Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

Một số biện pháp phối hợp dạy học môn đạo đức với tổ chức hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở trường tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (333.4 KB, 101 trang )

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, ngoài sự cố gắng nỗ lực của bản thân, em
đã nhận được nhiều sự giúp đỡ của các tập thể, cá nhân.
Em xin chân thành cảm ơn Ban chủ nhiệm khoa cùng toàn thể các thầy,
cô giáo trong khoa Giáo dục Tiểu học đã tạo điều kiện thuận lợi nhất cho em
trong quá trình học tập, nghiên cứu.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất đến PGS.TS
Nguyễn Hữu Hợp – người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ em trong
suốt quá trình nghiên cứu để hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo, phụ huynh học sinh cùng các
em học sinh trường Tiểu học Thị trấn, trường Tiểu học Quang Hiến và trường
Tiểu học Đồng Lương, huyện Lang Chánh, tỉnh Thanh Hóa đã tạo điều kiện
và giúp đỡ trong quá trình nghiên cứu và thực nghiệm để em có thể hoàn
thành nhiệm vụ.
Do khả năng nghiên cứu của bản thân còn hạn chế nên luận văn không
tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Kính mong nhận được những ý kiến góp
ý và chỉ dẫn của các thầy cô giáo để luận văn được hoàn thiện hơn.
Em xin trân trọng cảm ơn!

Học viên

Trần Thị Hạnh


MỤC LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT
1
2


3
4
5
6
7
8

Từ viết tắt
DH
GV
HĐGDNGLL
HS
SHL
PPDH
PP
BGH

Cụm từ được thay thế
Dạy học
Giáo viên
Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
Học sinh
Sinh hoạt lớp
Phương pháp dạy học
Phương pháp
Ban giám hiệu


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài

1.1. Cơ sở lí luận
Xã hội càng phát triển con người càng phải hoàn thiện. Một con người
hoàn thiện về nhân cách là con người không chỉ có tài mà cần phải có cả đức.
Nhân cách của con người muốn được xây dựng và phát triển cần bắt đầu ngay
từ khi mới sinh ra, đặc biệt là trong giai đoạn ngồi trên ghế nhà trường. Việc
hình thành và phát triển các phẩm chất đạo đức, tri thức cho thế hệ trẻ là một
trong những nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết, đây cũng là một trong những
nhiệm vụ của ngành giáo dục nói chung, ngành giáo dục Tiểu học nói riêng
cần phải thực hiện.
Giáo dục Tiểu học là bậc giáo dục nền tảng của hệ thống giáo dục quốc
dân. Giáo dục ở bậc học này nhằm “giúp học sinh hình thành những cơ sở ban
đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ
và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở”. (Điều 28,
Luật Giáo dục, 2005).
Giáo dục đạo đức cho học sinh là một mặt của hoạt động giáo dục
nhằm xây dựng cho trẻ em những tính cách nhất định và bồi dưỡng cho các
em những quy tắc, hành vi thể hiện trong thái độ với bạn bè, gia đình, người
khác. Đạo đức của con người mới xã hội chủ nghĩa không chỉ là thành phần
quan trọng về cơ bản của giáo dục mà là mục đích của toàn bộ công tác giáo
dục thế hệ trẻ. Vì vậy, công tác giáo dục trước tiên phải đặt chăm lo bồi
dưỡng đạo đức cho học sinh, coi đó là cái căn bản, cái gốc cho sự phát triển
nhân cách. Thái độ đặc biệt coi trọng nhân cách đã được Hồ Chủ Tịch dạy: “Có
tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài làm việc gì cũng
khó”. Đức là nền tảng tạo đà cho tài phát triển, tài làm cho đức phát triển toàn
diện vững chắc làm gia tăng các giá trị xã hội cho mỗi người. Chính vì vậy, mọi
1


nhà trường tiến bộ, nhân đạo, dân chủ, hướng về tương lai nhất thiết phải coi
trọng và ngày càng làm tốt hơn việc bồi dưỡng đạo đức mới cho thế hệ trẻ

đang lớn lên và tiến hành ngay từ bậc Tiểu học.
Trong nhà trường Tiểu học hiện nay, giáo dục đạo đức cho học sinh
được thực hiện bằng hai con đường cơ bản - dạy học các môn học, trong đó
có môn Đạo đức và tổ chức hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp.
Môn Đạo đức có vị trí đặc biệt quan trọng mà không một môn học nào
có thể thay thế được. Bởi lẽ, chức năng của nó là giáo dục đạo đức cho học
sinh tiểu học với hệ thống chuẩn mực hành vi đạo đức được qui định trong
chương trình môn học này. Dạy học môn đạo đức không chỉ hình thành cho
học sinh ý thức về những chuẩn mực hành vi đạo đức (tri thức và niềm tin), từ
đó, định hướng cho các em những giá trị đạo đức phù hợp với những chuẩn
mực được qui định trong chương trình môn đạo đức; hình thành cho các em kĩ
năng, hành vi phù hợp với các chuẩn mực và trên cơ sở đó, rèn luyện thói
quen đạo đức tích cực mà còn giáo dục cho học sinh những xúc cảm, thái độ,
tình cảm đạo đức đúng đắn liên quan đến các chuẩn mực hành vi qui định.
Cùng với dạy học môn đạo đức, tổ chức hoạt động giáo dục ngoài giờ
lên lớp (HĐGDNGLL) cũng là một con đường quan trọng trong việc giáo dục
đạo đức cho học sinh tiểu học với những hình thức cụ thể như văn nghệ, báo
tường, hái hoa dân chủ, tham quan, cắm trại, lao động…Những hình thức này
thường được tổ chức qua tiết sinh hoạt lớp, tiết chào cờ, hoạt động theo chủ
điểm. Như vậy, HĐGDNGLL bao gồm những hoạt động được nhà trường tổ
chức cho học sinh vào thời gian ngoài giờ lên lớp độc lập tương đối với dạy
học các môn học. Tham gia HĐGDNGLL, học sinh sẽ phát huy cao độ tính
chủ thể, tích cực, năng động và những khả năng tiềm tàng của mình. Từ đó,
giúp học sinh hình thành và hoàn thiện những kỹ năng sống, kỹ năng giao
tiếp- ứng xử có văn hóa, góp phần phát triển toàn diện nhân cách.
2


