Tải bản đầy đủ (.docx) (96 trang)

Hình dạng và kích thước cung răng của người kinh và người tày từ 18 25 tuổi tại hà nội và lạng sơn năm 2017

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.46 MB, 96 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Cung răng góp phần tạo nên thẩm mỹ cho khuôn mặt của con người. Sự
tiếp xúc giữa các răng của hai cung răng chính là chìa khóa đảm bảo cho sự
lành mạnh của hệ thống nhai [1]. Một cung răng đẹp kết hợp hài hòa với các
yếu tố phần mềm góp phần mang lại nụ cười đẹp và tự tin của con người.
Cung răng cùng những cấu trúc thần kinh cơ xung quanh là thành phần
cơ bản của bộ máy nhai trong đó cung răng đóng vai trò quan trọng nhất. Các
chức năng nhai, nuốt, nói và thẩm mỹ luôn là những vấn đề phức tạp và đặt ra
cho các bác sĩ Răng Hàm Mặt những thách thức không nhỏ trong việc “góp
phần mang lại hạnh phúc cho mỗi cá nhân và cộng đồng xã hội”, để có thể có
được những quyết định đúng đắn cho các can thiệp về hình thái và chức năng
ở vùng đầu, mặt và cung răng.
Năm 1920, Williams, J.L. và Chuck đã nghiên cứu và phân loại cung răng
thành 3 loại hình dạng khác nhau bao gồm cung răng hình vuông, cung răng
ovan và cung răng thuôn dài [2],[3]. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng tỷ lệ, đặc
điểm của mỗi dạng cung răng có sự khác nhau ở mỗi chủng tộc, dân tộc, giữa
nam và nữ. Việc nghiên cứu đặc điểm khớp cắn có vai trò rất quan trọng trong
thực hành chỉnh nha. Với mỗi loại hình dạng cung răng khác nhau sẽ có hình
dạng dây cung điều trị tương ứng, đem lại sự ổn định cho kết quả điều trị.
Hàm răng con người trải qua nhiều giai đoạn phát triển bao gồm giai
đoạn hàm răng sữa, giai đoạn hàm răng hỗn hợp và giai đoạn hàm răng vĩnh
viễn. Mỗi giai đoạn ứng với một lứa tuổi khác nhau và có những đặc thù về
hình thái và kích thước. Từ 18 tuổi trở đi gần như cung răng đã phát triển
hoàn toàn và ổn định về kích thước cũng như đặc điểm hình thái. Do vậy, có
thể coi lứa tuổi này là một lứa tuổi đặc trưng và đại diện cho người trưởng
thành. Đã có rất nhiều nghiên cứu ở lứa tuổi này trên thế giới để từ đó đưa ra


2



các chỉ số về hình thái và kích thước cung răng… [4],[5],[6]. Ở Việt Nam
cũng đã có nhiều tác giả nghiên cứu về đề tài này, song nhìn chung đó là
những nghiên cứu nhỏ lẻ, cỡ mẫu chưa lớn nên chưa mang tính khái quát đặc
trưng cho người Việt Nam. Chính vì thế, việc có một bộ số liệu đầy đủ và
chính xác, phù hợp với đặc điểm của từng dân tộc là một yêu cầu bức thiết
được đặt ra.
Từ những nhu cầu thực tiễn đó chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Hình dạng và kích thước cung răng của người Kinh và người Tày từ 1825 tuổi tại Hà Nội và Lạng Sơn năm 2017” với hai mục tiêu:
1. Mô tả hình dạng cung răng của người Kinh và người Tày lứa tuổi
18-25 ở Hà Nội, Lạng Sơn năm 2017.
2. Xác định kích thước cung răng của người Kinh và người Tày lứa
tuổi 18-25 ở Hà Nội, Lạng Sơn năm 2017.


3

Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Đặc điểm tăng trưởng cung răng
Những thay đổi theo tuổi của cung răng được nghiên cứu rộng rãi, vì
những hiểu biết về sự tăng trưởng của cung răng có vai trò quan trọng trong
lập kế hoạch điều trị chỉnh nha. Trong những nghiên cứu đầu tiên, các tác giả
chủ yếu quan sát tương quan giữa các điểm mốc trên miệng và đánh giá
những thay đổi của vị trí của các điểm mốc đó (Lewis, 1929)[6]. Tiếp theo,
cung răng được đo đạc và đánh giá những thay đổi trên mẫu hàm thông qua
quy trình lấy dấu, đổ mẫu. Theo dõi những thay đổi về chiều dài, chiều rộng
và chu vi cung răng giúp đánh giá được sự tăng trưởng và phát triển của cung
răng trong quá trình phát triển của hệ thống sọ - mặt - răng. Từ khi sinh ra cho
tới khi trưởng thành, bộ răng người trải qua bốn giai đoạn hình thành, phát

triển và biến đổi như sau:
- Giai đoạn 1 (giai đoạn thành lập bộ răng sữa): Từ khi sinh ra cho đến
khi mọc đầy đủ các răng sữa, thường diễn ra từ lúc sinh đến 2,5 tuổi.
- Giai đoạn 2 (giai đoạn cung răng sữa ổn định): Từ khi mọc đầy đủ hàm
răng sữa đến khi mọc RHL vĩnh viễn thứ nhất, thường từ 2,5 tuổi đến 6 tuổi.
- Giai đoạn 3 (giai đoạn bộ răng hỗn hợp): từ khi mọc RHL vĩnh viễn
thứ nhất đến khi thay chiếc răng sữa cuối cùng, thường từ 6 tuổi đến 12 tuổi.
Giai đoạn này có thể chia ra chia ra làm hai giai đoạn: 6 – 10 tuổi là giai
đoạn hàm răng hỗn hợp sớm; 10 – 12 tuổi là giai đoạn hàm răng hỗn hợp muộn
dựa theo sự mọc của nhóm răng cửa và nhóm răng sau. Trong giai đoạn này,
một yếu tố rất được lưu ý là tổng kích thước theo chiều gần xa của các răng
nanh sữa, RHS thứ nhất, RHS thứ hai lớn hơn tổng kích thước gần xa của răng
nanh vĩnh viễn, RHN thứ nhất, thứ hai khoảng 1,7 mm ở HD, 0,9 mm ở HT


