Tải bản đầy đủ (.docx) (86 trang)

Đánh giá nhu cầu và khả năng chi trả cho dịch vụ quản lý tiêm chủng trên thiết bị di động tại phòng tiêm chủng viện YHDP và YTCC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.98 MB, 86 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Việc sử dụng điện thoại di động thông minh (smartphone) và ứng dụng
đi kèm đang ngày càng phổ biến, khi các công cụ này giúp tăng cường khả
năng tiếp cạn và nâng cao hiệu suất trao đổi thông tin, học tập, làm việc và
giải trí. Theo thống kê của Liên minh Viễn thông quốc tế, hiện nay có gần 5 tỷ
thuê bao điện thoại di động ở trên thế giới, với hơn 85% dân số thế giới hiện
đang sử dụng thiết bị di động [1].
Trong lĩnh vực y tế, các ứng dụng y tế di động đã được sử dụng rộng
rãi với các chức năng quản lý tình trạng sức khỏe của các cá nhân, tăng cường
tiếp cận và nâng cao chất lượng, hiệu quả dịch vụ y tế, truyền thông thay đổi
hành vi và giáo dục sức khỏe [2-4]. Rất nhiều tính năng của thiết bị di động
có thể được sử dụng hỗ trợ trong việc cung cấp các dịch vụ với từng bác sĩ,
thu thập các dữ liệu sức khỏe theo thời gian, tăng cường trao đổi giữa bệnh
nhân và bác sĩ hay giữa các nhà lâm sàng từ các địa điểm khác nhau, bao gồm
các thông tin y tế, video, hình ảnh, tài liệu thông qua tin nhắn, email, mạng xã
hội… [4, 5].
Tại Việt Nam, sự phát triển nhanh chóng về mức độ sử dụng điện thoại
thông dụng của người dân trong những năm gần đây tạo điều kiện cho việc
khai thác lĩnh vực y tế di động, nhằm cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe có
chất lượng cao, mọi lúc mọi nơi [6, 7]. Ngoài ra, y tế di động còn là một giải
pháp tiềm năng giúp các nhà lập kế hoạch hoàn thành các mục tiêu đề ra của
các Chương trình mục tiêu quốc gia về Y tế.
Chương trình tiêm chủng mở rộng (CTTCMR) là một trong những
chương trình trọng điểm, có tính hiệu quả cao nhất trong các Chương trình
mục tiêu y tế Quốc gia. Tiêm chủng giúp nâng cao hệ miễn dịch của trẻ em, từ
đó góp phần bảo vệ và nâng cao sức khỏe cho trẻ em là đối tượng có nguy cơ


2



nhiễm bệnh cao nhất [8]. Tại Việt Nam, việc tiêm chủng đã được phổ cập trên
toàn quốc với tỷ lệ đạt trên 95% trẻ em được tiêm phòng [8]. Tuy nhiên, để
vắc-xin có hiệu quả bảo vệ cao cần có một số điều kiện thiết yếu sau đây: 1)
Đối tượng phải nhận đủ liều tiêm cơ bản; 2) Đối tượng phải nhận được mũi
tiêm nhắc lại đối với các loại vắc xin có yêu cầu phải tiêm nhắc để tạo ra miễn
dịch lâu dài, bền vững; và 3) Cộng đồng trong cùng một khu vực địa lý nhất
định (từ xã, phường trở lên) có tỷ lệ nhận mũi tiêm chủng cao, tối thiểu đạt
80% tổng dân số [9]. Đây là thách thức không nhỏ đối với các nhà lập kế
hoạch, từ đó nảy sinh nhu cầu cần có một công cụ hiệu quả giúp quản lý và
tăng cường khả năng tiếp cận TCMR trong cộng đồng [9]. Ngoài ra, bên cạnh
TCMR, tiêm chủng dịch vụ ngày càng được phát triển bổ sung thêm nhiều
vắc xin mới phục vụ nhu cầu phòng bệnh của người dân ngày một cao khi
kinh tế đi lên.
Phòng tiêm chủng của Viện Đào tạo Y học Dự phòng (YHDP) và Y tế
công cộng (YTCC) mới được thành lập năm 2015, với mục tiêu cung cấp dịch
vụ tiêm chủng và quản lý tiêm chủng chất lượng cao. Việc đánh giá nhu cầu
và khả năng ứng dụng của y tế di động là cần thiết nhằm góp phần quản lý,
tăng cường khả năng tiếp cận và là cầu nối giữa người sử dụng dịch vụ tiêm
chủng và cán bộ y tế. Do đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đánh
giá nhu cầu và khả năng chi trả cho dịch vụ quản lý tiêm chủng trên thiết
bị di động tại phòng tiêm chủng Viện YHDP và YTCC” với mục tiêu sau:
1. Xác định nhu cầu và khả năng chi trả cho dịch vụ quản lý tiêm chủng trên
thiết bị di động tại phòng tiêm chủng viện YHDP và YTCC
2. Xác định một số yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu sử dụng dịch vụ quản lý
thông tin tiêm chủng trên điện thoại di động thông minh của đối tượng
nghiên cứu.


3


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN
1.1. Các khái niệm cơ bản
- Y tế điện tử và Y tế di động: Y tế điện tử được Tổ chức y tế thế giới
(WHO) định nghĩa “Y tế điện tử” là việc ứng dụng công nghệ thông tin và
truyền thông trong y tế. Theo nghĩa rộng, y tế điện tử đang cải thiện luồng
thông tin thông qua phương tiện điện tử để hỗ trợ việc cung cấp các dịch vụ y
tế và quản lý các hệ thống y tế [10]. Y tế di động (YTDĐ) là một thành phần
của y tế điện tử. Cho đến nay, chưa có định nghĩa chuẩn của y tế di động [1].
Hiểu rộng hơn thì y tế di động là những ứng dụng, phần mềm sức khỏe trên
các thiết bị di động hay trên các thiết bị không dây khác thông qua các dịch
vụ như SMS, GPRS, 3G được phủ sóng toàn cầu [1].
- Dịch vụ tin nhắn ngắn (Short Message Services – SMS): SMS là một
giao thức viễn thông cho phép gửi các thông điệp ngắn (không quá 160 chữ
cái). Được dùng hầu hết trên các điện thoại di động và một số thiết bị di động
với khả năng truyền thông không dây [11].
- GPRS: Là dịch vụ vô tuyến gói tổng hợp là một dịch vụ dữ liệu di động
dạng gói dành cho những người dùng Hệ thống thông tin di động toàn cầu [12].
- 3G (3-G - third-generation technology): Là công nghệ truyền thông thế
hệ thứ ba, cho phép truyền cả dữ liệu thoại và dữ liệu ngoài thoại (tải dữ liệu,
gửi thư điện tử, tin nhắn nhanh, hình ảnh...) [13].
- Tiêm chủng: Tiêm chủng là đưa vắc-xin vào cơ thể người thông qua
đường tiêm, uống, hít, nhỏ mũi… để kích thích cơ thể sinh ra kháng thể đặc
hiệu chống lại mầm bệnh tương ứng khi chúng xâm nhập cơ thể [9].
- Vắc-xin: Vắc-xin là những chế phẩm được sản xuất từ những vi khuẩn
sống hoặc chết hay đã làm giảm độc lực không có khả năng gây bệnh nhưng
vẫn còn giữ tính kháng nguyên và không có hại với cơ thể [9].