Tuy nhiên, để củng cố, khắc sâu, mở rộng kết quả, vừa làm cho hoạt
động của học sinh được thực hiện một cách thực chất hơn, hành vi, thói quen

gắn liền với nhu cầu thực tế của các em thì việc phối hợp dạy học môn Đạo
đức và tổ chức HĐGDNGLL là rất cần thiết. Bởi lẽ, việc hình thành nhân
cách được thực hiện qua hoạt động và giao tiếp. Chúng ta cần luôn nhớ, đạo
đức của con người được thể hiện qua hành vi, việc làm trong cuộc sống thực,
tức kết quả quan trọng nhất của giáo dục đạo đức phải là hành vi và thói quen
đạo đức tương ứng được hình thành ở học sinh mà đạo đức không phải là
những bài tập trong sách giáo khoa, vở bài tập được thực hiện bằng bút.. Vì
vậy, cần phải biến bài đạo đức thành hoạt động giáo dục thực sự mà ở đó, các
em được nói nhiều hơn, suy nghĩ nhiều hơn, trao đổi hợp tác với nhau nhiều
hơn, được thực hiện hành vi trong cuộc sống nhiều hơn…
Không những thế, HĐGDNGLL có những thế mạnh mà môn Đạo đức
khó sánh được như:
Tính mềm dẻo của chương trình, nội dung, phù hợp với nhu cầu cuộc
sống hàng ngày của trẻ (trong khi đó, môn Đạo đức được thực hiện một cách
cứng nhắc theo chương trình môn học).
Hoạt động giao tiếp phong phú, đa dạng - lao động, vui chơi, hoạt động
xã hội, hoạt động tập thể... (khi đó, môn Đạo đức hầu như chỉ có hoạt động
học tập).
Bảo đảm sự thống nhất giữa ý thức, thái độ và hành vi với hành vi là
nòng cốt (trong lúc đó, môn Đạo đức gần như mới hình thành tri thức cho học
sinh).
Tạo điều kiện thuận lợi cho sự phối hợp các lực lượng giáo dục nhằm
tạo ra một môi trường giáo dục trong sạch, thống nhất (trong khi đó, sự phối
hợp giáo dục giữa nhà trường, gia đình và xã hội qua dạy học môn Đạo đức
hết sức mờ nhạt).
3


Vì vậy, chúng tôi quyết định nghiên cứu một số biện pháp phối hợp dạy
học môn đạo đức với tổ chức hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp nhằm góp

phần nâng cao kết quả giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học.
1.2. Cơ sở thực tiễn
Trong những năm gần đây, nước ta chịu ảnh hưởng rất lớn bởi nền văn
hóa phương Tây, tiếp cận với nền kinh tế thị trường nên sẽ có nhiều mặt tiêu cực
tác động đến đạo đức, tư duy và lối sống của nhân dân. Đặc biệt, sự tác động của
chúng ảnh hưởng đến lối sống, đạo đức của một bộ phận không nhỏ thế hệ trẻ
của Việt Nam, nhất là các em học sinh. Đạo đức trong học đường đang có nguy
cơ xuống cấp. Học sinh rơi vào những tệ nạn xã hội, bạo lực học đường; không
kính trọng thầy cô, xem thường bạn bè, mọi người xung quanh; không hiếu thảo
với ông bà cha mẹ; thiếu tính nhân đạo; các em mê games bỏ học vì games; …
Từ đó làm suy thoái những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Cho
nên, việc giáo dục đạo đức học sinh là điều rất cấp thiết để thúc đẩy sự hoàn
thiện con người nói riêng và đẩy nhanh sự phát triển của đất nước nói chung, đặc
biệt với đối tượng học sinh tiểu học, các em đang trong quá trình hình thành
nhân cách nên rất dễ bị tác động bởi các yếu tố bên ngoài.
Trong thực tế ở các nhà trường tiểu học hiện nay, việc dạy học môn đạo
đức, tổ chức hoạt động ngoài giờ lên lớp cũng như việc phối hợp giữa hai con
đường trên vẫn còn tồn tại những bất cập.
Các cấp quản lí giáo dục, giáo viên nhiều trường tiểu học, nhiều địa
phương, các bậc phụ huynh chưa quan tâm đúng mức đến việc dạy học môn đạo
đức. Hầu hết mọi người chỉ coi đó là những môn phụ nên nhiều giáo viên tiểu
học chỉ dạy mang hình thức đối phó. Giáo viên dạy dồn nhiều bài đạo đức vào
một tiết thậm chí bỏ tiết, cắt xén các tiết dạy học đạo đức để thay thế dạy môn
Toán, Tiếng Việt. Điều này rõ ràng làm giảm chất lượng và hiệu quả giáo dục
toàn diện cho học sinh tiểu học - học sinh tiểu học đã và đang có những biểu
4


hiện hành vi sai trái khá nghiêm trọng như đánh nhau, chửi thầy cô giáo, trấn lột,
lục đồ của giáo viên, ăn cắp đồ, bắt nạt lớp bé... .

Đối với việc tổ chức HĐNGLL thì một bộ phận giáo viên vẫn còn xem
nhẹ hoạt động này, chỉ tập trung vào các hoạt động dạy học trên lớp. Họ chỉ tổ
chức nhằm đối phó với sự quản lí, chỉ đạo của lãnh đạo mà không cần quan tâm
đến chất lượng và hiệu quả của nó. Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp không
được giáo viên đầu tư dẫn đến nội dung nghèo nàn, hình thức đơn điệu, chưa tạo
thành hệ thống, chưa gắn với nhu cầu thực tế cuộc sống và chưa đáp ứng được
nhu cầu nguyện vọng của học sinh. Chính vì vậy, các hoạt động ngoài giờ lên
lớp vẫn thiếu sự hấp dẫn, lôi cuốn học sinh tham gia, chất lượng hoạt động giáo
dục ngoài giờ lên lớp chưa cao.
Việc phối hợp giữa dạy học môn Đạo đức và tổ chức hoạt động giáo dục
ngoài giờ lên lớp vẫn thiếu sự gắn kết. Hầu hết các trường tiểu học chỉ mới tổ
chức hoạt động ngoài giờ lên lớp mà không gắn vào một bài đạo đức cụ thể nào.
Ngược lại, trong các tiết đạo đức giáo viên cũng chỉ tập trung giải quyết bài tập
mà rất ít khi gắn với tổ chức hoạt động ngoài giờ lên lớp.
Xuất phát từ những lí do trên mà chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Một
số biện pháp phối hợp dạy học môn đạo đức với tổ chức hoạt động giáo dục
ngoài giờ lên lớp ở trường tiểu học”.
2. Mục đích nghiên cứu
Dựa trên những cơ sở lí luận và nghiên cứu thực tiễn, đề tài đề xuất một
số biện pháp phối hợp dạy học môn đạo đức với tổ chức hoạt động giáo dục
ngoài giờ lên lớp nhằm nâng cao kết quả giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
- Dạy học môn Đạo Đức.
- Tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp.
5


