Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

LOẠI HÌNH NHÂN vật tư TƯỞNG TRONG TRUYỆN NGẮN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237.65 KB, 10 trang )

Loại hình nhân vật tư tưởng trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau năm 1975

LOẠI HÌNH NHÂN VẬT TƯ TƯỞNG TRONG TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN MINH CHÂU SAU NĂM 1975
--- * --1. Phần mở đầu
1.1. Phương pháp loại hình
Theo từ điển tiếng Việt, loại hình là “tập hợp sự vật hiện tượng cùng có
chung những đặc trưng cơ bản nào đó” . Và loại hình học là “khoa học nghiên cứu
về các loại hình nhằm giúp cho việc phân tích và phân loại một thực tại phức tạp”
[dẫn theo 2;288]. Chúng ta chỉ có thể sử dụng phương pháp loại hình khi các hiện
tượng nghiên cứu có cùng một quan hệ cộng đồng giá trị. Trong nghiên cứu văn
học, phương pháp loại hình có thể có hai phương thức áp dụng:
Thứ nhất, dùng phương pháp loại hình để phân biệt các hiện tượng văn học,
trên cơ sở của việc chứng minh các nhóm hiện tượng giống nhau theo một tiêu
chuẩn nào đó.
Thứ hai, từ những đặc điểm chung của một loạt hiện tượng văn học, ta có thể
chứng minh cho sự tồn tại của một loại hình văn học nào đó, biện hộ cho quyền tồn
tại và hiệu quả thẩm mĩ của nó.
Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu, chúng ta có thể kết hợp cả hai phương
thức. Tức là, trong khi biện hộ cho một loại hình, nhà nghiên cứu lại dùng phương
pháp loại hình để chia nhỏ các hình thức của một loại hình, hay chia nhỏ loại hình
ra thành các tiểu loại hình.
Phương pháp loại hình giúp người nghiên cứu dễ dàng xác định vị trí và ý
nghĩa của các hiện tượng trong hệ thống mối quan hệ tổng thể, bao quát. Đồng thời,
hiểu rõ được quy luật phát triển của các hiện tượng và sự vật trong hệ thống đó.
1.2. Nhân vật tư tưởng
Trong một tác phẩm văn học, nhân vật là sự biểu hiện khả năng chiếm lĩnh
thế giới nghệ thuật cùng với tư tưởng nghệ thuật, tư tưởng thẩm mĩ của nhà văn. Sự
ra đời của các loại hình nhân vật trong tác phẩm văn học tùy thuộc vào quan niệm
sáng tác của mỗi nhà văn.
Nhân vật tư tưởng là “loại nhân vật tập trung thể hiện một tư tưởng, một ý


thức tồn tại trong đời sống tinh thần của xã hội” [3;233]. Tuy nhiên, nhân vật tư
tưởng cũng có thể chứa đựng những phẩm chất tính cách, cá tính và nhân cách. Đây
là loại hình nhân vật chủ yếu thể hiện tư tưởng của tác giả.
Nguyễn Thu Hiền-VHVN- K15

-1-


Loại hình nhân vật tư tưởng trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau năm 1975

Văn học Việt Nam sau 1975 đã có sự chuyển mình rõ rệt trên nhiều bình
diện. Bởi, sau khi chiến tranh kết thúc, những vấn đề lớn, những tình cảm lớn thuộc
về thời đại không còn chiếm ưu thế tuyệt đối mà từng bước nhường chỗ cho những
vấn đề về số phận cá nhân. Tiếng nói riêng dần trở thành tâm điểm chú ý của văn
học. Không ngoài xu hướng ấy, truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu giai đoạn này
chủ yếu đi sâu vào khám phá thế giới tâm hồn con người, mô tả những mặt “khuất
lẩn” bên trong con người. Đó là những trăn trở về cuộc chiến của “ngày hôm nay”.
Nguyễn Minh Châu cho rằng con người sẽ tốt hơn chỉ khi họ tìm được một lẽ sống
để thanh sạch tâm hồn. Họ phải có thời gian để tự vấn lại lòng mình. Ông đã từng
lên tiếng kêu gọi: “Xin mọi người hãy ngừng một chút cái nhịp sống bận bịu, chen
lấn để tự suy nghĩ về chính mình” [4;375]. Có thể nói, hai loại hình nhân vật đặc
trưng nhất thể hiện phong cách của Nguyễn Minh Châu là nhân vật tư tưởng và
nhân vật tính cách - số phận.
Thiết nghĩ, khai thác nhân vật “tư tưởng” trong truyện ngắn Nguyễn Minh
Châu sau năm 1975, phương pháp loại hình là hiệu quả nhất. Bên cạnh đó, trong
phạm vi bài tiểu luận, người viết chỉ tập trung khai thác một số tác phẩm tiêu biểu
của nguyễn Minh Châu sau năm 1975
-

