Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

PHÁT TRIỂN KHU KINH TẾ ĐÌNH VŨCÁT HẢI, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.07 MB, 108 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Thế giới ngày nay là thế giới của các hoạt động kinh tế, của sự hợp tác và
cạnh tranh giữa các quốc gia nhằm tìm kiếm sự thịnh vượng và củng cố vị thế quốc
gia của mình. Các nước phát triển đã tạo lập cho mình nền tảng kinh tế, cơ sở vật
chất kỹ thuật hiện đại và đang không ngừng phát triển. Các nước đang phát triển
cũng đang nỗ lực vươn lên khẳng định vị thế riêng của mình. Trong công cuộc phát
triển đó, mỗi nước đều đã sử dụng nhiều phương thức để huy động và sử dụng hiệu
quả các nguồn lực trong và ngoài nước để thúc đẩy sự phát triển ở nước mình. Với
mục tiêu đó, nhiều nước đã hình thành các khu kinh tế hay đặc khu kinh tế như là
một phương thức để thu hút nguồn lực đầu tư, tạo nên các khu vực có cơ chế thông
thoáng, phát triển theo hướng tự do, năng động hơn, trở thành các đòn bẩy thúc đẩy
kinh tế nội địa phát triển. Một số khu kinh tế sau một thời gian hình thành đã khẳng
định được vị thế, vai trò của mình trong nền kinh tế quốc gia, đóng vai trò như cầu
nối gắn kết kinh tế nội địa với môi trường kinh tế thế giới, có tác dụng lan tỏa sự
phát triển, góp phần đáng kể vào công cuộc phát triển của nước sở tại. Sự thành
công của những khu kinh tế như thế đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm bổ ích,
thiết thực cho các quốc gia.
Ở Việt Nam, sau quá trình nghiên cứu và học hỏi, Chính phủ đã vận dụng
kinh nghiệm xây dựng và phát triển khu kinh tế của nhiều nước trên thế giới để xây
dựng các khu kinh tế hướng tới các mục tiêu phát triển khác nhau. Một số khu kinh
tế đã đạt được những thành tựu nhất định, đóng góp đáng kể vào sự phát triển của
địa phương nơi chúng đóng chân, nhưng một số khu kinh tế mặc dù đã được hưởng
nhiều ưu đãi song vẫn không thể phát triển được như kỳ vọng.
Đến nay, Việt Nam đã hình thành 15 khu kinh tế ven biển đang hoạt động, 3
khu kinh tế khác sắp đi vào hoạt động, song đa số các khu kinh tế ven biển vẫn chưa
thể trở thành khu vực động lực lôi kéo sự phát triển ở các vùng mà chúng đứng
chân. Khu kinh tế Đình Vũ – Cát Hải nằm trên địa bàn thành phố Hải Phòng là một

1



khu kinh tế hội tụ đầy đủ các điều kiện thuận lợi để trở thành trung tâm trung
chuyển hàng hóa của cả khu vực đồng bằng sông Hồng và hơn nữa. Sự phát triển
của khu kinh tế này, đặc biệt là sự phát triển chức năng cảng tại đây có ý nghĩa lớn
đối với lưu thông xuất nhập khẩu hàng hóa của toàn bộ khu vực phía Bắc. Tuy
nhiên, sự phát triển của Đình Vũ-Cát Hải hiện nay vẫn có nhiều vấn đề còn tồn tại.
Câu hỏi đang đặt ra là làm thế nào để khu kinh tế này phát huy được tối đa các tiềm
năng, lợi thế và làm thế nào để nó thực sự trở thành cầu nối trong nước với thị
trường rộng lớn của thế giới, làm cho sự phát triển của khu kinh tế lan tỏa lôi kéo
khu vực xung quanh phát triển. Vì vậy, luận văn “Phát triển khu kinh tế Đình Vũ –
Cát Hải, thành phố Hải Phòng” được thực hiện với mục đích nghiên cứu, luận giải,
chắt lọc kinh nghiệm của các khu kinh tế đi trước; phân tích, đánh giá thực trạng
phát triển KKT Đình Vũ - Cát Hải, từ đó xác định các vấn đề còn tồn tại của KKT
và đề xuất các giải pháp phát triển nhằm góp phần vào sự phát triển của KKT này
nói riêng và vùng kinh tế Bắc Bộ nói chung.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn này là góp phần tìm kiếm các giải pháp
phát triển khu kinh tế Đình Vũ – Cát Hải giai đoạn từ nay đến năm 2025 nhằm đóng
góp cho sự phát triển của khu kinh tế Đình Vũ–Cát Hải trong tương lai.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu trên, nhiệm vụ đề ra với luận văn là:
1. Tổng quan lý luận và thực tiễn về phát triển khu kinh tế ở trong nước và
trên thế giới. Nghiên cứu xác định những bài học kinh nghiệm của các khu kinh tế
được đánh giá là thành công trên thế giới.
2. Đánh giá thực trạng phát triển của khu kinh tế Đình Vũ – Cát Hải giai
đoạn từ khi thành lập cho đến nay.
3. Đề xuất các giải pháp phát triển khu kinh tế Đình Vũ – Cát Hải trong
những năm tiếp theo.


2


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là khu kinh tế Đình Vũ-Cát Hải thuộc
thành phố Hải Phòng bao gồm: Ban Quản lý Khu kinh tế Đình Vũ-Cát Hải, doanh
nghiệp trên địa bàn khu kinh tế và các bên có liên quan đến khu kinh tế Đình VũCát Hải.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu: Nội dung nghiên cứu của luận văn là hoạt động quản
lý của các cơ quan quản lý KKT, hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp trên địa
bàn KKT. Hoạt động kinh tế của các đối tượng nghiên cứu này được đặt trong tổng
thể quan hệ kinh tế giữa các đối tượng bên trong và bên ngoài KKT.
Phạm vi không gian nghiên cứu: là không gian nằm trong ranh giới khu kinh
tế Đình Vũ - Cát Hải có xét đến mối tương tác qua lại giữa không gian trong phạm
vi khu kinh tế và không gian bên ngoài khu kinh tế.
Thời gian nghiên cứu: là khoảng thời gian tính từ khi khu kinh tế Đình Vũ Cát Hải bắt đầu thành lập đến năm 2025.
3.3. Cấu trúc luận văn
Nội dung luận văn được bố cục thành các mục như sau:
Mở đầu
Chương 1: Cơ sở lý luận, và tổng quan thực tiễn phát triển khu kinh tế
trong và ngoài nước
Chương 2: Phương pháp nghiên cứu đề tài
Chương 3: Thực trạng phát triển khu kinh tế Đình Vũ-Cát Hải
Chương 4: Giải pháp phát triển khu kinh tế Đình Vũ - Cát Hải
Kết luận

3



CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
VÀ TỔNG QUAN THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN KHU KINH TẾ
TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC

1.1. Cơ sở lý luận về khu kinh tế
1.1.1. Khái niệm về khu kinh tế, sự phát triển khu kinh tế và phân loại khu
kinh tế
a) Khái niệm khu kinh tế
Sự hình thành và phát triển của các “khu kinh tế” đã được giới nghiên cứu
nước ngoài và trong nước nghiên cứu và tổng kết trong nhiều tác phẩm. Theo đó,
các nghiên cứu đã chỉ ra những dấu hiệu đầu tiên của một khu kinh tế đã xuất hiên ở
Châu Âu từ thế kỷ XIII khi một loạt các quốc gia-thành phố hình thành ở khu vực
ven biển Địa Trung Hải trong thời kỳ phục hưng thương mại đầu thế kỷ XIII. Năm
1228, một cảng tự do (free port) đã được hình thành ở khu vực Marseilles miền
Nam nước Pháp. Đến cuối thế kỷ XIII, một nhóm các thành phố ở vùng biển Bắc và
biển Bantic đã liên kết với nhau hình thành nên “Liên minh Tự do thương mại” gọi
là “Hanseatic League”, trong đó, các cảng-thành phố tự do Humburg và Bremen
đóng vai trò là các điểm trung tâm trong liên minh. Gần hai thế kỷ sau đó, cảng
Leyghorn (1547) ở Italy ra đời và được các nhà nghiên cứu cho là cảng thương mại
tự do chính thức đầu tiên của thế giới. Những thành phố-cảng này được xem là tiền
thân của các khu kinh tế hiện đại ngày nay. Mô hình khu kinh tế sau đó đã được
nhiều khu vực khác ngoài châu Âu học tập và áp dụng. Trải qua nhiều biến đổi của
thời đại và công nghệ, từ các cảng tự do đơn giản ban đầu, mô hình khu kinh tế trở
nên đa dạng và phức tạp hơn, chúng được các chính phủ sử dụng như một phương
thức để thúc đẩy kinh tế quốc gia phát triển. Chính sách ưu đãi áp dụng đối với khu
kinh tế cũng được các chính phủ thiết kế để phù hợp với điều kiện và mục tiêu phát
triển của nước mình. Vì vậy, cũng có nhiều khái niệm và tên gọi khác nhau về “khu
kinh tế”. Báo cáo nghiên cứu của nhiều tổ chức sử dụng cùng một tên gọi nhưng nội