3.2. Đối tượng nghiên cứu
Các biện pháp phối hợp dạy học môn đạo đức với tổ chức hoạt động

giáo dục ngoài giờ lên lớp ở trường Tiểu học.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu đề xuất phối hợp các biện pháp dạy học môn đạo đức với tổ chức
hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp một cách chặt chẽ, đồng bộ thì sẽ nâng
cao được kết quả giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu những cơ sở lí luận về dạy học môn Đạo Đức và tổ
chức hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở trường tiểu học.
5.2. Nghiên cứu những cơ sở thực tiễn về dạy học môn Đạo Đức; tổ
chức hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp và phối hợp dạy học môn Đạo Đức
với tiết sinh hoạt lớp.
5.3. Đề xuất một số biện pháp phối hợp dạy học môn đạo đức với tiết
sinh hoạt lớp.
5.4. Tổ chức thực nghiệm sư phạm.
6. Phạm vi nghiên cứu
- Đề tài này được tiến hành điều tra ở các trường: trường Tiểu học Thị
trấn, trường Tiểu học Quang Hiến, trường Tiểu học Đồng Lương tại địa bàn
huyện Lang Chánh, tỉnh Thanh Hóa.
- Chúng tôi giới hạn phạm vi nghiên cứu: phối hợp dạy học môn đạo
đức với tiết sinh hoạt lớp ở lớp 3.
- Đề tài này được tiến hành thực nghiệm ở bài Đạo đức: “Chăm sóc cây
trồng vật nuôi” (lớp 3).
7. Phương pháp nghiên cứu
Trong đề tài này tôi sử dụng phối hợp các phương pháp sau:
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận
6


7.1.1. Phương pháp phân tích, tổng hợp lí thuyết
Thông qua đọc tài liệu sách, báo, tạp chí và các tài liệu khác, chúng tôi

dùng phương pháp này để phân tích, tổng hợp lí thuyết liên quan đến đề tài để
thu thập thông tin cần thiết.
7.1.2. Phương pháp phân loại, hệ thống hóa lí thuyết
Trên cơ sở phân loại, hệ thống hóa lí thuyết để làm rõ cơ sở lí luận của
vấn đề nghiên cứu.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp quan sát sư phạm
- Quan sát học sinh
- Quan sát giáo viên
7.2.2. Phương pháp đàm thoại
Trực tiếp trò chuyện với giáo viên và học sinh để tìm hiểu thực trạng
dạy học môn Đạo Đức và tổ chức hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp trong
nhà trường tiểu học hiện nay.
7.2.3. Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia
Gặp trực tiếp các chuyên gia trong lĩnh vực giáo dục, các nhà quản lí
giáo dục, các giáo viên có kinh nghiệm để xin ý kiến, trao đổi về những vấn
đề có liên quan đến dạy học môn Đạo đức, tổ chức hoạt động giáo dục ngoài
giờ lên lớp để phục vụ cho nghiên cứu đề tài.
7.2.4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Tổ chức thực nghiệm các biện pháp để kiểm chứng tính khả thi của các
biện pháp đã đề xuất và từ đó chứng minh giả thuyết khoa học đề ra.
7.3. Phương pháp thống kê toán học
Chúng tôi sử dụng các phương pháp thống kê toán học để xử lí kết quả
kết quả điều tra, kết quả thực nghiệm sư phạm trong việc triển khai đề tài.
8. Đóng góp của luận văn

7


- Chỉ ra thực trạng về việc phối hợp dạy học môn Đạo Đức với tiết sinh

hoạt lớp.
- Đề xuất một số biện pháp phối hợp dạy học môn Đạo Đức với tiết
sinh hoạt lớp.
9. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Luận văn còn có 3
chương.
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn về việc phối hợp dạy học môn đạo
đức với tổ chức hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở trường tiểu học.
Chương 2: Một số biện pháp phối hợp dạy học môn đạo đức với tổ
chức hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở trường tiểu học.
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm

8


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC PHỐI HỢP DẠY HỌC
MÔN ĐẠO ĐỨC VỚI TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC
NGOÀI GIỜ LÊN LỚP Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ở nước ngoài
Vấn đề giáo dục đạo đức, dạy học đạo đức từ lâu đã được nhiều tác giả
trên thế giới quan tâm, nghiên cứu. Aristote – nhà triết học Hy Lạp cổ đại đã
để lại cho chúng ta nhiều cuốn sách, trong đó chứa đựng nhiều vấn đề về đạo
đức con người. Epiquya và Socrates cũng là hai trong số những học giả có
những đóng góp to lớn trong lĩnh vực này.
Trước đây ở Liên Xô, vấn đề đạo đức, nhân cách đã được các nhà
nghiên cứu Xô Viết hết sức quan tâm. A.F.Shishkin đã viết: “Nguyên lý đạo

