Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Bài báoTư tưởng nhân bản của phôiơbách

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (96.59 KB, 9 trang )

TƯ TƯỞNG NHÂN BẢN CỦA LUDWIG FEUERBACH VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ

Tóm tắt:Ludwig Feuerbach (1804 -1872), triết học duy vật của L.Ludwig
Feuerbach là sự kế tục và phát triển tư tưởng triết học của các nhà duy vật thế kỷ XVII
- XVIII ở Tây Âu. Song, sự khác nhau giữa ông và các bậc tiền bối là ở chỗ, ông đã
nhìn thấy được tính chất sinh động, muôn màu, muôn vẻ, đa dạng của thế giới vật chất
- giới tự nhiên, đồng thời, ông cũng thừa nhận rằng, con người bằng các giác quan đã
nhận thức được thế giới đó.
Từ khóa:Ludwig Feuerbach; cổ điển Đức; tư tưởng nhân bản.
Mở đầu

phát từ Hà Lan, Anh, Pháp. Phần sống
động của thời đại ấy đã được thể hiện
trong các học thuyết triết học tại Đức
với những nhà triết học vĩ đại như
Kant, Hegel, và Feuerbach.

Triết học cổ điển Đức ra đời
trong hoàn cảnh lịch sử ở châu Âu với
những thay đổi lớn về kinh tế, chính trị,
xã hội.Giai cấp tư sản ở các nước đang
có những thắng thế nhất định trước chế
độ phong kiến.Ở Anh, cuộc cách mạng
công nghiệp đang diễn ra mạnh mẽ với
tốc độ đáng kinh ngạc. Ở Pháp, cuộc
cách mạng Tư sản năm 1789 nổ ra, báo
hiệu hồi chuông khai tử của chế độ
phong kiến. Trong khi đó, nước Đức
vẫn còn trong thời kỳ cuối của chế độ
phong kiến với những mâu thuẫn xã hội
đầy phức tạp.Đây là sản phẩm tất yếu


của hoàn cảnh kinh tế - xã hội Đức nửa
cuối thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ
XIX, với những mâu thuẫn kinh tế - xã
hội và tư tưởng phát sinh trong lòng xã
hội. Đồng thời, với tư cách là một phần
không tách rời của châu Âu, triết học
cổ điển Đức cũng phản ánh những biến
đổi của thời đại tư bản chủ nghĩa, xuất

Triết học cổ điển Đức là đỉnh
cao của triết học Tây Âu cận đại và có
ảnh hưởng to lớn tới nền triết học hiện
đại.Triết học cổ điển Đức với những cái
đáng quý của nó đã mang lại cái nhìn
mới về thực tiễn xã hội và lịch sử nhân
loại.Các nhà triết học thuộc trào lưu
này đã đánh giá, đưa con người là nền
tảng, xuất phát điểm của một vấn đề
triết học. Đây là quá trình kế tục lớn tư
tưởng triết học cổ đại và triết học Phục
hưng. Nếu như Kant coi con người vừa
là chủ thể, vừa là kết quả của hoạt
động, khẳng định hoạt động thực tiễn
cao hơn lý luận thì Hegel coi bản thân
lịch sử loài người là lịch sử về phương
thức tồn tại của con người, coi con
người là những cá thể có thể làm chủ
1



vận mệnh của mình. Đây là mảnh đất
sinh ra nhiều triết gia lỗi lạc đã in đậm
dấu ấn trong quá trình phát triển của
lịch sử triết học thế giới, trong đó phải
kể đến Ludwig Feuerbach – người đi
vào lịch sử tư tưởng nhân loại với tư
cách là đại biểu cuối cùng của nền triết
học cổ điển Đức, là người đã đem đến
sự kết thúc đầy vinh quang cho toàn bộ
nền triết học tư sản cổ điển, là một
nahf nhà duy vật lớn nhất của triết học
thời kỳ trước Mác.(C. Mác và Ph.
Ăngghen (2005), Toàn tập, tr.46).

