BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
----------
TRẦN THỊ THANH TÂM
PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG
CAO
Ở HUYỆN ĐỨC THỌ, TỈNH HÀ TĨNH HIỆN NAY
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60.22.03.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Phạm Văn Chín
Hà Nội - 2015
LỜI CẢM ƠN
Để thực hiện và hoàn thành luận văn này, tác giả đã nhận được sự quan
tâm giúp đỡ tận tình về nhiều mặt của tổ chức và cá nhân.
Trước tiên, tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám Hiệu trường Đại học Sư
phạm Hà Nội, Phòng đào tạo sau đại học, khoa Triết học đã tạo mọi điều kiện
cho tôi học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Bằng tấm lòng trân trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn chân
thành tới sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo PGS.TS Phạm Văn Chín đã trực
tiếp tận tình hướng dẫn và tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho tôi trong quá
trình viết luận văn và giúp tôi hoàn thành luận văn đúng thời hạn.
Xin chân thành cảm ơn Uỷ Ban Nhân Dân huyện Đức Thọ, phòng
Thống kê, phòng Công thương, Phòng Giáo dục và Đào tạo, Phòng Nông
nghiệp và Uỷ Ban Nhân Dân các xã huyện Đức Thọ đã tạo mọi điều kiện giúp
đỡ, cung cấp số liệu, tư liệu khách quan giúp tôi hoàn thành luận văn.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè, đồng nghiệp,
đã động viên, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn
thành luận văn này.
Mặc dù đã cố gắng, song luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót
và hạn chế. Tôi rất mong nhận được sự quan tâm và đóng góp của ban hội
đồng, của các thầy giáo, cô giáo và bạn bè để luận văn được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày.....tháng.....năm 2015
Tác giả luận văn
Trần Thị Thanh Tâm
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ĐVT
: Đơn vị tính
THCS
: Trung học cơ sở
THPT
: Trung học phổ thông
ĐT
: Đào tạo
CĐ
: Cao đẳng
ĐH
: Đại học
SL
: Số lượng
CNH - HĐH
: Công nghiệp hóa - hiện đại hóa
CT-HC
: Chính trị - hành chính
BCHTW
: Ban chấp hành trung ương
XHCN
: Xã hội chủ nghĩa
TP HCM
: Thành phố Hồ Chí Minh
LĐTBXH
: Lao động thương binh xã hội
TNHH
: Trách nhiệm hữu hạn
MỤC L
MỞ ĐẦU .........................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài ...........................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài .............................................................................4
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................7
4. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của luận văn .............................8
5. Phương pháp nghiên cứu ..............................................................................9
6. Kết cấu của luận văn ....................................................................................9
NỘI DUNG ....................................................................................................10
CHƯƠNG 1: LÍ LUẬN CHUNG VỀ NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT
LƯỢNG CAO ...............................................................................................10
1.1. Khái niệm nguồn nhân lực và nguồn nhân lực chất lượng cao .........10
1.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực ...................................................................10
1.1.2. Khái niệm nguồn nhân lực chất lượng cao ...........................................14
1.1.3. Biểu hiện (yêu cầu) của nguồn nhân lực chất lượng cao......................18
1.2. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ..........................................25
1.2.1. Khái niệm về phát triển ........................................................................25
1.2.2. Khái niệm về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. .....................26
1.2.3. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. ...........................................31
1.2.4. Vai trò của nguồn nhân lực chất lượng cao đối với sự phát triển kinh tế xã hội. .............................................................................................................33
Tiểu kết chương 1 ........................................................................................37
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN
NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO Ở HUYỆN ĐỨC THỌ, TỈNH HÀ TĨNH
HIỆN NAY .....................................................................................................39
2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội – nhân tố ảnh hưởng
đến sự phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở huyện Đức Thọ, tỉnh
Hà Tĩnh .........................................................................................................39
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên. ..............................................................................39
2.1.2. Đặc điểm về kinh tế - xã hội ................................................................42
2.2. Thực trạng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở huyện Đức
Thọ, tỉnh Hà Tĩnh trong thời gian qua. ......................................................45
2.2.1. Những kết quả đã đạt được trong sự phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao ở huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. ....................................................45
2.2.2. Những hạn chế trong việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở
huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. ........................................................................52
2.2.3. Nguyên nhân của những kết quả đã đạt được và hạn chế trong sự phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao ở huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. .......................56
2.3. Những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao ở huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh trong thời gian tới. ..........................60
2.3.1. Nâng cao nhận thức về nguồn nhân lực ..............................................62
2.3.2. Giải pháp về dân số ..............................................................................63
2.3.3. Giải pháp cải thiện và nâng cao chất lượng hệ thống giáo dục đào tạo
huyện Đức Thọ ...............................................................................................64
2.3.4. Nhóm giải pháp tuyển dụng, sử dụng và đào thải nguồn nhân lực ............68
2.3.5. Nhóm giải pháp hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. ............69
2.3.6. Giải quyết việc làm cho lao động trong các làng nghề ........................70
2.3.7. Cần có các chính sách thu hút đãi ngộ với nguồn nhân lực chất lượng
cao nhất là đội ngũ trí thức .............................................................................71
Tiểu kết chương 2 .........................................................................................74
KẾT LUẬN ...................................................................................................76
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...........................................................................78
Y
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Tình hình dân số và lao động của huyện Đức Thọ.........................46
Bảng 2.2: Đánh giá về tình hình thừa thiếu lao động ở Đức Thọ...................53
Bảng 2.3: Trình độ lao động ở nông thôn huyện Đức Thọ..............................53
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Tỷ lệ các loại hình doanh nghiệp khảo sát..................................47
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của bất kì một quốc gia nào,
ngoài các yếu tố như nếu nguồn tài nguyên thiên nhiên, khoa học công
nghệ...thì nguồn nhân lực có vai trò then chốt và chủ đạo. Vì rằng, nguồn
nhân lực là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu quyết định đến sức
mạnh của đất nước. Trong thời đại ngày nay, khi nhân loại đang dần chuyển
sang nền kinh tế tri thức và toàn cầu hóa đang trở thành xu thế tất yếu thì vai
trò của nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao đối với sự
phát triển lại càng rõ nét hơn. Chăm lo đầy đủ đến con người là yếu tố chắc
chắn nhất cho sự phồn thịnh, thịnh vượng của mọi quốc gia. Việc đầu tư để
phát triển nguồn lực con người là đầu tư chiến lược, là cơ sở chắc chắn nhất
cho sự phát triển bền vững.
