Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

TIỂU LUẬN ĐỀ TÀI TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.82 KB, 15 trang )

I/ Mở đầu.
Hiện nay, hầu hết các quốc gia đều có đồng tiền riêng cho mình. Ví dụ: Việt Nam có
đồng tiền riêng là VNĐ, Trung Quốc có đồng tiền riêng là nhân dân tệ, Nhật Bản có đồng
yên Nhật. Đa số các quốc gia trên thế giới đã và đang đi theo nền kinh tế hàng hóa, mở
cửa thị trường, thu hút vốn đầu tư nước ngoài nhưng có một rào cản đó là mỗi nước có
một đồng tiền riêng không có được đồng tiền chung để thanh toán tài chính. Như vậy yêu
cầu đặt ra là họ phải thanh toán như thế nào? Có cách nào để xóa bỏ rào cản đó? Từ đó tỉ
giá hối đoái được hình thành.
Ta có thể hiểu đơn giản tỉ giá hối đoái là giá của một đơn vị tiền tệ của một quốc gia tính
bằng tiền tệ của một quốc gia khác. Hay nói cách khác nó chính là giá cả của tiền tệ, tiền
tệ giống như một thứ hàng hóa. Ví dụ: 1usd=22500vnđ.
Tỉ giá hối đoái là một biến số kinh tế vĩ mô luôn biến động và chiu ảnh hưởng của nhiều
yếu tố. Nó không tĩnh tại mà thay đổi theo sự thay đổi của cung, cầu, lãi suất, lạm phát,...
Tỉ giá hối đoái luôn biến động một cách phức tạp mà không ai có thể biết trước được.
Mỗi quốc gia lại có tỉ giá đối với đồng tiền của mình riêng, nó ảnh hưởng trực tiếp đến
quốc gia đó về kinh tế đối ngoại, xuất nhập khẩu, cán cân thương mại. Vì vậy việc tìm
hiểu tỉ giá hối đoái của mỗi quốc gia là vô cùng cần thiết đặc biệt trong hoạt động đầu tư
ra nước ngoài bởi nó là cầu nối giữa nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới. Nếu
tỉ giá hối đoái của một quốc gia mà tăng cao sẽ khuyến khích nước ngoài đầu tư nhưng sẽ
hạn chế nước đó đầu tư ra nước ngoài. Ngược lại tỉ giá mà thấp sẽ hạn chế đầu tư vào
nước đó.
Tóm lại tỉ giá hối đoái vừa có mặt lợi vừa có mặt hại. Cơ sở nghiên cứu khi nghiên cứu
về tỉ giá hối đoái cần tìm hiểu khái niệm, nhân tố ảnh hưởng,tầm quan trọng (tác động
đến giá cả hàng hóa trong nước và nước ngoài, tác động đến lãi suất, hoạt động kinh tế
đối ngoại, cán cân thương mại) ,mặt lợi ,mặt hại .Từ đó liên hệ Việt Nam.
II/ Lý thuyết chung
1


2.1 Tỷ giá hối đoái
2.1.1 Khái niệm tỷ giá hối đoái


- Tỷ giá hối đoái là giá cả một đơn vị tiền tệ của quốc gia này được biểu diễn qua số
đơn vị tiền tệ của quốc gia khác xác định bằng một thời gian và không gian cụ thể.
Ví dụ: Tỷ giá hối đoái giữa USD và VNĐ là 1USD= 22500 VNĐ
- Theo tập quán kinh doanh tiền tệ, tỷ giá hối đoái thường được yết giá theo hai
phương pháp sau:
Phương pháp yết giá trực tiếp: lấy ngoại tệ làm đơn vị so sánh vơi đồng tiền trong
nước.
Phương pháp yết giá gián tiếp: lấy tiền trong nước làm đơn vị so sánh với tiền nước
ngoài.
2.1.2 Phân loại
Căn cứ vào ý nghĩa và tác động của tỷ giá hối đoái thì chia làm 3 loại:
- Tỷ giá hối đoái danh nghĩa: Là tỷ giá hối đoái được công bố trên các phương tiện
thông tin đại chúng. Mức tỷ giá hối đoái này được xác định dựa trên mức tỷ giá hối
đoái do NHTW xác định.
Tỷ giá hối đoái danh nghĩa đc sử dụng phổ biến trong các hợp đồng mua bán
thương mại, thanh toán tín dụng, hợp tác đầu tư và là mức tỷ giá được sử dụng trong
việc phân tích tác động của tỷ giá đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia, cũng như khu
vực và toàn bộ nền KTTG.
- Tỷ giá hối đoái thực tế: là loại tỷ giá hối đoái được sử dụng để điều hành chính sách
của CP trong việc kiểm soát tiền tệ và điều hành thị trường ngoại hối, được xác định
dựa trên mức tỷ giá hối đoái danh nghĩa và mức chỉ số giá trong nước và chỉ số giá
quốc tế.
TGHĐ TT= TGHĐ danh nghĩa × chỉ số giá quốc tế : tỷ số giá trong nc
Chỉ số giá(%)= Tỷ lệ lạm phát (%) + 100%
- Tỷ giá hối đoái ngang giá sức mua: được xác định bằng tỷ lệ giữa giá trị (chi phí sx,
giá thành hoặc giá cả) của cùng một lượng hàng hóa đó tính bằng đồng ngoại tệ ở thị
2


