Tải bản đầy đủ (.doc) (164 trang)

SỰ KHÁC BIỆT CỦA YẾU TỐ HẬU HIỆN ĐẠI TRONG SÁNG TÁC CỦA HỒ ANH THÁI VÀ HARUKI MURAKAMI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (695.93 KB, 164 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN QUANG HƯNG

SỰ KHÁC BIỆT CỦA YẾU TỐ HẬU HIỆN ĐẠI
TRONG SÁNG TÁC CỦA HỒ ANH THÁI VÀ
HARUKI MURAKAMI
Ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 9 22 01 21

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRƯƠNG ĐĂNG DUNG

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả phân tích trong luận án hoàn toàn trung thực và chưa từng
được ai công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào trước đây. Tôi
xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về kết quả nghiên cứu trong luận án của
mình.

Quy Nhơn, tháng 11 năm 2018
Tác giả

Trần Quang Hưng




LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi chân thành cảm ơn những người thân yêu trong
gia đình đã tạo mọi điều kiện cần thiết để tôi tập trung hoàn thành luận
án.
Đặc biệt, xin cảm ơn PGS. TS. Trương Đăng Dung – người
hướng dẫn khoa học – đã tận tình chỉ dạy, hướng dẫn, đóng góp những ý
kiến quý báu giúp tôi hoàn thành luận án trong điều kiện tốt nhất có thể.
Xin được cảm ơn tất cả quý thầy cô, bạn bè đã luôn khuyến
khích và giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện đề tài.
Tác giả


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT

Nxb : Nhà xuất bản:
tr. :

Trang:


MỤC LỤC

MỤC LỤC........................................................................................................5
MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài..............................................................................1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án.........................................2
Mục đích nghiên cứu của luận án là làm sáng tỏ được sự khác biệt của
yếu tố hậu hiện đại trong sáng tác của Hồ Anh Thái và Haruki

Murakami.........................................................................................................2
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án tập trung vào các nhiệm vụ chính sau: 2
- Nghiên cứu lý thuyết, khái quát các đặc trưng cơ bản của văn học hậu
hiện đại..............................................................................................................2
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận án..............................................2
3.1. Đối tượng nghiên cứu..................................................................................................2
3.2. Phạm vi nghiên cứu.....................................................................................................2

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án..................3
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án.....................................................3
Về thực tiễn: qua so sánh những điểm khác biệt ở yếu tố hậu hiện đại ở
tác phẩm của hai tác giả Hồ Anh Thái và Haruki Murakami chúng tôi
mong muốn đem một hướng nghiên cứu về sự khác biệt ở những tác giả
khác nhau, trong những hoàn cảnh xã hội khác nhau khi họ cùng sử dụng
những thủ pháp tương đồng. Qua đó, luận án cũng gợi mở thêm về
những giá trị của văn học hậu hiện đại cũng như thấy được sức ảnh
hưởng của nó trong tiến trình phát triển của văn học nhân loại. Luận án
sẽ là một tài liệu tham khảo hữu ích cho việc tìm hiểu, nghiên cứu, học
tập về văn học hậu hiện đại.............................................................................4
7. Cơ cấu của luận án.......................................................................................4
Chương 1..........................................................................................................5


TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU.................................................5
1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan gián tiếp đến đề tài.......................................5
1.2. Những công trình liên quan trực tiếp đến đề tài........................................................12

1.2.1. Những công trình nghiên cứu yếu tố hậu hiện đại trong sáng tác của Hồ
Anh Thái...........................................................................................................12
1.2.2. Những công trình nghiên cứu yếu tố hậu hiện đại trong sáng tác của

Haruki Murakami..............................................................................................19

Chương 2.........................................................................................................26
HẬU HIỆN ĐẠI TRONG VĂN HỌC VÀ TIỀN ĐỀ TIẾP NHẬN...........26
Ở HỒ ANH THÁI VÀ HARUKI MURAKAMI.........................................26
2.1. Những đặc trưng thi pháp cơ bản của văn học hậu hiện đại......................................26

2.1.1. Phi trung tâm hóa và tinh thần giễu nhại.................................................28
2.1.2. Tính liên văn bản....................................................................................30
2.1.3. Lập thể hóa bức tranh hiện thực và lối trần thuật hỗn độn......................31
2.1.4. Đề cao tiểu tự sự và mở rộng ngoại biên.................................................33
2.2. Những yếu tố tiền đề cho sự tiếp nhận tinh thần hậu hiện đại ở hai tác giả..............34

2.2.1. Hồ Anh Thái...........................................................................................34
2.2.2. Haruki Murakami...................................................................................41
2.2.3. Cái nhìn về hiện thực và con người.........................................................45

Chương 3.........................................................................................................52
SỰ KHÁC BIỆT VỀ THÂN PHẬN CON NGƯỜI TRONG SÁNG TÁC
CỦA HỒ ANH THÁI VÀ HARUKI MURAKAMI....................................52
3.1. Sự khác biệt ở kiểu con người đặc trưng...................................................................52

3.1.1. Con người tha hóa trong sáng tác của Hồ Anh Thái................................52
3.2. Sự khác biệt ở kiểu con người với bản năng tính dục................................................74

3.2.1. Con người bản năng tính dục qua cái nhìn của Hồ Anh Thái..................75
3.2.2. Con người với bản năng tính dục trong sáng tác của Haruki Murakami. 79
3.3. Sự khác biệt ở kiểu con người với hành trình kiếm tìm............................................92

3.3.1. Con người với hành trình kiếm tìm giá trị cuộc sống trong sáng tác của

Hồ Anh Thái.....................................................................................................92


3.2.3. Con người với hành trình kiếm tìm bản thể chính mình trong sáng tác của
Haruki Murakami..............................................................................................96

Chương 4.......................................................................................................104
PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN TRONG SÁNG TÁC CỦA HỒ ANH THÁI
VÀ HARUKI MURAKAMI.......................................................................104
4.1. Sự khác biệt về nghệ thuật xây dựng cốt truyện phân mảnh, lắp ghép....................104

4.1.3. Cốt truyện phân mảnh, lắp ghép trong sáng tác của Haruki Murakami.112
4.2. Sự khác biệt về nghệ thuật mờ hóa nhân vật...........................................................122

4.2.1. Tẩy trắng ngoại hình, lai lịch, tính cách................................................122
4.2.2. Sự biến mất của nhân vật......................................................................126
4.3. Sự khác biệt trong việc thể hiện yếu tố liên văn bản...............................................131

4.3.1. Sắc màu văn hóa đặc trưng...................................................................131
4.3.2. Sự xâm nhập của các thể loại................................................................134


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Hậu hiện đại đã trở thành hiện tượng mang tính toàn cầu, được bàn luận, tranh cãi
rất nhiều và có ảnh hưởng sâu rộng trên nhiều lĩnh vực, trong đó, có văn học. Với văn
học, chủ nghĩa hậu hiện đại đã mở ra nhiều khả năng mới cho sự sáng tạo, đem lại những
hiệu quả rất to lớn trong việc mang đến cho đông đảo công chúng độc giả trên toàn thế
giới món ăn tinh thần hết sức gần gũi mà không bị nhàm chán.