4

- Miễn dịch tự nhiên: Trong những tháng tuổi đầu tiên trẻ được mẹ
truyền qua nhau thai một số kháng thể đặc hiệu có khả năng chống lại một số
bệnh truyền nhiễm. Miễn dịch này giảm đi sau những tháng tuổi đầu tiên và đứa
trẻ có nguy cơ mắc bệnh. Trong sữa mẹ (nhất sữa non) cũng có kháng thể. Đứa
trẻ bú mẹ là được cung cấp kháng thể, tức là đã có miễn dịch tự động [9].
- Miễn dịch nhân tạo: Khi tiêm vắc-xin vào cơ thể thì các vắc-xin là
những kháng nguyên đặc hiệu kích thích hệ thống miễn dịch của cơ thể sản xuất
kháng thể đặc hiệu bảo vệ cơ thể, miễn dịch tạo ra gọi là miễn dịch nhân tạo chủ
động. Trong trường hợp khi tiêm các kháng huyết thanh là những chế phẩm có
sẵn kháng thể, miễn dịch được tạo ra là miễn dịch nhân tạo thụ động [9].
- Phản ứng sau tiêm chủng: Là tình trạng bất thường về sức khỏe xảy ra
sau khi tiêm chủng có liên quan đến vắc-xin, sai sót trong tiêm chủng hoặc do
trùng hợp ngẫu nhiên hay các nguyên nhân khác [9].
1.2. Tiêm chủng
1.2.1. Lợi ích khi tiêm chủng và nguy cơ khi không tiêm chủng
Tiêm chủng là biện pháp phòng bệnh chủ động có hiệu quả tốt và ít tốn
kém nhất trong các hoạt động y tế.
Tiêm chủng phòng bệnh là cấn thiết cho mọi đối tượng có nguy cơ
nhiễm bệnh mà chưa có miễn dịch, đặc biệt là trẻ em. Miễn dịch thụ động nhờ
kháng thể do mẹ truyền qua nhau thai chỉ tồn tại 1 thời gian, thường là 6
tháng. Và chỉ đối với những bệnh mà cơ chế bảo vệ chủ yếu do miễn dịch
dịch thể, còn với những bệnh mà chế bảo vệ là miễn dịch trung gian tế bào thì
sẽ không tác dụng, vì vậy trẻ vẫn có nguy cơ bị bệnh ngay từ những tháng đầu
tiên sau sinh. Nếu trẻ không được tiêm vắc-xin sẽ có nguy cơ nhiễm và tử
vong hoặc tàn phế do bệnh truyền nhiễm gây nên.[14]


5


Tiêm phòng cho cá nhân cũng góp phần bảo vệ sức khỏe cho cộng đồng,
đặc biệt cho những người không được miễn dịch, bao gồm cả trẻ chưa đến
tuổi tiêm vắc-xin, những người không được tiêm chủng do các tác nhân y tế
(như những bệnh bị bạch cầu cấp, AIDS) và những người không có đáp ứng
miễn dịch đầy đủ với tiêm chủng. Sự lan truyền mầm bệnh trong cộng đồng sẽ bị
hạn chế. Tiêm chủng sẽ làm chậm lại hoặc chặn đứng các vụ dịch [15, 16].
1.2.2. Tư vấn tiêm chủng
1.2.2.1. Các trường hợp chống chỉ định
Một số trường hợp sau chống chỉ định cho việc tiêm chủng [17]:
a) Trẻ có tiền sử sốc hoặc phản ứng nặng sau tiêm chủng vắc-xin lần trước
như: sốt cao trên 39 độ C kèm co giật hoặc dấu hiệu não/màng não, tím tái,
khó thở.
b) Trẻ có tình trạng suy chức năng các cơ quan (như suy hô hấp, suy tuần
hoàn, suy tim, suy thận, suy gan, …).
c) Trẻ suy giảm miễn dịch (HIV/AIDS, bệnh suy giảm miễn dịch bẩm sinh)
chống chỉ định tiêm chủng các loại vắc xin sống.
d) Các trường hợp chống chỉ định khác theo hướng dẫn của nhà sản xuất đối
với từng loại vắc-xin.
1.2.2.2. Các trường hợp tạm hoãn.[17]
a) Trẻ mắc các bệnh cấp tính, đặc biệt là các bệnh nhiễm trùng.
b) Trẻ sốt ≥ 37,50C hoặc hạ thân nhiệt ≤ 35,50C (đo nhiệt độ tại nách).
c) Trẻ mới dùng các sản phẩm globulin miễn dịch trong vòng 3 tháng trừ
trường hợp trẻ đang sử dụng globulin miễn dịch điều trị viêm gan B.
d) Trẻ đang hoặc mới kết thúc liều điều trị corticoid (uống, tiêm) trong vòng
14 ngày.
đ) Trẻ sơ sinh có cân nặng dưới 2000g.


6


e) Các trường hợp tạm hoãn tiêm chủng khác theo hướng dẫn của nhà sản
xuất đối với từng loại vắc-xin.

