêm huyết tương giàu tiểu cầu tự thân báo cáo kết quả sau 12 tuần điều
trị có 28,1 % bệnh nhân đạt kết quả tốt, 43,8% bệnh nhân đạt kết quả khá, 25%
bệnh nhân kết quả trung bình và 3,1% bệnh nhân kém
1.2. Chế phẩm Inflapain
Chế tạo thuốc phòng tránh và chữa trị bệnh, đặc biệt là bệnh mãn tính và bệnh
cấp tính như bệnh đau do thấp khớp, bằng cách kết hợp sự thông minh của y học cổ


11

truyền –nam dược thiên nhiên–với công nghệ nano và y học hiện đại phương tây, là
hướng nghiên cứu phát triển mới của nhiều cơ sở nghiên cứu khoa học ở các nước
trên thế giới, nó không những có tính khoa học và công nghệ cao mà còn mở ra
triển vọng lớn cho ngành Y Dược học của thế giới cũng như của Việt Nam. Bằng tư

duy khoa học này, trong thời gian qua, các nhà khoa học tại nhà máy NANO SINH
PHẨM VIETLIFE đã nghiên cứu phát triển thành công sản phẩm phòng chống và
chữa trị bệnh thấp khớp và viêm nhiễm từ các sản phẩm thiên nhiên được bào chế
theo công nghệ nano như Nanocurcumin NDN22+ từ Nghệ vàng, Nanorutin 22+ từ
Hoa hòe, Glucosamin từ vở tôm cua, Chondroitin từ sụn cá mập...Kết quả thí
nghiệm tiền lâm sàng cho biết, với hàm lượng thuốc không nhiều, bằng hai cách
uống và bôi ngoài da, INFLAPAIN có thể loại trừ được nỗi đau do bệnh thấp khớp
và viêm nhiễm trên cơ thể bệnh nhân.
1.2.1. Công nghệ NANO SOL-GEL chế tạo INFLAPAIN
Công nghệ SOL-GEL là một trong những công nghệ được ứng dụng nhiều
nhất để tạo ra những hạt nano có kích thước siêu nhỏ từ dưới 10 đến 30nm (SOL).
Những hạt nano này bền vững bởi màng GEL. INFLAPAIN được chế tạo theo
phương pháp: các phân tử hợp chất thiên nhiên Curcumin và một số tác nhân khác
liên kết với nhau bởi lực Van der Waals, cầu hydro tạo thành MICELLE NANO
SIÊU PHÂN TỬ (SUPERMOLECULE) trong màng Polyme sinh học. Hình 1.5 là
sơ đồ quá trình chế tạo, hình thành INFLAPAIN dạng SOL-GEL. Công nghệ chế
tạo INFLAPAIN SOL-GEL mang tính ưu việt hơn công nghệ hạt Micelle bởi giữa
được các hạt nano ổn định cỡ siêu nhỏ, không bị kết tập trong quá trình giải phóng
và vận tải thuốc đến đích.
Inflapain được chế tạo theo các công đoạn:
1-Chế tạo hạt nano Curcumin có màng Polyme sinh học bao bọc. Trên bề mặt
hạt nano có nhiều gốc hoạt tính như: -OH, -COOH, Gốc –N<.
2-Các phân tử của các chất thành phần liên kết với bề mặt hạt Nanocurcumin
theo công nghệ nano TỰ LẮP GHÉP PHÂN TỬ (self-assembly nanotech). Hình
thành Nano siêu phân tử.


12

3-Tạo liên kết mạng thành khối đặc giữ nguyên trạng thái hạt Nano siêu phân tử. .


Hình 1.5. Sơ đồ công nghệ chế tạo Inflapain
Công nghệ SOL-GEL chế tạo NANO SIÊU PHÂN TỬ INFLAPAIN là
công nghệ mới được tiến hành tại VIETLIFE NANOFACTORY, cho đến nay chưa
thấy công bố trên thế giới. Vì vậy, nghiên cứu cấu trúc hạt Nano siêu phân tử tồn
tại trong trạng thái SOL-GEL để tìm hiểu độ phân bố hạt và độ lớn của hạt là việc
rất cần thiết. Từ đó dự đoán được tính chất sinh khả dụng cũng như một số tính chất
ưu việt của sản phẩm.