4


hàm, ý nghĩa lại khác nhau; ví dụ ADB, FIAS cùng sử dụng cụm từ “Special
Economic Zone” (Đặc khu kinh tế) nhưng khái niệm đưa ra lại khác nhau. Bên cạnh
đó, các tổ chức cũng sử dụng nhiều khái niệm để chỉ các loại hình khu kinh tế khác
nhau, như Khu Kinh tế tự do (Free Economic Zone-FEZ), Đặc khu kinh tế (Special
Economic Zone-SEZ), Khu Thương mại tự do (Free trade zone)...
Sau đây là một số khái niệm về khu kinh tế:
(1) Theo Cơ quan tư vấn tài chính và đầu tư (FIAS), cơ quan nghiên cứu và
tư vấn thuộc Tổ chức Tài chính quốc tế (IFC) thì:
Khu kinh tế được định nghĩa là một khu vực địa lý có ranh giới rõ ràng, do
một cơ quan quản lý, các pháp nhân trong đó được cung cấp những ưu đãi nhất định
(ví dụ: các ưu đãi về thuế, nới lỏng về hải quan) khi thực hiện các hoạt động kinh tế
bên trong khu.
(2) Ngân hàng Thế giới (ADB) đưa ra khái niệm về Đặc khu kinh tế (SEZ)
như sau:
Một Đặc khu kinh tế là một vùng lãnh thổ của quốc gia nhưng được điều
hành bởi một cơ quan hành chính riêng biệt. Các nhà đầu tư khi đầu tư vào Đặc khu
kinh tế này được hưởng các ưu đãi đặc biệt về dịch vụ, các nghĩa vụ và thuế, cho
phép doanh nghiệp vận hành theo một cơ chế được nới lỏng hơn so với quy định
thông thường của quốc gia. Các nghĩa vụ về xã hội, môi trường cũng như tiêu chuẩn
lao động liên quan đến quá trình đầu tư cũng được nới lỏng hơn so với luật và quy
định của quốc gia.
(3) Nghị định 29/2008/NĐ-CP của Chính phủ quy định về khu công nghiệp,
khu chế xuất, khu kinh tế đã đưa ra khái niệm:
“Khu kinh tế là khu vực có không gian kinh tế riêng biệt với môi trường đầu
tư và kinh doanh đặc biệt thuận lợi cho các nhà đầu tư, có ranh giới địa lý xác định,
được thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục quy định của chính phủ. Khu kinh
tế được tổ chức thành các khu chức năng gồm: khu phi thuế quan, khu bảo thuế, khu

chế xuất, khu công nghiệp, khu giải trí, khu du lịch, khu đô thị, khu dân cư, khu
hành chính và các khu chức năng khác phù hợp với đặc điểm của từng khu kinh
tế.”.

5


Như vậy, ở Việt Nam hiện nay thường dùng khái niệm “Khu kinh tế” để chỉ
các khu kinh tế do Thủ tướng Chính phủ thành lập ở khu vực ven biển (khu kinh tế
ven biển) và khu kinh tế thành lập tại khu vực cửa khẩu biên giới đất liền (khu kinh
tế cửa khẩu). Như vậy khái niệm “khu kinh tế” của Việt Nam là để chỉ các khu vực
có diện tích rộng lớn (trên 10.000 ha) trong đó áp dụng các ưu đãi về thuế, cơ chế
hành chính, cho phép đầu tư và kinh doanh thuận lợi hơn so với quy định thông
thường. Đặc biệt, khác với khu công nghiệp hay khu công nghệ cao là khu vực chỉ
sản xuất hoặc nghiên cứu, các khu kinh tế cho phép dân cư sinh sống thường xuyên.
Khái niệm khu kinh tế của Việt Nam hiện nay không bao gồm khu công nghiệp, khu
chế xuất, khu công nghệ cao... và khác biệt so với khái niệm khu kinh tế theo nghĩa
rộng của FIAS.
b) Khái niệm về phát triển khu kinh tế
Theo Giáo trình Kinh tế phát triển của Đại học Kinh tế quốc dân (2005) thì
“Phát triển kinh tế được xem là quá trình biến đổi cả về lượng và về chất, nó là sự
kết hợp một cách chặt chẽ quá trình hoàn thiện của hai vấn đề kinh tế và xã hội”.
Nội dung của phát triển được khái quát trên ba tiêu thức: (1) sự gia tăng tổng mức
thu nhập của nền kinh tế và mức gia tăng thu nhập bình quân trên một đầu người,
(2) sự biến đổi theo đúng xu thế của cơ cấu kinh tế, (3) sự biến đổi ngày càng tốt
hơn trong các vấn đề xã hội.
Từ khái niệm về “khu kinh tế” và “phát triển kinh tế” như trên, “phát triển
khu kinh tế” có thể được hiểu là quá trình biến đổi cả về lượng và chất của khu kinh
tế, nó là sự kết hợp một cách chặt chẽ quá trình hoàn thiện của hai vấn đề kinh tế và
xã hội trên địa bàn KKT. Song bản thân KKT ra đời vốn xuất phát từ mục tiêu,

nhiệm vụ của nó đối với vùng lãnh thổ, địa phương, quốc gia mà KKT được đặt
trong đó, vì vậy, để đánh giá sự phát triển của khu kinh tế, ngoài việc đánh giá theo
ba tiêu thức: quy mô kinh tế, cấu trúc kinh tế, sự tiến bộ của các vấn đề xã hội còn
cần đánh giá mức độ hoàn thành chức năng, nhiệm vụ của KKT đối với địa phương,
vùng, quốc gia có KKT đó. Trên cơ sở lý luận như trên, trong luận văn này, khái
niệm “phát triển khu kinh tế” có thể được hiểu như sau:

6


“Phát triển khu kinh tế” là sự gia tăng về quy mô kinh tế, sự tiến bộ về cấu
trúc kinh tế, sự cải thiện các vấn đề xã hội trong khu kinh tế và mức đóng góp của
KKT vào sự phát triển chung của địa phương, vùng và quốc gia.
Trong đó, cấu trúc kinh tế không chỉ được đánh giá theo cơ cấu ngành của
nền kinh tế mà còn được đánh giá theo trình độ của hoạt động kinh tế. Đối với nền
kinh tế của một quốc gia, cơ cấu ngành là một trong số các chỉ tiêu phản ánh trình
độ phát triển kinh tế, tuy nhiên, để đánh giá sự phát triển của một KKT có phạm vi
không gian tương đối hẹp và quy mô kinh tế nhỏ so với tổng thể nền kinh tế quốc
gia như KKT Đình Vũ – Cát Hải thì việc đánh giá sự phát triển kinh tế còn cần đánh
giá theo cấu trúc trình độ sản xuất, ví dụ như tỷ trọng giá trị của các ngành công
nghệ cao trong tổng giá trị chung của KKT, tỷ lệ lao động kỹ thuật trong tổng số lao
động sản xuất...
c. Phân loại khu kinh tế
Có nhiều tiêu chí để phân loại khu kinh tế, song các nhà nghiên cứu thường
phân loại khu kinh tế dựa trên các tiêu chí như: theo chức năng của khu kinh tế,
theo địa điểm mà khu kinh tế được đặt. Theo đó, có thể phân loại khu kinh tế như
sau:
- Theo chức năng phát triển của khu kinh tế:
Khu thương mại tự do (Free Trade Zone, viết tắt FTZ): là khu vực có ranh
giới nhất định, được hưởng các ưu đãi về thuế theo hướng khuyến khích hoạt động

thương mại, được xây dựng các tiện ích như kho lưu trữ, bảo quản hàng hóa, cơ sở
hạ tầng, tiện ích phục vụ bán buôn bán lẻ, phân phối, vận chuyển hàng hóa; là khu
vực được phép thực hiện các hoạt động phục vụ cho hoạt động thương mại như sơ
chế, lắp ráp, đóng gói hàng hóa, tạm nhập tái xuất và các dịch vụ khác phục vụ hoạt
động thương mại. Các ưu đãi thường thấy trong các khu thương mại tự do là: miễn
thuế nhập khẩu vào FTZ, hàng hóa từ nội địa vào FTZ được miễn thuế VAT (nhưng
hàng hóa từ FTZ vào nội địa phải đóng thuế), người lao động làm việc trong FTZ
được giảm thuế thu nhập cá nhân...
Cảng tự do (FreePort, viết tắt FP): thường là khu vực bao trùm một cảng
biển hoặc sân bay, ở đây các hàng hóa đến được lưu trữ, bảo quản tại chỗ mà không