Bảng 1.1: Đường tiêm, liều lượng, vị trí tiêm của từng loại vắc xin
trong TCMR [18]
Vắc xin

Liều lượng

Đường tiêm

BCG

0,1ml

Tiêm trong da

DPT

0,5ml

Tiêm bắp

Viêm gan B

0,5ml

Tiêm bắp


DPT-VGB-Hib

0,5ml

Tiêm bắp

OPV
Sởi
Sởi - rubella

2 giọt
0,5ml
0,5ml

Uốn ván

0,5ml

Viêm não Nhật Bản
Thương hàn
Tả

0,5ml (1- 3 tuổi)
1ml (trẻ >3 tuổi)
0,5ml
1,5ml

Nơi tiêm
Phía trên cánh tay
trái

1/3 giữa mặt ngoài
đùi
1/3 giữa mặt ngoài
đùi
1/3 giữa mặt ngoài

đùi
Uống
Miệng
Tiêm dưới da
Phía trên cánh tay
Tiêm dưới da
Phía trên cánh tay
Phía trên cánh tay, vị
Tiêm bắp
trí cơ delta
Tiêm dưới da

Phía trên cánh tay

Tiêm bắp
Uống

Phía trên cánh tay
Miệng

Không tiêm quá 1 liều của cùng 1 loại vắc-xin trong cùng thời gian.
Nếu nơi tiêm chảy máu dùng bông khô sạch ấn vào nơi tiêm.
Không chà mạnh vào chỗ vừa tiêm.
1.2.3. Qui trình tiêm chủng

Tiêm chủng tuân theo quy trình sau [19]:


7

- Thông báo các vắc-xin trẻ được tiêm chủng trong lần này để phòng
được bệnh gì.
- Hướng dẫn cách theo dõi, chăm sóc trẻ sau tiêm chủng:
+ Cần được ở lại theo dõi 30 phút tại điểm tiêm chủng.
+ Cần được theo dõi tại nhà trong vòng 24 giờ như để ý đến trẻ nhiều
hơn, cho bú hoặc cho uống nhiều hơn, không đắp bất cứ thứ gì lên vị trí tiêm.
- Giải thích những phản ứng có thể xảy ra sau tiêm chủng như:
+ Sốt (<39ºC), đau tại chỗ tiêm, quấy khóc, sưng nhẹ tại vị trí tiêm...
đây là các phản ứng thông thường và nó cho thấy đứa trẻ đáp ứng lại đối với
vắc xin. Các phản ứng sẽ tự khỏi trong vòng 1 ngày.
+ Các tai biến nặng sau tiêm chủng như sốc phản vệ và một số tai biến
nặng khác tuy rất hiếm gặp nhưng vẫn có thể xảy ra tùy từng loại vắc xin
+ Cần đưa NGAY trẻ tới cơ sở y tế nếu phản ứng kéo dài hơn một ngày
hoặc phản ứng trở nên nghiêm trọng hơn như trẻ sốt cao, co giật hay có bất cứ
những biểu hiện khác thường như quấy khóc kéo dài, tím tái, khó thở, bỏ bú...
- Hẹn ngày tiêm chủng tiếp theo.
1.2.4. Lịch tiêm chủng cho trẻ em
Lịch này được xây dựng trên khả năng đáp ứng miễn dịch của trẻ theo từng
lứa tuổi. Các tháng tuổi ghi dưới đây cho biết lứa tuổi sớm nhất có thể tiêm cho
trẻ những loại vắc xin tương ứng. Vì vậy, việc tiêm phòng bệnh cho trẻ cần sự tư
vẫn trực tiếp của các bác sĩ tại trung tâm.


8


Bảng 1.2: Lịch tiêm chủng cho trẻ em
Tuổi
<24 giờ

<1 tháng
2-6 tháng

Vắc xin phòng bệnh
1.Huyết thanh viêm gan B

Phòng bệnh
(1) Huyết thanh phòng bệnh Viêm

2.Viêm gan B mũi 1

gan B, nếu mẹ HBsAg (+)

(2) Phòng Viêm gan B mũi 1
Vác xin BCG
Phòng bệnh lao
1.BH-HG-UV-BL mũi 1, 2, (1) Phòng bệnh Bạch hàu, ho gà,
3

Uốn ván, Bại liệt

2.Viêm gan B mũi 2,3,4

(2) Phòng bệnh Viêm gan B

3.Hib mũi 1,2,3


(3) Phòng bệnh Viêm màng não mủ

4.Vắc xin phòng Rota

do

5.Vắc xin Synflorix

influenzoetype B

vi

khuẩn

Heamophilus

(4) Phòng bệnh tiêu chảy cấp do víu
rota (RotavinM1, Rotarix uống 2
lần, Rotateq uống 3 lần)
(5) Phòng bệnh Viêm phổi, viêm
phế quản, viêm tai giữa do phế cầu
khuẩn và viêm màng não mủ do vie
khuẩn
≥ 3 Tháng

Vắc

Heamophilus


influenzoe

không dịch type
xin VA-MENGOC- Phòng bệnh viêm màng não mủ do

BC: 2 Mũi cách nhau 6-8 vi khuẩn não mô cầu type B+C
tuần
≥ 6 Tháng Cúm mũi 1,2
Phòng bệnh cúm
9 – 11 tháng Vắc xin sởi
Phòng bệnh sởi
≥12 tháng 1.phòng bệnh sởi. Quai bị. (1) Phòng bệnh sởi, Quai bị,
Rubella

Rubella, (cách mũi sợi đơn tối thiểu

2. Viêm não nhật bản B: 2 4 tuần)
mũi cách nhau 7-14 ngày

(2) Phòng bệnh viêm não nhật bản

3.Vắc xin thủy đậu

B

4. Viêm gan A mũi 1

(3) Phòng bệnh thủy đậu



9

Tuổi
16-23 tháng

Vắc xin phòng bệnh
1.BH-HG-UV-BL mũi 4

Phòng bệnh
(4) Phòng bệnh viêm gan A
(1) Phòng bệnh bạch hầu, Ho gà,

2. Viêm gan B mũi 5

uốn ván, bại liệt

3. Hib mũi 4

(2) phòng bệnh viêm gan B

4. Viêm gan B mũi 2: mũi 2 (3) Phòng bệnh viêm màng não mủ
cách mũi 1 từ 6-18 tháng

do

vi

khuẩn

Heamophilus


influenzae typeB.
≥24 tháng

1.MeningoA+C

(4) Phòng bệnh viêm gan A
(1) Phòng bệnh viêm màng não mủ

2. Viêm màng não nhật bản do vi khuẩn não mô cầu Type A+C
mũi 3

(2) Phòng bệnh viêm não do virus

3. Pneumo 23

viêm não nhật bản B.

4. Thương hàn

(3) Phòng bệnh viêm phổi, viêm

5 Tả

phế quản, viêm tai giữ ...do phế cầu
khuẩn và viêm màng não mủ do vi
khuẩn Streptococus- Pneumoniae.
(bao gồm 23 type gây bệnh)
(4) Phòng bệnh thương hàn
(5) Phòng bệnh tiêu chảy do phẩy


≥9 tuổi

khuẩn tả.
Vắc xin phòng bệnh do Phòng bệnh ung thư cổ tử cung do
Human
(HPV)

Papilloma

Virus virus HPV gây nên.
Phòng bệnh sủi mào gà, mụn cóc
sinh dục do virus HPV gây nên.