trường nước ngoài.

Để khuyến khích các doanh nghiệp tham gia và XK thì mức TGHĐ danh nghĩa áp
dụng trên thị trường cần phải cao hơn mức tỷ giá ngang giá sức mua.
2.1.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến TGHĐ
- Mức chênh lệch lạm phát giữa các quốc gia:
Giả sử các yếu tố khác không thay đổi, nếu mức lạm phát trong nước có xu hướng
cao hơn mưac lạm phát của nước ngoài thì xét về mặt thực tế và việc so sánh ngang
giá sức mua thì đồng nội tệ có xu hướng giảm so với đồng ngoai tệ. Do lượng tiền
tăng thêm để mua được một lượng hàng hoa tính bằng đồng nội tệ cao hơn so với tính
bằng đồng ngoại tệ. Hay nói cách khác, mức độ mất giá của đồng nội tệ cao hơn so
với đồng ngoại tệ. trong trường hợp ngược lại, khi tỷ giá lạm phát trong nước thấp
hơn dẫn đến TGHD giảm, nội tệ tăng giá.
- Mức độ tăng hay giảm của GNP (Tổng sản phẩm quốc dân)
GNP tăng hay giảm xuống, trong điều kiện các nhân tố khác ko đổi, sẽ làm tăng hay
giảm nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ nhập khẩu, do đó sẽ làm cho nhu cầu ngoại hối
để thanh toán hàng nhập khẩu sẽ tăng lên hoặc giảm xuống.
- Mức chênh lệch lãi suất giữa các nước
Giả sử như mức lãi suất ngắn hạn của một nước tăng lên một cách tương đối so với
nước khác, trong đk các nhân tố khác không đổi, thì vốn ngắn hạn từ nước ngoài sẽ
chảy vào nước đó tăng lên nhằm thu mức chênh lệch lãi suất. Điều này làm cho cung
ngoại hối tăng lên, cầu ngoại hối giảm đi dẫn đến sự thay đỏi tỷ giá.
- Những dự đoán về TGHĐ
Là dự đoán của những người tham gia vào thị trường ngoại hối về triển vọng lên giá
hay xuống giá của đồng tiền nào đó, có thể là một nhân tố quan trọng có thể là một
nhân tố quan trọng quyết định đến sự biến động của tỷ giá.
- Sự can thiệp của CP
Bất kỳ một CS nào của CP mà có tác động đến tỷ lệ lạm phát , thu nhập thực té hoặc
mức lãi suất trong nước đều có ảnh hưởng đến sự biến động của TGHĐ. CP sử dụng 3
loại hình can thiệp chủ yếu : can thiệp vào thương mại quốc tế, đầu tư quốc tế và can
3