Việt Nam được thế giới đánh giá là một nước có nguồn lao động dồi
dào, đang trong thời kỳ dân số vàng với tốc độ tăng dân số khá cao, hằng năm
có khoảng 1,5 tới 1,7 triệu lao động trẻ tham gia vào thị trường lao động. Đây
là nguồn lực vô cùng quan trọng để đất nước ta thực hiện thành công chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 – 2020 đã được Đại hội Đảng
XI thông qua ngày 16/02/2011. Nhận thức được tầm quan trọng của nguồn
lực con người đối với sự phát triển của đất nước, trong những năm qua Đảng
và Nhà nước đã đề ra nhiều giải pháp phát triển nguồn nhân lực. Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã chỉ rõ: Phát triển và nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá
chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học,
công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và là lợi
thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền
vững. Đặc biệt coi trọng phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, đội
ngũ chuyên gia, quản trị doanh nghiệp giỏi, lao động lành nghề và cán bộ
khoa học, công nghệ đầu đàn. Đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu đa
1
dạng, đa tầng của công nghệ và trình độ phát triển của các lĩnh vực, ngành
nghề. Thực hiện liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp, cơ sở sử dụng lao
động, cơ sở đào tạo và Nhà nước để phát triển nguồn nhân lực theo nhu cầu
xã hội. Thực hiện các chương trình, đề án đào tạo nhân lực chất lượng cao đối
với các ngành, lĩnh vực chủ yếu, mũi nhọn nhằm bảo đảm nguồn nhân lực cả
về số lượng và chất lượng, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
Qua gần 30 năm đổi mới, nền kinh tế chuyển từ kế hoạch hóa, tập
trung, quan liêu, bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
cơ cấu kinh tế nước ta đang chuyển dịch theo hướng hiện đại. Đặc biệt trong
bối cảnh hiện nay khi nền kinh tế tri thức đang từng bước phát triển, đòi hỏi
cần có sự phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Do đó, vấn đề phát triển
nguồn nhân lực là một trong 3 bước đột phá cơ bản của chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội đến năm 2020. Trong 3 bước đột phá ấy thì việc phát triển
nguồn nhân lực nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là bước đột phá tiên
quyết so với vấn đề hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, xây dựng kết cấu hạ
tầng bởi vì trong thời đại ngày nay con người đang là trung tâm của mọi chiến
lược, đồng thời là mục tiêu là động lực của sự phát triển bền vững.
Tuy nhiên, so với yêu cầu của nền kinh tế tri thức hiện nay thì chất
lượng nguồn nhân lực ở nước ta còn nhiều bất cập và tồn tại những hạn
chế. Hiện nay nước ta mới chỉ đáp ứng được khoảng 30 - 40% nhu cầu
nhân lực chất lượng cao của doanh nghiệp. Thị trường nguồn nhân lực chất
lượng cao của Việt Nam đang đứng trước những hạn chế to lớn về số lượng,
chất lượng và cơ cấu.
Huyện Đức Thọ (tỉnh Hà Tĩnh ) là một huyện có vị trí quan trọng cả về
kinh tế và quốc phòng, an ninh đối với tỉnh Hà Tĩnh. Đức Thọ là một vùng đất
địa linh nhân kiệt, giàu truyền thống lịch sử và văn hoá. Với diện tích
20.904ha, dân số 125.260 người, hiện nay là một trong những huyện có nhiều
tiềm năng phát triển của tỉnh. Nhìn chung hoạt động kinh doanh thương mại
2
trên địa bàn huyện Đức Thọ phát triển khá đa dạng; quy mô có sự thay đổi với
nhiều thành phần kinh tế như dịch vụ vận tải, phân bón, vật liệu xây dựng, vật
tư nông nghiệp…góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm
tăng thu nhập cho lao động nông thôn. Kết quả trên thật đáng mừng nhưng
vẫn chưa tương xứng so với tiềm năng lợi thế của huyện. Lực lượng lao động
chiếm 59% dân số, có lượng lao động dồi dào, đặc biệt trong những năm qua,
Đảng bộ và nhân dân trong huyện đã thực hiện tốt các giải pháp phát triển
nguồn nhân lực bao gồm các hoạt động như đào tạo, liên kết nâng cao trình độ
cho đội ngũ cán bộ cơ sở tại trung tâm chính trị của huyện, đào tạo nghề cho
lao động trong huyện tại trung tâm Giáo dục thường xuyên; tổ chức các lớp
đào tạo nghề cho công nhân trong các doanh nghiệp; tổ chức hoạt động xuất
khẩu lao động...Các hoạt động trên góp phần đáng kể cho sự phát triển nguồn
nhân lực của huyện.
Tuy nhiên, phát triển nguồn nhân lực của Đức Thọ hiện nay còn nhiều
bất cập. Chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu
phát triển kinh tế - xã hội của huyện. Tốc độ chuyển dịch cơ cấu lao động vẫn
diễn ra chậm; đa số lao động nông thôn bị hạn chế về điều kiện sức khỏe, thể
chất và tinh thần; trình độ chuyên môn của người lao động trong huyện còn
thấp; trình độ nhận thức và tỷ lệ lao động được đào tạo chưa cao...Do đó,
để đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, cũng như phù hợp với
những tiềm năng sẵn có của huyện, trong thời gian tới, một trong những
mục tiêu của huyện Đức Thọ là cần phải đào tạo và nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao...
Trước những vấn đề bất cập trên, việc xây dựng và phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao ở huyện Đức Thọ đòi hỏi phải có nghiên cứu sâu hơn
về vấn đề nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao nhằm
đưa ra những giải pháp mới, phù hợp với tình hình địa phương từ đó nâng cao
chất lượng nguồn nhân để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn của huyện.