đức học mác-xít”. Chúng ta có thể coi đây là cuốn “giáo khoa” về đạo đức
học. Ở đó, ông đặc biệt nhấn mạnh vai trò của đạo đức, coi “những phẩm chất
đạo đức chính là điều cốt yếu nhất ở con người, ở tính cách của nó”.
Kế tục và phát triển những quan điểm của A.F.Shishikin,
G.Bandzeladze đã có công trình “Đạo đức học” (2 tập). Trong bộ sách này,
G.Bandzeladze đã nghiên cứu và làm rõ những vấn đề của khoa học đạo đức,
như: Đạo đức là gì? Đạo đức phát sinh, phát triển ra sao, nội dung những
phạm trù đạo đức học là gì…
Ở phương Đông các học thuyết về đạo đức của người Trung Quốc lại
bắt nguồn từ cách hiểu về đạo và đức của họ. Đạo là một trong những phạm
trù quan trọng nhất của triết học Trung Quốc cổ đại. Đạo có nghĩa là con
đường, đường đi. Về sau, khái niệm đạo được vận dụng trong triết học để chỉ
9


con đường tự nhiên. Đạo còn có nghĩa là con đường sống của con người trong
xã hội. Từ thời này, Khổng Tử (551 – 479 TCN) là nhà hiền triết nổi tiếng của
Trung Quốc. Ông đã xây dựng được học thuyết “Nhân – Lễ – Chính danh”.
Trong đó, chứ “Nhân” là thương người, người nào thật lòng thương người
khác thì có thể làm trong bổn phận của mình trong xã hội. Trong “Luận ngữ”,
Khổng Tử thường dùng chữ “Nhân”, không những để chỉ một đức tính riêng
mà còn chỉ chung cho mọi đức tính. Người có nhân, đồng nghĩa với người có
mọi đức tính. Như vậy, “Nhân” được coi như một yếu tố hạt nhân, là đạo đức
cơ bản của con người. Đứng trên lập trường coi trọng đạo đức, ông có câu nói
mà vẫn còn nổi tiếng cho đến tận ngày nay: “Tiên học lễ, hậu học văn”.
Giáo dục đạo đức tại Nhật Bản có lịch sử lâu đời, có thể bắt nguồn từ
thời Tokugawa (1603 – 1868). Trong giai đoạn này, trẻ em học Đạo Khổng tại
các trường Terakoya (dành cho con cháu tầng lớp samurai) và Hankou (dành
cho các trẻ còn lại). Giáo dục đạo đức được kéo dài tại Nhật, và giai đoạn
Hiện đại bắt đầu sau chiến tranh thế giới lần thứ II. Tháng 3 năm 1947, “Luật

căn bản” (Fundamental) tại Nhật quy định giáo dục đạo đức là một phần bắt
buộc trong xã hội dân chủ.
Tại Hàn Quốc, môn học Đạo đức ở đây bắt đầu từ bậc tiểu học. Tuy
nhiên, một số trường có thể bắt đầu dạy những bài học đạo đức đầu tiên ở bậc
mầm non do cơ chế tự chủ trong giáo dục. Trong những tiết học này, trẻ được
dạy về lịch sử truyền thống đạo đức của Hàn quốc, cách các phép lịch sự cơ
bản, cách cư xử với mọi người xung quanh và đặc biệt trẻ được dạy tôn trọng
người lớn tuổi hơn.
Ở Đức không có môn nào tên Đạo đức nhưng các giáo viên dạy học
sinh thông qua các lễ hội, các quy định pháp luật.
Ở bên Nga không có môn đạo đức như ở Việt Nam mà họ dạy đạo đức
vào những tiết ngoại khóa.
10


Không chỉ ở Nga, ở các nước khác họ dạy học sinh một môn gọi là
PSHE (Personal Social Health & Economic Education), dạy về kỹ năng sống
để quản lý cuộc sống của mỗi người. Họ dạy về lòng nhân ái, sự sẻ chia, giới
tính, cách ứng xử... Thông thường việc dạy học đạo đức sẽ đi kèm với giáo
dục thể chất.
Hoạt động dạy – học đã được nghiên cứu một cách có hệ thống trong
quá trình phát triển của khoa học giáo dục trong đó có HĐGDNGLL, có thể
kể đến:
Rabơle (1494-1553) là một trong những đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa
nhân đạo Pháp và tư tưởng giáo dục thời kỳ Phục Hưng. Ông đòi hỏi việc
giáo dục phải bao hàm các nội dung: “Trí dục, đạo đức, thể chất và thẩm mỹ;
và đã có sáng kiến tổ chức các hình thức giáo dục như ngoài việc học ở lớp và
ở nhà, còn có các buổi tham quan các xưởng thợ, các cửa hàng, tiếp xúc với
các nhà văn, các nghị sĩ, đặc biệt là mỗi tháng một lần thầy và trò về sống ở
nông thôn một ngày”.[15,tr39]

N.K. Crupxcaia (1869 – 1939) là nhà hoạt động chính trị xuất sắc của
Đảng và Nhà nước Xô Viết, vừa là một nhà tâm lý học, giáo dục học có
những đóng góp kiệt xuất cả về lý luận và thực tiễn. Để đào tạo con người
phát triển toàn diện, N.K.Crupxkaia quan tâm tới cả mọi mặt giáo dục: Đức,
trí, thể, mỹ, quân sự và giáo dục lao động, giáo dục kỷ luật tổng hợp. Đặc
biệt, bà coi trọng “giáo dục qua các hình thức hoạt động tập thể như tham
quan du lịch, cắm trại, lao động hè ở các nông lâm trường kết hợp với sinh
hoạt văn hóa nghệ thuật” [25; tr226].
A.S.Makarenco, nhà sư phạm nổi tiếng của nước Nga Xô Viết những
năm tháng của thập niên 20, 30. Ông đã vận dụng sáng tạo lý luận Mác xít
vào thực tế để rút ra những kinh nghiệm làm phong phú cho lý luận giáo dục
xã hội chủ nghĩa nói riêng và giáo dục nhân loại nói chung. Theo Makarenco,
11


một trong những logic của quá trình sư phạm là: “Quá trình tổ chức hợp lý
hoạt động của học sinh tham gia vào cách mạng xã hội, lao động sản xuất, các
hoạt động tập thể như vui chơi, thể dục thể thao, tham quan du lịch, văn hóa
nghệ thuật” [25; tr246].
Vào những năm 60-70, đất nước Liên Xô đang trên con đường xây
dựng chủ nghĩa xã hội, việc giáo dục con người phát triển toàn diện được
Đảng cộng sản và Nhà nước quan tâm. Các nghiên cứu về lý luận giáo dục
nói chung và hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp nói riêng được đẩy mạnh.
Trong cuốn sách “Giáo dục học” tập 3, tác giả T.A.Ilina đã nêu: “Công tác
giáo dục ngoại khóa bổ sung và làm sâu thêm công tác giáo dục nội khóa,
trước tiên là phương tiện để phát hiện đầy đủ tài năng và năng lực của trẻ em,
làm thức tỉnh hứng thú và thiên hướng của học sinh đối với một hoạt động
nào đó; đó là một hình thức tổ chức giải trí của học sinh và là cơ sở để tổ chức
việc thực hiện về hành vi đạo đức, để xây dựng kinh nghiệm của hành vi này”
[19; tr61].