thiệp trực tiếp vào thị trường ngoại hối (mua vào hoặc bán ra ngoại tệ)
Ngoài ra, TGHĐ còn chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác như: khủng hoảng kinh
tế, ngoại hối, tín dụng, chiến tranh, thiên tai,…
2.2 Cán cân thương mại
2.2.1 Khái niệm cán cân thương mại
Cán cân thương mại là một mục trong tài khoản vãng lai của cán cân thanh toán
quốc tế. Cán cân thương mại ghi lại những thay đổi trong xuất khẩu và nhập khẩu của
một quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định (quý hoặc năm) cũng như mức
chênh lệch giữa chúng (xuất khẩu trừ đi nhập khẩu). Khi mức chênh lệch là lớn hơn 0,
thì cán cân thương mại có thặng dư. Ngược lại, khi mức chênh lệch nhỏ hơn 0, thì cán
cân thương mại có thâm hụt. Khi mức chênh lệch đúng bằng 0, cán cân thương mại ở
trạng thái cân bằng.
Cán cân thương mại còn được gọi là xuất khẩu ròng hoặc thặng dư thương mại. Khi
cán cân thương mại có thặng dư, xuất khẩu ròng/thặng dư thương mại mang giá trị
dương. Khi cán cân thương mại có thâm hụt, xuất khẩu ròng/thặng dư thương mại
mang giá trị âm.
2.2.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến cán cân thương mại
- Nhập khẩu: Có xu hướng tăng khi GDP tăng và thậm chí nó còn tăng nhanh hơn. Sự
gia tăng của nhập khẩu khi GDP tăng phụ thuộc xu hướng nhập khẩu biên (MPZ).
MPZ là phần của GDP có thêm mà người dân muốn chi cho nhập khẩu. Ngoài ra,
nhập khẩu phụ thuộc giá cả tương đối giữa hàng hóa sản xuất trong nước và hàng hóa
sản xuất tại nước ngoài. Nếu giá cả trong nước tăng tương đối so với giá thị trường
quốc tế thì nhập khẩu sẽ tăng lên và ngược lại.
- Xuất khẩu: Chủ yếu phụ thuộc vào những gì đang diễn biến tại các quốc gia khác vì
xuất khẩu của nước này chính là nhập khẩu của nước khác. Do vậy nó chủ yếu phụ
thuộc vào sản lượng và thu nhập của các quốc gia bạn hàng. Chính vì thế trong các
mô hình kinh tế người ta thường coi xuất khẩu là yếu tố tự định.
- Tỷ giá hối đoái: Là nhân tố rất quan trọng đối với các quốc gia vì nó ảnh hưởng đến
giá tương đối giữa hàng hóa sản xuất trong nước với hàng hóa trên thị trường quốc tế.

4


Khi tỷ giá của đồng tiền của một quốc gia tăng lên thì giá cả của hàng hóa nhập khẩu
sẽ trở nên rẻ hơn trong khi giá hàng xuất khẩu lại trở nên đắt đỏ hơn đối với người
nước ngoài. Vì thế việc tỷ giá đồng nội tệ tăng lên sẽ gây bất lợi cho xuất khẩu và
thuận lợi cho nhập khẩu dẫn đến kết quả là xuất khẩu ròng giảm. Ngược lại, khi tỷ giá
đồng nội tệ giảm xuống, xuất khẩu sẽ có lợi thế trong khi nhập khẩu gặp bất lợi và
xuất khẩu ròng tăng lên.
Đối với một nền kinh tế mở, cán cân thương mại có hai tác động quan trọng: xuất
khẩu ròng bổ sung vào tổng cầu (AD) của nền kinh tế; số nhân đầu tư tư nhân và số
nhân chi tiêu chính phủ khác đi do một phần chi tiêu bị "rò rỉ" qua thương mại quốc
tế.
- Lạm phát cũng có ảnh hưởng đến cán cân thương mại của một nước thông qua việc
tăng hay giảm giá trị đồng tiền của một quốc gia. Khi lạm phát một nước tăng cao so
với đối tác, trước tiên do giá hàng hóa trong nước tăng nên người tiêu dùng trong
nước sẽ chuyển sang sử dụng hàng hóa nước ngoài làm nhập khẩu tăng, kéo theo nhu
cầu đối với ngoại tệ tăng làm cho đồng ngoại tệ tăng giá. Thứ hai, giá cao cũng làm
giảm sút nhu cầu hàng hóa của nước ngoài đổi hàng trong nước (giảm xuất khẩu), từ
đó làm ngoại tệ tăng giá do nguồn cung giảm. Hai lực thị trường này sẽ làm tăng giá
trị đồng ngoại tệ hay nói cách khác đồng tiền của nước có lạm phát cao đã bị giảm giá
để bù lại mức chênh lệch lạm phát, từ đó không làm tăng nhu cầu đối với hàng hóa
nhập khẩu và làm cho lạm phát của một nước sẽ ít có tác động lên nước khác. Tuy
nhiên nếu các lực thị trường này đủ lớn và nếu có sự can thiệp của chính phủ làm tỷ
giá nội tệ/ ngoại tệ tăng cao hơn tốc độ tăng giá hàng hóa trong nước so với nước
ngoài thì hàng hóa trong nước sẽ có giá rẻ hơn gia nước ngoài và khi đó ta goi đồng
nội tệ được định giá thấp, cán cân thương mại được cải thiện. Ngược lại nếu tỷ giá
tăng không đủ bù lạm phát thì đồng nội tệ sẽ bị định giá cao và cán cân thương mại bị
xấu đi.
- Ngoài ra cán cân thương mại còn bị ảnh hưởng bởi Các biện pháp của chính phủ