Thứ nhất, tư tưởng nhân
bản trong triết học L.Feuerbach được
thể hiện ở 3 nội dung chính sau: Nội
dung nhân bản thứ nhất mà ông đưa ra
cho triết học của mình là triết học trước
hết phải gắn kết bền chặt với khoa học
tự nhiên, đặc biệt là các bộ môn của
sinh vật học, như cổ sinh học, sinh lý
học; các môn địa lý học, địa chất học,
v.v., vì đó khoa học cho ta cơ sở để hiểu
biết đúng đắn về tự nhiên, về con
người. Theo L.Feuerbach, sự kết hợp
giữa triết học và khoa học tự nhiên là
sự kết hợp bền vững hơn, sâu sắc hơn
và có lợi hơn là sự kết hợp gượng ép
đang tồn tại giữa triết học và thần học.

Bằng sự kết hợp này, triết học nhân bản
mới có thể bảo đảm được tính khoa
học, tính chân thật, giản dị và trong
sáng của chính nó.

Ludwig Feuerbach (1804-1872)
là nhà triết học lỗi lạc cuối cùng của
triết học cổ điển Đức. Ông đã vượt qua
cái bóng của những bậc triết gia lớn của
triết học Đức như Kant và Hegen để
đến với thế giới quan duy vật, một
trong các yếu tố quan trọng nhất của
chủ nghĩa Mác - Lêninsau này. Triết
học duy vật của L.Feuerbach với những
đóng góp đã thể hiện được bản chất và
đặc điểm của triết học do ông xây dựng
với đối tượng nghiên cứu là tự nhiên và
con người. Với việc đề cao vai trò và vị
trí của con người đồng thời nghiên cứu
tự nhiên trên lập trường duy vật, triết
học Feuerbach nói chung và chủ nghĩa
duy vật nói riêng đã có ảnh hưởng trực
tiếp tới sự phát triển của nền triết học
cổ điển Đức và mở ra một bước ngoặt
phát triển quan trọng trong lịch sử triết
học phương Tây, đặc biệt triết học của
chủ nghĩa Mác - Lênin.

Tuy vậy, phương án cải cách của
Ludwig Feuerbach không tránh khỏi

những ảo tưởng, do chịu sự tác động
của thời đại mình. Trong triết học tự
nhiên, sự cải cách của L. Feuerbach chỉ
thể hiện được một nửa. Trước hết, trong
khi phê phán triết học tư biện, duy tâm
của Hêgen, Ludwig Feuerbach không
đánh giá đúng mức "hạt nhân hợp lý"
của phép biện chứng Hêgen, vì vậy sự
phê phán của ông đôi chỗ tỏ ra thiếu
sâu sắc, thiếu sức thuyết phục. Hơn
nữa, mặc dù Ludwig Feuerbach giải
quyết một cách duy vật vấn đề cơ bản
của triết học, song ông lại né tránh
thuật ngữ duy vật, không thừa nhận bản

1. Nội dung tư tưởng nhân bản
trong triết học Ludwig Feuerbach
2


chất thế giới quan của mình. Ludwig
Feuerbach xuất phát từ những khiếm
khuyết của chủ nghĩa duy vật ở những
thế kỷ trước để phủ nhận các giá trị
thực sự của nó trong lịch sử, hay nói
cách khác, ông quy hiện tượng nhất
thời của một khuynh hướng thế giới về
bản chất của nó, tức "thấy cây mà
không thấy rừng". Ông nói nhiều đến
vận động, phát triển, song không lý giải

một cách đúng đắn động lực của phát
triển. Trọng tâm phân tích của Ludwig
Feuerbach là làm sáng tỏ tính khách
quan của tự nhiên, chứ không phải tính
biến đổi, tính quy luật, tính tất yếu
khách quan và tính lịch sử của nó. Với
những điều vừa nêu, có thể thấy rằng
Ludwig Feuerbach chưa thể vượt qua
khuôn khổ của chủ nghĩa duy vật siêu
hình.