Hồ Anh Thái là nhà văn giàu yếu tố hậu hiện đại của Việt Nam và Haruki Murakami
là một nhà văn hậu hiện đại của Nhật Bản. Sự xuất hiện của yếu tố hậu hiện đại trong các
sáng tác của hai tác giả văn học đương đại Việt Nam và Nhật Bản có thể xem là độc lập chứ
không nằm trong mối quan hệ ảnh hưởng, chi phối. Họ cùng thuộc hai quốc gia ở một châu
lục, cùng mang cảm thức Đông Á, cùng tương đồng về thế hệ, cùng tiếp nhận văn học
phương Tây và Mỹ từ đầu nguồn, cùng làm công việc dịch thuật nhưng lại có những khác
biệt thú vị ở yếu tố hậu hiện đại trong sáng tác. So sánh sự khác biệt của yếu tố hậu hiện đại
trong sáng tác của hai nhà văn với nhau sẽ thấy được sự khác biệt, chẳng những ở văn
chương của họ, mà còn có được một cái nhìn thực chất về hậu hiện đại ở Việt Nam và Nhật
Bản, và xa hơn nữa là hai nền văn hóa, hai cá tính dân tộc. Trên cơ sở đó khẳng định tài năng
và đóng góp đáng kể của hai nhà văn trên tiến trình hiện đại hóa và hội nhập văn học thế
giới.
Trong thời gian qua đã có khá nhiều nghiên cứu giới thiệu về yếu tố hậu hiện đại
trong sáng tác của Hồ Anh Thái và Haruki Murakami. Tuy nhiên hầu hết các công trình
tập trung nghiên cứu yếu tố hậu hiện đại ở cấp độ tác phẩm hoặc nhóm tác phẩm và khảo
sát độc lập cho một tác giả. Chưa có công trình nào tiến hành khảo sát trên quy mô toàn
diện và có sự so sánh để chỉ ra được sự khác biệt của yếu tố hậu hiện đại trong sáng tác
của hai nhà văn này. Chính vì vậy đề tài Sự khác biệt của yếu tố hậu hiện đại trong sáng
tác của Hồ Anh Thái và Haruki Murakami mà chúng tôi tiến hành là hoàn toàn mới mẻ
và có triển vọng để thực hiện tốt.

1


2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích
Mục đích nghiên cứu của luận án là làm sáng tỏ được sự khác biệt của yếu tố hậu
hiện đại trong sáng tác của Hồ Anh Thái và Haruki Murakami.
2.2. Nhiệm vụ
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án tập trung vào các nhiệm vụ chính sau:

- Nghiên cứu lý thuyết, khái quát các đặc trưng cơ bản của văn học hậu hiện đại
- Nghiên cứu những tiền đề tiếp nhận yếu tố hậu hiện đại ở hai nhà văn.

- Khảo sát, phân tích yếu tố hậu hiện đại trong tác phẩm của mỗi tác giả.
- So sánh, đối chiếu chỉ rõ những điểm khác biệt ở yếu tố hậu hiện đại trong sáng
tác của mỗi nhà văn, đưa ra lý giải cho những khác biệt đó. Đồng thời khái quát những
thành công của mỗi tác giả trong việc vận dụng các thủ pháp hậu hiện đại.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là yếu tố hậu hiện đại trong sáng tác của Hồ Anh Thái và
Haruki Murakami và chỉ ra sự khác biệt của nó trong sáng tác của Hồ Anh Thái và
Murakami.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận án là những tác phẩm của hai nhà văn Hồ Anh Thái
và Haruki Murakami: Phía sau vòm trời, Vẫn chưa tới mùa đông, Tiếng thở dài qua rừng
kim tước, Người đàn bà trên đảo, Trong sương hồng hiện ra, Họ trở thành nhân vật của
tôi, Bốn lối vào nhà cười, Cõi người rung chuông tận thế, Văn mới 5 năm đầu thế kỷ,
Người và xe chạy dưới ánh trăng, Tự sự 265 ngày, Sắp đặt và diễn, Mười lẻ một đêm,
Đức Phật, nàng Savitri và tôi , SBC là săn bắt chuột, Những đứa con rải rác trên đường ,
Lang thang trong chữ.
Kafka bên bờ biển, Rừng Nauy, Phía nam biên giới, phía Tây mặt trời , Người tình
Sputnik, Biên niên ký chim vặn dây cót, Ngầm, Xứ sở diệu kỳ tàn bạo và chốn tận cùng thế

giới, Cuộc săn cừu hoang, Tôi nói gì khi nói về chạy bộ, Nhảy Nhảy Nhảy, Tazaki
2


Tsukuru không màu và những năm tháng hành hương, Những người đàn ông không có
đàn bà.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án

Để triển khai đề tài Sự khác biệt của yếu tố hậu hiện đại trong sáng tác của Hồ
Anh Thái và Haruki Murakami, chúng tôi đã vận dụng lý thuyết hậu hiện đại, lý thuyết
liên văn bản là chủ đạo.
Chúng tôi sử dụng phối hợp nhiều phương pháp nghiên cứu, trong đó phương
pháp so sánh là phương pháp nghiên cứu chủ đạo. Hệ thống phương pháp nghiên cứu
gồm có:
Phương pháp so sánh (đồng đại, lịch đại): phương pháp này được sử dụng để chỉ
ra những khác biệt trong yếu tố hậu hiện đại trong các tác phẩm của Hồ Anh Thái và
Haruki Murakami trong dòng chảy của văn học hậu hiện đại.
Phương pháp lịch sử - loại hình: phương pháp này vận dụng nguyên tắc loại hình
xem xét những tiểu thuyết ở các dạng thức biểu hiện cụ thể từ phương diện đặc trưng tư
duy tiểu thuyết, nghệ thuật trần thuật; chỉ ra các kiểu, dạng của người kể, điểm nhìn, kết
cấu.
Phương pháp cấu trúc - hệ thống: đặt toàn bộ sáng tác của hai nhà văn Hồ Anh
Thái và Murakami thành một hệ thống, chúng tôi tiến hành khảo sát và rút ra được những
nét đặc trưng trong yếu tố hậu hiện đại ở tác phẩm của mỗi tác giả.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án chỉ ra và làm sáng tỏ những điểm khác biệt ở yếu tố hậu hiện đại ở tác
phẩm của hai tác giả chủ yếu qua các phương diện thân phận con người và phương thức
thể hiện tác phẩm. Qua đó, luận án đánh giá những đặc sắc nghệ thuật riêng trong sáng
tác của hai nhà văn tiêu biểu cho hai nền văn học Việt Nam và Nhật Bản trên tinh thần
soi sáng của lý thuyết hậu hiện đại. Đây là cơ sở để khẳng định tài năng và đóng góp
đáng kể của hai nhà văn trong tiến trình hướng tới ngôi nhà chung của văn chương thế
giới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Về lý luận: luận án nỗ lực khái quát những đặc trưng cơ bản của văn học hậu hiện
đại, mang đến một cái nhìn sâu sắc hơn về sự vận động của tư duy tiểu thuyết và truyện
ngắn theo tinh thần hậu hiện đại.
3



Về thực tiễn: qua so sánh những điểm khác biệt ở yếu tố hậu hiện đại ở tác
phẩm của hai tác giả Hồ Anh Thái và Haruki Murakami chúng tôi mong muốn đem một
hướng nghiên cứu về sự khác biệt ở những tác giả khác nhau, trong những hoàn cảnh xã
hội khác nhau khi họ cùng sử dụng những thủ pháp tương đồng. Qua đó, luận án cũng
gợi mở thêm về những giá trị của văn học hậu hiện đại cũng như thấy được sức ảnh
hưởng của nó trong tiến trình phát triển của văn học nhân loại. Luận án sẽ là một tài liệu
tham khảo hữu ích cho việc tìm hiểu, nghiên cứu, học tập về văn học hậu hiện đại.
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, phần Nội dung
luận án được triển khai thành 4 chương:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2. Hậu hiện đại trong văn học và tiền đề tiếp nhận ở Hồ Anh Thái và
Haruki Murakami
Chương 3. Sự khác biệt về thân phận con người trong sáng tác của Hồ Anh Thái
và Haruki Murakami
Chương 4. Sự khác biệt về phương thức thể hiện trong sáng tác của Hồ Anh Thái
và Haruki Murakami