Các nghiên cứu của các nhà giáo dục trên đều nhấn mạnh tầm quan
trọng của giáo dục ngoại khóa. Để học sinh có thể phát hiện toàn diện, các
thầy cô giáo không phải chỉ cần quan tâm đến việc cung cấp tri thức trong các
giờ học trên lớp mà còn phải coi trọng các hoạt động tập thể, vui chơi giải trí,
thể dục thể thao, văn nghệ.
1.1.1.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ở Việt Nam
Tại Việt Nam, môn Đạo đức đã được đưa vào chương trình giáo dục
tiểu học từ năm 1941 với cuốn Luân lí giáo khoa thư lớp sơ đẳng do Nha Học
Chính Đông Pháp ấn hành cho đến ngày nay. Vì thế, vấn đề dạy học đạo đức
ở tiểu học được tiến hành nghiên cứu sâu rộng.

12


PGS. TS Nguyễn Hữu Hợp trong cuốn “Giáo trình Đạo đức và Phương
pháp dạy học môn Đạo đức ở tiểu học” đã giới thiệu các vấn đề liên quan đến
dạy học môn Đạo đức như: mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy học, hình
thức tổ chức dạy học, kiểm tra, đánh giá kết quả dạy học…
Lưu Thu Thủy – Nguyễn Hữu Hợp trong cuốn “Hỏi - đáp về dạy học
môn Đạo đức ở tiểu học” đã phân tích và làm sáng tỏ những vấn đề liên quan
đến môn Đạo đức ở tiểu học.
Ngoài ra, có rất nhiều công trình nghiên cứu về đạy học môn Đạo đức,
đặc biệt là phương pháp dạy học môn Đạo đức, có thể kể đến như:
Luận văn Giáo dục học “Sử dụng phương pháp điều tra trong dạy học
môn Đạo đức” của tác giả Phạm Thị Ngát tại Đại học Vinh năm 2007 đã đi
sâu vào nghiên cứu lí luận và thực tiễn phương pháp điều tra trong dạy học
môn Đạo đức ở tiểu học.
Luận văn Giáo dục học “Nghiên cứu dạy học giải quyết vấn đề trong
dạy học môn Đạo đức” của tác giả Phan Anh Xuân tại ĐHSPHN năm 2006 đã
nghên cứu và ứng dụng dạy học giải quyết vấn đề trong dạy học môn Đạo

đức.
Trong quá trình nghiên cứu khoa học, PGS. TS Nguyễn Dục Quang đã
nghiên cứu vấn đề “ Tìm hiểu về giáo dục đạo đức của vài nước trên thế giới”
(2010), tác giả đã đi sâu tìm hiểu kinh nghiệm giáo dục đạo đức ở Mĩ, Thái
Lan, Nhật Bản. Trên cơ sở đó, tác giả đã đề xuất hướng vận dụng trong giáo
dục đạo đức cho học sinh Việt Nam: Vấn đề đạo đức phải gắn với những đặc
điểm văn hóa, với những đặc diểm phát triển kinh tế - xã hội của đất nước;
Mục tiêu giáo dục đạo đức HS cần tập trung nhấn mạnh những điểm nào là
cần thiết, phải gắn với mục tiêu giáo dục cấp học, với mục tiêu phát triển kinh
tế - xã hội mà Đảng và Nhà nước đề ra; Giáo dục đạo đức HS được thực hiện

13


qua nhiều con đường, cách thức, phương pháp cụ thể; Sử dụng các phương
tiện giáo dục đạo đức cũng là một vấn đề được các nước quan tâm.
Tác giả Hải Bình đã có bài viết: “Tăng hiệu quả giờ dạy Đạo đức”
(2015). Theo tác giả, dạy đạo đức là bộ phận hữu cơ của giáo dục đạo đức, do
vậy cần phải kết hợp giáo dục đạo đức thông qua dạy học các môn học khác,
các sinh hoạt tập thể khác nhau, cũng như phối hợp giáo dục giữa nhà trường,
gia đình, cộng đồng.
Đáng chú ý, có các đề tài nghiên cứu về công tác giáo dục đạo đức
thông qua tổ chức hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp. Có thể kể đến một số
công trình như sau:
Luận án tiến sĩ Giáo dục học “Sử dụng trò chơi dân gian nhằm giáo
dục đạo đức cho HS tiểu học miền núi Đông Bắc” của tác giả Hà Thị Kim
Linh tại Đại học Thái Nguyên năm 2012 đã bước đầu đổi mới và vận dụng
các hình thức tổ chức hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp với mục đích giáo
dục đạo đức cho học sinh.
Luận văn Giáo dục học “Một số biện pháp giáo dục đạo đức thông qua

hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở các trường tiểu học trên địa bàn quận
5, thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Võ Thành Linh tại Đại học Vinh năm
2013 đi sâu nghiên cứu lý luận, thực trạng và đưa ra biện pháp nâng cao hiệu
quả giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học quận 5 thành phố Hồ Chí Minh
thông qua các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp.
Bài viết của tác giả Lưu Thu Thủy về “Giáo dục giá trị đạo đức truyền
thống cho học sinh THPT qua hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp cho sinh
viên sư phạm – một vấn đề cấp thiết” đăng trên Tạp chí Giáo dục số 71/2003
đã đặt ra vấn đề về định hướng giáo dục đạo đức ở các nhà trường phổ thông