7


phải nộp một số loại thuế (thuế xuất nhập khẩu, thuế VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt...),
có thể được chế biến, đóng gói tại chỗ trước khi được nhập khẩu vào nội địa (phải
thực hiện nghĩa vụ thuế như đối với hàng nhập khẩu) hoặc tái xuất ra nước ngoài.
Tùy vào quy định của mỗi nước mà trong khu FP có thể cho phép được thực hiện
các hoạt động khác như dịch vụ, du lịch, bán lẻ và/hoặc cho phép dân định cư trong
nội khu.
- Phân loại theo địa bàn đặt khu kinh tế
Khu kinh tế ven biển: là khu kinh tế nằm ven bờ biển, thường gắn với các
cảng biển. Các khu kinh tế ven biển được thành lập với nhiều mục đích khác nhau,
trong khu kinh tế có khu thuế quan và khu phi thuế quan. Khu phi thuế quan được
gắn liền với cảng biển để thuận tiện cho hoạt động bốc dỡ hàng hóa.
Khu kinh tế cửa khẩu: là khu kinh tế nằm ở khu vực giáp biên giới, gắn liền
với cửa khẩu, được thành lập để thúc đẩy phát triển thương mại giữa hai nước có
chung biên giới. Trong khu kinh tế cửa khẩu thường có các tiện ích phục vụ cho
hoạt động thương mại, xuất nhập khẩu như: kho bãi, dịch vụ logistic, dịch vụ đóng
gói, lắp ráp, sản xuất hàng hóa; và có thể được hưởng các ưu đãi thuế.

1.1.2. Vai trò của khu kinh tế
Các khu kinh tế được thành lập đều có những mục tiêu chuyên biệt khác
nhau, như: thúc đẩy phát triển thương mại (các khu thương mại tự do như ở Trung
Quốc), thúc đẩy phát triển công nghiệp (khu kinh tế biển), hoặc đa mục tiêu vừa
phát triển công nghiệp, vừa phát triển dịch vụ... nhưng các khu kinh tế đều có mục
tiêu chung là thúc đẩy sự phát triển ở địa phương mà nó đứng chân và đóng góp vào
sự phát triển của vùng lãnh thổ lớn hơn như cấp vùng và quốc gia. Tùy thuộc vào
yêu cầu và định hướng phát triển của quốc gia, chính phủ mỗi nước thành lập và
thiết kế quy chế hoạt động của các khu kinh tế phù hợp với các mục tiêu phát triển
của mình. Trên cơ sở nghiên cứu sự hình thành và phát triển của các KKT, có thể
thấy vai trò của KKT như sau:
- Khu kinh tế có vai trò thu hút dòng vốn đầu tư cả từ trong nước và nước
ngoài để phát triển các ngành kinh tế. Cơ chế ưu đãi của khu kinh tế hứa hẹn tạo ra
lợi nhuận lớn hơn, một môi trường kinh doanh thuận lợi hơn cho doanh nghiệp và

8


nhà đầu tư, do đó các khu kinh tế có vai trò như một nam châm hút vốn đầu tư. Sức
hấp dẫn từ các ưu đãi đặc biệt của mình còn cho phép các khu kinh tế có ưu thế hơn
khu công nghiệp, khu chế xuất trong chọn lọc đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư đến
từ các quốc gia phát triển. Đối với các quốc gia đang phát triển, chính phủ thành lập
các khu kinh tế với định hướng thu hút đầu tư rõ ràng, trong đó thường hướng sự ưu
tiên vào các dự án có công nghệ cao, hoặc dự án thuộc ngành mà quốc gia đó có
nhu cầu cao nhưng năng lực sản xuất hoặc cung ứng còn thấp. Đối với các quốc gia
phát triển, các khu kinh tế được lập nên để thu hút dòng vốn đầu tư vào các dự án
thuộc các ngành mới nổi, hoặc có ưu tiên phát triển. Ở đây, khu kinh tế đóng vai trò
như một vườn ươm cho các doanh nghiệp hoạt động trong các ngành mới nổi.
- Khu kinh tế có vai trò như một trung tâm sản xuất, tạo ra giá trị gia tăng
cho nền kinh tế, thúc đẩy giao dịch thương mại và hoạt động xuất nhập khẩu. Khu

kinh tế là nơi tập trung sản xuất, tạo ra luồng hàng hóa thông quan lớn, qua đó thúc
đẩy hoạt động xuất nhập khẩu phát triển. Các doanh nghiệp đầu tư vào KKT hoạt
động trong nhiều lĩnh vực khác nhau giúp đa dạng hóa chủng loại hàng hóa cung
cấp ra thị trường nội địa cũng như xuất khẩu. Việc đa dạng hóa sản phẩm có ý nghĩa
lớn: một mặt sự đa dạng hóa danh mục hàng hóa xuất nhập khẩu giúp nền kinh tế
quốc gia tránh bị phụ thuộc vào một số chủng loại hàng nhất định, góp phần xây
dựng một cấu trúc thương mại nội địa và ngoại thương bền vững hơn, cho phép
quốc gia chống chọi lại khi có biến động bất lợi xảy ra với từng nhóm mặt hàng;
mặt khác, xét trên bình diện rộng hơn, việc đa dạng hóa chủng loại hàng hóa giúp
cải thiện tổng cung nền kinh tế, và đến lượt nó, sự đa dạng của nguồn cung sẽ kích
thích tổng cầu.
- Đối với một nền kinh tế đang phát triển, các KKT còn có vai trò thu hút
công nghệ tiên tiến của nước ngoài, tạo điều kiện để khu vực kinh tế trong nước có
thể học hỏi, hấp thu công nghệ và phương thức quản lý tiên tiến của nước ngoài, kết
nối doanh nghiệp trong nước với nước ngoài. Khi thành lập các khu kinh tế, chính
phủ các nước đang phát triển thường có cơ chế chính sách ưu đãi hướng đến các dự
án có công nghệ cao, có khả năng tạo ra giá trị gia tăng cao. Các dự án này hoạt
động trên lãnh thổ quốc gia đang phát triển cho phép kỹ sư, công nhân nước sở tại

9


tiếp cận với các công nghệ tiên tiến và các vị trí quản lý tiếp thu được phương thức
quản lý hiện đại. Dần dần, tri thức từ các dự án này được học hỏi và lan truyền vào
nền kinh tế của quốc gia sở tại, tạo ra thế hệ doanh nghiệp bản địa mới giúp nâng
cao trình độ sản xuất và hiệu quả kinh tế của quốc gia đang phát triển. Bên cạnh đó,
các doanh nghiệp nước ngoài sản xuất kinh doanh trên địa bàn khu kinh tế cũng sử
dụng các dịch vụ phụ trợ từ doanh nghiệp nội địa, tạo điều kiện cho doanh nghiệp
trong nội địa tham gia vào chuỗi cung ứng.
- Khu kinh tế có vai trò tạo ra công việc làm, tạo ra thu nhập cho lao động tại

chỗ và lao động nhập cư, góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm, giúp ổn
định và nâng cao chất lượng sống của dân cư. Ở các khu kinh tế, thu hút được đầu
tư có nghĩa là các nhà đầu tư sẽ rót vốn vào phát triển sản xuất kinh doanh. Quá
trình này tạo ra nhiều việc làm mới và việc thu hút được số lượng lớn doanh nghiệp
sẽ cho phép giải quyết việc làm cho một số lượng lớn lao động. Đối với các quốc
gia đang phát triển, lao động hoạt động trong các ngành truyền thống chiếm tỷ lệ
lớn với hiệu quả lao động thấp và thu nhập thấp, thì sự phát triển của khu kinh tế là
cơ hội để người lao động có được công việc tốt hơn, đặc biệt là những lao động có
trình độ cao có thể tìm được những vị trí phù hợp với chuyên môn của mình. Nguồn
thu nhập có được nhờ làm việc trong khu kinh tế của người lao động sau đó trở
thành dòng tiền chi tiêu giúp các ngành kinh tế, dịch vụ dân sinh phát triển. Và xét
trên bình diện kinh tế địa phương và tiểu vùng quốc gia, các khu kinh tế góp phần
ổn định cuộc sống và từng bước nâng cao chất lượng sống của dân cư, đặc biệt tại
địa phương có khu kinh tế.
- Khu kinh tế mang lại nguồn thu ngân sách cho quốc gia. Sự phát triển của
khu kinh tế thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu, từ đây, quốc gia sở tại có thể thu
được một nguồn thuế lớn từ hoạt động xuất nhập khẩu, bù vào những khoản mà
chính phủ không nhận được khi áp dụng ưu đãi ở khu kinh tế (như giảm thuế thu
nhập doanh nghiệp, giảm thuế thu nhập cá nhân hay chi phí phải bỏ ra để xây dựng
cơ sở hạ tầng cho khu kinh tế). Nhiều quốc gia đã có sự lựa chọn khôn ngoan khi
xây dựng cơ chế để các nhà đầu tư và doanh nghiệp tự đầu tư một phần cơ sở hạ
tầng trong khu kinh tế, điều này cho phép chính phủ giảm bớt gánh nặng và rủi ro từ

10


hoạt động xây dựng cơ sở hạ tầng. Do đó, trên cơ sở khu kinh tế, trong dài hạn, các
chính phủ có thể tạo ra dòng tiền về ngân sách quốc gia nhiều hơn chi phí phải bỏ ra
để xây dựng khu kinh tế. Điều này cho phép chính phủ tập trung vốn để thực hiện
các hoạt động cần thiết khác của đất nước.