Bức tranh


-

Mùa trái cóc ở miền Nam

-

Cỏ lau

-

Mẹ con chị Hằng

-

Đứa ăn cắp

2. Phần nội dung
Đối với Nguyễn Minh Châu, hệ thống nhân vật đã phản ánh trung thành thế
giới nghệ thuật cũng như quan niệm nghệ thuật về con người và hiện thực trong các
chặng đường sáng tác của ông. Vào thời kì những năm tám mươi, với sự trăn trở
trong tư duy nghệ thuật muốn vượt ra ngoài khuôn mẫu quen thuộc nhằm xây dựng
nhân vật chủ yếu ở phương diện con người xã hội mang tư tưởng thời đại đã dẫn
đến việc hình thành một tư tưởng nghệ thuật, một quan niệm mới về con người ở
Nguyễn Minh Châu. Hướng nội đã trở thành nguyên tắc để ông khám phá những bí
ẩn sâu xa trong tâm hồn con người. Con người đối diện với bản thân để sống trung
thực với chính mình và với những người xung quanh. Con người ấy được Nguyễn
Nguyễn Thu Hiền-VHVN- K15

-2-



Loại hình nhân vật tư tưởng trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau năm 1975

Minh Châu thể hiện chủ yếu thông qua loại hình nhân vật “tư tưởng” trong hầu hết
các truyện ngắn của ông sau 1975.
2.1. Sống trung thực với bản thân, không bị hư danh lừa dối
Sau năm 1975, truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu không còn ca ngợi con
người mang tính lý tưởng, mà đi sâu vào khám phá thế giới con người theo đúng
bản chất “người”, cái phần “rồng phượng lẫn rắn rết, thiên thần và ác quỷ”. Trên
con đường tìm kíếm chân lý, khám phá bản chất con người và đời sống, Nguyễn
Minh Châu đã rất nhạy cảm nhìn ra những đổi thay của con người trước ngã rẽ của
cuộc đời. Những nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu thường có nhiều
diễn biến nội tâm phức tạp. Họ có thể bằng lòng với hiện tại, lãng quên quá khứ hay
đấu tranh dằn vặt với cái xấu, cái ác hoặc lên tiếng thức tỉnh lương tâm để tự thú và
chiêm nghiệm lẽ đời. Một trong số nhân vật tư tưởng đầu tiên của Nguyễn Minh
Châu là nhân vật người họa sĩ trong truyện ngắn Bức tranh. Đó là trạng thái tâm lí
của người họa sĩ khi đối diện với người thồ tranh năm xưa “Tôi xin nhận đã gây
thêm đau khổ cho bà mẹ anh. Tôi đã lừa anh. Tôi đã tu thêm được tiền của và tiếng
tăm trên sự đau đớn của anh. Bây giờ anh cứ trừng phạt tôi. Anh xử tôi thế nào
cũng được”. Trong lòng anh có những diễn biến hết sức mạnh mẽ khi thì bào chữa
cho lỗi lầm của mình bằng sự phản bội của anh là do “phục vụ số đông”, khi thì
muốn “tự nguyện đến nạp mình cho lương tâm”. Lời “tự thú” ấy được tác giả thẳng
thắn đặt ra từ đầu truyện Bức tranh.
Là một họa sĩ có tài, trong kháng chiến, người họa sĩ đi đến đâu cũng được
ưu đãi và giúp đỡ nhiệt tình. Trong một lần mang tranh về dự triển lãm ở Hà Nội,
anh họa sĩ đã nhận hàm ơn của một người lính hiền lành, điềm đạm và nhân hậu.
Người lính ấy đã nhờ anh họa sĩ vẽ giúp mình một bức tranh để gởi về gia đình, để
mẹ anh được yên lòng khi biết con mình vẫn còn sống. Thế nhưng, trước những lời
“tha thiết thỉnh cầu” của người lính, người họa sĩ “bỗng tự ái. Tôi là họa sĩ chứ đâu