quan điểm duy tâm và tôn giáo là sai
lầm mang tính chất ý thức hệ, bởi theo
ông, tư duy vốn là thuộc tính cơ bản
của con người đã bị chủ nghĩa duy tâm
và tôn giáo tách ra khỏi con người để
rồi lại biến nó thành một sức mạnh siêu
việt, linh thiêng, sáng tạo ra thế giới vật
chất, sáng tạo ra thế giới con người,
thống trị cả tự nhiên lẫn con người.
Nội dung nhân bản thứ ba và
cũng là nguyên lý quan trọng nhất của
triết học L.Feuerbach: con người là
trung tâm và cùng với giới tự nhiên,
con người cũng là đối tượng nghiên cứu
chủ yếu của chủ nghĩa duy vật. Theo
ông, con người là một sinh vật có hình
thể vật chất ở trong không - thời gian
và chỉ có như vậy, con người mới có
năng lực quan sát và suy nghĩ, nghĩa là

có khả năng nhận thức thế giới. Con
người có đầy đủ các giác quan để nhận
thức thế giới xung quanh mình.

Nội dung nhân bản thứ hai nói
về nguồn gốc tự nhiên của con người.
L.Feuerbach khẳng định, con người có
nguồn gốc từ tự nhiên, là sản phẩm của
một quá trình tiến hoá lâu dài của thế
giới vật chất - điều mà các nhà triết học
duy vật trước ông chưa mấy ai nói đến.
Với nguyên lý nhân bản này, ông đã
chốt lại quan điểm duy vật của mình về
con người, chỉ rõ mối quan hệ chặt chẽ,
sự gắn bó hữu cơ giữa con người với
phần thế giới còn lại. L.Feuerbach đã
vạch ra sai lầm nghiêm trọng của chủ
nghĩa duy tâm cũng như của tôn giáo
bằng sự khẳng định "tư duy chỉ có thể
xuất hiện từ cõi tự nhiên". Sai lầm của

Khác với các nhà triết học trước
đó khi giải quyết vấn đề cơ bản của triết
học, L.Feuerbachđã đứng hẳn trên lập
trường của chủ nghĩa duy vật. Ông
khẳng định rằng, quan hệ thật sự của tư
duy đối với tồn tại là: tồn tại - chủ thể,
tư duy - thuộc tính(L.Phoiơbắc (1995),
Tuyển tập các tác phẩm triết học,
tr.128). Sự thừa nhận tư duy là thuộc

tính cơ bản của con người của
L.Phoiơbắc, một mặt, đã chống lại quan
niệm coi tư duy như một thực thể độc
lập và đối lập với con người của chủ
nghĩa duy tâm và nhị nguyên luận; mặt
3


khác, là tiền đề để ông đưa ra nguyên lý
nhân bản thứ tư - con người là một
chỉnh thể và thống nhất, là sự thống
nhất giữa linh hồn và thể xác hay giữa
tinh thần và thể chất. Tính chỉnh thể và
sự thống nhất giữa tinh thần và thể chất
của con người đã được ông quan niệm
như là bản chất tự nhiên vốn có ở mỗi
con người. Từ đó, L. Feuerbach đi đến
khẳng định, bản chất con người là
thống nhất, giống nhau và không thay
đổi. Ông còn chỉ rõ, chỉ có về mặt lý
luận mới có thể hình dung ra sự tách
biệt giữa tinh thần và thể chất, còn
trong cuộc sống hiện thực, tinh thần và
thể chất luôn gắn bó chặt chẽ và phụ
thuộc lẫn nhau.