4


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan gián tiếp đến đề tài
Trước hết để tạo được cơ sở lý luận cho việc đi vào nghiên cứu các yếu tố
hậu hiện đại trong sáng tác của các nhà văn Việt Nam, chúng tôi hướng đến tìm hiểu
những công trình cung cấp cơ sở lý thuyết do các nhà lý luận đã dày công nghiên cứu và
dịch thuật trong thời gian qua. Tính từ bài viết của Antonio Blach: “Vài suy nghĩ về cái
gọi là tiểu thuyết hậu hiện đại” trên Tạp chí văn học (1991), cho đến nay nhiều công

trình lý luận nghiên cứu về văn học hậu hiện đại đã được xuất bản. Có thể điểm qua tên
của các công trình tiêu biểu như: Văn học hiện đại thế giới – những vấn đề lý thuyết
(2003) của nhiều tác giả; Chủ nghĩa hậu hiện đại (Postmodernism) (2006) của Trần
Quang Thái; Truyện ngắn hậu hiện đại thế giới (2003); Truyện ngắn, lý luận, tác gia và
tác phẩm (2005); Văn học hậu hiện đại - Lý thuyết và tiếp nhận (2012) của Lê Huy Bắc;
Hoàn cảnh hậu hiện đại (2006) của J. F. Lyotard (do Ngân Xuyên dịch, Bùi Văn Nam
Sơn hiệu đính và giới thiệu); Lý thuyết hậu hiện đại (2011) của Phương Lựu; Thi pháp
của chủ nghĩa hậu hiện đại (2012) của Liviu Petrescu do Lê Nguyên Cẩn dịch và giới
thiệu…
Hậu hiện đại trong văn học là vấn đề được giới lý luận nghiên cứu mà còn
thu hút được sự quan tâm của các khoa ngữ văn ở các trường đại học uy tín trên cả nước.
Đã có hai cuộc hội thảo về văn học hậu hiện đại được tổ chức bởi Khoa Ngữ văn trường
Đại học Khoa học Huế năm 2011 và Khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Năm 2013. Các cuộc hội thảo đã nhận được nhiều bài viết, tham luận của các nhà nghiên
cứu ở nhiều độ tuổi khác nhau và được tập hợp trong hai tập kỷ yếu hội thảo Văn học
hậu hiện đại – Lý thuyết và tiếp nhận (2011), Văn học hậu hiện đại - Lý thuyết và thực
tiễn (2013). Đây là sự góp thêm những công trình có giá trị cho nghiên cứu về văn học
hậu hiện đại một vấn đề đang ngày càng dành được sự quan tâm của giới nghiên cứu ở
nước ta.
Trong chuyên luận Văn học hiện đại thế giới – những vấn đề lý thuyết
(2003) do Nhà xuất bản hội nhà văn và Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây phát hành
5


đã giới thiệu 19 công trình và bài viết của các tác giả trong và ngoài nước về chủ nghĩa
hậu hiện đại. Những bài viết trong tuyển tập của các nhà lý luận phê bình trên thế giới
được dịch và giới thiệu như J. F. Lyotard, Mary Klages, I. P. Ilin, D. Martin Fields, Hans
Bertens, Fredric Jameson…, và một số nhà nghiên cứu Việt Nam như Phương Lựu,
Nguyễn Văn Dân, Lê Huy Bắc, Hoàng Ngọc Tuấn…, có sức thuyết phục cao. Đây là một
công trình quy mô và có hệ thống nhất về văn học hậu hiện đại xét cả ở cấp độ lý thuyết

và thực tiễn sáng tạo, đem lại đóng góp rất lớn cho việc tiếp nhận lý thuyết hậu hiện đại ở
nước ta. Các bài viết được giới thiệu trong chuyên luận này đã lần lượt đề cập nhiều vấn
đề cơ bản của chủ nghĩa hậu hiện đại. I. P. Ilin với bài viết “Chủ nghĩa hậu hiện đại – một
số khái niệm và thuật ngữ” (do Đào Tuấn Ảnh dịch) đã cung cấp một cách có hệ thống
các thuật ngữ về khái niệm hậu hiện đại cũng như những đặc điểm của chủ nghĩa hậu
hiện đại trong văn học. Phương Lựu trong bài viết “Chủ nghĩa hậu hiện đại” đã trình bày
những sự kiện cơ bản thúc đẩy sự ra đời của thuật ngữ hậu hiện đại bao gồm: đại chiến
thế giới thứ II, bóng ma vũ khí hạt nhân, sự phát triển như vũ bão của văn minh kỹ trị. Lê
Huy Bắc với bài viết “Truyện ngắn hậu hiện đại” đã khẳng định quá trình vận động tất
yếu của lịch sử và trạng thái tinh thần nhân loại đang trải qua giai đoạn hậu hiện đại. Ông
viết: “Bất kỳ một quốc gia có nền kinh tế, nền khoa học kỹ thuật phát triển nào đều
không xa lạ với chủ nghĩa hậu hiện đại” [3, tr.415]. Quan trọng hơn ứng dụng khái niệm
“toàn cầu hóa”, tác giả khẳng định chủ nghĩa hậu hiện đại có cơ hội phát triển ngay cả
trên những nền kinh tế và cơ sở hạ tầng chưa đạt tầm hậu công nghiệp. Và ông khẳng
định “thế giới hiện nay là thế giới của kỷ nguyên chủ nghĩa hậu hiện đại” [3, tr.415]. Bài
viết Nguyễn Minh Quân: “Chủ nghĩa hậu hiện đại, những khái niệm căn bản”, đã góp
phần xác định lại một cách khá thuyết phục sự phân kỳ giữa hiện đại và hậu hiện đại.
Nguyễn Ước với bài nghiên cứu “Một hồ sơ về chủ nghĩa hậu hiện đại” đã thể hiện cái
nhìn toàn diện và đa chiều trong việc xác định trạng thái tinh thần, quy luật phát triển của
văn học hậu hiện đại trong tiến trình chung của thế giới và đi đến khẳng định quan trọng:
“Chủ nghĩa hậu hiện đại là một trào lưu toàn cầu nên Việt Nam không thể không chạm
tới” [3, tr 549]. Hoàng Ngọc Tuấn trong bài “Viết: từ hiện đại đến hậu hiện đại” đã chỉ rõ
quá trình vận động của văn học từ hiện đại đến hậu hiện đại. Cũng trong cuốn chuyên
luận này lần đầu tiên bảng so sánh “Những dị biệt có tính hệ thống giữa chủ nghĩa hiện

6


đại và chủ nghĩa hậu hiện đại” của Hassan được giới thiệu để người đọc nắm được những
đặc trưng cơ bản của khuynh hướng hậu hiện đại.

Trong khoảng thời gian từ 2003 đến 2012 đã có nhiều cuốn chuyên luận có
ý nghĩa đặc biệt quan trọng với quá trình tiếp nhận lý thuyết văn học ở nước ta được dịch
và giới thiệu. Các dịch giả Đào Tuấn Ảnh, Trần Hồng Vân, Lại Nguyên Ân đã cố công
dịch và giới thiệu cuốn Các khái niệm và thuật ngữ của các trường phái nghiên cứu văn
học phương Tây và Hoa Kỳ thế kỷ XX (2003) của các tác giả I. P. Ilin và Tzurganova.
Đây là cuốn sách cung cấp một cách có hệ thống các thuật ngữ và khái niệm về hậu hiện
đại cũng như chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học. Tiếp đến, chuyên luận nổi tiếng của
Umberto Eco có tên Đi tìm sự thật biết cười được Vũ Ngọc Thăng dịch và giới thiệu năm
2004. Đây là công trình hoàn chỉnh đầu tiên với những tiểu luận phê bình nổi tiếng thế
giới của một học giả phương Tây có đề cập văn học hậu hiện đại. Cũng trong năm 2004,
Nhà xuất bản Khoa học xã hội phát hành cuốn sách Tác phẩm như là quá trình của tác
giả Trương Đăng Dung. Cuốn chuyên luận gồm ba phần đã đem đến cho người đọc một
cái nhìn lý luận khái quát về quá trình từ hiện đại đến hậu hiện đại.
Quý II năm 2005, Nhà xuất bản Khoa học xã hội cho xuất bản cuốn sách xã hội
học, kinh tế học giá trị với nhan đề Chiếc Lexus và cây Oliu của Thomas L. Friedman (do
Lê Minh dịch). Cuốn sách này đã giúp những người nghiên cứu về văn học hậu hiện đại
trả lời được câu hỏi rất quan trọng: Toàn cầu hóa là gì? Ngoài ra, trong năm 2005 cuốn
chuyên luận Những tiểu thuyết của Robbe - Grillet của Bruce Morriseette được Từ Huy
dịch đã giới thiệu cho người đọc những cách tân mới mẻ, với nhiều kỹ thuật viết hậu hiện
đại trong nghệ thuật tiểu thuyết của Robbe - Grillet.
Tiếp đến, với cuốn sách Theo vết chân những người khổng lồ - Tân
Guylivơ phiêu lưu ký về các lý thuyết văn hóa (2006), Đỗ Lai Thúy cung cấp cho người
đọc nhiều sự hiểu biết nhiều nét về văn hóa hậu hiện đại. Ở cuối bài nghiên cứu được
dịch có tên “Phân tích văn hóa theo thuyết hậu hiện đại” của Steven Seidman, tác giả đưa
phần phụ lục “Chủ nghĩa hậu hiện đại là gì?” đem đến một cái nhìn có tính lịch đại chi
tiết về lý thuyết hậu hiện đại trên thế giới.
Cuốn Nhập môn chủ nghĩa hậu hiện đại (2006) của các tác giả Richard
Appignanesi, Chis Gattat, Z. Sardar và P. Curry được Nhà xuất bản Trẻ giới thiệu là một