14


thông qua HĐGDNGLL ngay từ khi giảng dạy cho sinh viên các trường sư
phạm.
Bên cạnh đó có rất nhiều bài báo, sáng kiến kinh nghiệm của các tác
giả khác xoay quanh vấn đề này. Tuy nhiên, về phối hợp dạy học môn đạo
đức với hình thức tổ chức hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp thì chưa có ai,
chưa có công trình nghiên cứu nào. Bài viết của tác giả Nguyễn Hữu Hợp về
“Phối hợp dạy học môn Đạo đức với hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp –
Một hướng nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức ở Tiểu học” là nghiên cứu
đầu tiên về vấn đề này. Vì vậy, đây là một hướng nghiên cứu hoàn toàn mới
mà tác giả đã lựa chọn cho luận văn tốt nghiệp thạc sĩ của mình.
1.1.2. Giáo dục đạo đức
1.1.2.1. Khái niệm về giáo dục đạo đức
Có nhiều quan niệm về giáo dục đạo đức và mỗi quan niệm lại được
diễn đạt theo những cách khác nhau.
Trong “Giáo trình Đạo đức học”, theo tác giả Trần Đăng Sinh: Giáo
dục đạo đức là quá trình chuyển văn hóa đạo đức xã hội thành văn hóa đạo
đức cá nhân. Dó là quá trình chuyển những tri thức, những kinh nghiệm,

những chuẩn mực và lí tưởng đạo đức xã hội thành những phẩm chất đạo đức
cá nhân, làm phát triển ý thức cũng như năng lực đánh giá và thực hiện hành
vi đạo đức, năng lực tham gia vào các quan hệ đạo đức xã hội. [tr164]
Theo tác giả Đặng Vũ Hoạt, Phó Đức Hòa: Đức dục (giáo dục đạo đức)
là một quá trình hình thành cho học sinh ý thức đạo đức, hành vi và thói quen
đạo đức.[4;tr75]
Ý thức đạo đức là một tổ hợp những tri thức đạo đức và hành vi đạo
đức. Như vậy, nghĩa là trong quá trình giáo dục đạo đức, bồi dưỡng cho học
sinh những chuẩn mực hành vi đạo đức và quan trọng hơn, đó là giúp cho các
em chuyển hóa các chuẩn mực đó thành niềm tin. Niềm tin đạo đức sẽ ạo cho
15


các em có sức mạnh trong việc biến những tri thức thành hành vi, thói quen
đạo đức.
Tình cảm đạo đức được coi là “chất men” thúc đẩy các em biến ý thức
thành hành vi, thói quen đạo đức một cách thoải mái, dễ chịu không bị cưỡng
ép, máy móc.[4;tr75]
Hành vi đạo đức, xét cho đến cùng, là biểu hiện sinh động của bộ mặt
đạo đức của con người. Hành vi này phải được thực hiện phù hợp với các
chuẩn mực đạo đức xã hội qui định; phải được thực hiện ở mọi nơi, moi lúc
một cách tự giác với động cơ đúng đắn. Hành vi đạo đức được lặp đi lặp lại sẽ
trở thành thói quen đạo đức. Thói quen đạo đức gắn liền với nhu cầu về đạo
đức.[4;tr76]
Tác giả Nguyễn Dục Quang cho rằng: Giáo dục đạo đức là một mặt của
hoạt động giáo dục nhằm xây dựng cho thế hệ trẻ những tính cách nhất định
và bồi dưỡng cho họ những quy tắc hành vi thể hiện trong giao tiếp với mọi
người với công việc, với Tổ quốc. Giáo dục đạo đức cần phải được coi trọng
đặc biệt, nhất là trong sự nghiệp cách mạng hiện nay của dân tộc khi mà nước
ta gia nhập WTO. Giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ là làm cho nhân cách của

họ phát triển đúng về mặt đạo đức, tạo cơ sở để họ ứng xử đúng đắn trong các
mối quan hệ của cá nhân với bản thân, với người khác (gia đình, bạn bè, thầy
cô giáo…) với xã hội, với tổ quốc, với môi trường tự nhiên, với cộng đồng
quốc tế.[11]
Từ những quan niệm trên, có thể thấy giáo dục đạo đức thực hiện ba
nhiệm vụ:
+ Hình thành cho học sinh ý thức về những chuẩn mực hành vi đạo đức.
+ Giáo dục cho học sinh những xúc cảm, thái độ, tình cảm đạo đức
đúng đắn liên quan đến các chuẩn mực hành vi quy định;

16


+ Hình thành cho các em những kĩ năng, hành vi phù hợp với các
chuẩn mực và trên cơ sở đó rèn luyện thói quen đạo đức tích cực.
Như vậy, giáo dục đạo đức có thể hiểu như sau:
Giáo dục đạo đức là quá trình giáo dục cho học sinh về ý thức đạo đức,
kĩ năng, hành vi đạo đức, thái độ, tình cảm đạo đức đúng đắn.
1.1.2.3. Các con đường giáo dục đạo đức
a. Giáo dục đạo đức thông qua quá trình dạy học các môn học
Bản thân quá trình dạy học và ngay trong các nhiệm vụ dạy học là
nhằm góp phần giáo dục đạo đức, nhân cách cho học sinh. Tính chất giáo dục
của việc dạy học đòi hỏi nhà giáo phải khai thác đúng đắn, sâu sắc nội dung
các môn học, thông qua việc dạy học mà thực hiện các yêu cầu, nhiệm vụ
giáo dục nhằm phát triển các phẩm chất đạo đức, hoàn thiện nhân cách học
sinh.
Có thể nói, các môn học ở tiểu học đều có khả năng giáo dục đạo đức.
Trước hết phải nói tới quá trình dạy học môn Đạo đức ở trường. Thông qua
môn học này mà học sinh có được một hệ thống khái niệm, tri thức đạo đức.
Nhờ đó học sinh có thể hiểu được mục đích hành động, biết được cần phải

làm gì, phân biệt được “cái tốt và cái xấu”, “cái đạo đức và cái vô đạo đức”
v.v… Trên cơ sở đó, các em định hướng đúng trong các hiện tượng phong phú
và phức tạp ở quanh mình và có được tính tự giác trong quá trình học tập. Ở
bậc Tiểu học, việc dạy và học môn Đạo Đức với tư cách là môn học cũng có tác
dụng đặc biệt; thông qua việc dạy học môn Đạo đức nhằm giáo dục đạo đức
cho học sinh tiểu học. Trong lúc đó, việc hình thành nhân cách được thực hiện
qua hoạt động và giao tiếp. Hoạt động, giao tiếp càng đa dạng, phong phú thì
việc giáo dục càng có kết quả. Kết quả quan trọng nhất của dạy học môn Đạo
đức là những hành vi và thói quen đạo đức tương ứng được hình thành ở học
sinh. Vì vậy, cần phải biến bài đạo đức thành hoạt động giáo dục thực sự mà ở
17