3
Là một người con của huyện Đức Thọ, bản thân tôi rất muốn quê
hương thoát khỏi cảnh đói nghèo, cuộc sống của người dân ngày càng được
nâng cao, kinh tế của huyện ngày càng phát triển.
Xuất phát từ những yêu cầu trên, việc thực hiện nghiên cứu đề tài
“Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở huyện Đức Thọ, tỉnh Hà
Tĩnh hiện nay” trở nên vô cùng cần thiết và có ý nghĩa to lớn đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội của huyện nói riêng và sự nghiệp công hóa, hiện đại hóa
đất nước nói chung.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Do đó,
vấn đề con người, đặc biệt là nguồn lực con người luôn là đối tượng thu hút
sự quan tâm của nhiều ngành khoa học. Thực tiễn ngày càng chứng minh, sự
phát triển bền vững của mỗi quốc gia phụ thuộc vào việc đầu tư khai thác,
phát triển có hiệu quả vai trò con người, nguồn nhân lực con người.
Nghiên cứu về vấn đề phát triển nguồn nhân lực và nguồn nhân lực
chất lượng cao luôn là đề tài nhận được sự quan tâm của nhiều người, nhiều
cơ quan, tổ chức và các nhà nghiên cứu khoa học, cũng như các hội thảo khoa
học, các luận văn thạc sĩ, tiến sĩ. Những nghiên cứu về đề tài này được xem
xét ở nhiều góc độ, phạm vi rộng, hẹp khác nhau như:
Bài viết của PGS.TS. Lương Đình Hải: “Tư duy phát triển và sự phát
triển của đất nước” (2011), đăng bởi Tạp chí triết học số 1 (236). Trong bài
viết này, tác giả cho rằng: Từ góc độ phát triển nói chung, chúng ta đang đứng
trước hàng loạt vấn đề nan giải mà từ nay đến năm 2040 sẽ ngày càng trở nên
căng thẳng và không thể không giải quyết. Đó không chỉ là tốc độ phát triển
nhanh của thế giới và các nước trong khu vực, của khoa học và công nghệ, sự
biến động của nền kinh tế thế giới, nói tóm lại là của những yếu tố bên ngoài,
mà còn là của các yếu tố bên trong. Cùng với những yếu tố bên ngoài, các yếu
tố bên trong cũng đang tạo nên những sức ép rất lớn, những chướng ngại cản
trở chúng ta phát triển nhanh, làm tăng nguy cơ tụt hậu ngày càng xa , và một
4
trong những yếu tố quyết định tốc độ phát triển của quốc gia là chất lượng
nguồn nhân lực.
Tại hội thảo cấp cao “Việt nam hướng tới thập niên mới và giai đoạn xa
hơn” Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nêu rõ 5 quan điểm phát triển của Việt
Nam trong giai đoạn 2011- 2020 đó là: phát triển nhanh gắn liền với phát triển
bền vững, đổi mới đồng bộ, thực hành dân chủ phát huy nhân tố con người,
phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ.
Trong 5 quan điểm phát triển trên thì việc phát huy nhân tố con người được
đánh giá là một trong những quan điểm quan trọng nhất.
Hội thảo phát triển nguồn nhân lực cho vùng kinh tế trọng điểm miền
Trung “Phát triển nguồn nhân lực cho vùng kinh tế trọng điểm miền Trung”
tại Đà Nẵng diễn ra vào ngày 10/01/2012. Tại hội thảo này gồm có 43 bài
nghiên cứu của các nhà khoa học các nhà nghiên cứu, cán bộ giảng dạy của
Học viện Chính trị - Hành chính khu vực III, Viện khoa học xã hội Việt Nam,
Viện nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội Đà Nẵng…Trong 43 bài nghiên
cứu thì đã có tới 14 bài đề cập đến những vấn đề chung về nguồn nhân lực và
nguồn nhân lực chất lượng cao, bồi dưỡng nhân tài; 25 bài đề cập đến thực
trạng những vấn đề đặt ra cũng như những giải pháp để phát triển nguồn nhân
lực cho vùng trọng điểm miền trung.
Hội thảo khoa học “Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa - hiện đại hóa, và hội nhập quốc tế” diễn ra tại Hà Nội vào ngày
24/08/2012 đã thu hút 80 tham luận của các nhà khoa học, nhà quản lý, đại
diện các cơ quan, ban, ngành, và 12 ý kiến phát biểu trực tiếp. Hội thảo khẳng
định: Việt Nam đang đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế, tất yếu đang từng bước tiến tới chiếm lĩnh những thành tựu khoa học
– công nghệ tiên tiến, nên đòi hỏi một lực lượng đông đảo nguồn nhân lực có
trình độ cao, có khả năng làm việc trong môi trường công nghệ và cạnh tranh.
Do vậy phát triển nguồn nhân lực có chất lượng với những thay đổi nhanh
5
chóng của công nghệ sản xuất là yếu tố then chốt bảo đảm nền kinh tế Việt
Nam phát triển theo hướng hiện đại, bền vững.
Trong bài viết “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho vùng
kinh tế trọng điểm miền Trung từ nay đến 2020” của PGS, TS Hồ Tấn Sáng,
Học viện Chính trị hành chính Khu vực III cũng đã nêu rõ yêu cầu bức thiết
của việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở các tỉnh vùng kinh tế
trọng điểm miền Trung. Đồng thời nêu lên một số giải pháp góp phần phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở các tỉnh vùng kinh tế trọng điểm miền
Trung trong giai đoạn 2011 - 2020.
Bài viết “Đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao phục vụ sự phát
triển bền vững của đất nước” của TS. Trần Hồng Lưu, Khoa lý luận chính
trị, Đại học kinh tế Đà Nẵng cũng đã nêu bật vai trò của nguồn nhân lực có
trình độ cao là yếu tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và những
số liệu liên quan đến nguồn nhân lực cùng những kiến nghị đối với nhà
nước, các cơ quan ban ngành, đặc biệt là ngành giáo dục - đào tạo nhằm tạo
ra nguồn nhân lực đó.