như chính sách bảo hộ mậu dịch. Nhằm bảo vệ hàng hóa trong nước trước sự cạnh
tranh của hàng ngoại, chính phủ có thể tăng thuế hàng nhập khẩu. Động thái này làm
5


tăng giá hàng ngoại nhập, hạn chế nhập khẩu một số mặt hàng, từ đó cán cân thương
mại cũng có thể được cải thiện (nếu các điều kiện khác không đổi).
2.3 Vai trò của tỷ giá hối đoái và mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và cán cân
thương mại
2.3.1 Vai trò
- Vai trò so sánh sức mua của các đồng tiền : Thông qua vai trò này, tỷ giá trở thành
công cụ hữu hiệu để tính toán và so sánh giá trị nội tệ với giá trị ngoại tệ, giá cả hàng
hóa trong nước với giá quốc tế, năng suất lao động trong nước với năng suất lao động
quốc tế...; trên cơ sở đó, tính toán hiệu quả ngoại thương, hiệu quả của việc liên doanh
với nước ngoài, vay vốn nước ngoài, và hiệu quả của các chính sách kinh tế đối ngoại
của nhà nước.
-Tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng tới tình hình lạm phát và tăng trưởng kinh tế.
Khi sức mua của đồng tiền trong nước giảm đi (có thể do nhà nước chủ trương phá
giá tiền tệ để đẩy mạnh xuất khẩu chẳng hạn), tỷ giá hối đoái tăng lên làm giá hàng
nhập khẩu đắt hơn. Nếu hàng nhập khẩu để trực tiếp tiêu dùng thì làm tăng chỉ số giá
tiêu dùng (CPI) trực tiếp. Nếu hàng nhập khẩu dùng cho sản xuất thì làm tăng chi phí
sản xuất và dẫn tới tăng giá thành sản phẩm. Kết quả cũng là sự tăng lên của chỉ số
giá tiêu dùng. Vì vậy, lạm phát có thể xảy ra. Nhưng khi tỷ giá tăng, các ngành sản
xuất hàng xuất khẩu được lợi và phát triển, kéo theo sự phát triển của các ngành sản
xuất trong nước nói chung, nhờ vậy thất nghiệp giảm và nền kinh tế tăng trưởng.
Ngược lại khi tỷ giá hối đoái giảm (giá đồng nội tệ tăng lên), hàng nhập khẩu từ nước
ngoài trở nên rẻ hơn. Từ đó lạm phát được kiềm chế, nhưng lại dẫn tới sản xuất thu
hẹp và tăng trưởng thấp.
Tóm lại, tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng mạnh mẽ và sâu sắc đến quan hệ kinh tế đối
ngoại, tình trạng cán cân thanh toán, tăng trưởng kinh tế, lạm phát và thất nghiệp. Khi

điều chỉnh tỷ giá hối đoái để thực hiện mục tiêu kinh tế xã hội, Nhà nước phải xem
xét nhiều mặt, tính toán đến nhiều tác động khác nhau, trái chiều nhau của tỷ giá. Mặt
khác còn phải cảnh giác đối phó với nạn đầu cơ tiền tệ trên thế giới có thể làm cho nội

6


tệ bất ngờ lên giá hoặc hạ giá do tác động của sự di chuyển các luồng vốn ngoại tệ
gây ra làm cho nền kinh tế trong nước không ổn định.
2.3.2 Mối quan hệ
Tỉ giá hối đoái là 1 tỉ lệ không nhất định, thay đổi bất thường với diễn biến khó
lường. Tác động của tỉ giá hối đoái lên cán cân thương mại đồng thời cũng là tác động
của phá giá lên cán cân thương mại.
Phá giá tiền tệ là làm giảm giá trị đồng nội tệ so với các ngoại tệ khác. Phá giá sẽ
làm tăng tỉ giá danh nghĩa (tỉ giá danh nghĩa là tỉ giá được sử dụng hàng ngày trong
giao dịch trên thị trường ngoại hối, nó chính là giá của 1 đồng tiền được biểu thị thông
qua đồng tiền khác mà chưa đề cập đến tương quan sức mua dịch vụ và hàng hóa giữa
chúng) kéo theo tỉ giá thực (Tỉ giá thực là tỉ giá danh nghĩa được điều chỉnh bằng
tương quan giá cả trong và ngoài nước) tăng sẽ kích thích xuất khẩu và hạn chế nhập
khẩu, cải thiện cán cân thương mại.
Khi tỉ giá tăng (phá giá) giá xuất khẩu rẻ đi khi tính bằng ngoại tệ, giá nhập khẩu tính
theo nội tệ tăng (hiệu ứng giá cả) và làm tăng khối lượng xuất khẩu (hiệu ứng khối
lượng). Cán cân thương mại được cải thiện hay xấu đi tùy thuộc vào hiệu ứng giá cả
hay hiệu ứng khối lượng cái nào trội hơn.
Trong ngắn hạn, khi tỉ giá tăng và tiền lương trong nước tương đối cứng nhắc sẽ làm
giá xuất khẩu rẻ hơn, nhập khẩu trở nên đắt hơn: các hợp đồng được kí kết theo giá
cũ, doanh nghiệp chưa huy động đủ nguồn lực để sản xuất nhiều hơn để đáp ứng nhu
cầu xuất khẩu cũng như nhu cầu tiêu dùng trong nước tăng. Tuy nhiên, hàng nhập
khẩu cũng chưa thể giảm ngay do tâm lí người tiêu dùng còn nghi ngờ về chất lượng
hàng tiêu dùng trong nước. Do đó, số lượng hàng xuất khẩu trong ngắn hạn tăng