1.2.2. Phác đồ cấu trúc của INFLAPAIN
Thành phần INFLAPAIN dạng bôi
Hoạt chất


13

 Nanocurcumin NDN22+ từ Nghệ vàng, có hàm lượng Curcuminoid trên
22%, có tác dụng chống viêm, chống oxy hóa, là thành phần chính đóng vai trò chủ
lực chữa bệnh viêm đau và sưng khớp.
Tá dược
 CMC (carboxymethyl cellulose): một polymer dẫn xuất của cellulose với
acid chloroacetic, có tác dụng kết dính tạo gel, tăng độ nhớt- ổn định nhũ tương.
 Chitosan poly (acrylic acid): là axit cacboxylic no đơn giản, bao gồm một
nhóm vinyl liên kết trực tiếp với nhóm cacboxyl. Có tính kháng khuẩn và cũng là
dược chất kết dính tạo kết cấu gel.
 Nước tinh khiết: dung môi
 Dầu khuynh diệp (eucalyptus globulus): làm mát da, mềm da, tăng tính
hấp thu trên da của hoạt chất trong thuốc.
-


Dạng SOL-GEL có khả năng tan trong nước và trong dầu
Việc chế tạo thành hạt nano đã tăng độ tan (khuếch tán) trong môi trường nước

của Curcumin lên hàng ngàn lần, vì vậy độ hấp thụ Curcumin tăng 80 lần so với
tinh bột nghệ. Nanocurcumin NDN22+ có thành phần hoạt tính Curcuminoid trên
22%, cao hơn hẳn các nanocurcumin trên thị trường,. Các thành phần khác có cấu
trúc phân tử. Vì vậy sinh khả dụng của nó rất lớn. Mặt khác, trong công nghệ nano,
hoạt tính của một chất được nâng cao nhờ cấu trúc hạt siêu nhỏ. Hiệu ứng bề mặt và
mật độ hạt là hai trong những đặc tính quý của Công nghệ nano. Theo hiệu ứng này,
ta có thể hiểu Sinh khả dụng của hạt thuốc Nano. Các hạt tiểu phân Nano có kích
thước siêu nhỏ từ 70nm- 100nm, phân tán tốt trong nước, được hấp thu nhanh
chóng vào máu và có sinh khả dụng cao hơn 50-55 lần so với Curcumin thông
thường (theo Kansai và cộng sự, 2012). Mật độ hạt và thể tích bề mặt phụ thuộc rất
lớn vào độ lớn của hạt. Khi đường kính hạt xuống 30-20nm, diện tích bề mặt và số
hạt sẽ tăng khoảng 3 đến 5 lần hạt 70-100nm. Kết quả sinh khả dụng tăng từ 3 đến 5
lần so với hạt 700-100nm.


14

Hình 1.6. Tương quan giữa độ lớn của hạt Nanocurcumin
Sau khi GIẢI GEL, trong môi trường nước, muối, nhiệt độ cơ thể, các siêu
phân tử của INFLAPAIN liên kết giữa các nhóm hoạt tính với hạt nano curcumin
theo lực tĩnh điện, lực Van der Waals được phân giải. Quá trình phân giải này hình
thành hàng ngàn phân tử hoạt tính mang những chức năng chữa bệnh khác nhau ,
theo chất dẫn, tấn công vào nơi bị bệnh. Trong điều kiện này sinh khả dụng được
khuếch đại cực lớn.