4

mỗi bên. Khoảng chênh lệch này được Nance gọi là khoảng “Leeway”[7],[8].
Khi răng sữa phía sau được thay thế bởi các răng nanh và RHN, khoảng
Leeway được khép lại. Sự khép lại của khoảng Leeway phụ thuộc vào khớp
cắn RHL thứ nhất và thứ tự mọc răng HT và HD. Thay đổi thứ tự mọc răng
bình thường có thể làm cản trở các răng mọc đúng vị trí.
- Giai đoạn 4 (giai đoạn bộ răng vĩnh viễn): từ khi mọc răng hàm lớn
vĩnh viễn thứ hai và sau đó, thường diễn ra sau 12 tuổi.
Năm 1929, Lewis đã nghiên cứu trên 170 trẻ 1,5 đến 9,5 tuổi về những
thay đổi tăng trưởng của răng và cung răng, và những thay đổi khớp cắn ở bộ
răng sữa sang răng hỗn hợp. Ngoài những phát hiện về khớp cắn, Lewis quan
tâm đến sự thay đổi kích thước, chiều rộng cung răng (vùng răng nanh và
vùng răng hàm sữa 1 (RHS1) và răng hàm sữa 2 (RHS2) [6].
Kết quả nghiên cứu được trình bày với số trung bình, độ lệch chuẩn và

số đối tượng chung cho nam và nữ từ 2,5 đến 8 tuổi. Tác giả đưa ra kết luận
khớp cắn chịu ảnh hưởng của những thay đổi do tăng trưởng, cung răng sữa
rộng ra để phù hợp với kích thước lớn hơn của các răng cửa vĩnh viễn [6].
Sillman (1935) thực hiện nghiên cứu dọc về sự thay đổi kích thước cung
răng từ lúc mới sinh đến 25 tuổi trên 113 trẻ em sinh ở bệnh viện Bellevue tại
NewYork, 750 mẫu thạch cao được sử dụng cho nghiên cứu này. Đến năm
1964 ông công bố kết quả và nhận xét [9]:
- Về chiều rộng cung răng hàm trên và dưới vùng răng nanh tăng nhanh
lúc mới sinh đến 2 tuổi, khoảng 5 mm/năm ở hàm trên và 3,5 mm/năm ở hàm
dưới, tiếp tục tăng đến 13 tuổi ở hàm trên, 12 tuổi ở hàm dưới. Sau đó không
có sự tăng trưởng đáng kể từ 16 tuổi đến 25 tuổi.
- Chiều rộng vùng răng hàm lớn thứ nhất có sự giảm kích thước cả hai
hàm từ 16 tuổi, nhưng đặc biệt chiều rộng và chiều dài toàn bộ chỉ gia tăng và
ổn định mà không giảm là do sự phát triển sau sinh xảy ra ở phía sau của cung hàm.


5

- Về chiều dài của cung răng như sau: Chiều dài cung răng hàm trên và
dưới vùng răng nanh có sự gia tăng nhanh từ khi mới sinh đến 2 tuổi khoảng
2mm mỗi năm; từ 3 tới 6 tuổi thay đổi ít; tới 9 tuổi sự thay đổi không có ý
nghĩa. Hàm trên ổn định vào khoảng 9 tuổi, hàm dưới ổn định sau 10 tuổi.
Sau tuổi dậy thì, kích thước này tăng khoảng 0,4 mm/năm ở hàm trên và 0,3
mm/năm ở hàm dưới và từ 20-22 tuổi thì không tăng nữa.
Barrow (1952) nghiên cứu 528 bộ mẫu hàm của 51 trẻ em trường tiểu
học Michigan và trường trung học Ann Ambor [4]. Đối tượng nghiên cứu
được khám và lấy dấu mỗi năm một lần. Mục tiêu của nghiên cứu này ngoài
việc nghiên cứu khớp cắn, kẽ hở giữa các răng của bộ răng sữa và bộ răng
hỗn hợp còn đánh giá về sự thay đổi kích thước cung răng theo chiều rộng và
chiều dài của bộ răng vĩnh viễn.

* Về chiều rộng cung răng ông đưa ra kết luận:
- Chiều rộng cung răng ở vị trí đỉnh múi giữa hai răng nanh trên cung hàm
ít thay đổi từ 3 tới 5 tuổi, tăng nhanh từ 5 tới 8 tuổi và giảm dần từ 0,5 tới 1,5mm
sau 14 tuổi.
- Chiều rộng cung răng ở vị trí đỉnh múi ngoài gần giữa hai răng hàm lớn
thứ nhất có mức độ tăng nhanh từ 7 đến 11 tuổi (tăng 1,8 mm ở hàm trên; 1,2
mm ở hàm dưới). Từ 11 đến 15 tuổi có sự giảm chiều rộng cung răng (0,4 mm
ở hàm trên; 0,9 mm ở hàm dưới).
Theo ông, sở dĩ có sự giảm chiều rộng cung răng vùng răng hàm lớn thứ
nhất sau 11 tuổi là do sự di gần của răng hàm lớn thứ nhất và hướng hội tụ
của hàm dưới nhiều hơn. Chiều rộng cung răng hàm dưới giảm nhiều hơn
hàm trên có thể do sự di gần răng 6 và hướng hội tụ của hàm dưới nhiều hơn.
Từ 15 tới 17 tuổi còn khoảng 50% trường hợp có sự giảm tiếp tục chiều rộng
cung răng vùng răng cối.
* Về chiều dài cung răng là khoảng cách từ điểm giữa của hai răng cửa
giữa vuông góc với đường nối đỉnh múi ngoài gần răng 6. Ông đưa ra một số
kết luận:


6

- Từ 6 tới 12 tuổi: Chiều dài cung răng hàm trên tăng 1,0mm. Nhưng
chiều dài cung răng dưới giảm 1,12 mm.
- Tù 12 đến 13,5 tuổi: Chiều dài cung răng trên tăng nhẹ khoảng 0,2mm
sau đó chiều dài giảm đến 17-18 tuổi.
Ông cho rằng có 3 nguyên nhân chính làm giảm chiều dài cung răng:
Việc đóng kín các khe hở tiếp cận của các răng sau, khuynh hướng nghiêng
sau của các răng, đặc biệt ở hàm trên; và sự mòn sinh lý theo tuổi ở mặt nhai
của tất cả các răng.
Năm 1942, Brodie A.G và cộng sự đã tiến hành nghiên cứu dọc trên trẻ em

từ 3 đến 18 tuổi ở Mỹ; đây là một công trình nghiên cứu có qui mô lớn. Từ
nghiên cứu này, tác giả đã cho ra đời một cuốn sách dày 245 trang gồm các phần
chính sau đây: Kích thước chiều rộng, chiều dài của cung răng, đánh giá mức
thay đổi tăng trưởng của cung răng và nêu lên một số ứng dụng lâm sàng, tiên
lượng và lập kế hoạch điều trị [10].
- Về chiều rộng cung răng (mốc đo nằm trên đỉnh răng nanh, đỉnh núm
gần ngoài răng cối lớn thứ nhất): Các kích thước này gia tăng từ 3 đến 18
tuổi, đỉnh cao tăng trưởng vào giai đoạn đầu dậy thì, đến 17-18 tuổi có sự
giảm nhẹ rồi đi đến ổn định ở người trưởng thành. Ở hàm trên, chiều rộng
vùng răng nanh của nam lúc 3 tuổi là 28,6 mm, đến 18 tuổi là 33,7 mm; của
nữ lúc 3 tuổi là 27,7mm, lúc 18 tuổi là 32,0 mm. Chiều rộng vùng răng hàm
lớn I của nam lúc 6 tuổi là 36,7 mm, lúc 18 tuổi là 41,7mm. Ở hàm dưới của
nam, chiều rộng vùng răng nanh lúc 3 tuổi là 22,2 mm, lúc 18 tuổi là 25,6
mm; vùng răng hàm lớn I lúc 6 tuổi là 33,06 mm, lúc 18 tuổi là 35,4 mm. Như
vậy có sự gia tăng kích thước chiều rộng cung răng cho đến 17-18 tuổi.
Hàm trên của nữ cũng có sự gia tăng về kích thước tương tự như trên.
Đặc biệt có sự liên quan giữa gia tăng về kích thước với sự mọc răng vĩnh
viễn ở lứa tuổi trước và trong giai đoạn đầu dậy thì.


