Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận và thực tiễn áp dụng tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.98 MB, 96 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ THÚY HỒNG

ĐỀ TÀI

CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG THEO THỎA THUẬN
VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
(Định hƣớng nghiên cứu)

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc
rõ ràng, được trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận
văn này.
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thúy Hồng



MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU ...........................................................................................................1
Chƣơng 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẾ ĐỘ TÀI SẢN VỢ CHỒNG THEO
THỎA THUẬN..........................................................................................................7
1.1. Khái niệm chế độ tài sản vợ chồng ...............................................................7
1.2. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận ........ 10
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận ................. 10
1.2.2. Ý nghĩa của chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận .............................. 14
1.2.3. Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận 17
1.3. Tiến trình phát triển của chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận qua
các thời kỳ ở Việt Nam .......................................................................................22
1.3.1. Pháp luật thời kỳ phong kiến ................................................................... 22
1.3.2. Pháp luật thời kỳ Pháp thuộc .................................................................. 23
1.3.3. Pháp luật ở miền Nam giai đoạn 1954 - 1975 .......................................... 25
1.3.4. Pháp luật thời kỳ đất nước thống nhất đến nay ....................................... 28
1.4. Chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận trong pháp luật một số nƣớc
trên thế giới ..........................................................................................................31
1.4.1. Chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận trong Bộ luật Dân sự và thương
mại Thái Lan .................................................................................................... 31
1.4.2. Chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận trong Bộ luật Dân sự Pháp ............ 34
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ...................................................................................38
Chƣơng 2. NỘI DUNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA
ĐÌNH VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ CHẾ ĐỘ TÀI SẢN VỢ CHỒNG THEO
THỎA THUẬN.......................................................................................................40
2.1. Nguyên tắc áp dụng chế độ tài sản vợ chồng.............................................40
2.1.1. Nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ tài sản giữa vợ chồng..................... 40



2.1.2. Nguyên tắc bảo đảm nhu cầu thiết yếu của gia đình ................................ 41
2.1.3. Nguyên tắc bảo đảm lợi ích hợp pháp của vợ, chồng, thành viên khác trong
gia đình và người khác ..................................................................................... 43
2.2. Xác lập chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận ...............................45
2.2.1. Điều kiện về hình thức ............................................................................ 45
2.2.2. Điều kiện về nội dung.............................................................................. 46
2.3. Nội dung của chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận ............................51
2.3.1. Xác định tài sản vợ chồng ....................................................................... 51
2.3.2. Quyền, nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản .......................................... 54
2.3.3. Sửa đổi, bổ sung nội dung thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng ........... 56
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ...................................................................................59
Chƣơng 3. THỰC TIỄN ÁP DỤNG CHẾ ĐỘ TÀI SẢN VỢ CHỒNG THEO
THỎA THUẬN Ở VIỆT NAM ..............................................................................61
3.1. Thực tiễn áp dụng chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận ở Việt Nam ...... 61
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng chế độ tài sản của vợ
chồng theo thỏa thuận ........................................................................................70
3.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật ................................................................ 70
3.2.2. Đẩy mạnh công tác hướng dẫn, phổ biến pháp luật cho người dân ............. 74
3.2.3. Tăng cường công tác quản lý của Nhà nước về pháp luật........................ 75
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ...................................................................................77
KẾT LUẬN ..............................................................................................................78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1

LỜI NÓI ĐẦU
1.


Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài

Suốt cuộc đời mỗi con người đều gắn với tài sản để phục vụ nhu cầu
cuộc sống hàng ngày. Tài sản đó có thể do cá nhân tự làm ra, được tặng cho
hay từ những nguồn thu nhập hợp pháp khác mang lại. Dù được hình thành từ
bất kỳ nguồn hợp pháp nào, khi tài sản thuộc quyền sở hữu của cá nhân thì họ
có toàn quyền định đoạt những tài sản đó.
Tuy nhiên, khi nam nữ kết hôn để bước vào cuộc sống mới – cuộc sống
hôn nhân thì gia đình hình thành. Để cho gia đình tồn tại và phát triển, cần
phải có các điều kiện vật chất để nuôi sống gia đình. Vợ, chồng trước hết với
tư cách là công dân có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc
quyền sở hữu của mình. Tuy nhiên, do tính chất đặc biệt của quan hệ hôn
nhân được xác lập – tính cộng đồng, sau khi kết hôn vợ chồng cùng chung
sức, chung ý chí trong việc tạo dựng tài sản để xây dựng gia đình hòa thuận,
hạnh phúc. Từ đây, việc tạo lập, duy trì, sử dụng và định đoạt những tài sản
đã có và sẽ có không chỉ đơn thuần dựa trên lợi ích của mỗi cá nhân như trước
mà sẽ vì lợi ích của vợ chồng và lợi ích của gia đình. Việc xác định quyền và
nghĩa vụ của mỗi bên vợ chồng đối với tài sản có trước và sau khi kết hôn
không chỉ có ý nghĩa đối với vợ chồng mà còn có ý nghĩa đối với gia đình và
những người khác có liên quan. Vì vậy, việc xác định chế độ tài sản trong hôn
nhân là cần thiết cho vợ chồng, cho gia đình và xã hội.
Tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam ngày càng phát triển, việc hội nhập
vào nền kinh tế quốc tế của Việt Nam có thể làm thay đổi quan điểm lập pháp
của Việt Nam. Quyền sở hữu tài sản của vợ chồng là một quyền dân sự gắn
liền với bản thân vợ chồng. Xuất phát từ sự tự do, tự nguyện về ý chí, trên cơ
sở là một quyền dân sự của cá nhân, hai bên nam nữ trước khi kết hôn hoàn