một là, để đạt đến hạnh phúc, con
người phải biết hạn chế những nhu cầu
của mình một cách hợp lý; và hai
là, phải có tình yêu trong mối quan hệ

giữa người và người.Theo L.
Feuerbach, con người luôn có khát
vọng vươn tới hạnh phúc, song lòng
khát khao hạnh phúc của mỗi người
không phải lúc nào cũng có thể thực
hiện một cách vô điều kiện, mà luôn
phải chịu hai sự uốn nắn. Sự uốn nắn
thứ nhất là do hậu quả tự nhiên của
hành vi của người đó. Bởi lẽ, ở mỗi con
người đều có những giới hạn nhất định
về mặt sức lực, về tài năng và trí tuệ, và
như L.Feuerbach đã viết, "sau trác táng
thì đến chán chường, sau thói quen chơi
bời quá độ thì đến bệnh tật"
(L.Phoiơbắc. Sđd, tr.621).Như vậy, sự
uốn nắn thứ nhất này hoàn toàn là do
những yếu tố thuần tuý tự nhiên, sinh
học quy định; nó có thể không giống
nhau ở những người khác nhau. Sự uốn
nắn thứ hai là do hậu quả xã hội của
những hành vi của người đó. Sống
trong xã hội, con người có nhiều mối
quan hệ với những người khác, mà tất
cả mọi người ai cũng có lòng khát khao
đạt đến hạnh phúc. Bởi vậy, nếu một
người vì để đạt đến hạnh phúc cho
riêng mình đã không tôn trọng hay làm
xúc phạm đến hạnh phúc của người
khác, thì lập tức họ sẽ bị người khác trả
thù, nghĩa là, họ sẽ bị người khác phản

kháng lại, thậm chí, hạnh phúc của họ
còn bị phá hoại. Từ đó, L.Feuerbach đã
rút ra kết luận hết sức sâu sắc rằng, nếu

Thứ hai,L. Feuerbach đã vận
dụng những nội dung nhân bản để
xây dựng nên đạo đức học.
Về đạo đức học, L. Feuerbach đã
chỉ rõ, nguồn gốc hay điều kiện đầu
tiên của đạo đức là cảm giác: "Tiếng
nói của cảm giác là mệnh lệnh tuyệt đối
đầu tiên"(L.Phoiơbắc. Sđd,tr.636).
Lòng khát khao hạnh phúc là cơ sở cho
mọi hành vi của con người, nhưng hành
vi đó như thế nào thì lại phụ thuộc vào
cảm giác của họ. Nhờ có cảm giác, con
người nhận biết được tốt, xấu, hạnh
phúc và bất hạnh, vui sướng và đau
khổ, vinh và nhục, v.v., từ đó mà quyết
định hành vi của mình.
Ôngđã xây dựng đạo đức học
của mình dựa trên hai quy tắc cơ bản:
4


chúng ta muốn thoả mãn lòng mong
muốn hạnh phúc của bản thân thì cần
phải biết đánh giá đúng hậu quả của
hành vi mà mình làm, nghĩa là, phải
biết tự hạn chế nhu cầu của mình một

cách hợp lý, phải tuân theo hai uốn nắn
tự nhiên và xã hội; đồng thời phải biết
tôn trọng những người khác cũng có
quyền bình đẳng với chúng ta trong
việc mưu cầu hạnh phúc. Đó mới là con
người có đạo đức.

giữa chủ nghĩa duy tâm của Hêgen với
tôn giáo (Thiên Chúa giáo). Ôngphủ
nhận sự tồn tại bẩm sinh của những tình
cảm tôn giáo trong con người; ông vạch
rõ nguồn gốc, bản chất của tôn giáo, sự
phát triển của tôn giáo đi từ những biểu
tượng vật chất tự nhiên - (Ngẫu tượng
giáo) có tính chất khu vực đến những
biểu tượng tinh thần, phổ biến trong
phạm vi rộng lớn trên toàn thế giới.
Nhìn chung, sự phê phán tôn giáo của
L.Feuerbach đã vượt hẳn lên so với tất
cả những nhà triết học trước ông ở chỗ,
ông đã bám sát lấy con người, coi con
người là trung tâm, là chủ thể sáng tạo
ra tôn giáo, chứ không phải tôn giáo
làm ra con người. Chính vì vậy mà
L.Feuerbach chủ trương thủ tiêu hết
mọi tôn giáo có thần, có Thượng đế,
thiết lập nên một thứ tôn giáo mới - tôn
giáo không có Thượng đế, mà "Người
là Thần đối với người". Về điều này,
Ph.Ăngghen đã nhận xét: "Ludwig

Feuerbach hoàn toàn không muốn xoá
bỏ tôn giáo, ông muốn hoàn thiện tôn
giáo. Bản thân triết học cũng phải hoà
vào tôn giáo"(C.Mác và Ph.Ăngghen.
Sđd, T.21, tr.416).