phải anh thợ vẽ truyền thần”. Và anh đã “từ chối khéo léo bằng khuôn mặt lạnh
lùng”. Nhưng không ngờ, chính người lính ấy lại là người giúp đỡ anh họa sĩ thồ
tranh và là người đã cứu anh ta thoát chết. Trong giây phút hối hận, trong hoàn cảnh
mang nặng hàm ơn, người họa sĩ đã vẽ chân dung người lính với nét bút xuất thần
và hứa chắc rằng anh ta sẽ mang bức vẽ ấy gởi về quê cho mẹ của người lính để
“đền đáp chút ít tấm lòng độ lượng quá lớn lao” của người lính dành cho mình.
Nguyễn Thu Hiền-VHVN- K15

-3-


Loại hình nhân vật tư tưởng trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau năm 1975

Thế nhưng, thật trớ trêu, bức tranh trong giây phút xuất thần ấy lại mang đến nhiều
thành công cho người họa sĩ. Điều đó đã khiến cho người họa sĩ quên hay chính bản
thân người họa sĩ cố tình quên lời hứa của mình. Bản thân anh có lẽ cũng không thể
ngờ được mình đã phạm một sai lầm lớn. Mẹ của người lính cứ nghĩ con mình đã
chết, bà khóc đến lòa cả hai mắt. Để rồi, đối diện với người xưa, người họa sĩ đã
phải trải qua nhiều đấu tranh nội tâm quyết liệt, những lần trốn chạy, hoảng sợ…
trước lương tâm và trách nhiệm của mình. Có lẽ trong cuộc đời thành đạt và khá vẻ
vang của mình, chưa bao giờ người họa sĩ lại nhìn rõ mình trong sự đối diện với
lương tâm như khi gặp lại người lính. Nguyễn Minh Châu đã rất khéo léo khi đưa
nhân vật vào “cuộc tra tấn tinh thần thực sự” (Bakhtin). Trong dòng “tự vấn”,
người họa sĩ còn nhớ rõ lời hứa của mình “lúc chia tay, tôi còn hứa đi hứa lại để
cho anh trở về thật yên tâm và tôi lại còn nhớ. Tôi đã nắm tay nhiều lần không nỡ
rời, tôi ôm anh, rồi thật giả dối chưa, tôi lại còn hôn anh nữa”. Trong dòng độc
thoại nội tâm, người họa sĩ đã dũng cảm, thẳng thắn nhìn vào lòng mình, vào chỗ u
ám nhất, sâu kín nhất để tìm ra nguyên nhân thật sự khiến anh ta thất hứa. Đó là do
hoàn cảnh hay thói hám danh thường có trong mỗi con người? Tự đối thoại với
mình, người họa sĩ như đang chịu một sự phân thân gay gắt: Một nửa con người ông

– phần khuất lẫn trong bóng tối, phần chứa “rắn rết” và “ác quỷ” lên tiếng biện hộ
cho thân chủ của mình với một lí do khá thuyết phục “nhân vô thập toàn”, vì hoàn
cảnh, thậm chí còn mượn tấm bình phong “phục vụ cho một số đông người”, hy
sinh “một cá nhân” cho cái đích lớn lao hơn là “làm cho thế giới hiểu cuộc kháng
chiến của chúng ta”. Nhưng một nửa thứ hai trong họa sĩ, phần được gạn lọc tinh
túy, phần được phép hòa nhập trong vai người chiến sĩ thì thật nghiêm khắc, trung
thực, đã đập vụn mọi thứ bình phong buộc người họa sĩ phải nhìn rõ lương tâm,
trách nhiệm của mình cùng những thói xấu xa có thật tồn tại trong cõi tâm linh sâu
thẳm, bí ẩn của mình. Mỗi lần lương tâm người họa sĩ lên tiếng là mỗi lần diễn ra
cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt: “tự thú” hay “tẩu thoát”? Anh ta đã từng chạy trốn
nhưng lương tâm luôn đòi hỏi sự công bằng. Phần thiện trong anh ta cuối cùng cũng
thắng và anh đã “tự nguyện đến nạp mình cho lương tâm” mặc dù phần “ác quỷ”
vẫn đeo bám, van nài: “sau hàng chục năm ở bộ đội, anh ấy trở về làm cái nghề cũ.
Chắc hoàn cảnh kinh tế gia đình cũng khó khăn. Tôi nghĩ đến việc hay là vay mượn,
gom góp một số tiền lớn, cái số tiền mà tôi đã thu được từ bức kí họa chân dung
Nguyễn Thu Hiền-VHVN- K15