15


1.2.3. Đặc tính giải phóng thuốc theo cơ chế dây chuyền khuếch đại hóa dược
của INFLAPAIN dạng bôi ngoài da

Hình 1.7. Sơ đồ giải phóng thuốc theo cơ chế khuếch đại dây chuyền hóa sinh
của Inflapain
*Đặc tính giải phóng thuốc theo cơ chế dây chuyền khuếch đại hóa dược của
INFLAPAIN dạng bôi ngoài da:
INFLAPAIN bôi ngoài da so với loại INFLAPAIN uống nó có nhược điểm
lượng thuốc không vào nhanh, nhiều như loại uống. Nhưng loại INFLAPAIN bôi
có ưu điểm là thuốc tiếp xúc trực tiếp ngay chỗ đau, nên hiệu quả thấy nhanh hơn.
Vì vậy trong công nghệ bào chế thuốc bôi có một số điểm khác với thuốc uống.
- Trong thành phần thuốc bôi sử dụng chất kích thích nhiệt làm nóng trên mặt
da nơi sưng tấy. Ở nhiệt độ cao hơn khe hở tế bào da rộng hơn.


16

- Trong điều kiện nóng ẩm , muối khoáng, dầu của da GEL INFLAPAIN phân
giải. Các Nano siêu phân tử giải liên kết. Từ đây các thành phần chức năng của
thuốc phân giải thành phân tử độc lập cùng lúc ào ạt tấn công vào điểm bệnh. .
- NANOCURCUMIN; đóng vai trò chủ lực chống viêm, tái sinh tế bào cơ
sụn. Giúp lấy lại trạng thái cân bằng sinh học. Nano Curcumin làm lành vết thương
ngầm trong vùng đau khớp hoặc đau do nguyên nhân va chạm, thể thao, tai nạn...
1.2.4. Nghiên cứu tiền lâm sàng và lâm sàng về Curcumin
Curcumin (diferuloymethane) là một chất màu vàng được tìm thấy trong nghệ
(curcumin longa). Curcumin longa đã được sử dụng ở Đông Á trong một thời gian
dài như một liệu pháp thảo dược. Một số lượng lớn các nghiên cứu về curcumin bao
gồm các nghiên cứu về tính chất chống oxy hoá, chống viêm, kháng vi-rút và chống
nấm của curcuminoids. Nghiên cứu của tác giả Sharma năm 1976


và sau này là

Kuttan và cộng sự năm 1995 cho thấy Curcumin có tác dụng chống oxy hóa mạnh,
chống viêm. Tác dụng chống vi trùng của curcumin được thể hiện qua các nghiên
cứu của tác giả Drew CR năm 1996 về vai trò của curcumin trong hoạt động của
virut HIV , nghiên cứu của Pendland và cộng sự 2002 về tác dụng ức chế sự phát
triển của vi khuẩn HP của curcumin . Nghiên cứu về tiềm năng chống ung thư cũng
đã được Kuttan và cộng sự báo cáo vào năm 1985 .
James WD và cs (2016) lần đầu tiên đã thu thập các nghiên cứu về curcumin
trong điều trị viêm xương khớp để phân tích hiệu quả điều trị của curcumin. Các tác
giả đã thu thập được 176 nghiên cứu in vitro, 7.367 thực nghiệm trên động vật, và
chỉ có 8 nghiên cứu lâm sàng. Như vậy các nghiên cứu về độc tính và tính chống
viêm của curcumin là các nghiên cứu in vitro, trên động vật và con người


Curcumin trong thử nghiệm tiền lâm sàng:

Các tác giả như Banerjee (2003), Moon DO (2010), Coradini K (2015), Zheng
Z (2015) và nhiều tác giả ở các trung tâm nghiên cứu khác nhau trên thế giới đã gây
viêm khớp mạn tính thực nghiệm trên chuột nhắt hoặc chuột cống bằng các chất gây
viêm kinh điển khác nhau và đánh giá qua nhiều thông số đặc trưng của viêm khớp
như mức độ phù chân, kích thước ổ khớp sưng. thời gian phản xạ với kích thích