7



tác phẩm chuyên biệt về lý thuyết hậu hậu hiện đại được dịch và biên tập rất chu đáo.
Cuốn sách này đã tạo ra ảnh hưởng rất thuận lợi cho tiến trình tiếp nhận lý luận hậu hiện
đại vào Việt Nam.
Cũng trong năm 2006 với chuyên luận Chủ nghĩa hậu hiện đại gồm hai chương
với 244 trang, Trần Quang Thái đã phác thảo nên lịch sử hình thành và phát triển của chủ
nghĩa hậu hiện đại trên thế giới. Tác giả đã chú ý đến những thay đổi cơ bản của quan
niệm hậu hiện đại về con người với điểm nhấn quan trọng là sự xuất hiện của chủ thể phi
trung tâm.
Với chuyên luận Hoàn cảnh hậu hiện đại (2008) do Ngân Xuyên dịch, tác giả
Jean Francois Lyotard đã tiếp tục cung cấp cho người đọc một cái nhìn bao quát về tâm
thức và hoàn cảnh hậu hiện đại. Đây là một tác phẩm tạo dựng lý thuyết hậu hiện đại trên
thế giới được dịch và xuất bản nên tạo được ảnh hưởng rất quan trọng đối với quá trình
tiếp nhận lý thuyết văn học hậu hiện đại ở nước ta.
Tác giả Phương Lựu với bài nghiên cứu “Chủ nghĩa lịch sử mới, một chuyển biến
trong lòng chủ nghĩa hậu hiện đại”, đăng trên Tạp chí Văn học, số 12, năm 2007, đã đem
đến cho người đọc cái nhìn về thái độ của chủ nghĩa hậu hiện đại với lịch sử. Tiếp đến,
trong năm 2008, với bộ giáo trình Lý luận văn học (3 tập), ông đã đưa chủ nghĩa hậu hiện
đại vào tập ba và xác định đậy là khuynh hướng sáng tác của văn học thế giới đương đại.
Cùng thời điểm này, với bài viết “Những bậc tiên phong của tư duy hậu hiện đại” in trên
Tạp chí Văn học, số 5, đã phân tích những đóng góp của J. Lacan trên phương diện phân
tâm học cấu trúc và M. Foucault trên phương diện vô thức lịch sử. Từ đó, tác giả đã chỉ
ra những tư tưởng của họ chính là tiền đề quan trọng cho sự hình thành triết học hậu hiện
đại.
Năm 2011, Phương Lựu xuất bản chuyên luận Lý thuyết hậu hiện đại gồm 10
chương và phần phụ lục. Đây là công trình lý thuyết hoàn chỉnh đầu tiên về văn học hậu
hiện đại của một học giả Việt Nam, đã cung cấp một cái nhìn tổng quan về lý luận văn
học hiện đại. Đặc biệt ở chương hai: “Tổng quan về chủ nghĩa hậu hiện đại”, tác giả đã
lần lượt có những kiến giải về nguồn gốc của khái niệm hậu hiện đại, các khái niệm cơ

bản, những vấn đề về quan niệm con người và hiện thực đời sống trong cái nhìn hậu hiện
đại. Về đặc trưng của thi pháp văn học hậu hiện đại, Phương Lựu nhấn mạnh đó là “một

8


hệ thống bất định và đột phá” [81, tr.66]. Sự bất định thể hiện qua những kiến giải về tính
vô định của chủ đề, tính mơ hồ của hình tượng, sự chồng chéo của những tình tiết trong
một tác phẩm văn học hậu hiện đại. Sự bứt phá được thể hiện qua tính bành trướng của
ngôn từ và sự bứt phá về thể loại. Đầu chương ba của chuyên luận, tác giả cũng đã viện
dẫn bảng so sánh của chủ nghĩa hậu hiện đại với của chủ nghĩa hiện đại của I. Hasan.
Năm 2012 cuốn chuyên luận Thi pháp chủ nghĩa hậu hiện đại của Liviu do Lê
Nguyên Cẩn dịch và giới thiệu đã góp phần cung cấp thêm những góc nhìn về văn học
hậu hiện đại trên thế giới ở các phương diện những tiền đề cơ bản để xuất hiện và những
đặc trưng cơ bản nhất của thi pháp chủ nghĩa hậu hiện đại.
Với ba công trình nghiên cứu Truyện ngắn hậu hiện đại thế giới (2003);
Truyện ngắn, lý luận, tác gia và tác phẩm (2005); Văn học hậu hiện đại - Lý thuyết và
tiếp nhận (2012), tác giả Lê Huy Bắc đã lần lượt giải quyết các vấn đề về hoàn cảnh ra
đời, khái niệm và các đặc trưng cơ bản của văn học hậu hiện đại. Theo ông:
Bắt đầu từ thơ Đa đa (1916), văn xuôi của Franz Kafka (Biến dạng, 1915) và kịch
của Samuel Beckett (Chờ đợi Godot, 1952), chủ nghĩa hậu hiện đại đã tồn tại song song
với chủ nghĩa hiện đại cho đến đầu thập niên 1950 và thực sự phát triển mạnh từ 1960 trở
đi. Đây là khuynh hướng đối nghịch với chủ nghĩa hiện đại về bản chất, ở chỗ chấp nhận
tính hư vô (nothing), hỗn độn (chaos), trò chơi (game) và liên văn bản (Intertextuality)
của tồn tại, hòng giải quyết những vướng mắc của chủ nghĩa hiện đại với tham vọng
dùng khoa học để giải phóng tối đa con người thoát khỏi cuộc sống và những điều tín
tăm tối. Chủ nghĩa hậu hiện đại gắn liền với sự bùng nổ của cuộc cách mạng công nghệ
thông tin, của sự phát triển kinh tế, khoa học kỹ thuật vượt bậc, của thành tựu đô thị
hóa… được thể hiện ở cả ba phương diện thơ, kịch, văn xuôi với các đặc điểm chính: đa
trị, huyền ảo, lắp ghép, mảnh vỡ, cực hạn, phi trung tâm, phi mạch lạc; hạn chế tối đa vai

trò thống trị của người kể chuyện, không quan tâm đến cốt truyện, kịch và văn xuôi mang
nhiều đặc điểm của thơ [14, tr.32].
Dựa vào tiêu chí hình thức thể hiện, ông chia văn học hậu hiện đại thành năm
khuynh hướng tiêu biểu nhất là khuynh hướng huyền ảo, khuynh hướng mảnh vỡ,
khuynh hướng nhại và khuynh hướng cực hạn, khuynh hướng giả trinh thám. Để chỉ ra
đặc trưng của một tác phẩm văn học hậu hiện đại, ông dẫn ý kiến của nhà phê bình mác