Tuy vậy, đạo đức học của
L.Feuerbach rất trừu tượng.Nó hoàn
toàn tách khỏi đời sống xã hội, khỏi quá
trình lịch sử.Bởi lẽ, con người chỉ là
một sinh vật, nó có bản chất tự nhiên
giống nhau và không thay đổi trước
những biến cố của lịch sử xã hội.Như
Ph.Ăngghen đã nhận xét, đạo đức học
của L.Ludwig Feuerbach “được gọt
giũa cho thích hợp với mọi thời kỳ, mọi
dân tộc, mọi hoàn cảnh, và chính vì thế
mà không bao giờ có thể áp dụng được
ở đâu cả.Và đối với thế giới hiện thực,
nó cũng bất lực như cái mệnh lệnh
tuyệt đối của Cantơ vậy"(C.Mác và
Ph.Ăngghen. Sđd, T.21, tr.425).
Thứ ba, tính nhân bản trong
triết học L.Ludwig Feuerbach thể
hiện sâu sắc ở học thuyết về tôn giáo.

Trong học thuyết về tôn giáo của
mình, L.Feuerbach cũng nói nhiều về
tình yêu giữa người và người.Mối quan
hệ thân thiết, tình yêu thương giữa

người và người đã được L.Feuerbach
tôn phong thành một tôn giáo, thậm chí
cả khi đó chỉ là mối quan hệ giữa hai
người với nhau. Đối với ông, tôn giáo

Trước hết, L.Ludwig Feuerbach
đã tiến hành phê phán tôn giáo và chủ
nghĩa duy tâm của Hêgen nói riêng, chủ
nghĩa duy tâm nói chung. Ông vạch ra
mối quan hệ thân thiết và đồng hành
5


là sự thể hiện căn bản nhất cái bản chất
tình cảm yêu thương chân thực của con
người. L.Feuerbach đặc biệt đề cao tình
yêu nam - nữ, coi đó là một trong
những hình thức cao nhất trong việc
thực hiện tôn giáo mới của ông.

tâm nói chung và triết học duy tâm của
Hêgen nói riêng; ông vạch ra bản chất
của tôn giáo và mối quan hệ họ hàng
giữa chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo.
Thứ hai, chu nghĩa duy vật
nhân bản Ludwig Feuerbach - sự xác
lập một chiều hướng tiến bộ trong sự
phát triển cua triết học phương Tây
nói chung, chu nghĩa duy vật nói
riêng.


Tuy vậy, trong thuyết nhân bản
thể hiện trong quan điểm về tôn giáo,
Ludwig Feuerbach nhấn mạnh giá trị
con người, "tố chất người" nói chung,
song chưa nêu ra được những tính quy
định xã hội thực sự làm nên bản chất
con người. Ông đề cao tình yêu phổ
quát, cổ suý cho huyền thoại về tình
yêu, chủ nghĩa duy tâm xã hội đan xen
với chủ nghĩa không tưởng chính trị về
một Nhà nước thể hiện sự trọn vẹn,
hiện thực, phát triển, trực tiếp của bản
chất con người. Ôngphê phán một ảo
tưởng để hướng đến thứ ảo tưởng khác
- "tôn giáo của Tình yêu’ phi lịch sử.
Như thế, sự tiến bộ xã hội được nhà tư
tưởng nhân bản xem xét qua lăng kính
của sự thay thế các hình thức sinh hoạt
tinh thần, chứ không phải hoạt động
thực tiễn - vật chất của con người.