17

đau, tình trạng vận động, tư thế …, đồng thời đo lường các chất trung gian
(mediators) gây viêm, các thông số sinh hóa-tế bào của viêm và phản ứng miễn dịch
trong huyết thanh và dịch ổ khớp. Trên các lô chuột thí nghiệm, ngoài lô làm chứng

không dùng thuốc, các tác giả đã sử dụng các lô khác nhau được điều trị bằng các
thuốc khác nhau với dạng thuốc, liều lượng và đường dùng khác nhau, như
curcumin, nanocurcumin (curcumin dạng hạt có đường kính đo bằng nanomet – 109 m) so sánh với ibuprofen, diclofenac, prednisolon, methotrexat dùng riêng rẽ hoặc
dùng phối hợp.
Từ kết quả của các nghiên cứu đó đã cho phép rút ra được các kết luận:
- Nghiên cứu của Coradini K (2015) cho thấy Curcumin hầu như không độc:
trên chuột cống, với liều 80 mg/kg uống liên tục trong 45 ngày, hoặc thậm chí 300
mg/kg trong 56 ngày, không thấy biểu hiện bất thường.. Curcumin đã cải thiện
được các chỉ số cơ năng của viêm khớp như làm giảm sưng phù tại ổ khớp, giảm
đau, giảm giới hạn vận động, bảo tồn được hình ảnh điện quang của ổ khớp.
- Các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm của tác giả Nita Chainani-wu và
cộng sự năm 2003 đã xác định được một số phân tử khác nhau có liên quan đến
viêm bị ức chế bởi chất curcumin bao gồm phospholipase, lipooxygenase,
cyclooxygenase 2, leukotrienes, thromboxane, prostaglandins, oxit nitric, collagenase,
elastase, hyaluronidase, protein monochemic chemoattractant 1 (MCP-1 ), Protein kích
thích interferon, yếu tố hoại tử khối u (TNF), interleukin-12 (IL-12).. Curcumin cũng ức
chế sự khởi phát COX-2 và iNOS trong nuôi cấy tế bào và trong các nghiên cứu trên
động vật được các tác giả Ohshima năm 1995 và Jokelainen cùng cộng sự năm 2003
báo cáo ,.
- Nghiên cứu của tác giả Banerjee năm 2003 và sau đó là Moon và cộng sự
năm 2010 cho thấy Curcumin cải thiện được các thông số sinh hóa-miễn dịch của
viêm như làm giảm sự tăng sinh của tế bào lympho T; làm giảm các cytokin thúc
đẩy viêm TNFα, IL1β trong dịch khớp, làm giảm IgG-1, IgG-2 trong huyết thanh
chuột nhắt; làm giảm PGE-2, COX-2 và NFκB. Nitric oxid (NO) bị giảm trong
viêm, đã được hồi phục sau điều trị bằng NSAID hoặc curcumin.


18

- So với các NSAID (ibuprofen, diclofenac), kết quả chống viêm giảm đau của

curcumin là tương đương ở các nghiên cứu trên chuột được báo cáo ở trên , .
- Nghiên cứu của Naidu VG và cộng sự năm 2014 cho thấy khi dùng phối hợp với
prednisolon, curcumin đã làm giảm liều và giảm độc tính của prednisolon ..
• Curcumin trong thử nghiệm lâm sàng:
. Những nghiên cứu trên người cho thấy bằng chứng về tính an toàn của
curcumin. Một thử nghiệm ở người với 25 đối tượng sử dụng đến 8000 mg
curcumin mỗi ngày trong 3 tháng không thấy có độc tính từ curcumin ( Cheng và
cộng sự, 2001) . 18 bệnh nhân viêm khớp dạng thấp (22-48 tuổi) được cho 1200 mg
/ d curcumin trong 2 tuần. Không có phản ứng phụ nào được báo cáo bởi các bệnh
nhân và không thấy có sự thay đổi đáng kể về huyết áp, nhịp tim, chức năng thận
hoặc gan được đưa ra (Deodhar và cộng sự, 1980) . Năm thử nghiệm khác của
người dùng 1125-2500 mg curcumin mỗi ngày cũng cho thấy an toàn.
Những nghiên cứu trên người cũng đã tìm thấy một số bằng chứng về hoạt
động chống viêm của curcumin. Tác giả Panahi Y và cộng sự năm 2014 tiến hành
một thử nghiệm lâm sàng đối chứng giả mù đôi ngẫu nhiên ở cả hai nhóm đối với
40 bệnh nhân bị thoái hóa khớp gối giai đoạn I, II theo Kellgren- Lawrence. Bệnh
nhân được uống hoặc 1500mg curcumin/ngày hoặc một viên placebo/ngày trong
vòng 6 tuần. Không có sự khác biệt đáng kể về tuổi, giới tính, chỉ số khối cơ thể, và
điểm số VAS, WOMAC và LPFI giữa các nhóm nghiên cứu tại thời điểm ban đầu
(p> 0,05). Bằng việc phân tích sự thay đổi về các điểm số WOMAC, VAS và
Lequesne Index, kết quả cho thấy điều trị bằng curcuminoid có liên quan đến việc
giảm đáng kể điểm WOMAC (p = 0,001), VAS (p <0,001) và LPFI (p = 0,015) so
với giả dược. Không có tác dụng phụ đáng kể nào ở cả hai nhóm. Họ kết luận rằng
curcumin là một phương pháp điều trị thay thế hiệu quả và an toàn đối với bệnh
thoái hóa khớp. Cũng trong năm 2014, trong một cuộc nghiên cứu đa trung tâm trên
367 bệnh nhân bị thoái hóa khớp gối nguyên phát , Kuptniratsaikul và cộng sự ở
Thái Lan đã so sánh hiệu quả và tính an toàn của Curcuma Domestica (cao nghệ) so
với Ibuprofen - một loại thuốc chống viêm không steroid. Bệnh nhân được chia