-4-


Loại hình nhân vật tư tưởng trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau năm 1975

kia, bí mật gửi cho anh”. Vẫn không được “tôi không cho phép mình lấy đồng tiền
để thay cái mặt mình…Tôi quyết định phải chường cái mặt mình ra, chứ không
được lẫn tránh. Tôi không cho phép tôi chạy trốn”. Như vậy, người họa sĩ đã “tự
vấn” nhiều lần để biện minh cho mình, đã đưa ra nhiều hướng giải quyết khác nhau
để sửa chữa sai lầm. Đó là một quá trình đấu tranh quyết liệt trong tâm hồn người
họa sĩ, anh đã tự tìm hiểu mình, tự phán xét mình, tự đối diện với mình và soi rọi
trong vùng ánh sáng của lương tâm về lỗi lầm không thể tha thứ.
Càng về sau, Nguyễn Minh Châu càng đi sâu vào khám phá bản chất con

người trong những hoàn cảnh sống bình thường. Khi ở đó, con người thường bộc lộ
tất cả những phẩm chất của nó. Vì, khi trở về với những mối quan hệ mới, cái
không khí chiến trường tự nhiên nhạt nhòa đi, cái mối nhiệt tâm lúc còn ở trong đó
vơi bớt đi thì con người cá nhân cùng những dục vọng thấp hèn vội vàng trỗi dậy.
Điều đó có thể gây đau khổ, làm vẫn đục cuộc sống chung của mọi người. Với nhân
vật Toàn trong Mùa trái cóc ở miền Nam, tác giả đã làm cho chúng ta phải bàng
hoàng, nhức nhối khi bắt gặp hình ảnh một cán bộ hoàn toàn thoái hóa, biến chất,
trở thành một người ích kỉ, tàn nhẫn thậm chí vô cảm. Gặp lại mẹ sau hơn hai mươi
năm xa cách, anh cũng không còn khả năng xúc động. Chứng kiến cảnh ấy, nhân
vật “tôi” hoàn toàn hụt hẫng bởi nó trái với suy nghĩ của anh cũng như trái với đạo
lí ở đời. “Tôi vừa dự một cuộc gặp gỡ sau hai mươi năm đáng lẽ vui vẻ, cảm động
nhưng hoàn toàn bất ngờ và trái ngược lại, như một phiên tòa đại hình. Tôi cảm
thấy lòng mình bị tổn thương nặng nề và hình như cả con người tôi ngập chìm trong
lo âu sao mà lớn lao và đầy khắc khoải về con người”. Trong truyện ngắn này,
nhân vật xưng “tôi” xuất hiện từ đầu đến cuối tác phẩm và những diễn biến của câu
chuyện, nhân vật ấy đã có nhiều suy nghĩ, trăn trở sâu sắc, thể hiện được mặt trái
của con người. “Lâu nay mình chỉ biết sống với người, với thần thánh, thì bây giờ
hãy sống với quỷ, hãy ngồi cùng mâm với quỷ, hãy chạm chén với quỷ, quỷ già đời,
quỷ mới tập sự”. Có lẽ Nguyễn Minh Châu là người đầu tiên chỉ ra loại người này
bằng cái từ đáng gọi nhất mà lâu nay vì nhiều lí do mà ta vẫn né tránh. Truyện đã
cho ta thấy cuộc sống đời thường với những toan tính vụn vặt mới là môi trường tốt
nhất để thử thách lòng người. Danh lợi đã khiến cho người ta có thể bán linh hồn
cho quỷ, hay chính tự thâm tâm họ đã là những con quỷ có thể xâu xé đồng loại của
mình khi đứng ra tranh giành quyền lợi? Có thể nói tác giả đã rất xót xa khi phải
Nguyễn Thu Hiền-VHVN- K15