- Xét từ góc độ phát triển vùng, KKT đóng vai trò như một cực tăng trưởng
cho vùng lãnh thổ hoặc địa phương mà nó đứng chân. Trên bình diện vùng, KKT là
nơi tập trung các nhà máy sản xuất có quy mô lớn, bản thân các doanh nghiệp trong
KKT cũng có mối liên hệ kinh tế với các doanh nghiệp khác trong cả vùng, họ sử
dụng sản phẩm, dịch vụ phụ trợ từ các doanh nghiệp khác ngoài KKT. Sự tăng
trưởng của các doanh nghiệp trong KKT cũng sẽ kéo theo sự gia tăng nhu cầu sử
dụng dịch vụ, sản phẩm với các đối tác trong vùng. Vì vậy, sự phát triển của doanh
nghiệp trong KKT cũng sẽ kéo theo sự phát triển của cả vùng kinh tế.
Như vậy, xét một cách tổng thể trên bình diện quốc gia, KKT được hình
thành nhằm mục đích phát huy lợi thế địa kinh tế sẵn có của một khu vực nhằm thu
hút các kênh hàng hoá, đầu tư, thương mại, dịch vụ từ các nơi trong cả nước và từ
nước ngoài trên cơ sở các chính sách ưu đãi dành cho KKT. Trên cơ sở các ưu đãi
đặc biệt này, KKT đóng vai trò như một “máy bơm” giúp dòng luân chuyển vốn,
hàng hóa, công nghệ lưu thông mạnh hơn giữa trong nước với nước ngoài, giữa các
đơn vị kinh doanh trong KKT và các đơn vị kinh doanh mà KKT có mối liên kết cả
ở trong vùng, trong nước và nước ngoài, qua đó kích thích kinh tế phát triển, lan
truyền công nghệ, phương pháp quản lý tiên tiến, thúc đẩy tính năng động của nền
kinh tế khu vực, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế của quốc gia sở tại.
1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của khu kinh tế
a. Quy định pháp lý
Môi trường pháp lý là tổng thể các yếu tố tạo nên hệ thống quy tắc xã hội
bao gồm các chủ thể của môi trường pháp lý và hệ thống các quy định xã hội. Khu
kinh tế cũng ra đời và hoạt động trên cơ sở các quy định pháp lý, chịu sự điều chỉnh
của các quy định pháp lý. Để một khu kinh tế vận hành và phát triển tốt, thực hiện
được vai trò, chức năng như kỳ vọng thì các văn bản pháp lý điều chỉnh hoạt động
của nó phải tạo được hành lang pháp lý phù hợp, tạo điều kiện cho các hoạt động

11



trong khu kinh tế và có liên quan đến khu kinh tế diễn ra thuận lợi. Các quy định
pháp lý có tác động đến khu kinh tế bao gồm:
- Các Luật, nghị định, thông tư quy định chung về các lĩnh vực như: đầu tư,
doanh nghiệp, thương mại, lao động, bảo hiểm, xây dựng, sản xuất chuyên ngành...
có phạm vi áp dụng chung trên toàn quốc. Các quy định pháp lý này điều chỉnh
chung các hoạt động kinh tế diễn ra trong nền kinh tế, theo đó trong trường hợp các
văn bản pháp luật trên không có điều khoản quy định riêng cho khu kinh tế thì các
hoạt động trong khu kinh tế phải thực hiện như các khu vực khác ở trong nước.
- Hệ thống văn bản pháp lý quy định riêng cho khu kinh tế bao gồm: văn bản
khung về hoạt động của khu kinh tế, văn bản của chính phủ quy định trực tiếp cho
mỗi khu kinh tế (ví dụ: quyết định thành lập khu kinh tế, quyết định về chức năng
nhiệm vụ đối với mỗi khu kinh tế, các ưu đãi riêng dành cho từng khu kinh tế), các
văn bản do các bộ, ngành ban hành quy định về hoạt động thuộc ngành dọc diễn ra
trong khu kinh tế, các văn bản ban hành chính sách ưu đãi mà địa phương có khu
kinh tế dành cho khu kinh tế trên địa bàn của mình.
Cùng với hệ thống văn bản pháp lý, các quy định, chính sách điều chỉnh hoạt
động của khu kinh tế thì hệ thống cơ quan nhà nước chịu trách nhiệm thực thi các
quy định, chính sách trên đóng vai trò quan trọng để các quy định, chính sách liên
quan đến khu kinh tế đi vào cuộc sống và phát huy tác dụng. Bên cạnh đó, sự hỗ trợ
của các dịch vụ tư vấn về luật cũng có vai trò rất quan trọng hỗ trợ các doanh
nghiệp, cá nhân yên tâm hoạt động trên địa bàn khu kinh tế.
Tất cả các yếu tố trên tạo nên môi trường pháp lý cho các hoạt động của khu
kinh tế. Hành lang pháp lý khu kinh tế được xây dựng đồng bộ, rõ ràng, dễ hiểu,
khả thi sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho cả cơ quan quản lý, cơ quan thực thi pháp luật
cũng như thuận lợi cho các doanh nghiệp, cá nhân trong khu kinh tế hoạt động có
hiệu quả.
b. Môi trường kinh tế
- Các cam kết kinh tế quốc tế của quốc gia:
Các cam kết kinh tế quốc tế của quốc gia có tác động lớn đến sự phát triển
của các khu kinh tế ở quốc gia đó. Các cam kết kinh tế của quốc gia hay việc quốc


12


gia tham gia vào liên minh kinh tế nào có tác động rất lớn đến sự phát triển của khu
kịnh tế, nó tác động trực tiếp đến sức hấp dẫn đầu tư của khu kinh tế, khả năng lưu
thông hàng hóa của khu kinh tế với từng khu vực trên thế giới. Ví dụ, đối với các
quốc gia có ký kết các hiệp định tự do thương mại, dòng vốn đầu tư từ nước ngoài
đó đổ vào quốc gia đó có xu hướng tăng lên rõ rệt do doanh nghiệp nước ngoài có
thể đầu tư cơ sở sản xuất trong khu kinh tế của quốc gia đó để tận dụng nhân công
giá rẻ và những ưu đãi đặc biệt của khu kinh tế và xuất khẩu trở lại chính quốc hoặc
xuất bán ra các nước trong FTA với quốc gia sở tại với chi phí thuế thấp hơn nhiều
so với đầu tư tại các quốc gia khác không ký hiệp định tự do thương mại. Trong lĩnh
vực ngoại thương, việc quốc gia ký kết nhiều hiệp định tự do hơn cho phép doanh
nghiệp sản xuất ở khu kinh tế của quốc gia đó có thể bán hàng vào một thị trường
rộng lớn hơn với ít hạn chế thương mại hơn doanh nghiệp đặt nhà máy ở các quốc
gia có ít cam kết tự do thương mại. Và không chỉ là vấn đề đầu tư hay thương mại,
các cam kết sâu rộng hơn của quốc gia sở tại về lao động, thương mại dịch vụ và
nhiều lĩnh vực kinh tế khác cũng có tác động mạnh mẽ đến sức cạnh tranh trong thu
hút đầu tư và hoạt động của khu kinh tế, qua đó ảnh hưởng đến sự phát triển lâu dài
của khu kinh tế.
- Hoạt động của các công ty đa quốc gia và doanh nghiệp sở tại:
Toàn cầu hóa và các cam kết quốc tế đã thúc đẩy các công ty đa quốc gia
phát triển mạnh mẽ. Dưới sự đảm bảo của các hiệp định kinh tế, các công ty, tập
đoàn khổng lồ này đã có được tầm hoạt động trên toàn cầu. Trong quá trình đầu tư,
hoạt động để tìm kiếm lợi nhuận, các công ty đa quốc gia đã tạo nên dòng lưu thông
vốn, dòng luân chuyển thương mại khổng lồ, đưa công nghệ hiện đại và phương
thức quản lý tiên tiến vào những quốc gia họ đầu tư. Sự có mặt của các tập đoàn đa
quốc gia ở các nước đang phát triển sẽ góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển. Dòng
vốn và sản phẩm từ hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh của các tập đoàn này

giúp tạo đà cho kinh tế tăng trưởng, thúc đẩy nâng cấp, cải tiến công nghệ trong
nước và lan tỏa phương thức quản lý tiên tiến vào nền kinh tế, giúp quốc gia tiếp
nhận hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu.