9


xít hậu hiện đại Terry Eagleton trong cuốn Dẫn luận lý luận văn học (1996) khẳng định:
“Tác phẩm nghệ thuật hậu hiện đại điển hình nhất là tùy tiện, đa trị, lai ghép, lệch tâm, dễ
thay đổi, ngưng đọng hệt như một mô phỏng” [14, tr.31]. Ông cũng tán thành với Barry
Lewis đề cập các phương diện của văn xuôi hư cấu hậu hiện đại đó là “sự hỗn độn thế tục
(Temporal disorder), cóp nhặt (Pastiche). Mảnh vỡ (Fragmentation), sự nới lỏng tổ chức
(Looseness of association), tính hoài nghi (Paranoia), vòng tương tác (Vicious circles)”
[14, tr.31]. Cũng trong công trình của mình một lần nữa Lê Huy Bắc dẫn lại bảng so sánh
để khu biệt giữa hai khuynh hướng chủ nghĩa hiện đại và chủ nghĩa hậu hiện đại của Ihab
Hassan đưa ra năm 1885 để những người nghiên cứu có thêm những căn cứ chắc chắn khi
tiến hành khảo sát các tác phẩm văn học hậu hiện đại. Lê Huy Bắc cũng là dịch giả có
công giúp người đọc Việt được tiếp cận những tác phẩm văn học hậu hiện đại ở một số
quốc gia trên thế giới qua tuyển tập 54 truyện ngắn ông đã dịch và giới thiệu. Ông cũng là
người rất tỉ mỉ trong việc hướng dẫn người đọc vận dụng lý thuyết của văn học hậu hiện
đại để tiếp cận các tác phẩm văn học có yếu tố hậu hiện đại trong nhà trường. Đây là cơ sở
quan trọng để tạo nên cái nhìn trong mối tương quan so sánh tìm ra sự khác biệt trong việc
thể hiện yếu tố hậu hiện đại qua các tác phẩm ở nền văn học của các nước có sự ảnh hưởng
của chủ nghĩa hậu hiện đại.
Ngoài công trình nghiên cứu cá nhân của các chuyên gia còn phải kể đến
những công trình tập thể qua các kỳ hội thảo quốc gia. Cuốn Văn học hậu hiện đại –
Diễn giải và tiếp nhận (Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia do Khoa Ngữ văn, Trường

Đại học Khoa học Huế tổ chức tháng 3 năm 2011) với 37 bài viết của các chuyên gia
nghiên cứu ở nhiều độ tuổi khác nhau được tuyển tập chia làm ba nhóm: 1) Những bài
viết giới thiệu và diễn giải về lý thuyết hậu hiện đại; 2) Những bài viết phê bình các tác
phẩm văn học theo xu hướng hậu hiện đại trên thế giới; 3) Những bài viết phê bình các
tác phẩm mang dấu ấn hậu hiện đại ở Việt Nam. Ở nhóm bài giới thiệu và diễn giải về lý
thuyết hậu hiện đại đáng lưu ý trong kỷ yếu có dẫn đăng bài “Khái niệm chủ nghĩa hậu
hiện đại” của Lê Huy Bắc, “Phê bình văn học từ góc nhìn hậu hiện đại” của Đỗ Lai Thúy,
“Tri thức và ngôn ngữ trong tinh thần hậu hiện đại” của Trương Đăng Dung, “Chủ nghĩa
hậu hiện đại trong tiến trình văn học Việt Nam” của Nguyễn Phú Phong, “Quan niệm về
chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học Việt Nam” của hai tác giả Nguyễn Hồng Dũng và
Phan Tuấn Anh, “Dấu ấn hậu hiện đại trong tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XXI” của

10


Thái Phan Vàng Anh. Ngoài việc cung cấp các khái niệm về văn học hậu hiện đại, các
bài viết còn có sự kiến giải thấu đáo về hoàn cảnh xuất hiện và những khả năng thể hiện
của văn học hậu hiện đại đối với nền văn học chưa có được cơ sở từ một nền văn minh
hậu công nghiệp như ở nước ta.
Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia năm 2013 Văn học hậu hiện đại – Lý
thuyết và thực tiễn của Khoa ngữ văn – Bộ môn văn học nước ngoài của trường Đại học
Sư phạm Hà Nội với 29 bài tham luận từ các nhà nghiên cứu ở cả ba miền Bắc, Trung,
Nam. Trong đó có 5 bài tham luận về những vấn đề chung của văn học hậu hiện đại, 8
tham luận ứng dụng lý thuyết hậu hiện đại vào nghiên cứu văn học Việt Nam, và 16 tham
luận ứng dụng lý thuyết văn học hậu hiện đại vào nghiên cứu các tác giả và tác phẩm văn
học nước ngoài. Điều được những nhà nghiên cứu quan tâm và làm sáng tỏ nhiều nhất là
về các yếu tố thuộc về kỹ thuật viết đặc trưng của văn học hậu hiện đại như trò chơi, tính
liên văn bản, phi trung tâm, huyền ảo, mảnh vỡ… Các bài viết được tập hợp trong cuốn
kỷ yếu lần này đã cho thấy những lý thuyết soi sáng có tính chất định hướng mở đường
của lý luận văn học hậu hiện đại dần dần được ứng dụng rộng rãi vào nghiên cứu đối với

các trường hợp một tác giả, tác phẩm văn học cụ thể.
Ngoài những công trình trên còn phải kể đến một loạt bài viết về văn xuôi
Việt Nam thời kỳ đổi mới, trong đó, có đề cập đặc trưng của văn học hậu hiện đại.
Nguyễn Hưng Quốc với nhiều bài viết khá công phu về chủ nghĩa hậu hiện đại và văn
học hậu hiện đại ở Việt Nam như: “Chủ nghĩa hậu hiện đại và văn học Việt Nam” (2000),
“Giễu nhại như một ý niệm” (2005), “Văn bản và liên văn bản” (2005), “Giải lãnh thổ
hóa trong văn học Việt Nam” (2008), “Toàn cầu hóa và văn học Việt Nam” (2008), “Tính
lai ghép trong văn học Việt Nam” (2008), “Chủ nghĩa hậu hiện đại và những cái cần chết
trong văn học Việt Nam” (2009), “Chủ nghĩa hậu hiện đại - Những mảnh nghĩ rời”
(2009) v.v… Trong các bài viết của mình, Nguyễn Hưng Quốc đã lần lượt xem xét vấn
đề hậu hiện đại trong văn học Việt Nam trên rất nhiều phương diện, từ khả năng chịu ảnh
hưởng, những tính chất riêng biệt ở văn học Việt Nam… Ngoài ra còn phải kể đến nhiều
bài viết của các nhà nghiên cứu có uy tín khác như Nguyễn Thị Bình (Một số khuynh
hướng tiểu thuyết ở nước ta từ thời điểm đổi mới đến nay), Lê Hương Thủy (Truyện ngắn
sau 1975 – một số đổi mới về thi pháp), Bích Thu (Một cách tiếp cận tiểu thuyết Việt
Nam thời kỳ đổi mới)… Các bài nghiên cứu của Đào Tuấn Ảnh, Phùng Gia Thế, Đông
11