nhanh chóng nhưng hàng nhập khẩu vẫn không giảm mạnh. Vì vậy, hiệu ứng giá cả có
tính trội hơn hiệu ứng số lượng trong ngắn hạn làm cán cân thương mại xấu đi.
Trong dài hạn, giá nội địa giảm đã kích thích sản xuất trong nước và người tiêu dùng
trong nước cũng có đủ thời gian để tiếp cận, so sánh chất lượng hàng nhập với hàng
nội. Bên cạnh đó doanh nghiệp cũng có thời gian tập hợp đủ các nguồn lực để tăng
7


khối lượng sản xuất. Lúc này sản lượng bắt đầu co giãn, hiệu ứng số lượng trội hơn
hiệu ứng giá cả làm cán cân thương mại được cải thiện.
III/ THỰC TRẠNG
3.1 Thực trạng cán cân thương mại ở Việt Nam 2004-2014
- Trong 5 năm trở lại đây, nền kinh tế Việt Nam đã trải qua những thăng trầm do ảnh
hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu cũng như xuất phát từ nội tại của nền
kinh tế: Tăng trưởng cao nhưng chưa ổn định; Lạm phát tăng cao và đặc biệt là tình
trạng thâm hụt cán cân vãng lai bắt nguồn từ thâm hụt cán cân thương mại ngày càng
gia tăng. Bên cạnh đó, do tác động của cuộc khủng hoảng và môi trường đầu tư của
Việt Nam chưa được cải thiện như mong đợi, dòng vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp
nước ngoài vào Việt Nam chưa vững chắc. Mặc dù mức thâm hụt hiện nay có xu
hướng được cải thiện song tình trạng này chắc chắn sẽ gây sức ép không nhỏ đến cán
cân thanh toán quốc tế về khả năng chống đỡ các cú sốc bên ngoài và tính bền vững
của nền kinh tế, khi dự trữ ngoại hối của Việt Nam thấp và không vững chắc.

8


- Phân tích :
Nhìn vào biểu đồ trên, ta thấy cán cân thương mại của Việt Nam thâm hụt khá
cao.
• Đặc biệt vào năm 2007, mức thâm hụt ấy tăng kỉ lục, lên đến 10,36 tỷ USD.

Vào năm 2008, mức độ thâm hụt cán cân thương mại còn cao hơn, lên tới
12,78 tỷ USD. Nhìn chung, từ năm 2004 – 2011, cán cân thương mại Việt Nam
rơi vào trạng thái thâm hụt.
- Nguyên nhân :
+ Nhập khẩu quá nhanh. Kim ngạch nhập khẩu tăng từ 32 tỷ USD năm 2004
lên tới 110 tỷ USD năm 2011. Tương tự, kim ngạch xuất khẩu cũng tăng nhanh
chóng nhưng cả giai đoạn, thì kim ngạch nhập khẩu luôn vượt trội hơn kim
ngạch xuất khẩu. Dẫn đến cán cân thương mại luôn bị thâm hụt trong giai đoạn
này.
+ Do tự do hóa thương mại. Việt Nam là thành viên của WTO, thực hiện các
cam kết về giảm thuế quan và các hạn chế thương mại và mở cửa thị trường
theo cam kết. Nhu cầu nhập tư liệu sản xuất như máy móc, hàng tiêu dùng xa
xỉ tăng lên vì dân cư được cải thiện thu nhập. Điều này cho thấy hàng rào thuế
quan đóng vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu tình trạng thâm hụt thương
mại.
+ Do chính sách tỷ giá Việt Nam. Cơ chế này ở Việt Nam không đảm nhận
được chức năng điều hòa cán cân thương mại. Do nhập siêu tăng mạnh mà tỉ
giá lại không thay đổi.