19

ngẫu nhiên thành 2 nhóm: nhóm điều trị bằng ibuprofen 1.200 mg/ngày có 182
bệnh nhân; nhóm điều trị bằng cao nghệ 1.500 mg/ngày có 185 bệnh nhân. Thời
gian điều trị là 4 tuần. Không có sự khác biệt về những đặc tính cơ bản giữa 2
nhóm. Bệnh nhân được theo dõi đánh giá kết quả bằng các thang điểm đau
WOMAC, thang điểm cứng khớp WOMAC, thang điểm chức năng WOMAC và
thang điểm WOMAC toàn phần vào các tuần 0-2 và 4. Kết quả cuối cùng cho thấy
hiệu quả điều trị của cao nghệ tương đương với ibuprofen. Tác dụng không mong
muốn về tiêu hóa của nhóm cao nghệ ít hơn nhóm ibuprofen. Họ kết luận rằng
chiết xuất Curcuma Domestica đều có hiệu quả giống như Ibuprofen khi điều trị
thoái hóa khớp gối. Đến năm 2017, Onakpoya và cộng sự đã báo cáo hệ thống về 7
nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng được tiến hành ở châu Á trước đó với tống số 797
người tham gia bị thoái hóa khớp gối nguyên phát . So với giả dược, curcuminoids
giảm đáng kể đau khớp gối (VAS): (chênh lệch trung bình tiêu chuẩn: -3.45; KTC
95%: -5.52 đến -1.38; P = 0.001), và cải thiện chất lượng cuộc sống ( Lequesne
Index ): (chênh lệch trung bình: -2,69; KTC 95%: -3,48 đến -1,90; P <0,00001). Sự
giảm đáng kể trong việc sử dụng thuốc giảm đau trong điều trị cũng đã được báo
cáo với tác dụng của curcuminoids. Không có tác dụng phụ nghiêm trọng trong các
nghiên cứu được báo cáo.
Phương pháp điều trị cho viêm gân trước đây được giới hạn trong việc sử
dụng các thuốc chống viêm không steroid. Các nghiên cứu gần đây trong các mô
hình tế bào khác nhau đã chứng minh rằng chất curcumin nhắm vào con đường tín
hiệu NF-κB1. Kết quả cho thấy rằng chất curcumin ức chế NFkB và ngăn chặn nó
chuyển đổi và thúc đẩy viêm. Tuy nhiên, tiềm năng của nó trong điều trị viêm gân
chưa được nghiên cứu nhiều. Một nghiên cứu sử dụng một mô hình in vitro của các
tế bào gân của người để nghiên cứu cơ chế tác động của curcumin đối với tín hiệu
viêm trung gian IL-1β do C. Buhrmann và cộng sự thực hiện năm 2011. Curcumin ở
nồng độ 5-20 μm ức chế viêm do IL-1β gây ra và quá trình apoptosis của tế bào gân
của người.. Bằng cách giảm viêm trong các tế bào gân, chất curcumin có thể làm

giảm đau và cải thiện thời gian lành thương..