13


Đối với khu kinh tế, việc thu hút các công ty đa quốc gia vào hoạt động trên
địa bàn là hướng đi thích hợp để thúc đẩy sự phát triển của KKT. Sự hình thành các
nhà máy sản xuất có quy mô của các tập đoàn đa quốc gia lớn là đòn bẩy cho sự
phát triển kinh tế không chỉ trên địa bàn KKT mà thông qua các mối liên kết kinh tế
trên toàn cầu, các tập đoàn này còn trở thành cầu nối giữa kinh tế trong nước với
nước ngoài, giúp KKT trở thành động lực tăng trưởng cho vùng lãnh thổ, thúc đẩy
tiến trình hội nhập và phát triển của quốc gia.
Cùng với các công ty đa quốc gia, các doanh nghiệp đã hoạt động trên thị
trường nội địa cũng có vai trò lớn trong sự phát triển của KKT. Nguồn đầu tư từ nội
địa là một nguồn vốn quan trọng đối với KKT, các dự án của doanh nghiệp nội địa
vào KKT góp phần vào sự phát triển của khu. Doanh nghiệp nội địa cũng là những
đơn vị cung cấp hàng hóa, dịch vụ, tài chính cho các doanh nghiệp và dự án hoạt
động trong KKT, hỗ trợ cho sự phát triển của KKT. Doanh nghiệp nội địa đồng thời
cũng là những đối tác tiềm năng của các tập đoàn, công ty đa quốc gia, mối liên kết
giữa các đối tác mang lại lợi ích cho cả đôi bên. Sự hợp tác giữa các đối tác trong
nước và nước ngoài tại KKT cũng cho phép doanh nghiệp nội địa tham gia vào
chuỗi giá trị toàn cầu, có tác dụng thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế của quốc gia sở
tại.
- Môi trường kinh tế vĩ mô quốc gia và địa phương:
Kinh tế vĩ mô của quốc gia tác động đến sự phát triển của khu kinh tế thông
qua các yếu tố như tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế, thu nhập của người
dân, các yếu tố như giá cả, lạm phát, lãi suất, tỷ giá, các tiện ích của thị trường và
hoạt động điều hành kinh tế vĩ mô của chính phủ. Các chính sách của chính phủ về

thu hút đầu tư, chính sách phát triển các ngành kinh tế, chính sách tiền tệ, kiểm soát
giá cả, lãi suất, tỷ giá, điều tiết xuất nhập khẩu, chính sách đảm bảo quyền lợi của
các nhà đầu tư, chính sách về lao động, tiền lương…, tất cả đều có tác động đến
hoạt động của khu kinh tế. Các yếu tố vĩ mô này tác động đến sự phát triển của khu
kinh tế theo các hướng như sau:
+ Thu nhập của dân cư là yếu tố quyết định sức mua của thị trường nội địa,
qua đó ảnh hưởng đến doanh số tiêu thụ nội địa của doanh nghiệp trong khu kinh tế.

14


+ Tỷ giá ảnh hưởng đến hoạt động thanh toán hàng hóa xuất nhập khẩu của
doanh nghiệp. Vì các doanh nghiệp đều có tài khoản tiền gửi/ tiền vay ở ngân hàng
và thường giao dịch qua kênh dịch vụ của các ngân hàng nên mặt bằng lãi suất sẽ có
tác động đến dòng tiền và sẽ ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh cuối cùng của
doanh nghiệp. Có thể nói tỷ giá và lãi suất tác động đến hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp trong ngắn hạn và tác động đến khả năng tích lũy và đầu tư
của doanh nghiệp trong dài hạn.
+ Tốc độ tăng trưởng kinh tế tốt là yếu tố tạo nên sức hấp dẫn, tạo thuận lợi
cho thu hút đầu tư của cơ quan quản lý KKT, là yếu tố thúc đẩy tốc độ tăng trưởng
của khu kinh tế.
+ Năng lực điều hành kinh tế vĩ mô của chính phủ tác động lên tình hình
kinh tế vĩ mô, từ đó có ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp trong KKT. Các
chính sách vĩ mô đúng đắn, kịp thời và hoạt động điều hành vĩ mô tốt là yếu tố tạo
nên môi trường ổn định cho doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, cho phép doanh
nghiệp ít phải quan tâm đối phó với các rủi ro trong ngắn hạn và tập trung hơn cho
các mục tiêu phát triển trung và dài hạn.
+ Tiện ích của thị trường sở tại là những dịch vụ hay hỗ trợ mà thị trường
nước nước sở tại có thể cung cấp cho doanh nghiệp đầu tư vào KKT. Ví dụ, các tiện
ích của thị trường vốn cho phép doanh nghiệp huy động vốn nhanh để kịp thời đón

bắt cơ hội kinh doanh, hệ thống các doanh nghiệp phụ trợ giúp doanh nghiệp trong
các tác vụ như thủ tục xuất nhập khẩu hay khâu logistic, vận tải. Các dịch vụ này
cho phép doanh nghiệp thực hiện hoạt động kinh doanh nhanh chóng hiệu quả, giúp
doanh nghiệp tập trung hơn trong chuyên ngành kinh doanh của mình.
Tóm lại, môi trường vĩ mô tác động lên sự phát triển của khu kinh tế qua
nhiều kênh dẫn truyền khác nhau, có tác động đến khả năng tăng trưởng của doanh
nghiệp, qua đó ảnh hưởng đến sự phát triển chung của khu kinh tế. Một môi trường
vĩ mô tốt sẽ cho phép doanh nghiệp trong khu kinh tế cũng như cả khu kinh tế phát
triển nhanh hơn.
c. Vị trí địa lý và cơ sở hạ tầng
- Vị trí địa lý

15


Vị trí địa kinh tế của khu kinh tế là một trong những yếu tố quan trọng ảnh
hưởng đến hoạt động và sự phát triển của khu kinh tế. Vị trí của khu kinh tế là yếu
tố quan trọng quyết định khả năng kết nối giao thông của khu kinh tế với các khu
vực khác. Một khu kinh tế có vị trí thuận lợi cho phép hội tụ được nhiều phương
thức vận tải để có thể đáp ứng được nhu cầu vận tải của nhiều loại hình công nghiệp
khác nhau, từ đó cho phép khu kinh tế đa dạng hóa được danh mục thu hút đầu tư.
Khu vực đặt khu kinh tế gần với các tuyến hàng hải quốc tế cho phép doanh nghiệp
tiếp cận nhanh với dòng lưu chuyển hàng hóa quy mô lớn của thế giới với chi phí
thấp, tính đa dạng của phương thức giao thông vận tải cho phép doanh nghiệp có
nhiều lựa chọn trong tiếp nhận hàng hóa từ nguồn cung cấp đến từ các nơi khác
nhau của thế giới. Vị trí khu kinh tế ở cự ly gần sân bay hoặc có điều kiện để kiến
thiết cảng hàng không cho phép giới kinh doanh, đầu tư đi và đến khu kinh tế một
cách nhanh chóng cũng như cho phép vận chuyển nhanh qua kênh hàng không. Vị
trí của khu kinh tế gần khu vực đông dân cư, các đô thị cũng sẽ cho phép nó huy
động được nguồn nhân lực mà không phải đầu tư lại từ đầu các công trình dân sinh

phục vụ cho lao động. Khu kinh tế nằm trong khu vực các quốc gia có quy mô dân
số lớn là điều kiện thuận lợi cho cho tiêu thụ sản phẩm hàng hóa, hứa hẹn khả năng
tăng trưởng nhanh cho các doanh nghiệp đầu tư. Thêm vào đó, các khu kinh tế nằm
ở vị trí gần các trung tâm tài chính cho phép nó thu hút nhanh dòng vốn đầu tư và
trở thành một cực tăng trưởng của khu vực gắn với trung tâm tài chính đó. Thâm
Quyến là trường hợp điển hình về vị trí thuận lợi trong thu hút vốn đầu tư khi đặc
khu này chỉ cách trung tâm tài chính Hồng Kông một con sông.
- Cơ sở hạ tầng quốc gia và vùng:
Nếu như vị trí địa lý là yếu tố tạo nên tiềm năng phát triển của khu kinh tế thì
cơ sở hạ tầng là yếu tố hiện thực hóa các tiềm năng phát triển đó. Cơ sở hạ tầng
phục vụ cho khu kinh tế bao gồm mạng lưới giao thông, hệ thống cấp nước, hệ
thống thoát nước, hệ thống cấp điện, hệ thống thông tin liên lạc và các công trình
tiện ích khác như xử lý chất thải. Các doanh nghiệp trước khi đầu tư vào khu kinh tế
đều có các nghiên cứu về khả năng đáp ứng của cơ sở hạ tầng tại chỗ, vì thế thực
trạng cơ sở hạ tầng khu kinh tế có ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của doanh