Từ năm 2012 – 2014, tăng trưởng xuất khẩu và nhập khẩu đều duy trì ở

mức khá, xuất khẩu của khu vực trong nước được cải thiện, cán cân thương
mại duy trì trạng thái thặng dư trong 3 năm liên tiếp.
- Thành tựu :
Năm 2014, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá cả nước đạt hơn 298,24 tỷ
USD, tăng 12,9%, tương ứng tăng 34,17 tỷ USD so với năm 2013; nhập khẩu
9



đạt hơn 148,05 tỷ USD, tăng 12,1%, tương ứng tăng hơn 16,02 tỷ USD. Cán
cân thương mại hàng hóa năm 2014 đạt mức thặng dư 2,14 tỷ USD, mức cao
nhất từ trước đến nay.
Xét từng khu vực kinh tế, kim ngạch xuất khẩu của khu vực doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đạt 101,6 tỷ USD, tăng khoảng 15,2%, chiếm tỷ
trọng khoảng 67,7% tổng kim ngạch của cả nước; kim ngạch xuất khẩu của
khu vực kinh tế trong nước đạt khoảng 48,4 tỷ USD, chiếm khoảng 32,3% tổng
kim ngạch xuất khẩu. Xuất khẩu khu vực trong nước được cải thiện hơn với tốc
độ tăng trưởng khoảng 10,4%, cao hơn mức tăng 3,5% của năm 2013 so với
cùng kỳ năm 2012.
Nhìn chung, tình hình thương mại quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn này
khá tích cực. Xuất khẩu duy trì được tốc độ tăng trưởng khá, cán cân thương
mại tiếp tục thặng dư ở mức cao, cơ cấu mặt hàng và cơ cấu đối tác tương đối
ổn định, xuất khẩu của khu vực trong nước cải thiện, các tác động từ diễn biến
biển Đông là không lớn.
- Hạn chế :
+ Tăng trưởng xuất khẩu chưa thực sự bền vững, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu
có xu hướng chững lại. Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu còn chậm, các mặt hàng
xuất khẩu vẫn chủ yếu là các mặt hàng gia công, lắp ráp, chưa thực sự đem lại
giá trị gia tăng cao.
+ Do tác động của cuộc khủng hoảng và môi trường đầu tư của Việt Nam chưa
được cải thiện như mong đợi, dòng vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp nước ngoài
vào Việt Nam chưa vững chắc. Mặc dù mức thâm hụt hiện nay có xu hướng
được cải thiện song tình trạng này chắc chắn sẽ gây sức ép không nhỏ đến cán
cân thanh toán quốc tế về khả năng chống đỡ các cú sốc bên ngoài và tính bền
vững của nền kinh tế, khi dự trữ ngoại hối của Việt Nam thấp và không vững
chắc.
3.2 Thực trạng tỷ giá hối đoái ở Việt Nam giai đoạn năm 2004-2014
Biểu đồ thể hiện tỷ giá hối đoái đồng Đô la Mỹ ở Việt Nam trong giai đoạn 20042014 so với 2003 (%).
10



 Nhận xét tỷ giá hối đoái ở Việt Nam so với đồng Đô- la Mỹ trong giai đoạn
-

2004- 2014 luôn tăng. Cụ thể là:
Năm 2004: Giá đô la Mỹ trong các tháng trong năm biến động không đáng kể so
với các tháng trước và bình quân năm 2004 giá đô la Mỹ chỉ tăng 1,6% so với năm
2003. Tuy nhiên, trong năm 2004 giá đô la Mỹ giảm so với một số đồng tiền khác

-

và giảm mạnh so với đồng Euro.
Năm 2005: Giá đô la Mỹ tương đối ổn định, giá các tháng so với tháng trước chỉ

-

tăng ở mức từ 0% đến 0,2%; bình quân 12 tháng tăng 0,6% so với năm trước.
Năm 2006: Bình quân giá đô la Mỹ tăng 0,9% so với năm 2005 và không chênh
lệch nhiều giữa các quí, mức giao động chỉ từ 0,9% tới 1,1%. Như vậy, nếu quan
sát từ năm 2003 đến nay, giá đô la Mỹ tăng thấp đáng kể so với giá vàng và tăng

-

thấp so với mức tăng giá tiêu dùng.
Năm 2007: Giá đô la Mỹ tương đối ổn định, trung bình cả năm tăng chỉ khoảng
0,64% so với năm 2006.Ngoài ra, giá đồng đô la Mỹ trên thị trường thế giới sụt
giảm so với một số ngoại tệ mạnh.