Cũng đề cập đến vấn đề phát triển nguồn nhân lực cao, bài viết “Giáo
dục - đào tạo với phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa” của PGS,TS. Đường Vinh Sường, Học viện chính trị Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Tạp chí cộng sản, số 833 (03/2001) đã
khẳng định nguồn nhân lực chất lượng cao của thời kì công nghiệp hóa,
hiện đại hóa phải là những con người phát triển cả về thể lực và trí lực, cả
về khả năng lao động, về tính tích cực chính trị xã hội, về đạo đức, tình
cảm trong sáng…
Trong “Vai trò nguồn nhân lực với sự phát triển kinh tế miền trung” của
TS. Nguyễn Văn Thanh, Đại học kinh tế Đà Nẵng. Tác giả phân tích làm rõ
khái niệm con người và nguồn lực con người, số lượng và chất lượng của
nguồn lực con người, đồng thời nêu lên những nhiệm vụ cần thực hiện để phát
huy nguồn lực con người.
6
“Một số yêu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao trong hội nhập kinh
tế quốc tế” của Võ Thị Kim Loan trong hội thảo toàn quốc giáo dục đại học
Việt Nam diễn ra vào 09/11/2012 cũng đã nêu lên một số yêu cầu cần phải đạt
đối với nguồn nhân lực chất lượng cao trong quá trình hội nhập.
Có thể thấy các đề tài nghiên cứu khoa học, các công trình, các sách,
các bài viết được đăng tải trong các tạp chí, kỷ hiếu, hội thảo... được nêu ở
trên đều có cùng mục tiêu là khẳng định nhất quán quan điểm phát triển toàn
diện con người, đó chính là động lực để phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước. Tất cả các đề tài đó ít nhiều đều cập đến những vấn đề chung về nguồn
nhân lực nói chung và nguồn nhân lực chất lượng cao nói riêng. Đồng thời
cũng đã nêu ra những nhiệm vụ và giải pháp trong việc phát triển nguồn nhân
lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao, tất cả đều có giá trị tham khảo
tốt. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có một chuyên luận nào đi sâu vào nghiên
cứu toàn diện cơ sở lý luận, thực trạng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao ở huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh hiện nay.
Vì vậy, với đề tài “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở huyện
Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh” tôi đã đi sâu vào nghiên cứu thực trạng nguồn nhân
lực chất lượng cao và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở huyện Đức
Thọ, tỉnh Hà Tĩnh trong những năm gần đây, và từ đó đề xuất một số giải
pháp nhằm phát triển có hiệu quả hơn nữa nguồn nhân lực chất lượng cao ở
huyện Đức Thọ, tỉnh Hà tĩnh trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở vận dụng nguyên lý phát triển và quan điểm phát triển của
phép biện chứng duy vật nhằm phân tích, đánh giá tình hình và thực trạng
nguồn nhân lực chất lượng cao ở huyện Đức Thọ trong những năm gần đây,
từ đó đưa ra các phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của huyện
trong giai đoạn hiện nay.
7
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu về nguồn nhân lực chất lượng cao của
huyện Đức Thọ; không những nghiên cứu về mặt số lượng mà còn tập trung
nghiên cứu mặt chất lượng
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Với tính chất là một luận văn nên phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ
giới hạn ở việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong thời gian gần
đây của huyện Đức Thọ, khoảng từ 2006 đến 2015.
4. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của luận văn
4.1. Những luận điểm cơ bản:
Luận văn được triển khai trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội; chủ trương, đường lối
của Đảng và Nhà nước ta về nguồn lực con người; làm rõ quan điểm mácxít
về vai trò của con người và nhân tố con người trong lực lượng sản xuất, quan
niệm về nguồn lực con người, chất lượng nguồn lực con người và vai trò của nó
trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Luận văn đi sâu vào đánh giá tình hình dân số, thực trạng nguồn lực
con người đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao và việc phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao ở huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Từ đó, đề xuất một
số giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự phát triển
của huyện từ nay đến năm 2020.
4.2. Đóng góp mới của luận văn:
Luận văn bước đầu góp phần hệ thống hóa những luận điểm nghiên cứu
có ý nghĩa lý luận và phương pháp luận về nhân tố con người và nguồn lực
con người.
Luận văn làm rõ những đặc điểm, tính chất riêng biệt của cộng đồng
các tộc người ở huyện Đức Thọ. Đồng thời phân tích, đánh giá thực trạng
nguồn nhân lực chất lượng cao ở huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.
8
Trên cơ sở đó luận văn đã đưa ra một số phương hướng, giải pháp
nhằm góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực chất lượng cao ở huyện
Đức Thọ đồng thời góp phần nâng cao nhận thức cho đội ngũ lãnh đạo của
huyện trong việc hoạch định chính sách, đường lối để phát triển nguồn nhân
lực chất lượng cao của huyện.
5. Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng,
chủ nghĩa duy vật lịch sử, các quan điểm của Đảng, Nhà nước và của Chủ tịch
Hồ Chí Minh.
Đồng thời luận văn cũng sử dụng các phương pháp như: Phương pháp
phân tích tổng hợp, phương pháp logic - lịch sử, phương pháp thống kê so
sánh, phương pháp điều tra xã hội học…
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục.
Luận văn gồm có 2 chương và 5 tiết.
9
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
LÍ LUẬN CHUNG VỀ NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO
1.1. Khái niệm nguồn nhân lực và nguồn nhân lực chất lượng cao
1.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực
"Nguồn lực con người" hay "nguồn nhân lực” là khái niệm được hình
thành trong quá trình nghiên cứu, xem xét con người với tư cách là một nguồn
lực, là động lực của sự phát triển. Các công trình nghiên cứu trên thế giới và
trong nước gần đây đã đề cập đến khái niệm nguồn nhân lực với nhiều góc độ
khác nhau.
Theo Liên Hợp Quốc thì “nguồn nhân lực là tất cả những kiến thức, kỹ
năng, kinh nghiệm, năng lực và tính sáng tạo của con người có quan hệ tới sự
phát triển của mỗi cá nhân và đất nước” [27, tr.8]
Theo cơ quan phát triển của Liên hợp quốc (UNDT) thì nguồn nhân lực
là tổng thể những năng lực của con người được huy động vào quá trình sản
xuất. Ngân hàng thế giới thì cho rằng, nguồn nhân lực là toàn bộ vốn con
người bao gồm thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp...của mỗi cá nhân.