7

- Về chiều dài (chiều trước sau) cung răng (mốc đo từ điểm giữa hai răng
cửa giữa đến đường nối các mốc đo ở răng nanh, răng hàm lớn I): Chiều dài
cung răng hàm trên và hàm dưới chủ yếu giảm vào hai đợt, đợt 1 từ 4 đến 6
tuổi, đợt 2 từ 10 đến 14 tuổi.
Năm 1988, Bishara nghiên cứu trên nhóm đối tượng thuộc đại học Iowa
để đánh giá những thay đổi của chiều dài cung răng từ 6 tuần tuối đến 45 tuổi
[5]. Một nghiên cứu gồm 2 nhóm, nhóm thứ nhất gồm 15 nữ và 15 nam đã
được lấy dấu vào lúc 3 tuổi, 8 tuổi, 13 tuổi, 25 tuổi, 45 tuổi; nhóm thứ 2 gồm

33 nam và 28 nữ sơ sinh được lấy dấu lúc 6 tuần tuổi, 1 tuổi và 2 tuổi. Tác giả
thấy mức độ tăng chiều dài cung hàm trên và dưới mạnh nhất vào hai năm đầu
, chiều dài cung răng tiếp tục tăng cho đến khoảng 8 đến 13 tuổi, sau đó giảm
dần và tương đối ổn định sau tuổi dậy thì.
Brader thực hiện nghiên cứu dọc về sự thay đổi về sự thay đổi chiều dài
và chiều rộng cung răng ở người trưởng thành. Trong nhóm chuẩn (không
điều trị chỉnh hình) gồm 27 nam và 26 nữ lứa tuổi 14, 16 và 47 ở Michigan.
Nhóm 14 tuổi gồm có 22 nữ, 24 nam; Nhóm 16 tuổi và nhóm 47 tuổi có
cùng số đối tượng, gồm có 26 nữ, 27 nam cho mỗi nhóm. Những đối tượng
này đều chưa được điều trị chỉnh hình. Mục tiêu của nghiên cứu là xác định
tính ổn định của kích thước cung răng ở bệnh nhân có điều trị chỉnh hình,
ông đã kết luận việc chỉnh nha phải được điều trị duy trì sau tuổi thanh niên
(18 tuổi) vì sau thời gian này kích thước cung răng ổn định trong suốt thời
gian trưởng thành (kết luận này rút ra từ so sánh kết quả với nghiên cứu trên
mẫu không chỉnh hình). Sự bất thường của răng và cung răng xảy ra ở hàm
dưới nhiều hơn hàm trên, có sự thay đổi kích thước sau tuổi trưởng thành
của hàm dưới nhiều hơn hàm trên, khác nhau giữa nam và nữ. Ông đã thống
kê những nhận xét của các bác sỹ chỉnh hình răng mặt: Đa số bệnh nhân than
phiền các răng không đều ở hàm dưới nhiều hơn hàm trên, nhưng tác giả
không nêu nguyên nhân gây ra tình trạng đó mà chỉ giải thích là bất kỳ sự


8

giảm kích thước nào của hàm cũng nhỏ hơn 3 mm, và đó là một trong những
nguyên nhân làm gia tăng tình trạng không đều của cung răng. Qua phân tích
so sánh bằng t-test và Anova, ông đã kết luận kích thước chiều rộng, chiều
dài và chu vi cung răng đều giảm ít hơn 3 mm từ 14 đến 47 tuổi. Giai đoạn từ 18
đến 50 tuổi các kích thước cung răng giảm nhiều hơn và giảm có ý nghĩa thống
kê so với giai đoạn từ 14 đến 18 tuổi. Tác giả đưa ra lý do giảm kích thước cung

răng là do răng xoay, răng di gần và mòn răng [11].
Như vậy, nhiều nghiên cứu dọc và cắt ngang của các tác giả Brader,
Sillman, Barrow, Bishara… đều có nhận xét:
- Kích thước chiều rộng cung răng đo trên mốc răng nanh, răng hàm nhỏ
thứ hai, răng hàm lớn thứ nhất có sự tăng trưởng nhiều trước tuổi dậy thì; tăng
trưởng chậm ở tuổi dậy thì và ổn định ở 16 - 18 tuổi đối với nữ, 18 - 20 tuổi
đối với nam.
Kích thước chiều dài cung răng theo chiều trước sau được đo theo mốc
các răng trên cho thấy có sự giảm dần từ khi xuất hiện răng vĩnh viễn trên
cung hàm và ổn định ở tuổi 17 đến 18 đối với nữ và 19 đến 20 đối với nam.
Giảm chiều dài cung răng chủ yếu là do răng có xu hướng di gần, xoay răng,
răng bị mòn… Hàm trên giảm khoảng 1,3 mm và hàm dưới khoảng 1,6 mm.
1.2. Hình dạng và kích thước cung răng
1.2.1. Hình dạng cung răng
Nhìn từ phía mặt nhai các răng được sắp xếp thành một cung (cung
răng). Vì cấu trúc hình cung được xem là sự sắp xếp tạo nên tính ổn định và
vững chắc.
Một bộ răng vĩnh viễn đầy đủ gồm 32 chiếc, chia đều cho 2 cung răng:
cung răng trên và cung răng dưới. Do răng hàm lớn thứ 3 thường có hoặc
không (không có mầm răng), khái niệm về bộ răng gồm 28 chiếc được sử
dụng trên lâm sàng.