11



-

Năm 2008: Kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng, nền kinh tế Việt Nam cũng ảnh

hưởng từ cuộc khủng hoảng kinh tế tác động tới tình hình sản xuất, xuất khẩu trong
nước.


Giai đoạn 1: từ 1/1/2008 tới 10/3/2008: tỷ giá VND/USD trên thị trường giảm



mạnh từ 16.112 đồng xuống còn 15.960 đồng.
Giai đoạn 2: từ 10/3/2008 tới 27/6/2008: ở giai đoạn này, sự mất giá tiền VND
so với USD là nguyên nhân chính dẫn đến tỷ giá diễn biến ngược chiều so với
giai đoạn 1. Tỷ giá liên ngân hàng công bố từ 15.960đ – 15.946đ, đặc biệt

trong tháng 6/2008, tỷ giá trên thị trường liên ngân hàng có lúc lên tới 19.400đ
• Giai đoạn 3: từ 27/6/2008 tới 7/11/2008: từ tháng 9/2008 cuộc khủng hoảng tài
chính tại Mỹ hiện rõ gây ra sức ép đến VND làm cho đồng nội tệ ngày càng bị
mất giá. Xuất khẩu yếu đi do sự xấu đi nhanh chóng của các thị trường xuất
khẩu chủ yếu như Mỹ, Nhật, khối EU do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài


chính tiền tệ tại Mỹ.
Giai đoạn 4: từ 7/11/2008 đến 1/1/2009: sau khi ngân hàng nhà nước tăng biên
độ tỷ giá, tình hình có vẻ được cải thiện mặc dù tỷ giá USD/VND liên ngân
hàng công bố vẫn duy trì ở mức ~ 16.500đ. Tỷ giá tại các ngân hàng luôn duy

trì ở mức ~ 17.000đ. Cho đến những ngày đầu năm 2009, tỷ giá giao dịch USD

-

của các ngân hàng vẫn đứng ở mức cao: 17.370đ – 17.480đ
Năm 2009: tình hình tỷ giá hối đoái biến động lớn, nhất là vào cuối năm. Trong
năm tỷ giá tăng 1092VND/USD. Từ tháng 1 đến tháng 4, tỷ giá hối đoái tăng
chậm với mức độ tăng giá không cao. Từ tháng 5 đến tháng 11 thì tỷ giá có xu
hướng bình ổn, không tăng nhiều so với các tháng trước. Biến động xung quanh
mức 17.800VND/USD. Trong tháng 12 tỷ giá mới thực sự có sự tăng đột biến từ
17.862VND/USD lên 18.492VND/USD tăng hơn 630VND/USD, một tốc độ tăng

-

tỷ giá chóng mặt trong nền kinh tế.
Năm 2010: Mức độ tăng tỷ giá có chiều hướng giảm so với năm 2009. Giá đô la
Mỹ tăng 8,85% so với năm 2009 cũng là dấu hiệu thể hiện sự hiệu quả trong các
chính sách của Nhà nước.

12


-

Năm 2011: Chỉ số đồng đô la Mỹ lại tăng với tốc độ cao hơn, cụ thể là tăng

-

10,57% so với năm 2010.
Năm 2012: Vào năm 2012, mức chênh lệch giá có xu hướng giảm rõ rệt. Từ năm

2011 tăng 10,57% so với năm trước thì tới năm 2012 chỉ tăng 0,24% so với năm
trước đó. Đó hoàn toàn là nhờ chính sách của chính phủ và nền kinh tế thế giới đã

-

có dấu hiệu hồi phục.
Năm 2013 và 2014: Vẫn là chỉ số đồng Đô la Mỹ tăng nhưng mức tăng đã được
kiểm soát tốt hơn. Cụ thể, bình quân giá Đô la Mỹ trong các năm 2013, 2014 lần
lượt tăng 0,9% và 0,68% so với các năm trước đó. Nền kinh tế đã ở mức phục hồi
và trong tầm kiểm soát.