Điểm mới mà Feuerbach đóng
góp vào sự phát triển của triết học
phương Tây thể hiện ở chính chủ nghĩa
duy vật nhân học của ông. Trước
Feuerbach, mỗi nhà triết học đều đưa
vào học thuyết triết học của mình
những nét mới, nhưng trong giới hạn
của chủ nghĩa duy tâm. I.Kant thực

hiện “bước ngoặt Copernic” để luận
chứng về khả năng và giới hạn của
nhận thức, năng lực “tiên thiên” của tư
duy. Song, trong quá trình ấy ông đem
đối lập “hiện tượng” và “vật tự nó”,
xem xét không gian và thời gian như
những hình thức tiên thiên của trực
quan cảm tính. Kant nhấn mạnh ưu thế
của “lý tính thực tiễn”, song thực tiễn
được ông hiểu theo nghĩa rất rộng bao
hàm cả sinh hoạt đạo đức và tôn giáo.
Fichte thực hiện bước chuyển mới
trong triết học cổ điển Đức bằng việc
xây dựng hệ thống “triết học khoa học”,
trong đó đề cao “cái Tôi” trong quan hệ
với cái “không Tôi”, nghĩa là nhấn
mạnh tính thứ nhất của ý thức, tinh thần
trong quan hệ với vật chất, giới tự
nhiên.

2. Ý nghĩa tư tưởng nhân bản trong
triết học Ludwig Feuerbach
Thứ nhất, với việc xác lập chu
nghĩa duy vật và tư tưởng nhân bản,
L.Feuerbach đã tạo nên diện mạo
mới trong triết học cổ điển Đức. Triết
học nhân bản của ông được thể hiện sâu
sắc trong học thuyết về tôn giáo và đạo
đức học. Ông phê phán triết học duy
6



Cải cách triết học của Feuerbach
trước hết thể hiện ở giải quyết một cách
duy vật vấn đề cơ bản của triết học,
thoát khỏi những luận điểm xuất phát
sai lầm của chủ nghĩa duy tâm. Triết
học mới phải xem bản chất con người
là nguyên lý đầu tiên của mình, đó là
bản nguyên tích cực, hiện thực nhất.
Con người và tự nhiên - đó là đối tượng
chân chính của triết học. Với quá trình
cải cách triết học, Feuerbach đã tạo nên
bước phát triển mới trong triết học
phương Tây nói chung, chủ nghĩa duy
vật nói riêng, thể hiện ở những điểm
sau:

của Feuerbach lại có tác dụng to lớn
kéo các ông thoát khỏi ảnh hưởng của
chủ nghĩa duy tâm để chuyển hẳn sang
lập trường của chủ nghĩa duy vật.
Feuerbach đã cung cấp cho C.Mác và
Ph.Ăngghen vũ khí tư tưởng để phê
phán Hegel, nhờ đó mà các ông vượt
qua Hêgen. V.I.Lenin khẳng định “ Nó
là người thừa kế chính đáng của tất cả
những cái tốt đẹp nhất mà loài người đã
tạo ra từ hồi thế kỷ XIX, đó là triết học
Đức, kinh tế chính trị học Anh và chủ

nghĩa xã hội Pháp” (V.I.Lênin (1982),
Toàn tập, tập 32, tr. 254).
Thứ tư, từ chu nghĩa duy vật
nhân bản Ludwig Feuerbach đến
bước ngoặt cách mạng trong lịch sư
triết học. Feuerbach là nhà tư tưởng đại
diện cho các lực lượng xã hội tiến bộ
tại Đức trước khi chủ nghĩa Mác ra đời.
Mặc dù, Feuerbach không tham gia trực
tiếp vào cuộc đấu tranh chính trị, song
ông bày tỏ rõ ràng và thẳng thắn những
quan điểm dân chủ của mình.
Feuerbach nhìn thấy nhiệm vụ chủ yếu
của công cuộc cải tổ dân chủ là ở chỗ
phải giải phóng mọi người ra khỏi
xiềng xích phong kiến và những ràng
buộc chính trị, còn trong đời sống tinh
thần – ra khỏi sai lầm của triết học duy
tâm và tín điều tôn giáo.