9

Năm 1920, Williams đã nêu lên sự đồng dạng giữa hình dạng của răng
cửa và hình dạng của cung răng. Nếu răng có hình dạng hình vuông sẽ kèm
theo mặt hình vuông và cung răng cũng có dạng hình vuông. Các tác giả đã
phân biệt ba dạng cung răng là hình vuông, hình oval và hình tam giác [2].
Năm 1972, Brader đưa ra một mẫu cung răng. Mẫu này dựa trên một ê líp

3 tiêu điểm và đã làm thay đổi quan niệm về hình dạng cung răng. Đường cong
cung răng rất giống với đường cong của ê líp, các răng sắp xếp chỉ một phần ở
cực nhỏ của toàn bộ đường cong. Ông cho rằng cấu trúc của cung răng có 4 đặc
trưng chủ yếu [11]:
- Hình dạng của cung răng
- Kích thước của cung răng
- Sự đối xứng hai bên
- Sự thay đổi của các cấu trúc xung quanh dẫn đến sự biến đổi hình thể
của cung răng
Năm 1981, Rickett đã tiến hành một loạt nghiên cứu về hình dạng cung
răng và đã đưa ra kết luận:
- Hình dạng cung răng hàm trên đồng dạng với hình dạng cung răng hàm dưới.
- Cung răng hàm trên ở phía trước hơn so với cung răng hàm dưới.
- Có 5 dạng cung răng: Dạng hình tam giác, dạng hình tam giác hẹp,
dạng hình trứng, dạng hình trứng hẹp, dạng hình vuông [12].
Nhưng trên thực tế, hiện nay sự phân loại hình dạng cung răng chủ yếu
được sử dụng trong chẩn đoán và điều trị chỉnh hình răng mặt là phương pháp
phân loại của Chuck và Williams là: Dạng hình vuông, dạng hình tam giác
(hình tam giác), hình oval (hình trứng) [2].
1.2.2. Kích thước cung răng
Các phương pháp đo đạc được đưa ra phụ thuộc chủ yếu vào mục tiêu
nghiên cứu, mục đích điều trị.


10

Năm 1979, Engle đã tiến hành đo hàng loạt mẫu để xác định các yếu tố
của hình dạng và kích thước cung răng [13]. Ông cùng với Lestrel đã rút ra 4
kích thước chủ yếu của cung răng là [13],[14]:
-


Chiều dài trước (chiều dài vùng răng nanh): là khoảng cách từ điểm giữa hai
răng cửa giữa tới đường nối đỉnh của hai răng nanh.

-

Chiều rộng trước (chiều rộng vùng răng nanh): là khoảng cách giữa hai đỉnh
của hai răng nanh.

-

Chiều dài sau (chiều dài vùng răng hàm): là khoảng cách từ điểm giữa hai răng
cửa giữa tới đường nối hai đỉnh của hai núm ngoài gần của răng hàm lớn thứ
nhất.

-

Chiều rộng sau (chiều rộng vùng răng hàm): là khoảng cách giữa hai đỉnh của
hai núm ngoài gần của răng hàm lớn thứ nhất.
Kích thước của cung răng có sự khác biệt theo giới tính và các dạng
cung răng hình vuông, hình oval, hình tam giác.
+ Kích thước cung răng ở nam lớn hơn nữ.
+ Chiều rộng cung răng ở vùng răng nanh và vùng răng hàm ở cung
răng hình vuông là lớn nhất, rồi đến dạng cung răng hình oval, hẹp nhất là
cung răng dạng hình tam giác.
+ Ngược lại chiều dài cung răng ở dạng cung răng hình tam giác là lớn
nhất, rồi đến cung răng dạng oval, ngắn nhất là cung răng dạng hình vuông [13],
[14].
Năm 1992, Hoàng Tử Hùng và Huỳnh Thị Kim Khang nghiên cứu kích
thước chiều dài và chiều rộng cung răng hàm trên ở người Việt trưởng thành.

Kết quả cho thấy cung răng hàm trên người Việt trưởng thành có dạng ê líp,
kích thước cung răng ở nam lớn hơn ở nữ [Error: Reference source not
found].


11

Năm 1993, Raberin M., Laumon B., Martin J. L. khoa chỉnh nha của
trường nha Lyon ở Pháp đã nghiên cứu phân tích trên 278 mẫu thạch cao của
người Pháp trưởng thành chưa được can thiệp chỉnh nha. Các tác giả đã rút ra
kết luận rằng không có sự khác biệt về tỷ lệ các dạng cung răng ở nam cũng
như ở nữ và cung răng ở nam lớn hơn cung răng ở nữ cả về chiều rộng và
chiều dài [16].
Năm 1999, Phạm Thị Hương Loan và Hoàng Tử Hùng nghiên cứu so
sánh đặc điểm cung răng người Việt với người Ấn Độ và Trung Quốc đưa ra
nhận xét: Cung răng người Việt rộng hơn đáng kể so với cung răng người Ấn
Độ, nhưng lại gần với kích thước cung răng người Trung Quốc [17].
Theo nghiên cứu của Siti Adibah Othman và cộng sự (2012) khi nghiên
cứu trên 252 mẫu hàm của người Malay có độ tuổi từ 13-30 cũng đã kết luận
kích thước ngang cung hàm ở nam lớn hơn nữ [18].
Năm 2012, theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu Phương, Võ Trương
Như Ngọc, Đồng Mai Hương (2012) khi nghiên cứu ở nhóm sinh viên đại học
Y Hải Phòng đã kết luận kích thước trung bình của cung răng trên ở các dạng
cung răng khác nhau là rất khác nhau, chiều rộng cung răng phía trước (R33)
và phía sau (R66) lớn nhất ở dạng cung răng hình vuông, nhỏ nhất ở dạng
cung răng hình tam giác. Với chiều dài thì ngược lại, chiều dài phía trước
cung răng (D13) của dạng cung răng hình tam giác là lớn nhất còn dạng cung
răng hình vuông là ngắn nhất [19],[19],[21].
Năm 2013, theo nghiên cứu của Lê Hồ Phương Trang, Trần Ngọc Khánh
Vân, Lê Võ Yến Nhi trên 117 mẫu hàm thạch cao cũng kết luận kích thước

ngang cung hàm ở nam lớn hơn ở nữ [22].
Theo nghiên cứu của Proffit W.R và cộng sự năm 2013 khi so sánh chiều
rộng cung răng giữa nhóm CI và nhóm CII tiểu loại 1: mặc dù đã có một xu
hướng cho nhóm Class II có một cung răng hàm trên hẹp, song sự khác biệt