20

Trái ngược với các nghiên cứu sâu rộng với curcumin uống , đã có khá ít báo
cáo nghiên cứu tiền lâm sàng và lâm sàng về hiệu quả điều trị của curcumin tại chỗ .
Hầu hết nghiên cứu được thực hiện trên các mô hình động vật. Partoazar và cộng sự
năm 2016 , nghiên cứu ảnh hưởng của curcumin tại chỗ đối với bỏng độ 2 ở chuột
và tìm thấy kết quả thuận lợi khi sử dụng nó. Trong nghiên cứu này, công thức
Ethosomal curcumin (Etho-cur) được chuẩn bị để chữa lành vết thương ở chuột bị
bỏng độ hai theo quy trình chuẩn. Kết quả: Áp dụng bôi một lần hàng ngày Ethocur (0,2%) tại chỗ trên lưng chuột trong 14 ngày cho thấy phục hồi đáng kể việc sửa
chữa vết thương bao gồm tái tạo biểu mô (P <0,01), tổng hợp collagen (P <0,001) ,
sự hình thành mô hạt (P <0,001) so với nhóm chứng.. Hơn nữa, chế phẩm
ethosomal của curcumin tương tự như kem bạc sulfadiazine (SSD) 1% có khả năng
ức chế (P <0,001) hệ vi khuẩn gây bỏng bao gồm trực khuẩn mủ xanh là vi khuẩn
chiếm ưu thế trong các thí nghiệm trong 14 ngày điều trị.. Kết luận: Về kết quả,
curcumin ethosomal có hiệu quả chống lại nhiễm trùng vết thương và thúc đẩy sửa
chữa vết thương trong chấn thương bỏng ở chuột. Kant và cộng sự năm 2014 , cũng
chứng minh rằng các đặc tính chống viêm và chống oxy hóa của curcumin tại chỗ
có thể chữa lành vết thương đang tiến triển ở chuột.
Như vậy, Curcumin vừa có thể giúp cho quá trình giảm viêm ở tế bào gân vừa
có thể tham gia vào quá trình phục hồi mô thương tổn bằng cách tái tạo biểu mô,
tổng hợp collagen. Điều này cũng đi vào mô bệnh học của quá trình đáp ứng phục
hồi gân tổn thương cũng như cơ chế bệnh sinh của viêm gân . Từ các bằng chứng sơ
bộ về những lợi ích từ nghiên cứu tiền lâm sàng về cơ chế sinh học , có đủ cơ sở để
coi curcumin là một liệu pháp điều trị tiềm năng cho các bệnh lý gân và dây chằng
và là lý do cho các thử nghiệm lâm sàng để đánh giá hiệu quả của nó.



21

CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
- Địa điểm nghiên cứu: Các bệnh nhân được khám và điều trị ngoại trú tại Phòng
khám đa khoa Y Cao Hà Nội- Thanh Ấm- Thị trấn Vân Đình- Ứng Hòa- Hà Nội.
- Thời gian nghiên cứu: Tháng 03/ 2018 đến hết tháng 8/2018
2.2. Đối tượng nghiên cứu
2.2.1. Cỡ mẫu
- Chọn mẫu thuận tiện: các bệnh nhân được tuyển chọn theo tiêu chuẩn lựa
chọn (mục 2.2.2).
Cỡ mẫu: được tính theo công thức tính cỡ mẫu 2 nhóm song song, kiểm định
tính không thấp kém hơn của thuốc can thiệp so với thuốc đối chứng theo công thức
kiểm định của thử nghiệm không thấp kém hơn (Chow, Shao & Wang, 2003)