Theo tổ chức Lao động quốc tế thì nguồn nhân lực của một quốc gia là
toàn bộ những người trong độ tuổi có khả năng tham gia lao động. Nguồn
nhân lực được hiểu theo hai nghĩa. Theo nghĩa rộng, nguồn nhân lực là nguồn
cung cấp sức lao động cho sản xuất xã hội, cung cấp nguồn lực con người cho
sự phát triển. Do đó, nguồn nhân lực bao gồm toàn bộ dân cư có thể phát triển
bình thường. Theo nghĩa hẹp, nguồn nhân lực là khả năng lao động của xã
hội, là nguồn lực cho sự phát triển kinh tế xã hội, bao gồm các nhóm dân cư
trong độ tuổi lao động, có khả năng tham gia vào lao động, sản xuất xã hội,
tức là toàn bộ các cá nhân cụ thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể
các yếu tố về thể lực, trí lực của họ được huy động vào quá trình lao động.
10
Trong Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương khóa
VIII thì “Nguồn lực con người là quý báu nhất, có vai trò quyết định đặc biệt
đối với nước ta khi nguồn lực tài chính và nguồn lực vật chất còn hạn hẹp.
Nguồn lực đó là người lao động có trí tuệ cao, có tay nghề thành thạo, có
phẩm chất tốt đẹp được đào tạo bồi dưỡng và phát huy bởi một nền giáo dục
tiên tiến gắn liền với một nền khoa học công nghệ hiện đại.” [7, tr.11].
Theo giáo trình môn “Kinh tế phát triển” của Đại học Kinh tế quốc dân,
Hà Nội đưa ra khái niệm về nguồn nhân lực một cách cụ thể hơn “nguồn nhân
lực là một bộ phận dân số trong độ tuổi quy định có khả năng tham gia lao
động, nguồn nhân lực được biểu hiện trên hai mặt: về số lượng đó là tổng số
những người trong độ tuổi lao động làm việc theo quy định của Nhà nước và
thời gian lao động có thể huy động được từ họ; về chất lượng, đó là sức khỏe
và trình độ chuyên môn, kiến thức và trình độ lành nghề của người lao động.
Nguồn lao động là tổng số người lao động trong độ tuổi lao động theo quy
định đang tham gia lao động hoặc đang tích cực tìm việc làm” [50, tr.73]
Theo các tác giả của cuốn “Nguồn nhân lực và động lực phát triển
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” do
GS.TSKH Lê Du Phong chủ biên thì “Nguồn nhân lực con người được hiểu là
tổng hòa trong thể thống nhất hữu cơ giữa năng lực xã hội của con người (thể
lực, trí lực, nhân cách) và tính năng động. Tính thống nhất đó được thể hiện ở
quá trình biến nguồn lực con người thành vốn con người.” [45, tr.14]
Tiếp cận dưới góc độ của Kinh tế Chính trị có thể hiểu: nguồn nhân lực
là tổng hòa thể lực và trí lực tồn tại trong toàn bộ lực lượng lao động xã hội
của một quốc gia, trong đó kết tinh truyền thống và kinh nghiệm lao động
sáng tạo của một dân tộc trong lịch sử được vận dụng để sản xuất ra của cải
vật chất và tinh thần phục vụ cho nhu cầu hiện tại và tương lai của đất nước.
Theo David Begg: “Nguồn nhân lực là toàn bộ quá trình chuyên môn
mà con người tích luỹ được, nó được đánh giá cao vì tiềm năng đem lại thu
nhập trong tương lai. Cũng giống như nguồn lực vật chất, nguồn nhân lực là
11
kết quả đầu tư trong quá khứ với mục đích đem lại thu nhập trong tương lai”
[58, tr.282].
Theo GS.TS Phạm Minh Hạc: “Nguồn nhân lực là tổng thể các tiềm
năng lao động của một nước hoặc một địa phương, tức nguồn lao động được
chuẩn bị (ở các mức độ khác nhau) sẵn sàng tham gia một công việc lao động
nào đó, tức là những người lao động có kỹ năng (hay khả năng nói chung),
bằng con đường đáp ứng được yêu cầu của cơ chế chuyển đổi cơ cấu lao
động, cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. [19, tr.269].
Theo TS. Nguyễn Hữu Dũng “Nguồn nhân lực được xem xét dưới hai
góc độ năng lực xã hội và tính năng động xã hội. Ở góc độ thứ nhất, nguồn
nhân lực là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội, là bộ phận quan trọng
nhất của dân số, có khả năng tạo ra giá trị vật chất và tinh thần cho xã hội.
Xem xét nguồn nhân lực dưới dạng tiềm năng giúp định hướng phát triển
nguồn nhân lực để đảm bảo không ngừng nâng cao năng lực xã hội của nguồn
nhân lực thông qua giáo dục đào tạo, chăm sóc sức khoẻ. Tuy nhiên nếu chỉ
dừng lại ở dạng tiềm năng thì chưa đủ. Muốn phát huy tiềm năng đó phải
chuyển nguồn nhân lực sang trạng thái động thành vốn nhân lực, tức là nâng
cao tính năng động xã hội của con người thông qua các chính sách, thể chế và
giải phóng triệt để tiềm năng con người. Con người với tiềm năng vô tận nếu
được tự do phát triển, tự do sáng tạo và cống hiến, được trả đúng giá trị lao
động thì tiềm năng vô tận đó được khai thác phát huy trở thành nguồn vốn vô
cùng to lớn”. [4, tr.5].
Viện Nghiên cứu con người (2006) lại cho rằng: Nguồn nhân lực là
tổng thể các tiềm năng lao động của một tổ chức, một địa phương một quốc
gia trong tổng thể thống nhất hữu cơ năng lực xã hội (thể, trí, nhân cách) và
tính năng động của xã hội con người, nhóm người, tổ chức, địa phương, vùng,
quốc gia. Tính thống nhất đó được thể hiện ở quá trình biến đổi nguồn lực con
người thành vốn con người đáp ứng yêu cầu phát triển.
12
Theo các nhà khoa học tham gia chương trình KX - 07 thì nguồn nhân lực
cần được hiểu là số dân và chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh
thần, sức khỏe và trí tuệ, năng lực, phẩm chất và đạo đức của người lao động.