3.3 Phân tích tác động của tỷ giá hối đoái tới cán cân thương mại trong giai đoạn
2004-2014 ở Việt Nam
1. Tỷ giá hối đoái tác động tới hoạt động xuất nhập khẩu
USD million

2004

2005

2006

2007

2008

2009

Cán cân thương mại


-3,854

-2,439

-2,776

-10,360

-12,800

-8,300

Xuất khẩu hàng hóa

26,490

32,450

39,830

48,560

62,690

57,100

Nhập khẩu hàng hóa

28,770


34,890

42,600

58,920

75,470

65,400

Tỷ giá hối đoái
(VND/USD) theo CPI

14,426

15,124

15,729

17,013

20,379

21,137

Cán cân
2010
2011
thanh
toán

quốc tế
Cán cân thương mại
-5,136
-450
Xuất khẩu hàng hóa
72,192
96,906
Nhập khẩu hàng hóa
77,339
97,356

13

2012

3,691
114,558
113,778

2013

3,269
132,200
131,300

2014(đến
tháng 7)
1,600
109,870
107,610



Có thể nói tỷ giá hối đoái tác động trực tiếp đến hoạt động xuất nhập khẩu. Bất kì
sự thay đổi nào của tỷ giá hối đoái đều ảnh hưởng đến tình hình xuất nhập khẩu.
Ta có nhận xét chung là nhập khẩu luôn lớn hơn xuất khẩu. Tỷ giá hối đoái đều
tăng theo từng năm. Nhìn chung, sản lượng Trong trường hơp, nếu đồng VND giảm
giá, làm cho hàng hóa của Việt Nam ở nước ngoài rẻ hơn còn hàng hóa nước ngoài ở
trong nước đắt hơn, vì vậy tăng xuất khẩu và giảm nhập khẩu. Ngược lại, sẽ hạn chế
xuất khẩu, thúc đẩy nhập khẩu.
2. Cán cân thương mại cũng ảnh hưởng tới tỷ giá hối đoái
Một nền kinh tế khi xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ sẽ thu được ngoại tệ. Để tiếp
tục việc kinh doanh, các nhà xuất khẩu phải bán ngoại tệ lấy nội tệ, mua hàng hóa
dịch vụ trong nước xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Trên thị trường việc cung
ngoại tệ sẽ tăng, làm tỷ giá hối đoái giảm. Ngược lại, khi nhập khẩu hàng hóa dịch vụ,
các nhà nhập khẩu cần ngoại tệ để thanh toán cho đối tác và đi mua ngoại tệ trên thị
trường. Hành động này làm cầu ngoại tệ tăng, tỷ giá hối đoái tăng. Tác động của hai
hiện tượng trên là ngược chiều trong việc hình thành tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối đoái
cuối cùng sẽ tăng hay giảm phụ thuộc vào mức độ tác động mạnh yếu của các nhân tố,
đó chính là cán cân thương mại. Nếu một nước có thặng dư thương mại, cung ngoại tệ
lớn hơn cầu ngoại tệ, tỷ giá hối đoái sẽ giảm, đồng nội tệ giảm giá. Khi thâm hụt
thương mại, tỷ giá hối đoái sẽ tăng, đồng nội tệ giảm giá.
Đầu tư ra nước ngoài, có ảnh hưởng tới tỷ giá hối đoái, cư dân trong nước có dùng
tiền mua tài sản ở nước ngoài, có thể là đầu tư trực tiếp ( xây dựng nhà máy, thành
lập các doanh nghiệp...) hay đầu tư gián tiếp (mua cổ phiếu, trái phiếu...). Những nhà
đầu tư này muốn thực hiện hoạt động kinh doanh trên cần phải có ngoại tệ. Họ mua
ngoại tệ trên thị trường, luồng vốn ngoại tệ chảy ra nước ngoài, tỷ giá hối đoái sẽ
tăng. Ngược lại, một nước nhận đầu tư từ nước ngoài, luồng vốn nước ngoài chảy vào
trong nước làm cho cung ngoại tệ tăng, tỷ giá hối đoái sẽ giảm. Đầu tư ra nước ngoài
ròng là hiệu số giữa luồng vốn chảy ra và luồng vốn chảy vào của một nước. Khi đầu
14



tư ra nước ngoài ròng dương, luồng vốn chảy vào trong nước nhỏ hơn dòng vốn chảy
ra ngoài nước, tỷ giá hối đoái sẽ tăng. Tỷ giá hối đoái sẽ giảm trong trường hợp ngược
lại, đầu tư ra nước ngoài ròng âm. Theo quy luật tối ưu hóa, luồng vốn sẽ chảy đến
nơi nào có lợi nhất, tức là hiệu suất sinh lời cao nhất. Một nền kinh tế sẽ thu hút đầu
tư nước ngoài nhiều hơn khi nó có môi trường đầu tư thuận lợi, nền chính trị ổn định,
các đầu vào sẵn có với giá rẻ, nguồn lao động dồi dào có tay nghề, thị trường tiêu thụ
rộng lớn, lãi suất cao và sự thông thoáng trong chính sách thu hút đầu tư nước ngoài
của Chính phủ.

15



×