12

không có ý nghĩa thống kê ở nhóm răng hàm lớn, nhóm răng hàm nhỏ, cả hàm
trên và hàm dưới giữa hai nhóm [23].
Theo nghiên cứu của nhóm tác giả Dolly Patel, Falguni Mehta, Nimesh
Patel, Nishit Mehta, Ipist Trivedi, Jone A.P (2015) trên dân chúng Ấn Độ cho
kết quả sau. Khi so sánh độ rộng cung hàm ở hàm trên cả hai giới, nhóm CIII
và nhóm CI cho thấy độ rộng liên 2 răng nanh hàm trên lớn hơn đáng kể so
với nhóm CIId1 và độ rộng liên 2 răng hàm nhỏ hàm trên lớn hơn nhóm
CIId2 và CIId1. Đối với hàm dưới nhóm CIII cho thấy độ rộng liên răng
nanh, liên răng hàm nhỏ lớn hơn đáng kể so với nhóm CI, CIId2, và nhóm
CIId1 [24],[25].
1.3. Các phương pháp đo đạc cung răng
Đánh giá răng, cung răng là một công việc cần thiết trong thực hành
lâm sàng và nghiên cứu. Đánh giá những thay đổi về cung răng và khớp cắn
để phân tích những bất thường của bộ răng. Việc đánh giá không chỉ dựa vào
quan sát cảm quan mà phải dựa vào đo đạc và phân tích trên cơ sở khoa học:
trên phim, mẫu hàm hoặc trực tiếp trên miệng.
Việc đo đạc phân tích trực tiếp trên miệng: cho ta biết chính xác hơn
kích thước thật của răng, cung răng, tình trạng khớp cắn tuy nhiên có hạn chế
là việc xác định các điểm mốc trên miệng đôi lúc gặp nhiều khó khăn đặc biệt
là với những răng xoay hay răng ở phía sau, thời gian làm việc không cho
phép kéo dài, không lưu trữ được mẫu cho lần sau. Chính vì vậy, phương
pháp này thường dùng kết hợp với các phương pháp khác để phân tích đánh

giá về răng, cung răng, khớp cắn chứ không thể dùng riêng rẽ.
Việc đo đạc trên ảnh chụp và phim X-quang: mặc dù nhanh chóng,
hiện đại nhưng có nhiều sai số phụ thuộc vào tỷ lệ giữa phim và kích thước
thật, bị hạn chế về tính phổ biến của kỹ thuật và phụ thuộc nhiều vào thiết bị.


13

Mẫu hàm thạch cao được xem là một công cụ quan trọng trong điều trị
chỉnh nha cũng như trong nghiên cứu; chúng giúp cho việc phân tích kích
thước và hình dạng răng, mức độ thẳng hàng và xoay của răng, chiều rộng,
chiều dài, hình dạng và mức độ đối xứng của cung răng cũng như quan hệ
khớp cắn [26]. Mẫu thạch cao là một thành phần tiêu chuẩn trong nghiên cứu
chỉnh nha cũng như chẩn đoán, lên kế hoạch điều trị, đánh giá tiến triển trong
quá trình điều trị và khi kết thúc điều trị cũng như lưu trữ kết quả điều trị và
nghiên cứu [27]. Để nghiên cứu trên mẫu hàm có các loại phương tiện chủ
yếu sau:
1.3.1. Đo trên mẫu hàm số hóa
Từ năm 1970, đã có nhiều phát triển về mặt kỹ thuật trong việc phân
tích mẫu hàm như việc áp dụng các kỹ thuật tái tạo hình ảnh bằng vi tính
(Biggerstaff, 1972) và thu thập trực tiếp dữ liệu hai chiều (Savara và Sanin,
1972). Van Der Linden (1972), một bác sĩ chỉnh hình răng mặt thuộc trường
Đại học Nymegen - Hà Lan, đã xây dựng một phương pháp cho phép thu thập
các dữ liệu trong không gian ba chiều và khảo sát mẫu hàm trên và dưới như
một khối thống nhất [28].
Vào khoảng đầu những năm 2000 phần mềm OrthoCad ra đời. Phần
mềm này có thể thu và trình bày mẫu hàm nghiên cứu trên máy tính dưới dạng
ảnh không gian ba chiều. Về mặt lâm sàng, mẫu hàm kỹ thuật số là một giải
pháp hấp dẫn vì thuận lợi trong việc lưu trữ, do vậy giúp cho bác sỹ chỉnh nha
cả ở góc độ quản lý hồ sơ lẫn góc độ tiếp thị dịch vụ. Độ chính xác của mẫu

hàm kỹ thuật số là chấp nhận được về mặt lâm sàng và nếu tính tới các ưu điểm
cũng như khả năng cải tiến của công cụ OrthoCad cũng như các công cụ tương
tự trong tương lai (ví dụ như khả năng tự động xác định điểm đo, tự động xác
định các kích thước hay đánh giá hiệu quả điều trị) thì mẫu hàm kỹ thuật số có
thể trở thành công cụ sử dụng hàng ngày.


14

Hình 1.1. Đo kích thước gần xa bằng phần mềm OrthoCad- ảnh 3D [29]
(a) răng cửa, (b) răng nanh, (c) răng hàm nhỏ, (d) răng hàm lớn
(Nguồn: Oded et al)[29].

Hình 1.2. Đo kích thước chiều rộng qua hai răng nanh và hai răng hàm
lớn thứ nhất bằng phần mềm OrthoCad [29].
Tuy nhiên như có thể thấy ở các hình trên, đối với mẫu hàm kỹ thuật số
có một điểm cần chú ý là mặc dù đây là ảnh ba chiều nhưng thực ra vẫn chỉ
nhìn được hai chiều trên màn hình, do vậy việc xác định các điểm, các trục và
các mặt đo sẽ gặp khó khăn [30].
1.3.2. Đo bằng máy chụp cắt lớp điện toán
Yan B. và cộng sự đã sử dụng máy chụp cắt lớp điện toán (CT scanner)
số hóa 20 mẫu răng thành ảnh ba chiều và dùng phần mềm máy tính đo các
tọa độ của mẫu răng để kiểm tra độ tin cậy của hệ thống và so sánh với việc
đo thủ công [30].


15

Hình 1.3. Hệ thống Scanned 3D và hình dạng cung răng hàm trên [28].
Mặc dù kết quả cho thấy hệ thống có thể sử dụng trong việc chẩn đoán

lâm sàng và điều trị sai khớp cắn nhưng không có sự khác biệt có ý nghĩa giữa
kết quả đo bằng máy chụp cắt lớp điện toán ba chiều và kết quả đo tay (p > 0,05).
Những nghiên cứu trên cho thấy không thực sự cần thiết sử dụng máy
chụp cắt lớp điện toán nếu so sánh giữa chi phí cần có và lợi ích mang lại.
1.3.3. Đo bằng thước trượt trên mẫu hàm thạch cao
Thước trượt thông thường có độ chính xác tới 1/10mm, được sử dụng
trong nhiều nghiên cứu về kích thước răng và cung răng. Trần Thúy Nga
(2001) kết luận không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa việc đo đạc các
kích thước theo chiều gần xa của các răng hàm sữa thứ nhất và thứ hai, răng
nanh sữa, răng cửa giữa, răng cửa bên ở cả hai hàm bằng phương pháp vi tính
so với phương pháp cổ điển [31].

Hình 1.4. Thước trượt thông thường [31]
Thước trượt điện tử có tính năng tương tự như thước trượt thông
thường nhưng độ chính xác cao hơn, tới cỡ 1/100 mm. Về mặt sử dụng, thước


16

trượt điện tử cũng dễ sử dụng hơn do có màn hình hiển thị số, rất thuận tiện
cho người đo. Thước trượt điện tử được sử dụng trong hầu hết các nghiên cứu
gần đây về đo kích thước răng, cung răng. Chúng tôi sử dụng loại thước trượt
điện tử Mitutoyo CD-6 của Nhật Bản để tiến hành nghiên cứu đo đạc [32].