16


nghiệp và vì vậy là yếu tố ảnh hưởng đến sức hấp dẫn đầu tư và tốc độ lấp đầy khu
kinh tế. Cơ sở hạ tầng đồng bộ, tính kết nối cao, thuận tiện và chi phí thấp là yếu tố
hấp dẫn doanh nghiệp đến đầu tư sản xuất kinh doanh. Đối với các khu kinh tế định
hướng sản xuất còn cần các tiện ích quan trọng khác như cảng biển, sân bay… Mỗi
ngành công nghiệp lại có những yêu cầu đặc thù về cơ sở hạ tầng, như: các ngành
công nghiệp nặng đòi hỏi khả năng cung cấp điện rất lớn, công nghiệp hóa dầu đòi
hỏi mặt bằng lớn và thường phải có cảng chuyên dùng, các ngành công nghiệp điện
tử tiêu dùng sử dụng nhiều nhân công cần các cơ sở hậu cần lớn phục vụ cho lao
động, công nghiệp hóa chất cần có công trình tiện ích xử lý chất thải… Các yếu tố
hạ tầng là điều kiện cần thiết để doanh nghiệp đầu tư vào khu kinh tế có thể triển
khai hoạt động sản xuất kinh doanh ngay mà không phải chờ đợi…. Năng lực, chất

lượng của hệ thống cơ sở hạ tầng ảnh hưởng đến năng lực sản xuất, thời gian giao
nhận, đáp ứng đơn hàng của doanh nghiệp. Chi phí sử dụng các tiện ích hạ tầng là
một yếu tố chi phí của doanh nghiệp, ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh về giá của
doanh nghiệp hoạt động trong khu kinh tế. Tóm lại, hệ thống cơ sở hạ tầng là yếu tố
quan trọng ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của khu kinh tế và hệ thống cơ sở hạ
tầng cần được thiết kể để có thể mở rộng để đáp ứng được các yêu cầu có thể tăng
lên trong dài hạn khi ngày càng có nhiều doanh nghiệp đầu tư hoạt động trong khu
kinh tế.
d. Nguồn nhân lực
- Khả năng cung ứng nguồn nhân lực: Nguồn nhân lực là yếu tố đầu vào của
quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Các vấn đề liên quan đến khả năng
cung ứng nguồn nhân lực bao gồm: số lượng lao động có thể được tuyển dụng, năng
lực (sức khỏe, tay nghề, trình độ) của lao động phù hợp hoặc có thể đáp ứng được
yêu cầu công việc, giá sử dụng lao động và các chi phí kèm theo. Nguồn nhân lực
ảnh hưởng đến sự phát triển của khu kinh tế thông qua hiệu suất làm việc của họ
trong doanh nghiệp ở khu kinh tế. Một nguồn nhân lực khỏe mạnh, có tay nghề và
trình độ phù hợp với yêu cầu của doanh nghiệp tuyển dụng cho phép doanh nghiệp
hoạt động hiệu quả và đóng góp vào sự phát triển chung của khu kinh tế. Khả năng
cung ứng số lượng lớn lao động cũng là yếu tố quan trọng cho phép khu kinh tế có

17


thể thu hút được số lượng doanh nghiệp lớn đến đầu tư hoạt động để tạo nên tính
tập trung sản xuất. Bên cạnh đó, mức lương và các quy định lao động (quy định về
các loại bảo hiểm, bảo hộ lao động) theo quy định của pháp luật mà doanh nghiệp
phải tuân theo cũng là những yếu tố liên quan đến lao động ảnh hưởng đến chi phí
của doanh nghiệp trong quá trình sản xuất.
Vấn đề đặt ra đối với cung ứng nguồn nhân lực không chỉ nằm ở số lượng
hay trình độ mà còn cần các yếu tố phụ trợ như khả năng đào tạo của các cơ sở đào

tạo lao động tại chỗ có thể đáp ứng được sự đa dạng của ngành nghề hay sự thay đổi
trong nhu cầu sử dụng lao động của cộng đồng doanh nghiệp. Ngoài ra, sự có mặt
của các cơ sở môi giới việc làm cũng là một yếu tố hỗ trợ giúp doanh nghiệp tiết
giảm thời gian tuyển chọn nhân lực vốn là vấn đề doanh nghiệp thường xuyên phải
đối mặt.
e. Vai trò của cơ quan quản lý trực tiếp khu kinh tế
Cơ quan quản lý khu kinh tế là cơ quan quản lý trực tiếp doanh nghiệp, tổ
chức, cá nhân hoạt động trong KKT, chủ đầu tư các dự án kiến thiết KKT, là đầu
mối chính sách giữa các đơn vị trên địa bàn KKT với chính quyền cấp trên, là đầu
mối trực tiếp cung ứng dịch vụ công cho doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong KKT.
Về phía quản lý nhà nước, cơ quan quản lý KKT có trách nhiệm quản lý,
giám sát luật pháp, thay mặt cơ quan chức năng thực hiện một số quyền hạn trong
phạm vi cho phép trong phạm vi KKT. Cơ quan này có trách nhiệm trong các vấn
đề như đầu tư, đất đai, lao động, tài chính, giám sát hoạt động của doanh nghiệp, tổ
chức, cá nhân trong KKT, đảm bảo các hoạt động trong KKT lành mạnh và đi đúng
hướng.
Đối với các tổ chức, cá nhân trong KKT, cơ quan quản lý KKT có trách
nhiệm hỗ trợ doanh nghiệp trong các khâu thủ tục hành chính, tiếp cận nguồn lực
đất đai, nhân lực, vốn… cũng như đảm bảo môi trường trong khu kinh tế an toàn,
hài hòa. Cơ quan này còn có vai trò lớn trong khâu hoạch định phát triển khu kinh
tế, là đơn vị cố vấn cho Chính phủ trong xây dựng, ban hành và thực thi chính sách
đối với KKT, tham gia vào việc kiến tạo, định hình nên cấu trúc kinh tế, cấu trúc
không gian của khu, có tác dụng hỗ trợ hình thành các động lực tăng trưởng mới

18


trong mỗi giai đoạn phát triển của khu, tạo môi trường tốt thúc đẩy tăng trưởng của
doanh nghiệp. Kinh nghiệm thực tế phát triển KKT ở các nước cho thấy mỗi giai
đoạn phát triển thường xuất hiện những ngành mới nổi có khả năng trở thành động

lực mới và cũng sẽ có những ngành bước vào giai đoạn thoái trào. Một cơ quan
quản lý có tầm nhìn, nhận biết kịp thời các dấu hiệu phát triển cũng như thoái trào
và có sự hỗ trợ, điều chỉnh kịp thời là yếu tố cho phép KKT duy trì tăng trưởng và
phát triển trong dài hạn.
Như vậy, cơ quan quản lý KKT là cơ quan có ảnh hưởng trực tiếp đến các
hoạt động trong KKT, có vai trò tổ chức, định hình nên sự phát triển của KKT trong
dài hạn.
f. Các yếu tố hỗ trợ khác
Ngoài yếu tố cơ sở hạ tầng, khu kinh tế còn cần nhiều tiện ích khác hỗ trợ
cho sự phát triển của nó. Các tiện ích hỗ trợ này bao gồm: dịch vụ khách sạn, nhà
hàng phục vụ hội nghị, hội thảo, tiếp đón, lưu trú tạm thời cho cá nhân và phục vụ
cho nhu cầu của doanh nghiệp trong khu kinh tế; nhà ở cho công nhân nhà máy,
nhân viên công ty, chợ phục vụ sinh hoạt hàng ngày, cơ sở y tế, trường học cho con
em của các lao động làm việc trong KKT... Các yếu tố hỗ trợ giúp cuộc sống của
lao động làm việc trong KKT ổn định, thuận tiện hơn, cho phép họ yên tâm tập
trung vào công việc ở khu kinh tế.
1.1.4. Một số chỉ tiêu đánh giá sự phát triển của khu kinh tế
Để đánh giá sự phát triển của một khu kinh tế, có thể xem xét sự phát triển
đó trên nhiều mặt, từ nhiều góc độ khác nhau, như: từ góc độ quản lý nhà nước, cần
đánh giá hiệu quả đầu tư của vốn ngân sách vào KKT, tác động lan tỏa của KKT đối
với địa phương, vùng lãnh thổ chứa nó; từ góc độ doanh nghiệp, cần đánh giá hiệu
quả kinh tế dự án của doanh nghiệp trong KKT... Ở đây, đề tài chỉ tập trung vào các
đánh giá KKT từ góc độ vĩ mô, từ góc độ của cơ quan quản lý nhà nước, một người
nghiên cứu. Trên quan điểm nghiên cứu như vậy, học viên đưa ra các tiêu chí đánh
giá sự phát triển của KKT tập trung vào các vấn đề như sau: (1) đánh giá quy mô và
tốc độ phát triển kinh tế của KKT, (2) chất lượng phát triển KKT, (3) vai trò của
KKT đối với địa phương hoặc vùng lãnh thổ lớn hơn chứa nó. Dựa trên quan điểm