Thứ ba, sự chuyển biến tư
tưởng cua C.Mác và Ph.Ăngghen từ
chu nghĩa duy tâm sang chu nghĩa
duy vật dưới ảnh hưởng cua chu
nghĩa duy vật nhân học Ludwig
Feuerbach.
Cũng giống như các trào lưu triết
học khác, triết học Mác không nằm
ngoài quy luật kế thừa đó. Triết học
Mác đã kế thừa những tinh hoa về mặt

tư tưởng của các bậc tiền bối và trên cơ
sở kế thừa đó nó đã phát triển thành
một học thuyết. Như ở trên V.I.Lenin đã
nói, một trong những nguồn gốc lý luận
hình thành triết học Mác đó là triết học
cổ điển Đức, mà trực tiếp là phép biện
chứng của Hegel và chủ nghĩa duy vật
nhân học của Feuerbach. Nếu như phép
biện chứng của Hegel đã giúp C.Mác
và Ph.Ăngghen khắc phục được tính
siêu hình, máy móc của chủ nghĩa duy
vật cũ, thì tinh thần kiên quyết duy vật

Kết luận
Từ những nội dung và đặc điểm
cơ bản trong chủ nghĩa duy vật nhân học
Feuerbach, có thể thấy chủ nghĩa duy
vật nhân học Feuerbach đã để lại cho
7


triết học nhân loại những di sản vô cùng
quí báu: Thứ nhất, Feuerbach tiếp tục
làm rõ quan điểm của chủ nghĩa duy vật
về vật chất và phương thức tồn tại của
nó; về tự nhiên, về mối quan hệ giữa
vật chất và ý thức. Thứ hai, với việc
khẳng định triết học của mình là nhân
học, Feuerbach đã mở ra khả năng phát
triển truyền thống của nhân học với tư

cách là học thuyết về con người trong

triết học phương Tây cận, hiện đại. Thứ
ba, đối với sự phát triển của chủ nghĩa
duy vật, việc thống nhất chủ nghĩa duy
vật với thuyết nhân học đã tạo nên
hướng phát triển mới của bản thân chủ
nghĩa duy vật. Feuerbach không chỉ phê
phán chủ nghĩa duy tâm và đồng minh
của nó là tôn giáo, mà còn vượt qua cả
tính chất máy móc của chủ nghĩa duy
vật thế kỷ XVII – XVIII.

8


Tài liệu tham khảo:
[1] Ph.Ăngghen (1963), Cách mạng dân chủ tư sản Đức, Nxb. Khoa học, Hà Nội.
[2]. Ph.Ăngghen (1976), Ludwig Feuerbach và sự cáo chung của triết học Cổ
điển Đức, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
[3] Hoàng Chí Bảo (1996), “Chủ nghĩa Mác là chủ nghĩa nhân đạo hiện thực
mang đặc trưng khoa học và cách mạng”, Triết học (2).
[4] Quang Chiến (2000), Chân dung triết gia Đức, Nxb. Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.
[5] Trịnh Doãn Chính, Đinh Ngọc Thạch (1999), Triết học trung cổ Tây Âu,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[6]. Doãn Chính, Đinh Ngọc Thạch (2008), Vấn đề triết học trong tác phẩm của
C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[7]. Nguyễn Trọng Chuẩn (2002), Một số vấn đề triết học – con người – xã hội,
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
[8]. Phạm Văn Chung (2007), Triết học Mác về lịch sử, Nxb. Chính trị quốc gia,

Hà Nội.
[9]. C.Mác, Ph.Ăngghen (2005), Toàn tập, tập 4, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[10] Nguyễn Tiến Dũng (2001), Lịch sử triết học phương Tây, Nxb. Tổng hợp
TP.Hồ Chí Minh.
[11] C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 21. Nxb. Chính trị Quốc gia Hà
Nội.
[12] L.Phoiơbắc (1955), Tuyển tập các tác phẩm triết học, tập 2, Nxb. Mátxcơva.



×