đó, các em được nói nhiều hơn, suy nghĩ nhiều hơn, trao đổi, hợp tác với nhau
nhiều hơn, vận dụng tri thức và kĩ năng vào thực tiễn nhiều hơn, được thực
hiện hành vi trong cuộc sống nhiều hơn…
Giáo viên cần tổ chức những hoạt động thích hợp, thuận lợi để các em
có thể tự phát hiện tri thức đạo đức mới, tự vận dụng bài học để liên hệ thực
tế, nhận xét hành vi, xử lí tình huống, xây dựng kế hoạch thực hiện những
hành vi, công việc phù hợp với những chuẩn mực hành vi….Đặc biệt là, theo
mỗi bài đạo đức, tùy điều kiện thực tế của địa phương và khả năng của các
em, giáo viên cần dự kiến và đòi hỏi học sinh thực hiện được những việc làm
cụ thể và thiết thực – lao động trực nhật lớp, chăm sóc cây xanh, xây dựng
vườn trường (bài giữ gìn trường lớp sạch đẹp), chăm sóc, bảo vệ cây trồng,
vật nuôi ở gia đình (bài chăm sóc, bảo vệ cây trồng, vật nuôi), chăm sóc, giữ
gìn nghĩa trang liệt sĩ (bài biết ơn thương binh, liệt sĩ)…
Qua việc tham gia những hoạt động giáo dục như vậy, tri thức đạo đức
ở các em trở nên bền vững, ý thức tự giác được hình thành, thái độ và tình
cảm của học sinh trở nên thực chất và hành vi, thói quen gắn liền với nhu cầu
thực tế của các em.

Ngược lại, nếu việc dạy học môn Đạo đức quá phụ thuộc vào sách vở,
nặng nề về lí thuyết suông, xa rời thực tế, ít thực hành, không tổ chức hoạt
động cho học sinh, các em không được tham gia giải quyết những vấn đề liên
quan cuộc sống bản thân thì kết quả sẽ rất phiến diện, hiệu quả giáo dục sẽ
giảm đi nhiều lần. Cụ thể là, nếu chỉ qua sách, vở bài tập đạo đức, các em
mới phần nào nắm được một ít kiến thức về các chuẩn mực hành vi đạo đức
mà chưa thể có được thái độ, tình cảm bền vững và đặc biệt là, khó có thể
hinh thành được hành vi và thói quen tương ứng.
Ngoài môn Đạo đức, tất cả các môn học khác ở Tiểu học đều có khả
năng tiềm tàng, nếu được khai thác tốt, đúng hướng, nhằm vào việc giáo dục
18


đạo đức. Chẳng hạn ở môn Tiếng Việt qua các câu chuyện kể, các bài văn, bài
thơ có nội dung phong phú, sinh động ca ngợi vẻ đẹp của đất nước, ca ngợi
văn hóa, các tập quán truyền thống tốt đẹp của đất nước, của dân tộc nếu được
khai thác, tiến hành đúng đắn sẽ mở rộng được kiến thức về đạo đức, về
truyền thống văn hóa, về kinh nghiệm, lối sống mang tính dân gian, phản ánh
bản sắc đạo đức của dân tộc. Hay, qua việc dạy học môn Toán, có thể giáo dục
cho các em những nét tính cách tích cực như tính cẩn thận, lòng kiên trì, tính
chính xác, biết tôn trọng sự thật… Tất cả sẽ giáo dục, bồi dưỡng cho học sinh
tình yêu quê hương đất nước, lòng tự hào dân tộc và kể cả các chuẩn mực sơ
giản trong giao tiếp, ứng xử về đạo đức …
Khi hướng dẫn học sinh học bài, làm bài nhờ vận dụng đúng các
nguyên tắc và phương pháp giáo dục và dạy học sẽ giúp học sinh đi từ mức
độ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp và nâng cao dần,… sẽ tập luyện cho
học sinh thói quen vượt khó khăn hoàn thành nhiệm vụ học tập, bước đầu
hoàn thành các phẩm chất ý chí, các nét tính cách, lòng yêu chân lý, yêu văn
hóa khoa học. Cũng nhờ vậy mà tầm mắt của các em ngày càng mở rộng,
càng phong phú thêm, góp phần làm cho kiến thức đạo đức, thái độ đạo đức

về cuộc sống, vốn sống, kinh nghiệm sống của các em phát triển dần.
Trong quá trình học tập cùng nhau các mối quạn hệ về lợi ích giữa cá
nhân với tập thể sẽ hình thành tinh thần đoàn kết gắn bó với nhau vì lợi ích
chung cũng sẽ phát triển nâng cao dần. Hơn thế nữa do được giáo dục tốt,
được gia đình quan tâm theo dõi, chăm sóc hàng ngày, học sinh dần dần sẽ ý
thức được mối quan hệ giữa cá nhân với tư cách là con cái, là học sinh với lợi
ích của gia đình và bản thân. Tất cả sẽ là cơ sở để xây dựng nên ý thức của
học sinh về nghĩa vụ, trách nhiệm, về bổn phận với mọi người, với gia đình và
xa hơn nữa là với xã hội. Khi hoàn thành tốt các nhiệm vụ học tập, phù hợp
với sự mong đợi của gia đình, của xã hội, các em sẽ được đánh giá, khen
19


thưởng, sẽ hình thành được những tình cảm trong sáng, tích cực phù hợp với
lứa tuổi học đường.
b. Giáo dục đạo đức thông qua hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
Theo PGS.TS Nguyễn Hữu Hợp, việc tổ chức các hoạt động giáo dục
ngoài giờ lên lớp có tiềm năng to lớn trong việc giáo dục toàn diện cho học
sinh.
Một là, các hoạt động và các mối quan hệ được tổ chức, thiết lập qua
con đường hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là rất phong phú (lao động,
vui chơi, công tác xã hội, học tập) với những mối quan hệ đa dạng (với thầy
cô, , bạn bè, các tầng lớp xã hội). Cụ thể, những hình thức hoạt động cụ thể có
thể được tổ chức theo con đường này là:
- Lao động: Trực nhật lớp, tổng vệ sinh trường lớp, trồng cây và chăm
sóc cây…
- Vui chơi: văn nghệ, báo tường, hái hoc dân chủ, tham quan…
- Công tác xã hội: Quyên góp giúp đỡ những người gặp hoàn cảnh khó
khăn, làm vệ sinh nơi công cộng, chăm sóc nghĩa trang liệt sĩ…
- Học tập: Thi tìm hiểu theo các chủ đề học tập, “ Đôi bạn cùng tiến”…