La, Hoàng Ngọc Tuấn, Inrasara, Phan Nhiên Hạo, Như Huy, Trịnh Thanh Thủy, Văn Giá,
Nguyễn Chí Hoan, Đoàn Cầm Thi… đã chỉ ra được những dấu hiệu hiện đại trong văn
học Việt Nam nói chung và văn xuôi Việt Nam nói riêng.
Văn học hậu hiện đại trong những năm gần đây đã được đưa vào chương
trình đào tạo ở hệ đại học và sau đại học. Trong đó có những luận án trực tiếp nghiên cứu
về văn xuôi hậu hiện đại Việt Nam như: Những dấu hiệu của chủ nghĩa hậu hiện đại
trong văn xuôi Việt Nam sau 1975 của Phùng Gia Thế, Yếu tố hậu hiện đại trong truyện
ngắn Việt Nam của Lê Văn Trung, Ảnh hưởng của chủ nghĩa hậu hiện đại đối với tiểu
thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2010 của Nguyễn Hồng Dũng... Những nghiên cứu nói trên
là kết quả của quá trình tìm tòi, học tập và cả sự nỗ lực không mệt mỏi của các nhà Lý
luận và Phê bình – Nghiên cứu văn học trên con đường đưa nền văn học Việt Nam hội

nhập với văn học thế giới. Đó cũng là những gợi mở hết sức thú vị cho công việc nghiên
cứu về yếu tố hậu hiện đại trong văn học qua thực tiễn sáng tác ở hai tác giả Hồ Anh Thái
và Murakami.
1.2. Những công trình liên quan trực tiếp đến đề tài
1.2.1. Những công trình nghiên cứu yếu tố hậu hiện đại trong sáng tác của Hồ
Anh Thái
Trong văn học Việt Nam đương đại, Hồ Anh Thái là nhà văn có chỗ đứng khá
vững chắc. Bước vào làng văn khá sớm (17 tuổi), Hồ Anh Thái đã để lại ấn tượng và gặt
hái được những thành công nhất định. Cho đến nay, ông được xem là một nhà văn
chuyên nghiệp có sức viết mạnh mẽ với thái độ lao động nghệ thuật nghiêm túc. Rất
nhiều bài viết đánh giá cao bút lực, tài năng cũng như thái độ lao động nghệ thuật của
ông. Sự đổi mới ở ngòi bút của Hồ Anh Thái đã nhận được nhiều sự chú ý của các nhà
phê bình trong nước và quốc tế.
Sau khi hợp tuyển gồm hai tiểu thuyết Người đàn bà trên đảo, Trong sương hồng
hiện ra và tám truyện ngắn được dịch sang tiếng Anh và xuất bản ở nhiều nước trên thế
giới, Hồ Anh Thái đã nhận được nhiều ý kiến đánh giá tích cực của các nhà phê bình
nghiên cứu nước ngoài về sự đổi mới tư duy nghệ thuật mang đậm cá tính sáng tạo. Wayne
Karlin trong lời giới thiệu cho cuốn tiểu thuyết Người đàn bà trên đảo cho rằng, Hồ Anh
Thái đã biết vượt lên khỏi xuất phát điểm của bản thân và nền văn học Việt Nam đương

12


thời khi tiếp cận với những ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo Mỹ La tinh và tác
phẩm của nhà văn Pháp gốc Czech Milan Kundera. Những đổi mới dũng cảm trong cách
nhìn về các vấn đề như số phận con người thời hậu chiến, những di chứng của chiến tranh,
tình dục và cách ứng xử của con người trước nó. Tác giả này cũng nhận thấy trong tác
phẩm Hồ Anh Thái, chất hài hước, chất lạ quyện với chất Kafka dường như gây bất ngờ
cho người phương Tây khi họ tìm hiểu văn học Việt Nam. Từ đó Wayne Karlin đã khẳng
định Hồ Anh Thái và những người đương thời Việt Nam đang tiên phong cho nền văn học

của các nước đang phát triển, nền văn học không còn bị định nghĩa bằng những thông số
của cuộc đấu tranh giữa hai bên tư bản và cộng sản. Riêng với cuốn tiểu thuyết Trong
sương hồng hiện ra là tác phẩm lạ trên mặt bằng văn học đương thời đã “mở ra một cánh
cửa vào một nền văn hóa đang phải đấu tranh để định nghĩa mối quan hệ của mình với quá
khứ và tương lai của chính mình” [138, tr. 393]. Jennifer Eagleton đưa ra những nhận xét
khái quát cho giá trị nội dung và nghệ thuật của cuốn tiểu thuyết này: “Dường như cuốn
tiểu thuyết bày tỏ niềm khao khát được quay nhìn lại quá khứ, cái quá khứ đã được ký ức
đóng khung và tôn kính... Sự tái tạo huyền thoại này đã thành công với sự giản dị, trong
sáng của ngôn ngữ và cả yếu tố kỳ lạ” [138, tr.440].
Trong bài viết ngắn “Đặt ra vấn đề cá nhân ở nước Việt Nam” (Thời báo Los
Angeles, 18.9.2001), Michael Harris cũng nhận thấy ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện thực
huyền ảo Mỹ La tinh trong tiểu thuyết Hồ Anh Thái như một dấu hiệu cho thấy nỗ lực rất
đáng kể của nhà văn Việt Nam trong việc tiếp cận với văn học thế giới. Chris King (Thời
báo St. Louis Missuri River Front Times) nhận thấy sáng tác của Hồ Anh Thái là hành
trình đi từ những vẻ đẹp nhân bản giản dị dẫn tới nỗi đau khủng khiếp nhất, rồi nỗi đau
ấy lại được cứu rỗi bằng chính sự thông hiểu nhân bản. Philip Gambone nhận ra chất
châm biếm, chất siêu thực và ngụ ngôn tràn đầy trong nhiều truyện của cuốn sách được
cấu trúc một cách tao nhã của một trong những nhà văn Việt Nam đương đại xuất sắc
nhất. Tiến sĩ văn học Ấn Độ K. Pandey có nhận xét đánh giá rất cao những truyện ngắn
của Hồ Anh Thái viết về đất nước và con người Ấn Độ: “Những dòng chữ Hồ Anh Thái
là những mũi kim châm cứu Á Đông đã điểm trúng huyệt tính cách Ấn Độ” [138, tr.322].
Ở trong nước tiểu thuyết Hồ Anh Thái được đông đảo bạn đọc và giới nghiên cứu
phê bình văn học quan tâm bởi tác giả luôn biết cách tạo ra những điều mới mẻ bất ngờ
trong tác phẩm của mình. Diệu Hường trong bài “Một góc nhỏ văn chương Hồ Anh
13


Thái” khẳng định: “Hồ Anh Thái là một trong những nhà văn sung sức nhất và được đón
đọc nhiều nhất ở Việt Nam hiện nay. Ông viết văn như một thứ lao động nghiêm ngặt,
ông chăm chút cho từng câu chữ với tinh thần không chấp nhận cái gì sẵn có, không thụ

động chờ đợi, cái mà rất nhiều nhà văn khác vẫn quen gọi là cảm hứng” [91]. Nguyễn
Thị Minh Thái cũng cho rằng: “Với Hồ Anh Thái, viết văn là một nghề hẳn hoi, chứ
không phải là thứ lao động tài tử, nghiệp dư, một cuộc ghé chơi tình cờ như nhiều người
lầm tưởng” [146, tr 351]. Cùng quan điểm đó, Ngọc Ánh trong bài viết “Hồ Anh Thái –
Sáng tạo, bứt phá trên từng con chữ” cũng cho rằng: “Văn chương với Hồ Anh Thái là
một nghiệp với đa tầng phong cách biểu hiện, với một tiềm năng đọc mới và thấu suốt
cuộc sống, con người, những gì mà với nhiều người khác đã trở nên cũ kỹ. Anh biết vượt
qua những lối mòn tư duy coi văn học như là tấm gương phản ánh hiện thực một cách
đơn giản để nhìn cuộc đời” [2]. Tác giả bài viết còn phát hiện: “Chân dung của hiện thực
trong văn bản của Hồ Anh Thái có nhiều góc khuất, nhiều trạng thái, nhiều giá trị xấu tốt
đan cài chứ không đơn điệu. Đó không phải là thứ hiện thực “dẹt”, “phẳng” mà góc cạnh,
nhiều chiều, là hiện thực “phân mảnh” [2].
Nghiên cứu về nghệ thuật thể hiện trong những tác phẩm Hồ Anh Thái, Nguyễn
Đăng Điệp trong bài “Hồ Anh Thái – Người mê chơi cấu trúc” có nhiều khám phá mới
mẻ và đưa ra những nhận định sắc sảo. Theo ông: “Hồ Anh Thái có ý thức tạo dựng một
thế giới vừa giống thực bằng nhiều chi tiết ngỡ nhặt được từ đời sống ồn tạp vừa tạo nên
một thế giới ngập đầy biểu tượng. Thông điệp của nhà văn không hiện ra lộ liễu mà toát
lên từ tình huống, qua các biểu tượng thấm đầy chất ảo” [42]. Nguyễn Đăng Điệp còn
phát hiện ra “cách chơi cấu trúc” đầy biến hóa của Hồ Anh Thái trong sự bện kết, hài hòa
giữa hai yếu tố tính luận đề và màu sắc tượng trưng, siêu thực – những phương diện đòi
hỏi sự cao tay của người viết. Ông còn chỉ ra dấu ấn hậu hiện đại trong tiểu thuyết Hồ
Anh Thái qua bức tranh về hiện thực: “Đó là hiện thực “phân mảnh” như các nhà hậu
hiện đại vẫn thường nói đến” [42]. Tác giả cũng đã nhận thấy một trong những điểm mới
của tiểu thuyết Hồ Anh Thái là tính liên văn bản và khả năng dung hợp văn hóa hết sức
năng động: “Khảo sát hành trình văn chương Hồ Anh Thái có thể nhận ra một kiểu đối
thoại mang tính văn hóa thấm trong từng văn bản” [42].
Viết về cuốn tiểu thuyết Người và xe chạy dưới ánh trăng đã đoạt được giải
thưởng văn xuôi 1986 - 1990 của Hội Nhà văn Việt Nam, Xuân Cang trong bài “Một
14