-5-


Loại hình nhân vật tư tưởng trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau năm 1975


thốt lên “Hãy đừng làm người sống đau khổ hơn”. Có lẽ Mùa trái cóc ở miền Nam
là một trong những truyện ngắn mang ý nghĩa thức tỉnh sâu sắc, buộc con người
phải suy nghĩ về thái độ sống, cách ứng xử của mình. Nguyễn Minh Châu đã phân
tích, mổ xẻ, vạch ra những mặt tối tăm của con người, kêu gọi họ với một khát vọng
hướng thiện sâu sắc.
Trong quá trình đi sâu vào thế giới tâm hồn, tình cảm của con người, Nguyễn
Minh Châu đã phát hiện ra “Lòng người còn nhiều chỗ trống lắm” (Cơn giông).
Khi nghĩ về quá khứ, nhân vật “tư tưởng” nhìn nhận những sai lầm, khuyết điểm
của mình còn đối diện với hiện tại, ngòi bút của Nguyễn Minh Châu đặc biệt đi sâu
vào “vương quốc của tình đời”. Nguyễn Minh Châu đã để cho các nhân vật phân
thân vào các trạng thái hồi cố, phản tỉnh, sám hối, tự phơi bày, cắt nghĩa, nhìn nhận
lại những mặt tốt – xấu đã trải qua trong cuộc đời để họ có thể sống tốt hơn, có ích
hơn trong xã hội. Ông cũng sớm nhận ra tình trạng đạo đức, phong hóa của xã hội
ngày càng xuống cấp trầm trọng. Phải chăng đó là sự cảnh báo cho con người về sự
suy thoái đạo đức trong cuộc sống mới. Và, tự đáy lòng sâu thẳm của Nguyễn Minh
Châu vẫn luôn cháy lên một niềm tin thiết tha vào con người và sức mạnh bất diệt
của những giá trị nhân bản.
2.2. Nhận thức bản thân trong các mối quan hệ xung quanh
Chiến tranh đi qua, chiến công nhiều nhưng mất mát, đau thương cũng
không ít. Những người lính đã gởi lại chiến trường ác liệt cả tuổi xuân và sức trẻ
của mình. Lịch sử mãi ghi nhận công lao của họ dành cho tổ quốc nhưng cũng
chính trong cuộc chiến ấy còn chứa đựng biết bao xấu xa, giả dối… Nghĩ về quá
khứ, con người tự xét lại bản thân, trăn trở trước những hành động sai trái của mình.
Và, ở họ đã có những cuộc “tự vấn” khá gay gắt. Tiêu biểu nhất phải kể đến là Cỏ
lau. Nhân vật trung tâm trong Cỏ lau là Lực, một người lính ra đi theo tiếng gọi quê
hương. Anh đã hy sinh cả tuổi xuân, tình yêu, hạnh phúc vì dân tộc. Thế nhưng,
trong con người với những phẩm chất lý tưởng kia vẫn có những phút giây ích kỉ,
hẹp hòi khi mà nơi chiến trường khốc liệt kia lại có một người chỉ huy vì một chút
nóng giận, tị hiềm mà đã gây ra cái chết của người lính (Phi). Để rồi, Lực phải đấu

tranh với những lời tự thú “Chỉ vì một cơn giận với người khác, lại một chút tư thù
đầy nhỏ nhen với người lính mà tôi đã đưa người lính đi vào chỗ chết”. Rồi mai
này, trên những nấm mồ liệt sĩ như Phi ghi dòng chữ Tổ quốc ghi công sẽ như thế
Nguyễn Thu Hiền-VHVN- K15

-6-


Loại hình nhân vật tư tưởng trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau năm 1975