Trong giáo trình “Nguồn nhân lực” của Nhà xuất bản Lao động xã hội
cho rằng: Nguồn nhân lực bao gồm toàn bộ dân cư có khả năng lao động,
không phân biệt người đó đang được phân bố vào ngành nghề, lĩnh vực, khu
vực nào và có thể coi đây là nguồn nhân lực xã hội.
Từ góc độ quản trị học, nguồn nhân lực được hiểu là nguồn tài nguyên
nhân sự và các vấn đề nhân sự trong một tổ chức cụ thể, nghĩa là toàn bộ đội
ngũ cán bộ, công nhân viên của tổ chức với tư cách vừa là khách thể trung
tâm của các nhà quản trị, vừa là chủ thể hoạt động và là động lực phát triển
của các doanh nghiệp nói riêng, của mọi tổ chức nói chung.
Những quan niệm trên cho thấy nguồn lực con người không chỉ đơn
thuần là lực lượng lao động đã có và sẽ có, mà còn bao gồm sức mạnh của thể
chất, trí tuệ, tinh thần của các cá nhân trong một cộng đồng, một quốc gia
được đem ra hoặc có khả năng đem ra sử dụng vào quá trình phát triển xã hội.
Nguồn nhân lực, theo cách tiếp cận mới, có nội hàm rộng rãi bao gồm
các yếu tố cấu thành về số lượng, tri thức, khả năng nhận thức và tiếp thu kiến
thức, tính năng động xã hội, sức sáng tạo, truyền thống lịch sử và văn hoá.
Xem xét dưới các góc độ khác nhau có thể có những khái niệm khác
nhau về nguồn nhân lực nhưng những khái niệm này đều thống nhất nội dung
cơ bản: nguồn nhân lực là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội. Con
người với tư cách là yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất giữ vị trí hàng đầu, là
nguồn lực cơ bản và nguồn lực vô tận của sự phát triển không chỉ được xem
xét đơn thuần ở góc độ số lượng hay chất lượng mà là sự tổng hợp của cả số
lượng và chất lượng; không chỉ là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động mà
là các thế hệ con người với những tiềm năng, sức mạnh trong cải tạo tự nhiên,
cải tạo xã hội.
13
Vì vậy, có thể khái quát lại như sau: Nguồn nhân lực là tổng thể số
lượng và chất lượng con người với tổng hoà các tiêu chí về trí lực, thể lực và
những phẩm chất đạo đức - tinh thần tạo nên năng lực mà bản thân con người
và xã hội đã, đang và sẽ huy động vào quá trình lao động sáng tạo vì sự phát
triển và tiến bộ xã hội.
Nguồn nhân lực có những đặc trưng về số lượng và chất lượng.
Số lượng nguồn nhân lực đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội nói chung. Ở nước ta, số lượng nguồn nhân lực được xác định
bao gồm tổng số người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động (nam từ
15 - 60 tuổi, nữ từ 15 - 55 tuổi). Vì theo Bộ Luật lao động nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành năm 1994 thì người lao động phải ít nhất đủ
15 tuổi. Luật lao động đã quy định giới hạn của độ tuổi lao động đối với nam
là 60 tuổi và đối với nữ là 55 tuổi.
Chất lượng nguồn nhân lực được biểu hiện ở trạng thái thể lực, trí lực,
phong cách làm việc: Trạng thái sức khỏe, trình độ học vấn, nhân cách, lối
sống, trình độ chuyên môn kỹ thuật, cơ cấu nghề nghiệp...Trong đó, thể lực là
nền tảng, là cơ sở phát triển trí tuệ, là phương tiện để chuyển tải tri thức của
con người vào thực tiễn; trình độ học vấn là yếu tố quan trọng nhất vì nó
không chỉ là cơ sở để đào tạo kỹ năng nghề nghiệp mà còn là yếu tố hình
thành nhân cách và lối sống của mỗi con người. Tất cả các yếu tố đó tạo thành
vốn con người, vốn nguồn nhân lực.
1.1.2. Khái niệm nguồn nhân lực chất lượng cao
Việt Nam cho đến nay, thuật ngữ nguồn nhân lực chất lượng cao chưa
thấy xuất hiện trong từ điển Bách Khoa Việt Nam cũng như các từ điển tiếng
Việt hay từ điển kinh tế khác, mặc dù trong thực tiễn phát triển kinh tế của đất
nước, nó được dùng khá phổ biến. Tại Hội Nghị BCHTW khóa IX, Đảng ta
lần đầu tiên sử dụng thuật ngữ nguồn nhân lực chất lượng cao. Phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao thông qua con đường phát triển, giáo dục đào
tạo, khoa học và công nghệ chính là khâu then chốt để nước ta vượt qua tình
14
trạng nước nghèo và kém phát triển. Đến đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X,
Đảng ta một lần nữa nhấn mạnh thuật ngữ này khi đưa ra định hướng chính
sách tập trung phát triển nhanh nguồn nhân lực chất lượng cao. Trọng dụng
nhân tài, các nhà khoa học đầu nghành, tổng công trình sư, kỹ sư trưởng kĩ
thuật viên lành nghề và công nhân kĩ thuật có tay nghề cao. Có chính sách thu
hút các nhà khoa học công nghệ giỏi trong nước và ngoài nước, trong cộng
đồng người Việt định cư ở nước ngoài. Như vậy, theo quan niệm của Đảng ta,
nguồn nhân lực chất lượng cao bao gồm đội ngũ các nhà khoa học và công
nghệ, các công trình sư, kỹ sư, các công nhân kĩ thuật có tay nghề cao.
Nguồn nhân lực chất lượng cao là khái niệm để chỉ một con người, một
người lao động cụ thể có trình độ lành nghề (về chuyên môn, kỹ thuật) ứng
với một ngành nghề cụ thể theo tiêu thức phân loại lao động về chuyên môn,
kỹ thuật nhất định (Đại học, trên đại học, cao đẳng, lao động kỹ thuật lành
nghề). Giữa chất lượng nguồn nhân lực và nguồn nhân lực chất lượng cao có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng.