10

Bảng 1.3. Lịch tiêm chủng nhắc lại cho trẻ em dưới 15 tuổi
Vắc xin phòng bệnh

Lịch tiêm
Nếu trẻ đã được tiêm đủ 4 mũi cơ bản trong 2
Bạch hầu, Ho gà, uốn ván,
năm đầu, sau đó cân nhắc lại cho trẻ 1 lần
bại liệt
nữa vào độ tuổi đi học từ 5 – 13 tuổi.
Nếu trẻ đã được tiêm đủ 3 mũi cơ bản trong 2
Viêm não nhật bản B
năm đầu, sau đó mỗi 3 năm mới nhắc lại 1
lần (đến 15 tuổi).

Nếu trẻ đã được tiêm đủ 2 mũi cơ bản trong
năm đầu tiên. Sau đo mỗi năm nên nhắc laị
Cúm
một lần (theo định kỳ). Tốt nhất là trước mùa
đông
Nếu trẻ trong độ tuổi từ 9 – 11 tháng, cần
nhắc lại mũi 2 sau 6 – 12 tháng, mũi 3 nhắc
Sởi – Quai bị - Rubella
lại sau 3 – 5 năm. Nếu trẻ tiêm ở độ tuổi ≥ 12
tháng. Cần nhắc lại mũi 2 sau 3 – 5 năm
Nếu trẻ ≤ 12 tuổi: Nhắc lại mũi 2 sau mũi 1 là
1 – 4 năm.
Thủy đậu
Nếu trẻ > 12 tuổi: Nhắc lại mũi 2 sau mũi 1
là 4 – 8 tuần
Viêm màng não mủ do vi Sau mũi tiêm đầu tiên, cứ 3 năm tiêm nhắc
khuẩn (Nesseria Meninglidis lại 1 lần (nếu tiêm văc xin Meningo A+C)
nhóm A,C)
Viêm phế quản phổi và Sau mũi tiêm đầu lúc ≥ 24 tháng tuổi, cứ 3
viêm màng não mủ do vi năm tiêm nhắc lại 1 lần (nếu trẻ hay bị nhiễm
khuẩn
Streptoccocus trùng đường hô hấp, tai mũi họng, tiểu đường
pneumoniea
và các bệnh mạn tính khác ...)
Nếu trẻ đã được tiêm đầy đủ 4 – 5 mũi cơ
Viêm gan B
bản, sau 5 năm tiêm nhắc lại một lần
Thương hàn
Sau 3 năm tiêm nhắc lại một lần
2 lần uống cơ bản năm đầu, sau đó mỗi năm

Tả
uống nhắc lại một lần


11

1.2.5. Tình hình tiêm chủng mở rộng trên thế giới
Trên thế giới, các nước đều thấy sáu bệnh truyền nhiễm cơ bản nguy
hiểm là: Bạch Hầu, Ho Gà, Uốn Ván, Bại Liệt, Lao và Sởi. Các bệnh này gây
nên tỷ lệ tử vong cao ở trẻ nhất là trẻ dưới 5 tuổi và sáu bệnh này đã có vắcxin đặc hiệu [20]. Xuất phát từ tình hình thực tiễn và kinh nghiệm của những
năm chưa triển khai CTTCMR mà các nước có thể khống chế một số bệnh
nguy hiểm và cả những bệnh được thanh toán trên thế giới. Từ những quan
điểm phòng bệnh cho trẻ em cũng như lợi ích về kinh tế nên WHO đã đề xuất
CTTCMR năm 1974 và ưu tiên cho đối tượng trẻ em dưới 5 tuổi [8].
Trong năm 2013, khoảng 84% (112 triệu) trẻ trên toàn thế giới nhận 3
liều vaccine bạch hầu-uốn ván-ho gà (DTP3), bảo vệ trẻ chống lại các bệnh
truyền nhiễm có thể gây bệnh nghiêm trọng và tàn tật hoặc tử vong, 129 quốc
gia đã đạt được tỷ lệ tiêm chủng ít nhất là 90% của vắc-xin DTP3 [21].
Thực hiện chủ trương của WHO, các nước trên thế giới đã tiến hành tiêm
chủng cho trẻ em và đạt được tỷ lệ ngày càng cao. Đặc biệt ở các nước phát
triển tỷ lệ tiêm chủng đạt rất cao và đã thanh toán dứt điểm một số bệnh (Mỹ
thanh toán Bại liệt từ năm 1979, Việt Nam thanh toán Bại liệt năm 2000, loại
trừ Uốn ván sơ sinh được công nhận tháng 12 năm 2005) [22]. Ngày càng có
nhiều loại vắc-xin mới, hiệu quả và thanh toán được một số bệnh truyền
nhiễm nguy hiểm.
Rota
Phế cầu khuẩn
Viêm gan B
Sởi
Bại liệt

DPT3
0% 10% 20% 30% 40% 50% 60% 70% 80% 90%
Biểu đồ 1.1: Tỷ lệ tiêm chủng toàn cầu 2013 [21].


12

Bên cạnh những thành tựu đạt được CTTCMR vẫn còn phải đối mặt với
nhiều khó khăn và thách thức:
Trong tình hình thế giới hiện nay, sự giao lưu giữa các nước trên thế giới
sẽ là điều kiện thuận lợi cho dịch xâm nhập trở lại các nước đã thanh toán.
Uốn ván vẫn còn là một bệnh lưu hành phổ biến ở các nước đang phát triển.
Sởi vẫn là bệnh có số mắc và tử vong cao ở trẻ em, hàng năm có trên 40 triệu
trường hợp mắc bệnh và trên 1 triệu trường hợp tử vong do Sởi, chiếm 10%
tổng số trẻ em tử vong dưới 5 tuổi. Viêm gan B (VGB) là bệnh có tỷ lệ mắc
và mang virut cao, đặc biệt ở châu Á và Đông Nam Á, tỷ lệ mang virut VGB
trong dân cư là 15% - 20%. VGB là bệnh WHO khuyến cáo sử dụng vắc xin
vào đầu thế kỷ 21. Tỷ lệ tiêm chủng DPT3 có tăng dần qua các năm nhưng
vẫn không đồng đều giữa các khu vực trên thế giới. Số liệu ước tính của
WHO và UNICEF năm 2006 ở một số khu vực tỷ lệ tiêm chủng còn thấp như
khu vực châu Phi (73%), Trung Đông (86%) và Đông Nam Á (63%) [23].
Trong số trẻ em không được tiêm chủng đầy đủ năm 2013 có gần một nửa
sống tại 3 nước: Ấn Độ, Nigeria và Pakistan …
100%
95%

88%

90%
85%


97%

95%

94%

90%

83%

80%
75%

DPT3

Biểu đồ 1.2: Tỷ lệ tiêm chủng vắc xin DPT3 tại các khu vực [24].