nào đây khi anh chết vì lòng nhỏ nhen, ích kỉ của người khác. Trong cuộc chiến, đối
đầu giữa ranh giới sinh – tử, quyết định của người chỉ huy rất quan trọng, liên quan
đến sinh mạng của bao đồng chí, đồng đội của mình. Có lẽ Lực chưa kịp nhận ra
điều này nên anh mới quyết định vội vàng như vậy. Lời thú tội, sự ăn năn của Lực
tuy không làm thay đổi được vấn đề nhưng ít ra nó cũng giúp Lực được thanh thản
tâm hồn, giúp ông có cái nhìn chín chắn hơn trong cuộc sống. Và biết đâu, ở nơi xa
xăm nào đó, linh hồn của Phi sẽ giải tỏa được mối u uất…
Có thể nói, hành động “tự vấn” của nhân vật Lực đã thể hiện được hoài bão
của tác giả: “Hãy đừng làm người sống đau khổ hơn”. Người chết đã chết, chẳng
thể ngồi dậy từ dưới sào huyệt để nói lên sự thật. Vậy anh hãy nói điều gì để người
sống yên tâm, mãi mãi nên ghi nhớ người thân của mình đã ngã xuống vì Tổ quốc,
vì nhiệm vụ, vì cuộc sống tốt đẹp ngày mai của người đang sống.
Nguyễn Minh Châu là một người lính nên ông hiểu rõ cuộc sống và những
khó khăn gian khổ của đồng đội mình. Xây dựng những nhân vật tư tưởng, ông đã
không ngần ngại nói lên những thói xấu ẩn sâu dưới lớp áo chân lí. Ở truyện ngắn
Cỏ lau, quyết định vội vàng, thiếu suy nghĩ của Lực đã đẩy người đồng đội của anh
vào chỗ chết. Nhưng đó không phải là ác ý của Lực, tự thâm tâm mình, lực không
phải là người xấu, Lực không bao giờ muốn nhìn cảnh đồng đội mình phải ngã
xuống. Đọc tác phẩm, người đọc có thể cảm thông cho Lực, có thể chia sẻ cùng anh
niềm ăn năn, hối hận.

Không chỉ trong thời chiến, trở về với cuộc sống hàng ngày, có biết bao vấn
đề được đặt ra trong mối quan hệ giữa người với người. Nếu trong Mùa trái cóc ở
miền Nam, cái ác trong con người xuất phát từ mục đích cá nhân thì trong một vài
truyện ngắn khác như Đứa ăn cắp, Mẹ con chị Hằng, Một người đàn bà tốt bụng…
cái ác được ghi nhận như là bản tính hồn nhiên của con người. Một bản tính hồn
nhiên vô tội vạ mà trong cuộc sống, đôi khi nó làm tổn thương đến những người
xung quanh. Trong những truyện ngắn này, tác giả đề cập đến những mảng rất nhỏ
của cuộc sống. Nhưng đó là điều mà trong cuộc sống mỗi chúng ta nên lưu tâm.
Chẳng hạn, với truyện ngắn Mẹ con chị Hằng, Nguyễn Minh Châu đề cập đến tình
cảm của những đứa con đối với bà mẹ già. Đó là một bà mẹ vụng về, đáng thương.
Thế nhưng, trong bà lại chứa đựng một tình yêu bao la đối với con cái. Bà chạy
ngược chạy xuôi mỗi khi có đứa nào cần đến. Và ngược lại, những đứa con của bà
Nguyễn Thu Hiền-VHVN- K15

-7-


Loại hình nhân vật tư tưởng trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau năm 1975

lại trở nên vô tâm đến giật mình. Nhân vật chị Hằng trong truyện cũng chỉ “chợt
nghĩ đến bà mẹ trong Thanh sắp ra ở với mình, bà mẹ hiền lành và cũ kĩ của chị.
Chao ôi, đến bây giờ chị Hằng mới sực nhớ ra mình vẫn có một bà mẹ. Hình như
trong những lúc quạnh vắng lại sắp sinh nở như thế này mới sực nghĩ đến mẹ, bà
mẹ của chị đang ở trong nhà quê” [4;352]. Không biết những lúc sung sướng, nhàn
rỗi thì hình ảnh của bà mẹ quê mùa ở đâu trong chị, trong người con gái mà bà đã
từng cưng chìu, thương yêu. Đâu chỉ có thế, cũng chính vì sự hy sinh âm thầm,
nhẫn nhục đến mức đôi lức đã làm cho con cái trở nên ích kỷ “cái vạch ngăn cách
giữa tính nhõng nhẽo, làm nũng và hay bắt nạt mẹ của một đứa con gái và thói
quên tỏ ra uy quyền của một người đàn bà chủ nhà thật sự là mơ hồ, rất khó nhận
thấy đến nỗi người ta thường dễ lẫn lộn, thường dễ tự lừa dối và tự lừa phỉnh