Hình 1.5. Thước trượt điện tử Mitutoyo CD-6 [32]
Nhiều tác giả đã nghiên cứu so sánh giữa việc phân tích và sử dụng các
phép đo trên mẫu hàm thường với thước trượt điện tử và sử dụng hàm số hoá
với ảnh không gian 3 chiều đã rút ra kết luận sau:
Việc đo bằng thước trượt điện tử trên mẫu hàm thạch cao cho kết quả
chính xác nhất và có thể lặp lại.

Việc dùng phần mềm số hoá để đo đạc cho kết quả có thể lặp lại, độ
chính xác cao nhưng thấp hơn so với đo trên mẫu hàm với thước trượt điện tử.
Thước trượt điện tử là phương tiện phù hợp với công việc nghiên cứu.
Tuy nhiên, độ chính xác của phân tích bằng số hoá được lâm sàng chấp nhận
và có ưu điểm trong hiện tại và tương lai. Mẫu hàm số hoá có thể dần dần
được tiêu chuẩn hoá ứng dụng trong chỉnh nha nhờ đặc tính lưu trữ tốt và tiết
kiệm thời gian của nó.
Tóm lại: Mặc dù có nhiều cách đánh giá cung răng và khớp cắn nhưng
phương pháp sử dụng thước trượt điện tử trên mẫu hàm thạch cao vẫn là
phương pháp hiệu quả thích hợp cho việc thực hiện các nghiên cứu đánh giá
sự thay đổi của răng, cung răng với độ chính xác cao, phương pháp sử dụng
mẫu thạch cao được nhiều các nhà nghiên cứu hình thái cung răng trên thế
giới sử dụng.


17

1.4. Tình hình nghiên cứu trên thế giới và ở Việt Nam
1.4.1 Nghiên cứu trên thế giới
Những thay đổi theo tuổi của cung răng, sự khác biệt về kích thước
cũng như hình dạng cung răng theo giới tính, dân tộc... đã và đang được
nghiên cứu rộng rãi nhờ tính chất quan trọng của nó trong việc lập kế hoạch
điều trị chỉnh nha và tạo hình. Các tài liệu nghiên cứu được thực hiện theo
nhiều cách, chủ yếu là quan sát sự tương quan giữa các điểm mốc trên miệng,
đo đạc kích thước cung răng trên mẫu hàm. Dưới đây là một số tài liệu nghiên
cứu về sự khác biệt về kích thước cung răng qua nhiều yếu tố:
Năm 1998, Chang H. P và cộng sự đã nghiên cứu trên mẫu hàm của
người Trung Quốc và đã rút ra rằng kích thước cung răng ở nam lớn hơn nữ,
và sự khác biệt có ý nghĩa thống kê [33].
Năm 1993, Raberin M., Laumon B., Martin J. L. khoa chỉnh nha của

trường nha Lyon ở Pháp đã nghiên cứu phân tích trên 278 mẫu thạch cao của
người Pháp trưởng thành chưa được can thiệp chỉnh nha. Các tác giả đã rút ra
kết luận rằng không có sự khác biệt về tỷ lệ các dạng cung răng ở nam cũng
như ở nữ và cung răng ở nam lớn hơn cung răng ở nữ cả về chiều rộng và
chiều dài [16].
Năm 1991 Huang S.T. và cộng sự [34] đã nghiên cứu trên mẫu hàm của
người Trung Quốc và đã rút ra kết luận kích thước cung răng ở nam lớn hơn ở
nữ và sựu khác biệt có ý nghĩa thống kê. Các tác giả cũng nhận thấy rằng
người Trung Quốc có kích thước cung răng gần với người Nhật hơn là người
Nam Trung Mỹ.
Năm 1993, Raberin M., Laumon B. [35], khoa chỉnh nha của trường Nha
Lyon ở Pháp đã nghiên cứu phân tích trên 278 mẫu thạch cao của người Pháp
trưởng thành chưa được can thiệp chỉnh nha. Các kích thước cung răng đã
được tính toán. Các tác giả cũng đã rút ra kết luận rằng không có sự khác biệt
về tỷ lệ các dạng cung răng ở nam cũng như ở nữ và cung răng ở nam lớn hơn
ở nữ cả về chiều rộng lẫn chiều dài.


18

Kích thước cung răng còn khác nhau rõ rệt giữa các dạng cung răng hình
vuông, hình oval và hình tam giác. Kunihiko Nojima, Richard P. [36] với
nghiên cứu so sánh mẫu hàm dưới của người Nhật và người Caucasian đã rút
ra tỉ lệ các dạng cung răng và so sánh kích thước từng dạng cung răng giữa 2
nhóm. Các tác giả đã rút ra kết luận từ các số liệu thu được là chiều rộng ở
vùng răng nanh và vung răng hàm ở cung răng dạng hình vuông là lớn nhất
rồi đến dạng cung răng hình oval, hẹp nhất là cung răng dạng thuôn dài.
Ngược lại chiều dài của cung răng dạng thuôn dài là lớn nhất, rồi đến dạng
cung răng hình oval, ngắn nhất là dạng cung răng hình vuông.
Theo nghiên cứu của Al-Khatib A.R., Rajion Z.A, Masudi S.M và cộng

sự (2011) [37] khi nghiên cứu trên 252 mẫu hàm của người Malaysia có độ
tuổi từ 13-30 cũng đã kết luận kích thước ngang cung hàm ở nam lớn hơn nữ.
Theo nghiên cứu của Alam M. K. và cộng sự (2014) [38] khi nghiên cứu
996 người từ 2000 người được lấy ngẫu nhiên và đo đạc kiểm tra tại Bệnh
viện đại học khoa học Malaysia, 996 người này được chia làm 2 nhóm theo 2
dân tộc là người Malaysia gốc Trung Quốc và Malaysia bản địa. Sau đó tác
giả tiến hành đo đạc các kích thước của từng răng vĩnh viễn ở hàm trên và
hàm dưới, độ rộng liên răng nanh và liên răng hàm lớn thứ nhất, chiều dài sau
ở hàm trên. Kết quả thu được thì người Malaysia gốc Trung Quốc có kích
thước các răng rộng hơn người Malaysia bản địa và không có sự khác nhau về
kích thước cung răng giữa 2 dân tộc.
Năm 2001, Ibrahimagie và V. Jerolimov đã tiến hành nghiên cứu trên
người Zenica, Bosnia và Herzegovina với mục đích là đánh giá lại thuyết về
hình thái học của Leon Williams và tìm ra mức độ tương quan giữa hình dạng
khuôn mặt và hình thể răng cửa [34]. Hơn 1000 đối tượng nghiên cứu ở độ
tuổi 17-24, được đo các kích thước theo chiều ngang của mặt để phân loại
hình dạng mặt, đó là chiều rộng giữa 2 xương thái dương (ft-ft), chiều rộng
giữa 2 xương gò má (zy-zy), và chiều rộng hàm dưới (go-go). Các kích thước