Nói đến chất lượng nguồn nhân lực là nói đến tổng thể nguồn nhân lực của
một quốc gia, trong đó nguồn nhân lực chất lượng cao là bộ phận cấu thành
đặc biệt quan trọng, là nhóm tinh tuý nhất, có chất lượng nhất. Bởi vậy, khi
bàn về nguồn nhân lực chất lượng cao không thể không đặt nó trong tổng thể
vấn đề chất lượng nguồn nhân lực nói chung của một đất nước. Nguồn nhân
lực chất lượng cao là nguồn nhân lực phải đáp ứng được yêu cầu của thị
trường (yêu cầu của các doanh nghiệp trong và ngoài nước), đó là: có kiến
thức về chuyên môn, kinh tế, tin học; có kỹ năng kỹ thuật, tìm và tự tạo việc
làm, làm việc an toàn, làm việc hợp tác; có thái độ, tác phong làm việc tốt và
trách nhiệm cao đối với công việc.
Nguồn nhân lực chất lượng cao là tập hợp những người tham gia vào
các hoạt động khoa học công nghệ với các chức năng nghiên cứu, sáng tạo,
giảng dạy, quản lý, tác nghiệp,… Đây là lực lượng góp phần quyết định tạo
nên sự phát triển, tiến bộ của khoa học công nghệ nói riêng và của sự nghiệp
15
công nghiệp hóa - hiện đại hóa nói chung. Trong đội ngũ này, đáng chú ý là
các cán bộ khoa học công nghệ làm việc trong hệ thống các cơ quan nghiên
cứu và triển khai bao gồm hệ thống các viện nghiên cứu, thiết kế, các cơ sở
quản lý, tư vấn, dịch vụ chuyển giao công nghệ cùng các cơ sở sản xuất dịch
vụ trực tiếp tham gia thử nghiệm hoặc tiếp nhận công nghệ được chuyển giao
ứng dụng. Có thể nói đây là lực lượng tiên phong trong việc tiếp nhận chuyển
giao công nghệ tiên tiến, thực hiện việc ứng dụng có kết quả vào điều kiện
thực tế, là hạt nhân trong việc đưa lĩnh vực nơi họ đang lao động, sáng tạo đi
vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Theo GS.TS Nguyễn Trọng Chuẩn: Nguồn nhân lực chất lượng cao một nguồn nhân lực mới, là một lực lượng lao động có học vấn, có trình độ
chuyên môn cao và nhất là có khả năng thích ứng nhanh với những thay đổi
nhanh chóng của công nghệ sản xuất.
TS. Nguyễn Hữu Dũng, Viện Trưởng Viện Khoa học lao động - xã hội
thì cho rằng: Nguồn nhân lực chất lượng cao là nguồn nhân lực là lực lượng
tinh túy, kết tinh những gì ưu tú nhất của con người.
Theo GS.VS Phạm Minh Hạc thì nguồn nhân lực chất lượng cao là đội
ngũ nhân lực có trình độ và năng lực cao, là lực lượng xung kích tiếp nhận
chuyển giao công nghệ tiên tiến, sử dụng có hiệu quả việc ứng dụng vào điều
kiện nước ta là hạt nhân đưa lĩnh vực của mình đi vào công nghiệp hóa, hiện
đại hóa được mở rộng theo kiểu vết dầu loang bằng cách dẫn dắt những bộ
phận có trình độ và năng lực thấp hơn, đi lên với tốc độ nhanh.
Còn theo GS. Chu Hảo thì nhân lực chất lượng cao trước hết phải được
thừa nhận trên thực tế, không phải ở dạng tiềm năng. Điều đó có nghĩa là nó
không đồng nghĩa với học vị cao. Nguồn nhân lực cao là những người có
năng lực thực tế hoàn thành nhiệm vụ được giao một cách xuất sắc nhất, sáng
tạo và có đóng góp thực sự hữu ích cho công việc của xã hội.
Có thể quan niệm nguồn nhân lực chất lượng cao là lực lượng lao động
có khả năng đáp ứng nhu cầu cao và biết cách giải quyết tối ưu những vấn đề
16
thực tiễn đặt ra. Lực lượng này có trình độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật
cao, có khả năng nhận thức, tiếp thu nhanh kiến thức mới; biết vận dụng sáng
tạo tri thức, kỹ năng được đào tạo và những thành tựu khoa học- công nghệ
vào lao động sản xuất nhằm đem lại năng suất, chất lượng, hiệu quả cao.
Chỉ tiêu về nguồn nhân lực chất lượng cao là những người có trình độ
chuyên môn cao, vốn tri thức và tay nghề giỏi, khả năng nhận thức và tiếp thu
nhanh kiến thức mới. Đây là chìa khóa chiếm lĩnh những đỉnh cao của khoa
học kĩ thuật và công nghệ trên con đường phát triển chống nguy cơ tụt hậu.
Ngoài ra còn có những thuật ngữ cụ thể mang ý nghĩa gần gũi và được
xã hội chấp nhận. Những quan niệm này có nội hàm hẹp hơn và để chỉ người
lao động có trình độ, có chất lượng, đạt hiệu quả lao động trong hai lĩnh vực
lao động chủ yếu: trong lĩnh vực sản xuất vật chất như chuyên gia, nghệ
nhân...trong lĩnh vực lao động trí óc, bên cạnh hệ thống học vị học hàm của
Nhà nước còn có các thuật ngữ như nhà chuyên môn, bác học...bên cạnh đó
xã hội còn có những thuật ngữ như nhân tài, nguyên khí quốc gia... để tôn
vinh những người tài có công cống hiến cho sự phồn thịnh của đất nước.