mình” [4;365]. Và hình như chị Hằng vẫn sống như vậy, vẫn xử sự như vậy mà
không nhận ra được sự ích kỷ, sự vô trách nhiệm của bản thân đối với mẹ mình. Rồi
đây thằng Hùng (con trai chị Hằng) với sự ngỗ nghịch, mất dạy của nó sau này sẽ
làm đau lòng chị cũng như chị đã từng làm đau lòng người mẹ quê mùa của mình.
Vậy, ngay cả tình mẫu tử thiêng liêng trong cuộc sống hôm nay cũng chênh vênh,
có nguy cơ đổ vỡ. Đó là một mối quan hệ, một thứ tình cảm cao đẹp và thiêng liêng
nhất của con gười. Vậy mà, giờ đây, sự thay đổi của nó làm người ta phải suy nghĩ,
phải sửa đổi để không đến lúc phải hối hận, đau xót khi quá muộn.
Nguyễn Minh Châu còn nói đến thói ích kỷ, sự vô tâm, vô trách nhiệm, dửng
dưng trước số phận của người khác đã dẫn đến hậu quả nghiêm trọng. Dù chưa phải
là những “con quỷ” hay là con người với bản chất thú vật hoang dại đáng sợ, nhưng
những người đàn bà trong truyện ngắn Đứa ăn cắp đã phạm phải một sai lầm lớn,
gây ra một tội lỗi lớn, xảy ra ngoài ý thức, ngoài bản chất hiền lương và hồn nhiên
của họ “quả thật lòng dạ họ hồn nhiên như thế, những người đàn bà trong khu gia
đình tập thể ấy bao giờ cũng hồn nhiên và dễ xúc động”. Thế nhưng, chính thái độ
và lời nói vô tâm, phủ phàng, những hoài nghi tội lỗi của họ đã dẫn đến bi kịch cho
một gia đình, cái chết của một người đàn bà chỉ hai mươi bốn tuổi. Mối quan hệ
giữa những con người trong khu tập thể trở nên gay gắt khi mà quyền lợi, của cải
của một ai bị xâm phạm dù đó là một món đồ rất nhỏ nhặt mà việc mất trộm cũng là
một vấn đề đầy hoài nghi. Bởi vì “thủ phạm có khi chỉ là một hút gió, hoặc là thủ
phạm nằm ngay trong cái người bị mất cắp, tức là cái tính hay quên, hay lú lắp do
Nguyễn Thu Hiền-VHVN- K15

-8-


Loại hình nhân vật tư tưởng trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau năm 1975

bận bịu công việc”. Trong khi đó, nhân vật Thoan, cô sống hồn nhiên đến mức
không hay người ta ghét bỏ mình. Cô bị mọi người ghê sợ, xa lánh, xua đuổi khi cô