13

Ngoài ra, hiện nay nhiều bệnh truyền nhiễm mới xuất hiện chưa có
vaccine như Sars, Cúm gà, HIV, Mers-CoV. Trước mắt, nhân loại đang tập
trung tìm hiểu nguyên nhân gây dịch, chủ động phòng dịch và dập dịch bằng
nhiều biện pháp tổng hợp, song không thể bỏ qua giải pháp toàn diện, triệt để
nhất là sử dụng vắc-xin. Mặt khác vẫn tiếp tục tìm kiếm các vắc-xin hữu hiệu
phòng chống các bệnh truyền nhiễm và không truyền nhiễm khác như: Sốt
Dengue/ Sốt xuất huyết Dengue, Sốt rét, Ung thư, Tim mạch …[15, 22]
Chiến lược của các nước trong thập kỷ tới là tiếp tục đẩy mạnh việc bảo vệ
sức khỏe trẻ em bằng vaccine một cách rộng rãi. Tiêm chủng bằng vaccine trở

thành phương tiện hiệu quả nhất để chủ động phòng chống bệnh tật ở thế kỷ 21.
1.2.6 Tình hình tiêm chủng mở rộng ở Việt Nam.
Chương trình TCMR bắt đầu được triển khai ở Việt Nam từ năm1981
với sự hỗ trợ của WHO và Quỹ Nhi đồng liên hợp quốc (UNICEF), với mục
tiêu: “ Phổ cập tiêm chủng cho trẻ em dưới 1 tuổi trong cả nước được tiêm
chủng đầy đủ 6 loại bệnh vào năm 1990 [8].
Giai đoạn từ năm 1980 đến 1985: làm thí điểm và mở rộng dần
CTTCMR tại một số địa phương. Giai đoạn này đạt được 20,8% số trẻ dưới 1
tuổi ở 20 tỉnh thành được tiêm chủng và giảm trên 40% tỷ lệ mắc 6 bệnh
truyền nhiễm ở trẻ em so với thời kỳ 1976 – 1980 [8].
Bảng 1.4: Kết quả tiêm chủng từng loại vắc xin năm 1989-1990 cho
trẻ dưới 1 tuổi [25].
Vắc xin
BCG
OPV3
DPT3
Sởi
Đầy đủ

Tỷ lệ %
93,94
88,92
88,40
89,13
86,89


14

Từ năm 1986-1990: CTTCMR triển khai trên cả nước, tiêm chủng

thường xuyên thay thế tiêm chủng chiến dịch. Đạt được mục tiêu phổ cập
tiêm chủng cho hơn 80% trẻ dưới 1 tuổi trong cả nước. Tuy nhiên, chất lượng
tiêm chủng vẫn cần phải cố gắng [8, 25].
Bảng 1.5: Tình hình tiêm chủng thường xuyên tại các khu vực trong cả
nước năm 1991 – 1995 [8].
Khu vực
Toàn quốc
Miền Bắc
Miền Trung
Miền Nam
Tây Nguyên

Tiêm chủng cho trẻ dưới 1 tuổi
94,11%
95,16%
96,83%
91,42%
94,87%

Trong giai đoạn năm 1991 – 2000: CTTCMR tiêm đủ 6 bệnh truyền
nhiễm cho trẻ dưới 1 tuổi liên tục đạt trên 90%. Năm 1997 triển khai thêm 4
vắc-xin mới là: Viêm gan B, Tả, Thương hàn, Viêm não Nhật Bản. Tháng 12
năm 2000, CTTCMR hoàn thành mục tiêu thanh toán bệnh Bại liệt. Năm
1999 - 2000 tổ chức chiến dịch thí điểm tiêm mũi 2 vắc-xin Sởi đạt tỷ lệ
99,7% đối với trẻ em dưới 10 tuổi [26].
Bảng 1.6: Tỷ lệ huyện có tỷ lệ tiêm chủng đầy đủ cho trẻ dưới 1 tuổi trên
90% từ năm 2003 – 2010 [8].
Năm
Số huyện cả nước
Số huyện đạt

2003
645
526
2004
667
624
2005
669
626
2006
673
601
2007(*)
676
345
2008
684
623
2009
689
641
2010(**)
695
601
(*) Năm 2007 ảnh hưởng của các phản ứng sau tiêm chủng
(**) Năm 2010 thiếu vắc xin VGB

Tỷ lệ %
81,5
93,5

93,5
89,3
51,0
91,1
93
86,5


15

Từ năm 2001 đến nay: CTTCMR duy trì được những thành quả và tỷ
lệ tiêm chủng đầy đủ 6 loại vắc-xin cho trẻ em đạt trên 90%, tiêm đủ liều
vắc-xin Uốn ván cho phụ nữ có thai đạt 80%, nữ tuổi sinh đẻ đạt trên 90%
ở các huyện có nguy cơ cao, từ năm 2001 triển khai chiến dịch tiêm vắcxin Sởi mũi 2 cho trẻ từ 9 tháng đến 10 tuổi trên toàn quốc, 80% đối tượng
vùng nguy cơ cao được tiêm vắc-xin VGB, Viêm não Nhật Bản, Thương
hàn và uống vắc-xin Tả. Năm 2002 vắc-xin VGB được triển khai trên 61
tỉnh, thành phố.[8] Năm 2010 Chính phủ đã phê duyệt cho phép sử dụng
vắc xin “5 trong 1” phòng chống 5 bệnh truyền nhiễm (bạch hầu, ho gà,
uốn ván, VGB, Haemophilus influenzae b) trong chương trình tiêm chủng
mở rộng. Triển khai vắc xin “5 trong 1” đã làm giảm số mũi tiêm so với
giai đoạn trước khi sử dụng vắc-xin phối hợp đã góp phần tăng cường an
toàn và chất lượng tiêm chủng [20]. Tỷ lệ tiêm chủng đầy đủ vắc xin “5
trong 1” chung cho toàn quốc đạt hơn 95%.
Sau 30 năm hoạt động CTTCMR đã thu được thành quả to lớn và được
quốc tế thừa nhận là điểm sáng về công tác TCMR trong các nước đang phát
triển với kết quả: Thanh toán Bại liệt năm 2000, loại trừ Uốn ván sơ sinh vào
tháng 12 năm 2000, số mắc Sởi từ 125176 ca/1984 chỉ còn 227 ca/2004 và
tiến tới loại trừ Sởi vào 2012 [8]. Tuy nhiên vẫn còn nhiều tồn tại và thách
thức: Nhiều loại vắc-xin phòng chống các loại bệnh truyền nhiễm phổ biến và
nguy hiểm ở trẻ em chưa được triển khai trong CTTCMR như Rotavirut,