hương vị riêng”, nhận định khái quát: “Cuốn tiểu thuyết hầu như không có cốt truyện để
kể lại được, nó thu hút người đọc bằng một hương vị riêng kín đáo của những chi tiết,
những mảnh đời, quá khứ và hiện tại đan xen” [143, tr.391]. Trần Thanh Giao, trong bài
viết “Không theo kiểu cũ”, nhấn mạnh đến sự khó đọc của Người và xe chạy dưới ánh
trăng, “vì tác giả sử dụng thủ pháp “dòng suy tưởng, cảm xúc” để nội tâm các nhân vật
được bộc lộ rõ ràng, qua đó mà cái thiện, cái ác, lẽ phải và bất công, lòng cao thượng và
giả dối… đấu nhau rất quyết liệt” [143, tr. 410]. Lê Minh Khuê thì nhận xét: “Có lẽ ngay
từ ngày ấy, tác giả đã ý thức rằng tác phẩm văn học muốn hòa nhập được với dòng văn
học chảy ào ạt ngoài kia của thế giới và muốn tiếp cận được với người đọc hôm nay thì
đừng có quá lệ thuộc vào hiện thực giản đơn” [143, tr.416]. Gần với ý kiến trên của Lê
Minh Khuê, trong bài viết “Một cá tính sáng tạo độc đáo” (Đài tiếng nói Việt Nam,
2001), Trần Bảo Hưng cũng cho rằng: “Có thể nói hiện thực trong Người và xe chạy dưới
ánh trăng là một hiện thực đa chiều, và để phản ánh được cái thực tại phức tạp ấy, Hồ
Anh Thái sử dụng nhiều thủ pháp linh hoạt, cả phục hiện và đồng hiện; rồi một cốt truyện
đầy co giãn với những mạch ngang, lối rẽ…” [143, tr.420].
Nghiên cứu giọng điệu tác phẩm Hồ Anh Thái, Nguyễn Thị Minh Thái trong bài
“Giọng tiểu thuyết đa thanh” cho rằng: Cõi người rung chuông tận thế là tiểu thuyết
ngắn, cốt truyện khá giản dị, với điểm nhìn tiểu thuyết độc đáo, giọng kể đa thanh trên
nền suy tưởng trữ tình. Đây là tác phẩm đánh dấu mốc bước tiến quan trọng trong sự đổi
mới nghệ thuật, đặc biệt là giọng điệu. Trong tác phẩm hiện diện cả giọng mỉa mai châm
biếm lẫn chất trữ tình suy tưởng. Sự đan xen giọng điệu này làm nên tính đa thanh cho
tác phẩm: “Nhiều thanh điệu của một giọng kể đa thanh, đích thực là giọng riêng của nhà
văn Hồ Anh Thái trong cuốn tiểu thuyết mới tinh này” [141, tr.276]. Tác giả bài viết còn
phát hiện ra “giọng kể mang tính thông tấn” trong tác phẩm và đó là cơ sở tạo nên thi
pháp mới cho cuốn tiểu thuyết, “thi pháp giễu nhại - thông tấn”.
Phùng Gia Thế trong bài “Dấu ấn hậu hiện đại trong văn học Việt Nam sau
1986” lại cho rằng “nhìn đời sống như những mảnh vỡ, tiểu thuyết Hồ Anh Thái thể hiện
tinh tế những nỗi hoang mang về con người” và một “cái nhìn hắt sáng từ phía sau”
[153]. Tác giả Trần Thị Hải Vân trong bài báo “Một chiêm nghiệm “cõi người” của Hồ

Anh Thái” (báo Văn nghệ, số 16, 2009) đã đưa ra một sự phân tích khá hệ thống về quan

15


niệm nghệ thuật, về con người của Hồ Anh Thái, trong đó nhấn mạnh các tính chất hài
hước nghịch dị trong cái nhìn đời sống của nhà văn.
Trên hành trình sáng tác từ 1995 đến nay, giọng điệu tiểu thuyết Hồ Anh
Thái có sự chuyển hướng, nghiêng về màu sắc trào lộng, giễu cợt, mỉa mai. Tiểu thuyết
Mười lẻ một đêm là một thử nghiệm mới. Hầu hết các bài viết đều đánh giá cao tác phẩm
ở chất hài hước, nghịch dị, tiêu biểu có bài “Hài hước và trữ tình” (Lê Hồng Lâm), “Chất
hài hước nghịch dị trong Mười lẻ một đêm” (Hoài Nam). Ở bài “Mười lẻ một đêm - cái
nhìn hắt sáng từ phía sau”, Nguyễn Thị Minh Thái đánh giá cao lối viết mới, giọng kể
mang tính thông tấn, “góc nhìn ở vị thế hắt sáng, từ phía sau, từ bản thể, giọng tiểu
thuyết giễu nhại, thâm sâu” [146, tr.353].
Cuốn tiểu thuyết Đức Phật, nàng Savitri và tôi khi vừa được xuất bản đã
lập tức nhận được nhiều luồng ý kiến đánh giá khác nhau. Hoài Nam trong bài viết “Phật
sử và hư cấu văn chương” cho rằng cái mới của tác phẩm là “quan điểm cá nhân của tác
giả về Đức Phật và từ đó, là cách tác giả xử lý những tư liệu liên quan xa gần đến đức
Phật” [113] và thành công của tiểu thuyết là ở khả năng tưởng tượng, hư cấu văn chương,
chủ yếu ở những chương về Savitri. Tác giả đánh giá về cách xây dựng nhân vật Đức
Phật của Hồ Anh Thái: “Nhân vật này hiện lên với diện mạo của một hiền giả, một triết
gia, một nhà tư tưởng vĩ đại, nhưng vẫn không thôi đậm chất Người” [113]. Ý kiến đánh
giá này thống nhất với những ý kiến của nhiều nhà phê bình khác cho rằng Hồ Anh Thái
thành công vì anh đã “người hóa” Đức Phật, khiến hình ảnh Đức Phật hiện lên vừa giản
dị vừa gần gũi, vừa thiêng liêng, lại cũng vô cùng trần thế. Đây chính là phép giải thiêng,
kỹ thuật quan trọng trong lối viết hậu hiện đại. Ở bài viết “Hồ Anh Thái có sợ “giải
thiêng”, Phạm Xuân Thạch chỉ ra mặt ưu và mặt hạn chế của tiểu thuyết là lối kết cấu bộ
ba với khả năng soi chiếu lẫn nhau của các nhân vật: Đức Phật, nàng Savitri và tôi.
Hoàng Công Danh trong bài “Tái hiện Phật sử, đồng hiện nghệ thuật” đã có những đánh

giá rất sắc sảo về nghệ thuật viết của Hồ Anh Thái. Tác giả cho rằng Hồ Anh Thái vẫn
dùng nghệ thuật tiểu thuyết đặc sắc của mình, đó là kiểu cắt mảng và ghép mảng. Sự đan
xen giữa các chương với các nhan đề “Đức Phật”, nàng “Savitri” và “Tôi” hệt một cuộc
“Sắp đặt và diễn” trên sân khấu mà độc giả, khán giả sắp được chứng kiến và thưởng
thức”.