Qua những hoạt động đó, nhà trường có thể giúp học sinh thiết lập mối
quan hệ, giao lưu đúng đắn với các tầng lớp khác nhau trong xã hội như bộ
đội, công an, các nghệ sĩ, các nhà khoa học, các nhà doanh nghiệp…
Qua việc tham gia các hoạt động đa dạng, học sinh tiểu học bộc lộ khả
năng, năng lực của mình về các mặt khác nhau như âm nhạc, hội họa, thể
thao, thơ ca….Và quan trọng nhất là, lí luận và thực tiên đã chứng minh, chỉ
khi được tham gia các hoạt động và giao tiếp đa dạng, học sinh mới có thể
được giáo dục một cách toàn diện và hài hòa.
Hai là, việc tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp góp phần
thỏa mãn các nhu cầu đa dạng của học sinh. Học sinh tiểu học vừa qua giáo
20


dục mầm non với hoạt động cơ bản là vui chơi, các em có nhiều nhu cầu rất
đa dạng, đặc biệt là nhu cầu vui chơi, vận động…Trong lúc đó, các hoạt động
giáo dục ngoài giờ lên lớp được tổ chức cho học sinh tiểu học là rất phong
phú, hoàn toàn có khả năng đáp ứng được nhu cầu lành mạnh của trẻ em. Ví
dụ, các hình thức hoạt động văn nghệ, tham quan, trò chơi…
Bên cạnh đó, như chúng ta biết, học tập là hoạt động chủ đạo của học
sinh tiểu học. Hoạt động này đòi hỏi sự nỗ lực to lớn về tinh thần lẫn thể chất
của học sinh tiểu học, do đó, nếu nhà trường tổ chức quá trình họa tập của học
sinh không tốt thì dễ dẫn đến tình trạng quá tải, căng thẳng, nặng nề. Các hoạt
động giáo dục ngoài giờ lên lớp góp phần quan trọng trong việc lấy lại cân
bằng tâm lí cho trẻ em thông qua việc các em được tham gia, thực hiện những
hoạt động khác nhau.
Ba là, việc tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp một cách
thường xuyên góp phần giúp các em tiếp cận, gia nhập đời sống xã hội một
cách tích cực và chủ động. Qua đó, học sinh phát huy được năng lực của
mình, làm quen với các hoạt động đa dạng ngoài xã hội, ý thức ngày càng đầy
đủ và sâu sắc rằng, mình là một thành viên của xã hội, có trách nhiệm và bổn

phận, sẵn sàng tham gia cuộc sống xã hội. Bên cạnh đó, các em còn có cơ hội
vận dụng một cách có ý thức những điều đã được giáo dục vào thực tiễn cuộc
sống ở chừng mực nhất định, trực tiếp đóng góp sức lực, trí tuệ của mình vào
sự nghiệp phát triển đất nước tùy theo năng lực bản thann và điều kiện thực
tế. Đặc biệt là, học sinh tiểu học còn thể hiện và bày tỏ những thái độ, tình
cảm phù hợp qua các môí quan hệ khác nhau, hình thành được những kĩ năng,
thực hiện hành vi và rèn luyện tích cực trong các tình huống khác nhau, qua
các hoạt động đa dạng.
Bốn là, nếu chương trình dạy học các môn học mang tính pháp quy
“cứng nhắc” chậm thay đổi thì nội dung hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
21


lại có tính mềm dẻo nhất định. Tính mềm dẻo này thể hiện ở nhiều khía cạnh
bửi việc lựa chọn nội dung giáo dục phụ thuộc vào mức độ được giáo dục của
các em (về ý thức, thái độ, tình cảm và kĩ năng, hành vi, thói quen), vào nhu
cầu cuộc sống thường nhật của học sinh, vào điều kiện thực hiện của nhà
trường, vào tình hình thực tiễn địa phương…Khi đó, nhà trường có thể giáo
dục cho học sinh những nội dung giáo dục cập nhật, theo nhu cầu lành mạnh
của các em một cách thiết thực.
Năm là, việc tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp góp phần
kiểm soát, điều khiển cuộc sống của trẻ em, tức là ở chừng mực nào đó, nhà
trường có thể biết được, vào thời gian ngoài giờ lên lớp, trẻ em làm gì, ở đâu,
tiếp xúc với ai và qua đó, hạn chế được những hiện tượng tiêu cực của môi
trường tác động đến trẻ em. Thực tiễn giáo dục cho thấy, nếu nhà trường, gia
đình không kiểm soát được thời gian ngoài giờ học ở trường của học sinh, rất
dễ xảy ra những hiện tượng tiêu cực, những hậu quả đau lòng đau lòng đối
với trẻ.
Sáu là, qua việc tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, nhà
trường có thể lôi cuốn, huy động gia đình, các tổ chức xã hội tham gia vào

việc giáo dục trẻ em một cách thiết thực – giúp tổ chức các hoạt động hỗ trợ
về cơ sở vật chất, kiểm tra, giám sát, đánh giá học sinh…Nhờ đó, các lực
lượng giáo dục có thể tạo nên một môi trường giáo dục thống nhất, góp phần
hạn chế những yếu tố tiêu cực ảnh hưởng xấu đến việc giáo dục trẻ em.
Sáu là, nếu nhà trường tổ chức tốt hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
thì kết quả giáo dục trở nên sâu sắc, bền vững, toàn diện hơn. Tức là, học sinh
tiểu học được giáo dục đầy đủ về ý thức, thái độ, tình cảm và kĩ năng, hành vi,
thói quen liên quan đến các mặt đạo đức, lao động, thể chất, thẩm mĩ…hay
nói cách khác, qua con đường giáo dục ngoài giờ lên lớp, học sinh có thể
được giáo dục một cách toàn diện.
22


×