Rubella, Quai bị, Haemophilus influenzae b … Mặc dù áp lực bệnh tật của
những bệnh này ở Việt Nam rất rõ rệt. Kinh phí CTTCMR của nhà nước đầu
tư còn hạn hẹp, đội ngũ cán bộ làm công tác TCMR bị thay đổi nhiều, thiếu
cán bộ y tế thôn bản, lương và phụ cấp chưa hợp lý, chưa khuyến khích được
người làm công tác này [20]. Sự lơ là trong công tác TCMR sẽ tạo điều kiện
cho bệnh phát triển đặc biệt vùng núi, khó khăn.


16

1.3. Tình hình nghiên cứu, các ứng dụng y tế di động liên quan đến quản
lý tiêm chủng
1.3.1. Tình hình nghiên cứu y tế di động trên thế giới
Việc sử dụng công nghệ di động và không dây để hỗ trợ việc đạt được
các mục tiêu thiên niên kỉ y tế ngày càng có nhiều tiềm năng, nó thay đổi diện
mạo việc cung cấp các dịch vụ y tế trên toàn cầu. Sự kết hợp manh mẽ giữa
công nghệ di động và các ứng dụng sáng tạo tăng cơ hội cho sự hội nhập của
sức khỏe di động vào dịch vụ y tế điện tử hiện nay [27].
Năm 2009, lần đầu tiên, tổ chức WHO cùng GOe tiến hành khảo sát và
phân tích tại 114 quốc gia thành viên với 4 khía cạnh là: số lượng sử dụng ứng
dụng y tế di động, các loại ứng dụng của YTDĐ, tình trạng các ứng dụng và các
rào cản để thực hiện. có 14 loại hình của y tế di động được khảo sát đó là:
- Các trung tâm tư vấn sức khỏe qua điện thoại.
- Các trung tâm trực các tình huống khẩn cấp qua điện thoại.
- Các dịch vụ điện thoại miễn phí.
- Trường hợp khẩn cấp về quản lý dịch bệnh, thiên tai.
- Y học từ xa qua điện thoại di động.
- Nhắc nhở, theo dõi quá trình điều trị tái khám của bệnh nhân.
- Đảm bảo sự tuân thủ trong phác đồ điều trị của bênh nhân.
- Vận động cộng đồng tham gia hoạt động y tế nhằm nâng cao sức khỏe.

- Bệnh án, hồ sơ cá nhân của bênh nhân trên di động.
- Theo dõi bệnh nhân từ xa.
- Khảo sát và thu thập số liệu sức khỏe.
- Giám sát chương trình y tế, bệnh nhân.
- Nâng cao nhận thức, kiến thức bệnh, phòng bệnh.
- Hỗ trợ các hệ thống chăm sóc khỏe.


17

Cuộc khảo sát cho thấy đa số các nước thành viên (83%) cung cấp ít nhất
một loại hình dịch vụ YTDĐ. Tuy nhiên, nhiều nước cung cấp 4-6 chương
trình. Bốn loại hình YTDĐ thường gặp nhất là: Các trung tâm tư vấn sức khỏe
qua điện thoai (59%), Các trung tâm trực các tình huống khẩn cấp qua điện
thoai miễn phí (55%), trường hợp khẩn cấp về quản lý dịch bệnh, thiên tai
(54%), và y học từ xa qua điện thoại di động (49%). YTDĐ phù hợp với xu
hướng ehealth nói chung, các nước phát triển có nhiều hoạt động ứng dụng
YTDĐ hơn so với các nước đang phát triển. Các nước trong khu vực châu Âu
hiện nay là tích cực nhất, còn các nước thuộc khu vực châu Phi là hoạt ít nhất.
Trong các loại hình YTDĐ được sử dụng thì loại hình trung tâm cuộc gọi sức
khỏe dễ dàng đưa vào nhất, nhiều nhất đó là do tính thuận tiện của việc liên lạc
bằng giọng nói thông qua mạng điện thoại thông thường, còn loại hình YTDĐ
ít thấy là loại hình giám sát, nâng cao chất lượng sức khỏe cộng đồng do những
đòi hỏi về năng lực lẫn cơ sở hạ tầng phải được đầu tư mạnh cũng như đồng bộ
nên loại hình này bị hạn chế do đây chưa phải một vấn đề sức khỏe được ưu
tiên đối với những nước đang phát triển [1].
Từ đây có thể thấy một rào cản của các nghiên cứu ứng dụng YTDĐ là
sự cạnh tranh ưu tiên trong hệ thống y tế các nước. Trong khi đó, hiện nay hệ
thông y tế thế giới đang phải chịu áp lực ngày càng lớn, với nhiều thách thức,
nhiều bệnh mới nguy hiểm xuất hiện, gánh nặng từ các bệnh không lây, thiếu

nhân lực, ngân sách hạn chế, tất cả đều làm cho sự lựa chọn các biện pháp can
thiệp càng trở lên khó khăn. Để YTDĐ được coi là một trong những vấn đề
được ưu tiên, thì YTDĐ đều phải có những bằng chứng vững chắc về hoạch
định chính sách, quản lý, và các nhà chính sách y tế cần phải đánh giá xác định
được chi phí-hiệu quả, truyền thông cho cộng đồng những lợi ích của YTDĐ,
đây là một cách để thúc đẩy cho mọi người thấy được tầm quan trọng. Tuy
nhiên, theo khảo sát chỉ có 12% các nước thành viên báo cáo các đánh giá về