16


Riêng về truyện ngắn, Hồ Anh Thái được chú ý trước hết bởi chất giọng
giễu nhại sắc sảo, tinh tế. Lê Vĩnh Nguyên cho rằng, tiếng cười trong truyện ngắn Hồ
Anh Thái có khả năng dồi dào trong việc phóng chiếu, châm biếm và chạm đến phần
nhạy cảm của con người. Tác giả Ngọc Hà trong bài viết “Giễu nhại ngôn ngữ thị dân”
đã bước đầu chỉ ra những độc đáo trong cách sử dụng ngôn ngữ của Hồ Anh Thái trên ba
phương diện: lối nói liệt kê, bổ sung; lối nói nhấn mạnh và lối nói thông tục. Đây là một
trong những dấu hiệu quen thuộc của kỹ thuật viết hậu hiện đại. Tôn Phương Lan trong
bài viết “Người luôn làm mới mình” cũng nhận thấy cảm hứng nhân văn trải dài và
xuyên suốt trong sáng tác của Hồ Anh Thái, và ở giai đoạn đầu là cảm hứng chủ đạo.
Theo tác giả, Hồ Anh Thái luôn làm mới mình qua từng trang viết, mới trong giọng điệu,
mới trong ngôn ngữ, mới trong kết cấu. Ma Văn Kháng trong bài “Cái mà văn chương ta
còn thiếu” cho rằng truyện ngắn, tiểu thuyết Hồ Anh Thái thú vị trước hết ở chỗ “từng
con chữ có đời sống là lạ; ở mỗi tình tiết giàu sức khám phá, ở các mối liên tưởng lạ lùng
và gần gũi; ở tổng thể câu chuyện, nó mở ra một góc nhìn nhân sinh, nó cho thấy tính đa
tầng, những thực tại nhìn thấy và không nhìn thấy…” [140, tr.326]. Nhà văn Ma Văn
Kháng đã tỏ ra rất thích giọng văn của Hồ Anh Thái vì “nó có cái thông minh, hóm hỉnh
vừa sâu sắc vừa có truyền thống. Hơn nữa cái này mới là cái thật thích đây: chất trào
phúng, giễu nhại, cay chua mà tâm thiện, chất này văn chương ta thiếu quá! Không có
tài, chịu đấy!” [140, tr 326].
Với hai tác phẩm Dấu về gió xóa, và SCB là săn bắt chuột, Hồ Anh Thái được bạn
đọc nhiệt liệt hoan nghênh và đã nhận được nhiều khen ngợi từ các chuyên gia nghiên

cứu về phương thức thể hiện. Dấu về gió xóa của Hồ Anh Thái được Hoài Nam so sánh
giống như một “món thập cẩm nghệ thuật” với một loạt vấn đề lớn trong đời sống xã hội
và đời sống của mỗi cá nhân như chính trị, tôn giáo, tình yêu…, đã được đặt ra và được
xử lý một cách đặc biệt. Tính chất “món thập cẩm” của tác phẩm còn nằm trong cấu trúc
và giọng điệu văn bản. Hà Anh khi viết về tiểu thuyết SCB là săn bắt chuột nhận định
rằng, Hồ Anh Thái là một nhà văn đa giọng điệu có khả năng mang đến sự tươi mới cho
văn chương hiện đại.
Những cách tân mang khuynh hướng hậu hiện đại ngày càng rõ nét trong
kỹ thuật tiểu thuyết Hồ Anh Thái ở những sáng tác gần đây của ông. Từ Nữ đã nhìn thấy
ở Mười lẻ một đêm tính phân mảnh, chia rời trong cốt truyện lẫn bề mặt kết cấu: “Có thể
17


nói, mỗi phần là một truyện ngắn, những truyện ngắn được chia bởi nhiều phân đoạn,
giới thiệu được những nét riêng của nhân vật” [146, tr.289]. Hoài Nam đánh giá cao chất
hài hước và nghịch dị trong Mười lẻ một đêm và xem đó như đòn bẩy giúp Hồ Anh Thái
tạo dựng nên thế giới nghệ thuật sống động và hấp dẫn. Bùi Thanh Truyền và Lê Biên
Thùy trong bài viết “Những cách tân quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu
thuyết của Hồ Anh Thái” đã nhận ra: “Con người trong tiểu thuyết của Hồ Anh Thái phức
tạp, đa dạng và đều là những lát cắt chân thực cuộc sống đương đại với những cung bậc
“đa sự - đa đoan” của nó” [163]. Theo tác giả bài viết, vì mang dấu ấn hậu hiện đại
phương Tây nên nhân vật trong tác phẩm của Hồ Anh Thái phần đông là những con
người đa cực, đa trị, bất bình thường. Mỗi người với nhiều ngã rẽ, không đơn tuyến, nhất
phiến và ai cũng mải mê đi tìm cho mình một điểm tựa, một mục tiêu phấn đấu.
Nguyễn Thị Huế trong bài viết “Truyện ngắn Hồ Anh Thái từ góc nhìn liên văn
bản” đã khẳng định: “Với Hồ Anh Thái, dấu ấn hậu hiện đại trong sáng tác của anh khá
dễ nhận biết… Đọc các tập truyện ngắn của Hồ Anh Thái có thể thấy mọi yếu tố của văn
bản, từ ngôn từ, chi tiết, hình tượng cho đến giọng điệu… đều đã, đang và sẽ có thể trở
thành đầu mối của một quan hệ giao tiếp rộng lớn. Từ đó, cần có một nền tri thức về văn
bản để mà lĩnh hội” [90]. Tác giả đã quy mối quan hệ liên văn bản về hai diện giao tiếp

cơ bản: một là mối quan hệ giữa những văn bản (tác phẩm) của Hồ Anh Thái với nhau,
hai là mối quan hệ giữa văn bản này với sáng tạo nghệ thuật của các tác giả khác. Hỏa
Diệu Thúy đã nhận ra “Dấu ấn hậu hiện đại trong bút pháp Hồ Anh Thái” qua tinh thần
“giải cấu trúc” trong tiếp cận và phản ánh hiện thực cũng như ở phương diện hình thức
của tác phẩm. Tác giả bài viết khẳng định “dấu ấn hậu hiện đại trong sáng tác của Hồ
Anh Thái không chỉ ở ý thức lựa chọn tiếp cận đối tượng phản ánh mà trước hết và rõ
nhất là ở phương thức, kỹ thuật phản ánh” [10, tr.113]. Tác giả đã làm sáng tỏ nhận định
này bằng việc khảo sát qua các yếu tố như dấu ấn “mã kép”, dấu ấn liên văn bản trong
sáng tác của Hồ Anh Thái.
Sáng tác của Hồ Anh Thái được nhiều tác giả lựa chọn làm đối tượng
nghiên cứu trong nhiều đề tài khoa học khác nhau. Có thể nói Hồ Anh Thái là một hiện
tượng tiểu thuyết trong văn học Việt Nam đương đại, nên trong những năm gần đây, tác
phẩm của tác giả này thường xuyên được chọn làm đối tượng nghiên cứu cho các báo cáo
khoa học, khóa luận, luận văn của các sinh viên và học viên như: Cái kỳ ảo trong Cõi
18


×