2


toàn có quyền thỏa thuận về chế độ tài sản mà theo họ là phù hợp, miễn là sự
thỏa thuận đó không trái với thuần phong mỹ tục, với trật tự công cộng và
quyền lợi của con cái. Nhiều chuyên gia trong lĩnh vực Luật Hôn nhân và gia
đình (Luật HN & GĐ) cho rằng xã hội Việt Nam thực ra không quá khác so
với môi trường các nước trên thế giới đến mức chúng ta phải tổ chức các quan
hệ tài sản của vợ chồng theo cách riêng do đó pháp luật về hôn nhân và gia
đình Việt Nam cần thay đổi lại phương thức tổ chức các chế độ tài sản của vợ
chồng theo hướng thừa nhận quyền tự do của vợ chồng trong việc lựa chọn
chế độ tài sản áp dụng, bên cạnh chế độ tài sản pháp định hiện hành.
Chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận đã được nhiều quốc gia trên thế
giới thừa nhận và áp dụng. Pháp luật quy định vợ chồng có quyền lựa chọn
chế độ tài sản theo thỏa thuận hoặc theo luật định. Chế độ tài sản vợ chồng
theo luật định chỉ áp dụng khi vợ chồng không có thỏa thuận về chế độ tài
sản. Ở châu Á, các nước như Ấn Độ, Indonexia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái
Lan,... đều giải quyết chế độ tài sản vợ chồng theo hướng này. Mặc dù có
những lo ngại về việc thực hiện chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận sẽ
dẫn tới những “xung đột” giữa tính cộng đồng của quan hệ hôn nhân với các
trách nhiệm, nghĩa vụ giữa các thành viên trong gia đình nhưng quan điểm
chung thừa nhận vẫn là tôn trọng sự thỏa thuận của vợ chồng về chế độ tài sản
của họ.
Hiện nay chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận được quy định trong
Luật HN & GĐ năm 2014, đây là sự chuyển biến lớn về tư tưởng của nhà lập
pháp Việt Nam về chế độ tài sản vợ chồng. Tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tài
“Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận và thực tiễn áp dụng tại Việt
Nam” với mong muốn mang đến cái nhìn rõ nét hơn về chế độ tài sản của vợ
chồng theo thỏa thuận được ghi nhận trong Luật HN&GĐ năm 2014 và thực
tiễn áp dụng chế độ tài sản này.


3


2.