18

việc triển khai YTDĐ. Tiếp đó, những lo ngại về tính bảo mật về thông tin cá
nhân trên các ứng dụng YTDĐ trên di động, trên website cũng cản trở việc
YTDĐ được đầu tư mở rộng. Vì vậy, vấn đề đảm bảo an ninh về dữ liệu và
thông tin cũng là một vấn đề cần được chú trọng nhằm có chiến lược phù hợp
để triển khai và thực hiện duy trì trong ngắn hạn và dài hạn [1].
Đã có nhiều dự án YTDĐ được thực hiện và mang lại kết quả rất tốt, cải
thiện chất lượng sức khỏe một cách rõ rệt. Tại Rwanda, một nước thuộc phía
đông Châu Phi đã hợp tác với UNICEF đã triển khai hệ thống YTDĐ bao gồm
RapidSMS và mUbuzima theo dõi các phụ nữ mang thai và trẻ sơ sinh, nhằm
phát hiện sớm những nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe của bà mẹ và trẻ em,
đồng thời cung cấp nhanh những chỉ số liên quan, đồng thời tăng cao sự kết nối
cộng đồng. Tỷ lệ tử vong mẹ cao nhất trong năm 2005 là 750 trường hợp tử
vong trên 100.000 trẻ sinh ra xuống 487 trong năm 2010, và tỷ lệ tử vong dưới
5 tuổi đã giảm một nửa trong cùng kỳ năm 2010 [28].
Tại quốc gia nghèo Uganda hiện có hàng trăm nhân viên hoạt động trong
lĩnh vực y tế thường xuyên dùng thiết bị cầm tay PDA để thu thập thông tin
điều tra, khảo sát thực địa. Năm 2009, ngành y tế nước này đã thực hiện thành
công cuộc trắc nghiệm về HIV/AIDS thông qua tin nhắn SMS đối với 15.000
người dân sống tại nông thôn là chủ thuê bao sử dụng dịch vụ viễn thông di

động của nhà mạng Celtel (những người trả lời câu hỏi qua SMS sẽ được đi xét
nghiệm HIV miễn phí hoặc miễn phí cuộc gọi). Qua thống kê của Uganda, sự
trợ giúp của YTDĐ trong thời gian qua đã cho phép ngành y tế tiết kiệm được
khoảng 25% chi phí so với thông thường, đồng thời hoạt động của các nhân
viên y tế cũng linh hoạt và hiệu quả hơn [29].
Loại hình YTDĐ nhắc nhở, theo dõi quá trình điều trị tái khám của bệnh
nhân là một trong những loại hình có ý nghĩa trong việc đảm bảo cũng như duy
trì kết quả của các chương trình y tế với quy mô lớn, hay đảm bảo việc điều trị


19

của bệnh nhân theo đúng liệu trình để đạt được kết quả tốt. Nhắc nhở các cuộc
hẹn là những tin nhắn thoại, hay những tin nhắn SMS gửi đến bệnh nhân, hay
những phần mền được cài sẵn trên điện thoại thông minh sẽ có chuông báo lịch
hẹn. Sau các báo cáo được phân tích, GOe mở rộng định nghĩa của loại hình
nhắc nhở là thêm nhắc nhở lịch tiêm chủng, kết quả điều trị, các cuộc hẹn sau
các cuộc gọi và điện thoại di động đang là phương tiện nhắc nhở chính của loại
hình này.[14]
Tại Bangladesh, năm 2007, nước này đã bắt đầu một dự án nhằm nâng
cao nhận thức của các chiến dịch sức khỏe của mình bằng tin nhắn văn bản
SMS phát sóng đến tất cả các thuê bao điện thoại di động trong cả nước,
không phân biệt của các nhà cung cấp dịch vụ của họ trong CTTCMR. Tin
nhắn đã khuyến khích cha mẹ đưa con đi tiêm chủng đạt kết quả cao, từ đây
Bộ Y tế của Bangladesh tiếp tục lan rộng ra các chương trình khác như: tuần
uống vitamin A, Ngày mẹ an toàn… [30]
Các nước trong nhóm có thu nhập cao sử dụng dịch vụ nhắc nhở là
nhiều nhất chiếm đến 71%, khu vực châu Mỹ là 58%, khu vực châu Âu là
53%, khu vực Địa Trung Hải là 36%, và Đông Nam Á là 38% là khu vực có tỉ
lệ dùng thấp nhất. Tuy nhiên, tại Zimbabwe, Ai Cập, Lebanon, các tiểu vương

quốc Ả Rập lại là một ngoại lệ, YTDĐ được ứng dụng khá nhiều và được
thành lập theo dõi cho các chương trình HIV/AIDS, bệnh lao, bệnh tả và cúm.
Đến 42% các ứng dụng YTDĐ nhắc nhở sử dụng chức năng thoại, SMS,
Internet. Trong đó SMS là chức năng được sử dụng nhiều nhất [16, 31].
1.3.2. Tình hình ứng dụng y tế điện tử trong quản lý tiêm chủng
Trên thế giới CTTCMR đã có từ lâu và được thực hiện tốt, nhưng các
ứng dụng nhắc nhở, bảo vệ kết quả của chương trình thì chưa được nghiên
cứu nhiều và phổ biến, các ứng dụng chủ yếu tập trung vào các chức năng
chính: cung cấp thông tin cá nhân, nhắc nhở lịch tiêm, kết nối dịch vụ, quản lý


20

tiêm chủng, một số chức năng khác. Một số ứng dụng được sử dụng nhiều
như: Vaccination Chart, Vaccine Tracker, Vaccine Reminder – Pediatric
Oncall, iVaccine – JAGUART…
Với chức năng cung cấp thông tin thì các ứng dụng mới chỉ dừng ở việc
cung cấp thông tin các loại vắc- xin.

Hình 1.1: Một số chức năng của ứng dụng quản lý tiêm chủng
Chức năng nhắc lịch tiêm cung cấp lịch tiêm tương ứng của từng quốc
gia (tuy nhiên chưa có ứng dụng nào hỗ trợ cho Việt Nam), hỗ trợ lên lịch
tiêm (bằng phần mềm hoặc liên kết với google calendar), nhắc nhở khi đến
gần lịch tiêm.


21

Hình 1.2: Chức năng nhắc nhở lịch tiêm chủng
Chức năng kết nối dịch vụ giúp kết nối tới địa chỉ nơi cung cấp dịch vụ

gần nhất (tại Việt Nam chưa được hỗ trợ).

Hình 1.3: Chức năng kết nối tới nơi cung cấp dịch vụ tiêm chủng
Chức năng quản lý thông tin bao gồm các thông tin cá nhân của bé, các
mũi cần tiêm, đã tiêm, bị nhỡ một cách đơn giản và trực quan.