Như vậy, có thể hiểu nguồn nhân lực chất lượng cao là một bộ phận đặc
biệt, kết tinh những gì tinh túy nhất của nguồn nhân lực. Đó là lực lượng lao
động có khả năng đáp ứng nhu cầu cao của thực tiễn. Họ được đặc trưng bởi
trình độ học vấn và chuyên môn cao có khả năng nhận thức và tiếp thu nhanh
chóng những kiến thức mới, có năng lực sáng tạo, biết vận dụng thành tựu
khoa học và công nghệ vào thực tiễn. Họ có phẩm chất công dân tốt, có đạo
đức nghề nghiệp và đem lại năng suất, chất lượng hiệu quả lao động cao hơn
hẳn so với nguồn nhân lực phổ thông. Xét về mặt khoa học công nghệ, nguồn
nhân lực chất lượng cao là nguồn nhân lực làm chủ được các công nghệ cao,
có chất xám cao, đưa hàm lượng chất xám vào sản phẩm có chất lượng cả về
mặt tri thức cả mỹ quan công nghiệp. Xét về mặt kinh tế thị trường và hội
nhập quốc tế thì nguồn nhân lực chất lượng cao phải có năng lực nhận thức và
thực hành kinh tế thị trường chuyển dần theo nền kinh tế thị trường hiện
17
đại. Xét về mặt chính trị - công dân, nguồn nhân lực chất lượng cao là
những người không chỉ có trí tuệ, có văn hóa nghề nghiệp mà còn là
những công dân, những người có ý thức và năng lực thực thi dân chủ, và
pháp quyền. Làm việc không chỉ vì lợi ích cá nhân mà còn là vì lợi ích
cộng đồng, lợi ích quốc gia.
1.1.3. Biểu hiện (yêu cầu) của nguồn nhân lực chất lượng cao.
Nguồn nhân lực chất lượng cao được hiểu là một bộ phận đặc biệt của
lực lượng lao động, có khả năng đáp ứng nhu cầu cao của thực tiễn; có trình
độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật cao; có kỹ năng lao động giỏi; có khả
năng thích ứng nhanh, làm chủ công nghệ sản xuất; có sức khỏe và phẩm chất
đạo đức tốt; có khả năng vận dụng sáng tạo tri thức, kỹ năng đã được đào tạo
vào quá trình lao động sản xuất nhằm đem lại năng suất, chất lượng và hiệu
quả cao. Như vậy, khái niệm về nguồn nhân lực chất lượng cao được đánh giá
bởi nhiều yếu tố: thể lực, trí lực, khả năng lao động, tính tích cực chính trị xã hội, đạo đức, tình cảm trong sáng…của nguồn lực con người. Các yếu tố
này có sự tương tác, hỗ trợ lẫn nhau nhằm giúp chủ thể phát huy hết giá trị
của mình. Theo đó, biểu hiện cụ thể của nguồn nhân lực chất lượng cao có thể
được xem xét ở những khía cạnh như: thể lực, trí lực, tâm lực.
Về thể lực của nguồn nhân lực chất lượng cao.
Có thể nói, một yếu tố không thể thiếu đối với nguồn nhân lực chất
lượng cao là sức khỏe. Sức khỏe ngày nay không chỉ được hiểu là tình trạng
không có bệnh tật, mà còn là sự hoàn thiện về mặt thể chất lẫn tinh thần.
Người lao động có sức khỏe tốt có thể mang lại năng suất lao động cao nhờ sự
bền bỉ, dẻo dai. Mọi người lao động, dù lao động cơ bắp hay lao động trí óc đều
cần có sức vóc thể chất tốt để duy trì và phát triển trí tuệ, để chuyển tải tri thức
vào hoạt động thực tiễn, biến tri thức thành sức mạnh vật chất. Hơn nữa, cần
phải có sự dẻo dai của hoạt động thần kinh, niềm tin và ý chí, khả năng vận động
của trí lực trong những điều kiện khác nhau hết sức khó khăn và khắc nghiệt.
18
Quan niệm này cũng không xa lạ trong tư tưởng Hồ Chí Minh, vì phát
triển con người toàn diện là một trong những quan điểm cơ bản của Người.
Sinh thời, Người luôn coi con người là một hệ thống bao gồm nhiều yếu tố:
sức khỏe, tinh thần, tri thức…Mặc dù, mỗi yếu tố có vai trò nhất định, song
giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ và tác động qua lại, ảnh hưởng lẫn nhau.
Người cho rằng, thể lực, sức khỏe là mặt quan trọng trong đời sống của mỗi
cá nhân và của cả cộng đồng. Bởi lẽ, nó ảnh hưởng trực tiếp đến sự sinh tồn
của con người, của cả xã hội loài người. Thể lực là một trong những yếu tố
tác động trực tiếp đến tuổi thọ và khả năng trí tuệ của con người; chỉ có một
tinh thần khỏe mạnh trong một cơ thể khỏe mạnh. Sức khỏe, được Người
quan niệm là sự lành mạnh cả về thể xác lẫn tinh thần. Quan niệm này hết sức
tiến bộ, phù hợp với quan điểm của khoa học hiện đại về sức khỏe của con
người, của nguồn nhân lực. Tổ chức Y tế thế giới cũng cho rằng, sức khỏe là
trạng thái thoải mái về tâm hồn, về thể xác, về xã hội, chứ không phải đơn
thuần là không bệnh tật hoặc không bị chấn thương. Để nâng cao sức khỏe
cho người dân, theo Hồ Chí Minh, cần phải quan tâm đặc biệt đến đời sống
vật chất của nhân dân- yếu tố quyết định đến sức khỏe, đến công tác vệ sinh
phòng chống bệnh, chăm sóc y tế, tích cực rèn luyện thể dục thể thao…
Người cũng chỉ rõ mối quan hệ khăng khít giữa sức khỏe của cá nhân với sức
khỏe của cộng đồng dân tộc. Do vậy, nâng cao sức khỏe cá nhân chính là góp
phần nâng cao sức khỏe cho toàn xã hội: Mỗi một người dân yếu ớt tức là cả
nước yếu ớt, mỗi một người dân khỏe mạnh là cả dân tộc khỏe mạnh.
Công nghiệp hóa - hiện đại hóa gắn liền với việc áp dụng phổ biến các
phương pháp sản xuất công nghiệp, công nghệ hiện đại, do đó đòi hỏi ở người
lao động phải có sức khỏe và thể lực cường tráng trên các mặt. Người lao
động phải có sức chịu đựng dẻo dai, đáp ứng quá trình sản xuất liên tục kéo
dài. Có các thông số nhân chủng học đáp ứng được các hệ thống thiết bị công
nghệ được sản xuất phổ biến và trao đổi trên thị trường khu vực và thế giới.
19