19

theo chiều ngang của 2 răng cửa giữa hàm trên cũng được đo là chiều rộng
vùng cổ răng (CW), chiều rộng thân răng giữa 2 điểm tiếp xúc với răng bên
cạnh (CPW), và chiều rộng ở vùng rìa cắn (IW), kết quả thu được như sau:
83% khuôn mặt có hình oval, 10% khuôn mặt có hình vuông, và 7% khuôn
mặt có hình tam giác. Về hình dạng răng cửa: 53% dạng hình vuông, 30%
dạng hình oval, 16% dạng hình tam giác. Mức độ tương quan giữa hình dạng
khuôn mặt và hình thể răng cửa giữa hàm trên chỉ là 30%. Kết quả này không
ủng hộ cho thuyết hình thái của Williams.

1.4.2. Nghiên cứu trong nước
Năm 1993, Hoàng Tử Hùng đã đo kích thước chiều dài, chiều rộng
cung răng trên mẫu hàm người Việt trưởng thành và đã tính được phương
trình hồi quy có dạng ê líp cho cung hàm trên [1]; cung răng hàm dưới có thể
là ê líp với các phương trình hồi quy tương ứng. Tác giả cũng là người có
nhiều công trình nghiên cứu về đầu mặt và cung răng ở người Việt trong
nhiều năm qua, ngoài những đóng góp về giải phẫu học còn phải kể đến vấn
đề nhân chủng răng.
Hoàng Tử Hùng và Huỳnh Thị Kim Khang [15] nghiên cứu kích thước
chiều dài và chiều rộng cung răng hàm trên ở người Việt trưởng thành. Kết
quả cho thấy cung răng hàm trên người Việt có dạng ê líp, cung răng ở nam
lớn hơn ở nữ có ý nghĩa thống kê.
Năm 1996 Hoàng Tử Hùng và Trần Mỹ Thúy [40] nghiên cứu cung
xương ổ răng của người Việt, đo trên sọ, trên xương hàm khô với mục tiêu
nghiên cứu xác định các kích thước trung bình của cung xương ổ răng, trình
bày các phương trình hồi quy lý thuyết và vẽ các đường hồi quy đó. Tác giả
đã kết luận: kích thước cung xương ổ răng ở nam lớn hơn ở nữ nhưng sự khác
biệt không có ý nghĩa thống kê. Đoạn có răng cung xương ổ răng bẹt hơn,
đoạn từ răng nanh đến răng cối nhỏ có cung xương ổ răng trên trùm cung
xương ổ răng dưới, nhưng đoạn răng hàm lớn thứ 2 và thứ 3 thì cung xương ổ


20

dưới trùm ra ngoài cung xương ổ răng trên. Để đạt được sự ăn khớp bình
thường thì trục răng cối lớn dưới nghiêng trong nhiều hơn và răng hàm lớn
trên nghiêng ngoài nhiều hơn.
Phạm Thị Hương Loan và Hoàng Tử Hùng [41] nghiên cứu so sánh đặc
điểm cung răng người Việt với người Ấn Độ và người Trung Quốc đã đưa ra
nhận xét: cung răng người Việt rộng hơn đáng kể so với người Ấn Độ nhưng

lai gần với kích thước của người Trung Quốc. Cung răng người Việt có loại
hàm rộng chiếm đa số và phần trước cung răng lớn hơn người Trung Quốc
nên hàm người Việt hô nhẹ hơn hàm người Trung Quốc ở vùng răng trước.
Năm 2004 Đặng Thị Vỹ [42] nghiên cứu trên 100 sinh viên Trường Đại
Học Y Khoa Hà Nội cũng đã đưa ra được các kết luận sau. Về tỉ lệ các dạng
cung răng thì cung răng hình vuông chiếm nhiều nhất (58%), cung răng hình
oval xếp thứ hai (34%) và ít nhất là cung răng hình tam giác (8%). Sự phân bố
các dạng cung răng ở cả hai giới là như nhau. Về kích thước cung răng thì
kích thước cung răng ở nam lớn hơn ở nữ và có sự khác biệt về kích thước
cung răng giữa các dạng cung răng khác nhau. Về chiều rộng thì lớn nhất ở
dạng cung răng hình vuông và nhỏ nhất ở dạng cung răng hình tam giác. Với
chiều dài thì ngược lại, chiều dài của dạng cung răng hình tam giác là lớn
nhất, còn dạng cung răng hình vuông là ngắn nhất. Tác giả còn đưa ra sự phân
bố các dạng cung răng theo phân loại của Angle. Ở khớp cắn bình thường đa
số cung răng có hình oval. Cung răng hình tam giác chiếm đa số ở khớp cắn
Angle II, còn ở dạng khớp cắn Angle III đa số các trường hợp cung răng có
dạng hình vuông.
Năm 2012, Nguyễn Thị Thu Phương và Võ Trương Như Ngọc nghiên
cứu trên [19] trên một nhóm sinh viên đại học Y Hải Phòng đã kết luận kích
thước trung bình của cung răng trên ở các dạng cung răng khác nhau là rất
khác nhau, chiều rộng cung răng phía trước và chiều rộng cung răng phía
sau lớn nhất ở dạng cung răng hình vuông và nhỏ nhất ở dạng cung răng
hình tam giác. Với chiều dài thì ngược lại, chiều dài phía trước cung răng


21

của dạng cung răng hình tam giác là lớn nhất, còn dạng cung răng hình
vuông là ngắn nhất.
Năm 2013, theo nghiên cứu của Lê Hồ Phương Trang, Trần Ngọc Khánh

Vân, Lê Võ Yến Nhi đã kết luận rằng kích thước ngang cung hàm ở nam lớn hơn
nữ [22].
1.5. Người dân tộc Kinh và Tày
Việt Nam hiện có 63 tỉnh và thành phố. Dân tộc Tày là một trong 54 dân
tộc có mặt, sinh sống trên đất nước Việt Nam từ hơn 1000 năm trước trong các
cuộc thiên di trong lịch sử. Dân tộc Tày ở Việt Nam có số dân đứng thứ hai cả
nước sau người Kinh. Họ chủ yếu sống ở vùng núi phía Đông Bắc. Trải qua
hàng trăm năm sinh sống, lao động và sản xuất, người dân tộc Tày đã tạo nên
những nét văn hóa đặc sắc và độc đáo cho dân tộc và vùng miền [43].
Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Tày ở Việt
Nam có dân số gần 3.550.000 người, có mặt trên tất cả 63 tỉnh thành phố,
Lạng Sơn là tỉnh có nhiều người dân tộc Tày đang sinh sống nhất khoảng
260.000 người trong tổng số hơn 700.000 dân [43].