n1 = n2 =

2 (zα + zβ)2 σ2
(µ2 - µ1- δ)2

n1, n2: cỡ mẫu mỗi nhóm
Zx: độ lệch phân phối chuẩn ứng với mức ý nghĩa
α: sai lầm loại I, α = 0,05 (một bên)  Zα = 1,645
β: sai lầm loại II, β = 0,2  Zβ = 0,845
µ1: mức giảm trung bình điểm VAS của nhóm can thiệp kỳ vọng, µ1 = 1,8
µ2: mức giảm trung bình điểm VAS của nhóm chứng, µ2 = 1,4
σ: độ lệch chuẩn chung của điểm VAS, σ = 2
δ: giá trị biên của sự vượt trội, δ = 1
Từ công thức trên tính ra số đối tượng nghiên cứu cho mỗi nhóm là n 1=n2=25.

Ước tính 20% bệnh nhân không quay lại khám sau 3 tuần nên cỡ mẫu tối thiểu
trong nghiên cứu là 60 bệnh nhân.
Trên thực tế, nghiên cứu của chúng tôi chọn được 71 bệnh nhân, trong đó có
37 bệnh nhân nhóm NC và 34 bệnh nhân nhóm chứng.


22

2.2.2. Tiêu chuẩn lựa chọn
+ Bệnh nhân trên 16 tuổi.
+ Chẩn đoán viêm lồi cầu ngoài xương cánh tay theo Test chẩn đoán (Cozens test)
và siêu âm khớp khuỷu
+ Điểm đau lồi cầu ngoài VAS 36/10
+ Thời gian mắc bệnh > 4 tuần
+ Đồng ý tham gia nghiên cứu
2.2.3. Tiêu chuẩn loại trừ
+ Mắc các bệnh lý hệ thống, bệnh toàn thân: viêm khớp dạng thấp, bệnh lý
máu, gan thận…
+ Viêm lồi cầu ngoài xương cánh tay trong bệnh hệ thống có viêm điểm bám gân
+ Mắc bệnh lý ác tính
+ Mới bị chấn thương trực tiếp làm tổn thương tổ chức tại chỗ
+ Sử dụng corticoid toàn thân trong vòng 2 tuần hoặc tiêm corticoid tại vị trí
điều trị trong vòng 1 tháng
+ Phụ nữ có thai hoặc nuôi con bú
+ Mẫn cảm với bất cứ thành phần nào của thuốc nghiên cứu
+ Không đồng ý tham gia nghiên cứu
+ Bệnh nhân không tuân thủ quy trình điều trị
2.3. Chất liệu nghiên cứu
• Thuốc Inflapain gel:
Nơi sản xuất: Nhà máy Nano sinh phẩm Vietlife- Công ty cổ phần Cẩm Hà.

Địa chỉ: T3 xưởng số 2, lô 04- CN5, TT phát triển cụm CN, phường Minh KhaiBắc Từ Liêm- Hà Nội
Cơ sở công bố: Công ty cổ phần Cẩm Hà. Địa chỉ: số 210 Bis, phố Đội Cấn,
phường Đội Cấn, quận Ba Đình, TP Hà Nội.
Thuốc được công bố dưới dạng sản phẩm mỹ phẩm. Số công bố 1191/ 16/
CBMP- HN.


23

Danh sách thành phần đầy đủ sản phẩm Inflapain 25g:
Tên danh pháp quốc tế
STT Tên đầy đủ thành phần
1

CURCUMIN NANO

2

CMC

3
4

CHITOSAN- POLY
NƯỚC TINH KHIẾT

5

DẦU KHUYNH DIỆP


hoặc sử dụng tên khoa học
chuẩn đã được công nhận
CURCUMIN
CARBOXYMETHYL
CELLULOSE
ACRYLIC ACID
PURIFIED WATER
EUCALYPTUS
GLOBULUS

Hình ảnh thuốc:
• Thuốc Inflapain gel:

Hình 2.1. Thuốc Inflapain gel

• Thuốc Voltaren Emulgel:

Tỉ lệ % của các
thành phần
0,78 (195mg)
0,9
0,9
Vừa đủ 25g
0,1


24

Hình 2.2. Thuốc Voltaren Emulgel
2.4. Phương pháp nghiên cứu

2.4.1. Quy trình nghiên cứu
- Tiến cứu, can thiệp theo dõi dọc có nhóm chứng
- Lựa chọn BN đủ tiêu chuẩn ở phần đối tượng nghiên cứu, chia làm 2 nhóm
theo cách kiểu lấy mẫu ngẫu nhiên theo phương pháp: bác sỹ điều trị chọn ngẫu
nhiên BN đủ tiêu chuẩn nghiên cứu trước khi quyết định chọn phương pháp điều trị,
nếu khám ngày lẻ sẽ tư vấn cho BN về phương pháp điều trị bằng Inflapain bôi,
khám ngày chẵn thì tư vấn về phương pháp điều trị Voltaren gel bôi, nếu BN đồng ý
điều trị theo tư vấn thì chọn vào nhóm nghiên cứu hoặc nhóm chứng. Nếu BN nào
không đồng ý điều trị theo tư vấn thì loại khỏi nghiên cứu, điều trị bằng các biện
pháp thông thường.
+ Nhóm nghiên cứu điều trị bằng Inflapain bôi: gồm 37 bệnh nhân (BN) được
đáp ứng tiêu chuẩn lựa chọn và loại trừ, điều trị bằng bôi Inflapain theo liệu trình 3
tuần, đánh giá sau mỗi 1 tuần.
+ Nhóm chứng điều trị bằng Voltaren bôi gồm 34 BN có cùng đặc điểm như
nhóm nghiên cứu, đáp ứng được tiêu chuẩn lựa chọn và loại trừ, điều trị bằng bôi
Voltaren theo liệu trình 3 tuần, đánh giá sau mỗi 1 tuần.
2.4.1.1.Các bước tiến hành:
Tất cả những bệnh nhân đều được tiến hành hỏi bệnh; thăm khám lâm sàng
(triệu chứng toàn thân, thực thể); làm xét nghiệm loại trừ bệnh lý toàn thân khi nghi
ngờ như công thức máu, tốc độ máu lắng, sinh hóa máu; chụp X quang, siêu âm
khớp khuỷu.
2.4.1.2. Hỏi bệnh và khám lâm sàng: theo mẫu bệnh án nghiên cứu


25

- Các thông tin chung : Họ tên , tuổi, giới , nghề nghiệp, địa chỉ.
+ Tuổi: chia ra 5 nhóm tuổi dưới 30, 30- 40, 40- 50, 50- 60, 60- 70
+ Nghề nghiệp:


Công chức, cán bộ hành chính
Làm ruộng
Hưu trí
Khác (nội trợ, thợ may, thợ xây…)

- Thời gian mắc bệnh: tính bằng thời gian từ khi có triệu chứng đau lần đầu
tiên, tính theo tháng
- Vị trí đau lồi cầu ngoài: tay thuận, tay không thuận
- Các phương pháp đã điều trị trước đây: nội khoa, tiêm corticoid tại chỗ, vật
lý trị liệu, đông y...
- Tính chất viêm đau tại chỗ trên lâm sàng: có sưng, nóng, đỏ hay không và
đánh giá chỉ số Ritchie khi ấn vào vị trí đau:
0 điểm: Không đau
1 điểm: Đau ít, bệnh nhân nói là thao tác gây đau
2 điểm: Đau vừa, bệnh nhân kêu đau và nhăn mặt
3 điểm: Đau nhiều, đến nỗi bệnh nhân rút tay lại
- Cường độ đau theo theo thang điểm VAS (Visual Analog Scales):
Thang điểm VAS được dùng để đánh giá cảm giác đau chủ quan của bệnh
nhân tại thời điểm nghiên cứu.
+ Cấu tạo thước đo VAS: được chia 10 vạch (từ 0 - 10, tương đương 10cm)
mỗi vạch lại chia nhỏ 10 mm (tổng 100 mm). Vạch 0 tương ứng là không
đau = 0 điểm, vạch 10 tối đa là đau dữ dội nhất = 10 điểm.

Hình 2.3. Thước đo thang điểm đau VAS
+ Bệnh nhân tự đánh giá mức đau của mình bằng cách tự kéo thước.


×