19



nghiên cứu như vậy, học viên đưa ra bộ chỉ tiêu như sau để sử dụng đánh giá sự
phát triển của KKT:
(1) Các chỉ tiêu phản ánh quy mô của khu kinh tế
(1.1.) Tổng giá trị sản xuất KKT: là tổng doanh thu sản xuất kinh doanh của
toàn bộ doanh nghiệp, đơn vị sản xuất kinh doanh phát sinh trên địa bàn KKT. Chỉ
tiêu này phản ánh quy mô kinh tế của KKT. Đơn vị của tổng giá trị sản xuất là đơn
vị tiền tệ tính theo giá thực tế, được thống kê vào cuối mỗi năm. Tổng giá trị sản
xuất của KKT được so sánh với tổng giá trị sản xuất của địa phương/vùng lãnh thổ
có KKT để thấy vị thế của KKT trong tổng thể kinh tế địa phương/vùng lãnh thổ.
(1.2.) Giá trị gia tăng KKT: là tổng của lợi nhuận của các đơn vị sản xuất
kinh doanh trong khu kinh tế + thuế thu được từ các hoạt động trên địa bàn KKT.
Đơn vị của giá trị gia tăng là đơn vị tiền tệ tính theo giá thực tế tính cho 1 năm.
(1.3.) Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất của KKT: được đo bằng tỷ lệ phần
trăm giữa phần tăng thêm của giá trị sản xuất năm sau so với tổng giá trị sản xuất
năm trước.
(1.4.) Tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng của KKT: được đo bằng tỷ lệ phần
trăm phần giá trị tăng thêm năm sau so với giá trị gia tăng năm trước.
(1.5.) Tốc độ tăng trưởng của vốn đăng ký vào KKT, tốc độ tăng trưởng của
vốn thực hiện vào KKT.
(1.6.) Vốn đầu tư: là số vốn tính bằng tiền mà các nhà đầu tư thực hiện đầu
tư trên địa bàn KKT. Vốn đầu tư được tính trong một khoảng thời gian nhất định.
Vốn đầu tư có thể được phân chia theo đặc điểm nguồn vốn, theo mục đích đầu tư
hoặc theo khoảng thời gian.
- Phân chia theo tiến độ thực hiện của vốn đầu tư:
+ Vốn đăng ký (vốn cam kết)
+ Vốn thực hiện (vốn giải ngân)
- Phân chia theo nguồn gốc vốn đầu tư, có thể phân chia thành:
+ Vốn đầu tư trong nước (DDI)
+ Vốn đầu tư nước ngoài (FDI)

- Phân chia theo đặc điểm dự án đầu tư, có thể phân chia thành:

20


+ Vốn đầu tư kinh doanh kết cấu hạ tầng
+ Vốn đầu tư sản xuất kinh doanh
- Phân chia theo trình độ công nghệ của dự án đầu tư sản xuất kinh doanh:
+ Vốn đầu tư vào ngành, lĩnh vực công nghệ cao
+ Vốn đầu tư vào các ngành sản xuất kinh doanh thông thường.
(1.7.) Số lao động đang làm việc trong KKT: là tổng số lao động đang làm
việc trong KKT. Đơn vị: người.
(1.8.) Số việc làm mới được tạo ra trong KKT hàng năm: là số lao động làm
việc trong KKT tăng thêm năm sau so với năm trước. Đơn vị: người.
(1.9.) Khối lượng hàng hóa được vận chuyển qua các cảng thuộc KKT: là
tổng khối lượng hàng hóa thông qua các cảng trên địa bàn KKT. Ý nghĩa: chỉ tiêu
này đánh giá năng lực trung chuyển hàng hóa của các cảng trên địa bàn KKT.
(1.10.) Tổng giá trị xuất nhập khẩu hàng hóa dịch vụ của KKT: là tổng giá trị
hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu và nhập khẩu (với lãnh thổ nước ngoài) của các đơn vị
sản xuất, kinh doanh trên địa bàn KKT.
(1.11.) Tốc độ tăng khối lượng hàng hóa xếp dỡ hàng năm của các cảng trên
địa bàn KKT.
(1.12) Thu ngân sách từ KKT: là tổng các loại thuế, phí, lệ phí nhà nước thu
được trên địa bàn KKT trong 1 năm.
(2) Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng và trình độ phát triển của khu kinh tế
(2.1.) Tỷ lệ giữa giá trị gia tăng của KKT và giá trị sản xuất của KKT. Ý
nghĩa: chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả kinh tế của các hoạt động sản xuất kinh doanh
trên địa bàn KKT.
(2.2.) Tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư: là tỷ lệ giữa vốn thực hiện và vốn đăng ký
đầu tư của doanh nghiệp, đơn vị sản xuất kinh doanh trên địa bàn KKT. Ý nghĩa:

chỉ tiêu này phản ánh thực chất tình hình đầu tư và tiến độ thực hiện các dự án đầu
tư trên địa bàn KKT.
(2.3) Giá trị gia tăng trên một đơn vị diện tích đất sử dụng của KKT. Ý
nghĩa: chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả sử dụng đất của KKT. Chỉ số này được so

21


sánh với hiệu quả sử dụng đất của các khu vực khác cho biết hiệu quả sử dụng đất
tương đối của khu kinh tế.
(2.4.) Giá trị xuất nhập khẩu của KKT là tổng giá trị xuất nhập khẩu phát
sinh từ hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trên địa bàn KKT so
với tổng giá trị sản xuất tạo ra trên địa bàn KKT. Ý nghĩa: chỉ tiêu này phản ánh
mức độ liên kết của KKT với thị trường nước ngoài, đồng thời phản ánh năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp trong thị trường quốc tế.
(2.5.) Thu nhập bình quân của lao động làm việc trong KKT: là thu nhập
trung bình của một lao động làm việc trong KKT trong một khoảng thời gian (một
tháng hoặc một năm). Thu nhập bình quân của lao động làm việc trong KKT được
so sánh với thu nhập bình quân chung của lao động tại địa phương, vùng và quốc
gia để đánh giá. Ý nghĩa: chỉ tiêu này phản ánh mức thu nhập của lao động trong
KKT và gián tiếp phản ánh mức sống của lao động làm việc trên địa bàn KKT.
(2.6.) Tỷ lệ giữa khối lượng xếp dỡ hàng hóa hàng năm với tổng năng lực
xếp dỡ của hệ thống cảng trên địa bàn KKT. Ý nghĩa: chỉ tiêu này phản ánh hiệu
quả đầu tư cơ sở hạ tầng cảng trên địa bàn KKT tại thời điểm được tính.
(2.7.) Tỷ lệ vốn đầu tư vào các ngành công nghệ cao so với tổng vốn đầu tư
vào KKT. Ý nghĩa: chỉ tiêu này phản ánh trình độ sản xuất của KKT.
(2.8) Tỷ lệ giá trị gia tăng của doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công
nghệ cao so với tổng giá trị gia tăng của KKT. Ý nghĩa: chỉ tiêu này phản ánh đóng
góp của các ngành có trình độ công nghệ cao trong tổng thể giá trị kinh tế chung
của KKT.