22

Hình 1.4: Chức năng quản lý thông tin
Bên cạnh đó còn mục chức năng khác có thể là kết nối với các trang
mạng xã hội [32, 33].

Hình 1.5: Chức năng kết nối với các trang mạng xã hội
1.3.2. Tình hình nghiên cứu y tế di động tại Việt Nam
Kế hoạch 5 năm của ngành Y tế (2011-2015) đã đề ra nhiệm vụ xây
dựng kế hoạch phát triển hệ thống thông tin y tế đến 2015 với tầm nhìn 2020
[34]; từng bước hiện đại hóa phương tiện, cơ chế của hệ thống thông tin y tế;


23

nâng cao chất lượng thông tin y tế (đầy đủ, chính xác, kịp thời); xây dựng quy
định và có chế tài phù hợp để thu thập thông tin về y tế tư nhân; xây dựng hệ
thống theo dõi các vấn đề y tế ưu tiên, trong đó có giám sát, báo cáo, ứng phó
và dự báo các bệnh truyền nhiễm; dữ liệu về các bệnh không lây nhiễm, an
toàn vệ sinh thực phẩm; tăng cường quản lý và chia sẻ thông tin từ các mục
tiêu y tế quốc gia. Tăng cường khả năng tổng hợp, phân tích và xử lý số liệu.
Tăng cường phổ biến thông tin với các hình thức đa dạng và phù hợp với
người sử dụng; tăng cường sử dụng thông tin cho quản lý trực tiếp ở từng đơn

vị, từng tuyến cung cấp thông tin và sử dụng hoạch định chính sách, quản lý
ngành y tế. YTDĐ là một trong những những giải pháp để giúp hỗ trợ ngành y
tế đạt được nhưng mục tiêu trong giai đoạn này [34].
Tuy nhiên YTDĐ tại Việt Nam mới bắt đầu tiếp cận, còn quá ít các loại
hình dịch vụ. Mới chỉ có một vài chương trình hay ứng dụng đi vào triển khai
nhưng chưa thực sự rõ nét. YTDĐ vẫn chưa được chú trọng phát triển, do đó
cũng chưa có đánh giá hay phân tích tính hiệu quả cũng những chi phí của
những ứng dụng trên di động một cách chính thống để đưa ra những chiến
lược phát triển hợp lý và toàn diện. Chỉ có tổng đài 115 gọi miễn phí khi có
trường hợp khẩn cấp được biết đến và vẫn đang hoạt động hiệu quả.
Năm 2012, Bộ Y tế triển khai Dự án Thông tin về sức khỏe qua mạng
thông tin di động cho nhóm dân cư khó tiếp cận ở Việt Nam. Các đơn vị và cơ
quan có liên quan gồm Viện Công nghệ thông tin – Thư viện Y học Trung
ương, Vụ Khoa học - Đào tạo, Bộ Y tế; tổ chức Pathfinder International; Sở Y
tế Thái Nguyên, Lâm Đồng (là 2 tỉnh được chọn để triển khai thí điểm dự án).
YTDĐ là mô hình chăm sóc sức khỏe sử dụng công nghệ mạng thông tin di
động tích hợp hệ thống trả lời tự động. Người sử dụng điện thoại cố định hoặc
di động gọi đến tổng đài trả lời tự động miễn phí 18003456 hoặc gửi tin nhắn
tới tổng đài 6077 để tra cứu, nhận các thông tin chăm sóc sức khỏe [35].


24

Hình 1.6: Ứng dụng quản lý tiêm chủng tại Việt Nam
Cũng trong năm 2012, Bộ Y tế hợp tác với công ty VNPT triển khai
các gói cước viễn thông - công nghệ thông tin ưu đãi cho ngành Y tế; cung
cấp hạ tầng mạng, đường truyền cho các dự án như Tư vấn khám chữa bệnh
từ xa, Bệnh án điện tử; phát triển mô hình M-health nhằm tư vấn, đặt lịch
khám chữa bệnh từ xa qua đầu số 108x; cung cấp dịch vụ Hội nghị truyền
hình trực tuyến phục vụ công tác điều hành của Bộ Y tế; triển khai các

điểm dịch vụ chăm sóc sức khỏe từ xa cho cộng đồng; hỗ trợ đào tạo nguồn
nhân lực về công nghệ thông tin cho y tế…[36]
Tại Việt Nam mới có một vài ứng dụng về quản lý TCMR nói riêng và
tiêm chủng nói chung như: Lịch tiêm chủng – HiPT, lịch tiêm chủng –
Longcat Labs, tuy nhiên những ứng dụng này còn sơ sài, nguồn thông tin
cung cấp chưa chính thống. Các ứng dụng này bước đầu đã cung cấp được
các thông tin cơ bản về vaccine cũng như lên lịch tiêm và nhắc nhở, quản lý
các mũi tiêm được dễ dàng và chia sẻ thông tin một cách nhanh chóng. Nhưng
còn tồn tại khá nhiều bất cập của các ứng dụng này: chưa có phần mềm toàn
diện, chức năng kết nối dịch vụ chưa có hoặc chưa hoàn thiện, thiếu sự tương
tác giữa người dùng dịch vụ với các cán bộ y tế, hay thiếu sự tương tác giữa
các người dùng với nhau.


25

CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện trên các nhóm đối tượng bao gồm:
- Tất cả khách tới sử dụng dịch vụ tiêm chủng tại Phòng Tiêm chủng
Viện Đào tạo Y học dự phòng và Y tế công cộng trong thời gian tiến hành
nghiên cứu
Tiêu chuẩn lựa chọn bao gồm:
+ Sử dụng dịch vụ tại Phòng tiêm chủng trong thời gian nghiên cứu.
+ Đồng ý tham gia vào nghiên cứu.
+ Có khả năng trả lời hoàn chỉnh bộ câu hỏi, hợp tác trong quá trình
phỏng vấn.
Tiêu chuẩn loại trừ:
+ Đối tượng ngừng phỏng vấn giữa chừng.

2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 10/2015 đến tháng 4/2016 tại
Phòng Tiêm chủng, Viện Đào tạo Y học Dự phòng và Y tế Công cộng Trường
Đại học Y Hà Nội.
2.3. Thiết kế nghiên cứu
Sử dụng phương pháp nghiên cứu cắt ngang có phân tích.
2.4. Phương pháp chọn mẫu
2.4.1. Cỡ mẫu
- Đối với đối tượng là khách sử dụng dịch vụ tiêm chủng, cỡ mẫu được
ước tính dựa theo công thức:


×