“bụng mang dạ chữa” bởi mang tiếng “ăn cắp vặt”. Và, những người hàng xóm
cũng hồn nhiên đến mức không còn niềm thương cảm đối với đồng loại của mình cả
những lúc ngặt nghèo nhất. Hành động của họ đã gây ra cái chết cho Thoan. Khi
sinh, Thoan bị băng huyết nhưng không có điều kiện chăm sóc. Hay tin Thoan chết,
những người đàn bà ấy lại bày tỏ niềm xót thương vô hạn “Nửa giờ đồng hồ sau
…đi đến đâu cũng nghe rặt những tiếng kêu “Ối trời đất ơi!” bằng những giọng
não nuột đầy thương cảm”. Không thể nói sự xúc động của họ là giả dối. Bởi họ đã
hồn nhiên quên rằng cách đó không lâu, họ đã đuổi cô, đẩy cô vào chỗ chết. Những
người đàn bà ấy cũng “nước mắt lưng tròng”, vẫn “những lời ca cẩm, những câu
thương tiếc, những thương tiếc một người đàn bà còn rất trẻ, lần đầu tiên sinh nở
đã phải lìa đời”. Ở truyện ngắn này, Nguyễn Minh Châu đã đưa ra một cách lí giải
cho tính ác trong con người. “Đôi lúc người ta trở nên tàn ác một cách hồn nhiên”.
Tuy nhiên, cái hồn nhiên của họ đôi khi chỉ là thường tình, vô hại nhưng có đôi khi
lại chứa đựng tai họa và tội ác. Giá như trước đó, họ bình tâm suy xét thì có lẽ
Thoan đã không chết, gia đình Thoan không tan nát. Sự xót thương của họ trong khi
mọi việc đã an bày nào có nghĩa lí gì, chỉ làm cho câu chuyện thêm đau xót.
Có thể nói, một sai lầm, một thảm hoạ mới rất có thể xảy ra nếu như con
người nói chung và người cách mạng nói riêng không biết cảnh giác với ngay sự
hiểu biết hạn hẹp của mình về cuộc sống, về tình người và những năm tháng trước
đây nhiều người chưa ý thức để tự trang bị cho mình. Và sự tha hoá, biến chất, cách
xử sự tàn nhẫn ấy đối với người khác có nguồn gốc ở việc coi thường sự mách bảo
của lương tâm, lương tri, ở sự quên lãng đời sống nội tâm, không chú ý việc hãy tự
biết mình mà các nhà hiền triết xưa kia luôn luôn nhắc nhủ. Điều này từng bước sẽ
dẫn đến sự cằn cỗi, trống rỗng trong tâm hồn mà hậu quả thì không thể nào lường
hết được. Đó là chưa kể trong mỗi con người thường bao giờ cũng có mặt chưa
hoàn thiện nếu không biết giữ mình, không biết cảnh giác thì rất có thể bị cái phần
chưa hoàn thiện kia lấn lướt, chinh phục.
Như vậy, đặt ra những vấn đề của cuộc sống, đi sâu vào từng ngỏ ngách tâm
hồn con người, Nguyễn Minh Châu đã dám vạch trần cái xấu, cái ác, lên tiếng phê
phán lối sống phi đạo đức, mất nhân cách của con người. Từ đó, Nguyễn Minh

Nguyễn Thu Hiền-VHVN- K15

-9-


Loại hình nhân vật tư tưởng trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau năm 1975

Châu lên tiếng báo động cho xã hội một vấn đề lớn về đạo đức, nhân cách, về sự tha
hoá bi thảm mà những người lương thiện thiết tha với những lí tưởng cách mạng và
những giá trị cơ bản của cuộc sống không thể không quan tâm. Tuy nhiên, Nguyễn
Minh Châu không chỉ lên án hành vi lối sống ấy mà trái lại, ông luôn tin vào sự
hướng thiện của con người. Ông vẫn tin rằng “Mọi người đều có thể thay đổi”
[5;348]. Với Nguyễn Minh Châu: “Người ta là hoa đất”. Và trong những truyện
ngắn của mình, như ông tự nói, trước hết là cố gắng đi tìm “cái hạt ngọc ẩn giấu
trong tâm hồn con người” [1;41]. Do đó, truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu vẫn
là lời ca ngợi những đức tính quý báu của con người Việt Nam trong thời đại mới.
3. Phần kết luận
Trong quá trình tìm tòi, đổi mới tư duy nghệ thuật, Nguyễn Minh Châu nói
nhiều đến cái xấu trong mỗi con người nhưng suy cho cùng cũng để hướng tới
khẳng định phẩm chất, nhân cách của con người. Truyện ngắn của ông thường xuất
hiện nhiều nhân vật tự phán xét hành động của mình, tự đối thoại, lục vấn. Chính
Nguyễn Minh Châu đã nhường cho nhân vật của mình cái quyền tự lên án, tự biện
hộ, tự buộc tội và tự giải thoát. Họ vừa là chánh án vừa là bị cáo trước tóa án lương
tâm. Cuộc sống sẽ tốt hơn, con người sẽ tránh được những sai lầm khi mình ý thức
được hành vi của mình. Nhưng có điều, con người ít khi nhận ra mình với những sai
lầm, khuyết điểm hoặc nếu có nhận ra thì họ vội vàng bào chữa cho mình bằng lòng
kiêu ngạo, bằng sự háo thắng... Nguyễn Minh Châu không đồng tình với cách trốn
chạy, lẫn tránh lương tâm, lẫn tránh những sai lầm như vậy. Nên qua những tác
phẩm của mình, xây dựng loại hình nhân vật tư tưởng, ông buộc con người phải
kiên dũng, phải tự phán xét mình trong sự thức tỉnh của lương tri.


Nguyễn Thu Hiền-VHVN- K15

- 10 -



×