(2.9) Tỷ lệ lấp đầy khu công nghiệp thuộc KKT: là tỷ lệ giữa phần diện tích
đất thuộc KCN trong KKT đã được nhà đầu tư sử dụng và tổng diện tích đất được
phép sử dụng vào mục đích công nghiệp trên địa bàn KKT. Chỉ tiêu này phản ánh
hiệu quả thu hút đầu tư của KKT.
(3). Các chỉ tiêu phản ánh vai trò của KKT đối với sự phát triển của địa phương,
vùng lãnh thổ có KKT
(3.1.) Thu ngân sách từ KKT so với tổng thu ngân sách địa phương: là tỷ lệ
giữa số thu ngân sách trên địa bàn KKT so với tổng thu ngân sách địa phương nơi

22


đặt KKT. Chỉ tiêu này phản ánh vai trò của KKT với khả năng chi tiêu của chính
quyền sở tại và đóng góp của KKT vào ngân sách quốc gia.
(3.2.) Tỷ lệ giữa khối lượng hàng hóa trung chuyển qua các cảng biển của
KKT và khối lượng hàng hóa trung chuyển qua hệ thống cảng biển của địa
phương/vùng cảng có KKT, với khối lượng hàng hóa trung chuyển qua hệ thống
cảng biển của vùng đồng bằng sông Hồng. Ý nghĩa: chỉ tiêu này đánh giá vai trò
trung chuyển hàng hóa của KKT so với địa phương/vùng lãnh thổ có KKT.
(3.3.) Tỷ lệ đóng góp giá trị sản xuất của KKT vào tổng giá trị sản xuất của
địa phương, vùng lãnh thổ có KKT. Chỉ tiêu này phản ánh vai trò của KKT với kinh
tế của địa phương, vùng lãnh thổ có KKT.
(3.4.) Tỷ lệ đóng góp giá trị gia tăng của KKT vào tổng giá trị gia tăng của
địa phương, vùng lãnh thổ có KKT. Chỉ tiêu này phản ánh mức đóng góp giá trị gia
tăng của KKT vào giá trị gia tăng của địa phương, vùng lãnh thổ có KKT.
(3.5.) Tỷ lệ lao động làm việc tại KKT so với tổng lao động địa phương,
vùng lãnh thổ có KKT. Chỉ tiêu này phản ánh tầm quan trọng của KKT với địa
phương nơi có KKT xét về khía cạnh giải quyết việc làm.
(3.6.) Tổng giá trị giao dịch giữa các doanh nghiệp, đơn vị sản xuất kinh
doanh trong KKT và doanh nghiệp, đơn vị sản xuất tại địa phương, vùng lãnh thổ

có KKT. Chỉ tiêu này phản ánh mức độ liên kết giữa KKT với thị trường nội địa,
hay mức độ lan tỏa của KKT với kinh tế nội địa. Chỉ tiêu này có thể đo lường bằng
tổng giá trị hợp đồng kinh tế giữa các doanh nghiệp trong KKT với các đối tác trong
nội địa.
1.2. Tổng quan tài liệu nghiên cứu về khu kinh tế
Đã có rất nhiều nghiên cứu về khu kinh tế trong và ngoài nước, nội dung
nghiên cứu rất bao quát, từ lịch sử hình thành, lý luận về phát triển khu kinh tế đến
phân tích thực tiễn phát triển khu kinh tế; từ nghiên cứu toàn diện về khu kinh tế
đến nghiên cứu từng khía cạnh của khu kinh tế; từ tầm thế giới, khu vực đến nghiên
cứu riêng về từng khu kinh tế. Có thể kể đến các công trình nghiên cứu nổi bật về
khu kinh tế như sau:

23


Các công trình nghiên cứu nước ngoài có thể kể đến:
1. Meng Guangwen (2003), The Theory and Practice of Free Economic
Zones: A Case Study of Tianjin, People’s Republic of China. Đây là công trình
nghiên cứu bảo vệ Tiến sỹ khoa học tự nhiên (Degree of Doctor of Natinal
Sciences) của Tiến sỹ Meng Guangwen tại Đại học Ruprecht-Karls, Cộng hòa liên
bang Đức. Công trình được bảo vệ năm 2003 và đã được xuất bản thành sách. Cuốn
sách là sản phẩm của quá trình nghiên cứu công phu của tác giả về mô hình Khu
kinh tế tự do, trong đó Meng đã tổng kết nhiều nghiên cứu về khu kinh tế của các
học giả đi trước, trình bày lịch sử hình thành và biến đổi của các “khu kinh tế tự do”
trong lịch sử thế giới từ thế kỷ 16 đến thời đại ngày nay, lý giải sự hình thành, phát
triển và biến đổi của chúng. Meng đã phân sắp xếp các khu kinh tế tự do trong lịch
sử thành 6 thế hệ khu kinh tế tự do (generations of FEZ) và đưa ra nền tảng cho sự
phát triển của các thế hệ khu kinh tế tự do. Nghiên cứu đã chỉ ra những yếu tố tác
động đến mô hình khu kinh tế tự do trong thời kỳ hiện đại và phân tích khá rõ ràng
các yếu tố đó. Nghiên cứu sau đó tập trung phân tích trường hợp Khu phát triển

kinh tế và công nghệ Thiên Tân (Tianjin Economic and Technological Development
Area - TEDA) bằng việc phân tích các vấn đề liên quan đến sự phát triển của thành
phố nói chung và khu kinh tế của nó nói riêng. Cuốn sách đã đi sâu nghiên cứu các
khía cạnh liên quan đến sự phát triển của khu kinh tế công nghệ Thiên Tân như:
mục tiêu, chính sách phát triển của khu, quy hoạch phát triển, vấn đề quản lý nhà
nước, vấn đề thu hút đầu tư nước, định hướng phát triển công nghiệp, vấn đề phát
triển ngoại thương, phân tích sự phát triển của khu vực, và cuối cùng đánh giá khả
năng phát triển của nó. Công trình được coi là có giá trị về mặt lý luận phát triển
khu kinh tế và đã được nhiều tác giả nghiên cứu về khu kinh tế đi sau trích dẫn như
một tài liệu tham khảo bổ ích.
2. FIAS (2008), Special Economic Zones: Performance, lession learned, and
implications for zone development, The Multi donor Investment climate advisory
service of the World bank group. Đây là kết quả nghiên cứu của Nhóm tư vấn môi
trường chính sách thuộc tổ chức FIAS, một tổ chức được WB tài trợ để nghiên cứu
và thực hiện tư vấn về môi trường và chính sách kinh tế. Trong công trình nghiên

24


cứu này, FIAS đã cố gắng phân loại các “đặc khu kinh tế” (special economic zone –
SEZ) thành từng nhóm một cách tương đối, các ĐKKT trong nghiên cứu này có
nghĩa rộng, nó bao hàm cả các khu chế xuất (EPZ), khu thương mại tự do (FTZ),
cảng tự do (FZ), hay các khu vực đô thị có quyền tự do cao hơn. Sau đó, FIAS đã
thực hiện rà soát sự phát triển của một loạt “đặc khu kinh tế” trên thế giới, phân tích
sự phát triển của các ĐKKT này, tác động của các ĐKKT với sự phát triển kinh tế,
xã hội, môi trường vùng lãnh thổ xung quanh chúng, và phân tích tác động của sự
phát triển các ĐKKT đối với quá trình chuyển đổi kinh tế của các quốc gia. Cuối
cùng, nghiên cứu chỉ ra những bài học thành công của các ĐKKT và cố gắng đưa ra
một số hướng dẫn (guidelines) về phát triển khu kinh tế. Có thể coi đây là một
nghiên cứu tổng quan về mô hình khu kinh tế trên phạm vi quốc tế, có giá trị về

nhận thức về tình hình phát triển của các ĐKKT trên thế giới và có giá trị tham
khảo để đánh giá sự thành công của mô hình ĐKKT đối với các quốc gia muốn phát
triển ĐKKT.
3. Tài liệu Hội thảo khoa học quốc tế về “Phát triển đặc khu kinh tế, kinh
nghiệm và cơ hội” do UBND tỉnh Quảng Ninh và Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức
tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh từ ngày 19-21 tháng 3 năm 2014. Tài liệu
hội thảo là tập hợp các tham luận của các tổ chức, các học giả, các nhà quản lý, các
chuyên gia xoay quanh vấn đề phát triển đặc khu kinh tế. Các tác giả đến từ nhiều
nơi trên thế giới như: Nhật Bản, Ấn Độ, Trung Quốc, Israel, Việt Nam... Nội dung
các bài viết khá phong phú, như: kinh nghiệm xây dựng chính sách để phát triển
ĐKKT, kinh nghiệm quy hoạch phát triển ĐKKT, vấn đề tài chính, tiền tệ, kinh
doanh, thương mại, đầu tư có liên quan đến sự phát triển ĐKKT. Các bài viết cũng
đã đề cập đến nhiều trường hợp ĐKKT như Thâm Quyến, Tô Châu, Tân Hải (Trung
Quốc), đặc khu hành chính Nhật Bản, Singapore... Tài liệu hội thảo có giá trị tham
khảo, cho biết những thông tin cơ bản về các ĐKKT, là đầu mối quan trọng để biết
đến nhiều ĐKKT trên thế giới và cung cấp nhiều kinh nghiệm bổ ích đối với việc
quản lý, điều hành phát triển các ĐKKT.
Các nghiên cứu trong nước về khu kinh tế có thể kể đến:

25


×