22

Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng là người Kinh và người Tày độ tuổi từ 18-25 sinh sống tại
thành phố Hà Nội và tỉnh Lạng sơn.
* Tiêu chuẩn chọn: Có đầy đủ các tiêu chí sau:
+ Đối tượng là người dân tộc Kinh: có bố mẹ, ông bà có quốc tịch Việt
Nam, dân tộc Kinh.
+ Đối tượng là người dân tộc Tày: có bố mẹ, ông bà có quốc tịch Việt
Nam, dân tộc Tày.
+ Có đủ 28 răng vĩnh viễn (không kể răng hàm lớn thứ ba).
+ Không có các phục hình, tổn thương tổ chức cứng làm thay đổi chiều
gần xa của thân răng. Nếu các phục hình như miếng trám hoặc inlay chỉ ở trên

mặt nhai hoặc cổ răng thì vẫn được chấp nhận.
+ Chưa điều trị nắn chỉnh răng và các phẫu thuật tạo hình khác.
+ Không có dị dạng hàm mặt, không có tiền sử chấn thương hay phẫu
thuật vùng hàm mặt.
+ Tự nguyện hợp tác tham gia nghiên cứu.
* Tiêu chuẩn loại trừ: Khi có một trong các tiêu chí sau
+ Có bố hoặc mẹ là người nước ngoài.
+ Mất răng hàm lớn thứ nhất, răng hàm lớn thứ hai (một bên hoặc hai bên).
+ Có phục hình, hoặc tổn thương tổ chức cứng làm thay đổi chiều gần xa
của răng. Các miếng trám hoặc là các inlay, onlay có liên quan đến mặt gần
hay xa đều loại bỏ.
+ Bị dị dạng hàm mặt.
+ Đã điều trị nắn chỉnh răng, hoặc phẫu thuật vùng hàm mặt.
+ Không hợp tác nghiên cứu.


23

2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
2.2.1. Thời gian
Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 07/2017 đến tháng 10/2018.
2.2.2. Địa điểm
Nghiên cứu được tiến hành tại Viện Đào Tạo Răng Hàm Mặt và các địa
điểm: Hà Nội, Lạng Sơn là những nơi có số lượng người Kinh và người Tày
sinh sống đông, dễ dàng cho việc lựa chọn đối tượng nghiên cứu.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Thiết kế nghiên cứu
Sử dụng nghiên cứu mô tả cắt ngang
2.3.2. Cỡ mẫu và cách chọn mẫu
Cỡ mẫu

Áp dụng công thức tính cỡ mẫu khi ước tính 1 chỉ số trung bình cho
nghiên cứu điều tra cắt ngang:

Trong đó:
n: Cỡ mẫu nghiên cứu.
(1) Sai số loại I (α): Chọn α = 0,05, tương ứng có ít hơn 5% cơ hội rút ra
một kết luận dương tính giả.
(2) Sai số loại II (β) hoặc lực mẫu (power là 1- β): Chọn β = 0,1 (hoặc
lực mẫu=0,9), tương ứng có 90% cơ hội tránh được một kết luận âm tính giả.
σ: độ lệch chuẩn. Dựa vào nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu Phương
(2012) [19] khi đo kích thước chiều rộng sau hàm trên cho cả hai giới là 52,7±
4,4 (mm). Chọn σ = 4,4 (mm)


24

δ: là sai số mong muốn (cùng đơn vị với σ). Do vậy, để đảm bảo kết quả
nghiên cứu có độ chính xác tối đa, lựa chọn sai số mong muốn là 0,25 mm.
Thay vào công thức ta có: n = (1,96 + 1,28)2 * 4,4 2 : 0,252 = 3252 (người).
Như vậy, cỡ mẫu tối thiểu cần điều tra để đánh giá đặc điểm hình thái cung
răng của người Kinh và người Tày trưởng thành từ 18-25 tuổi là: 3252x2 =
4704 người (3252 người Kinh và 3252 người Tày).
Thực tế trong quá trình nghiên cứu khi triển khai cùng với đề tài cấp
Nhà nước “Nghiên cứu nhân trắc đầu mặt của người Việt Nam ứng dụng
trong y học” chúng tôi đã nghiên cứu trên 3285 đối tượng người Tày và 4914
đối tượng người Kinh.
Chọn mẫu
Sử dụng phương pháp chọn mẫu có chủ đích theo tiêu chuẩn đặt ra. Mẫu
được chọn từ các Trường cao đẳng, đại học, các công ty, doanh nghiệp, trung
tâm, trường học nghề.



Bước 1: Lựa chọn chủ đích các Trường cao đẳng, đại học, các công ty,
doanh nghiệp, trung tâm, trường học nghề tại tỉnh Lạng Sơn là vùng có dân tộc
Tày sinh sống với mật độ cao và thành phố Hà Nội là nơi có dân tộc Kinh sinh
sống chủ yếu vào nghiên cứu.
- Điều tra dân tộc Kinh: Ở Hà Nội, chọn các trường: Cao đẳng Y tế Hà
Nội, Học viện Y học cổ truyền Việt Nam, Trường Đại học Kinh tế kỹ thuật
Công Nghiệp, Học viện Nông Nghiệp và Học viện Quân Y...
- Điều tra dân tộc Tày: Tại Lạng Sơn, chọn các trường: Cao đẳng nghề
Lạng Sơn, Cao đẳng sư phạm Lạng Sơn, Cao Đẳng Y tế Lạng Sơn, Trung tâm
giáo dục thường xuyên, Trường dân tộc nội trú, THPT Cao Lộc, Chi Lăng,
Chu Văn An, Đồng Đăng, Lộc Bình, Văn Quan và Việt Bắc.



Bước 2: Chọn đối tượng nghiên cứu. Lên danh sách toàn bộ người
Kinh ở Hà Nội và người Tày ở Lạng Sơn trong độ tuổi 18-25 đủ tiêu chuẩn
nghiên cứu trong mỗi các Trường cao đẳng, đại học, các công ty, doanh


25

nghiệp, trung tâm, trường học nghề. Lập khung mẫu. Chọn cỡ mẫu trong mỗi
Trường cao đẳng, đại học, các công ty, doanh nghiệp, trung tâm, trường học
nghề theo kích thước quần thể. Trường cao đẳng, đại học, các công ty, doanh
nghiệp, trung tâm, trường học nghề đông người thì chọn nhiều và ngược lại.
2.3.3 Vật liệu và dụng cụ thu thập dữ liệu

Hình 2.1. Bộ khay khám răng


Hình 2.2. Bộ dụng cụ lấy dấu, đổ mẫu
- Bộ khay khám: gương, gắp, thám châm.
- Bát và bay trộn chất lấy dấu, bát và bay trộn thạch cao, thìa lấy dấu.


×