Tình hình nghiên cứu đề tài

Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về chế độ tài sản của vợ chồng nói
chung và chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận nói riêng, tiêu biểu có
thể kể đến một số công trình như:
+ Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật Hôn nhân và gia đình Việt
Nam của Th.S Nguyễn Văn Cừ, Luận án Tiến sĩ Luật học, năm 2005; đây là
công trình đầu tiên phân tích một cách toàn diện, đầy đủ và có hệ thống về
chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật Việt Nam. Ngoài những quy định
của Luật HN & GĐ năm 2000 về chế độ tài sản của vợ, chồng, với đề tài này
luận án trình bày các vấn đề khác như xây dựng và phân tích khái niệm chế độ
tài sản của vợ chồng, sự cần thiết của pháp luật quy định về chế độ tài sản vợ
chồng, so sánh với một số quốc gia trên thế giới để thấy rõ nét tương đồng và
khác biệt đồng thời chỉ ra các bất cập, không hợp lý, chưa bảo đảm được tính
khoa học,...
+ Chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng trong pháp luật Cộng hòa
Pháp và pháp luật Việt Nam của Th.S Bùi Minh Hồng, Tạp chí Luật học, Số
11 năm 2009, tr18-25, đây là công trình nghiên cứu về chế độ tài sản vợ
chồng theo thỏa thuận trong pháp luật Cộng hòa Pháp, qua bài viết tác giả đã
chỉ ra Bộ luật dân sự Cộng hòa Pháp được tổ chức một cách có hệ thống các
chế độ tài sản của vợ chồng, nhất là chế độ tài sản ước định được thực hiện có
hiệu quả trên thực tế. Tác giả sử dụng luật của Cộng hòa Pháp để phân tích
những vấn đề cơ bản của chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận, làm cơ sở
cho những tiếp cận tiếp theo trong bối cảnh pháp luật Việt Nam;
+ Tìm hiểu về hôn ước và khả năng áp dụng hôn ước ở Việt Nam của
Phạm Thị Linh Nhâm, Khóa luận tốt nghiệp, năm 2010, với đề tài này khóa
luận nghiên cứu khái quát về hôn ước gồm lược sử, nội hàm và đặc điểm của



4

hôn ước; lịch sử hình thành hôn ước ở Việt Nam; tìm hiểu hôn ước ở một số
nước trên thế giới từ đó đánh giá về sự phù hợp của hôn ước với xu hướng
phát triển của xã hội Việt Nam, tìm ra giải pháp phù hợp cho việc áp dụng
hôn ước ở Việt Nam;
+ Chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận trong pháp luật Việt Nam của
tác giả Nguyễn Thị Kim Dung, Luận văn thạc sĩ Luật học, năm 2014, Luận
văn nghiên cứu một cách có hệ thống các vấn đề lý luận liên quan đến chế độ
tài sản vợ chồng theo thỏa thuận trong pháp luật Việt Nam; đánh giá được
những ưu điểm của chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận; đề xuất phương
hướng xây dựng các quy định về chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận;
+ Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận với việc bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của người thứ ba của Nguyễn Hương Giang, Luận văn thạc
sĩ luật học, năm 2017, Luận văn đã khái quát về chế độ tài sản của vợ chồng
theo thỏa thuận và việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba. Phân
tích thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện chế độ tài sản của vợ chồng
theo thỏa thuận và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba; từ đó đưa
ra một số kiến nghị về vấn đề này;
Có thể thấy, chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận được thừa nhận
trong Luật HN&GĐ năm 2014 là vấn đề mới trong hệ thống pháp luật Hôn
nhân và gia đình của nước ta.
3.

Phạm vi nghiên cứu đề tài

Bên cạnh một số vấn đề lý luận về chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa
thuận thì Luận văn đi sâu nghiên cứu những nội dung về chế độ tài sản của vợ

chồng theo thỏa thuận trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam hiện hành.
Tìm hiểu quy định về chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận của một số
nước trên thế giới; nghiên cứu thực tiễn áp dụng chế độ tài sản vợ chồng theo


5

thỏa thuận để chỉ ra vướng mắc, tồn đọng từ đó đưa ra giải pháp để thực hiện
chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận.
4.

Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài

Luận văn được nghiên cứu bằng sự kết hợp nhiều phương pháp như:
phân tích, đánh giá, tổng hợp, thống kê, so sánh, lịch sử,... trên cơ sở phương
pháp luận của Chủ nghĩa duy vật, Chủ nghĩa Mac – Lenin nhằm xem xét,
đánh giá vấn đề một cách toàn diện.
5.

Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài

Mục đích nghiên cứu đề tài là nhằm làm rõ những vấn đề lý luận về chế
độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận và đánh giá thực tiễn áp dụng chế độ tài
sản này tại Việt Nam. Từ đó đưa ra các giải pháp góp phần đảm bảo hiệu quả
thực thi chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận.
Để đạt được mục đích trên, đề tài thực hiện một số nhiệm vụ sau:
- Phân tích một số vấn đề lý luận về chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa
thuận;
- Tìm hiểu quy định về chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận trong
pháp luật ở Việt Nam qua các thời kỳ và trong pháp luật của một số nước trên

thế giới để đưa ra nhận xét, đánh giá về chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa
thuận trong Luật HN&GĐ năm 2014;
- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận
đồng thời đưa ra phương hướng để hoàn thiện chế độ tài sản vợ chồng theo
thỏa thuận;
6.

Những điểm mới của luận văn

Những điểm mới của Luận văn thể hiện ở các nội dung sau:


6

Nghiên cứu một cách có hệ thống các vấn đề lý luận về chế độ tài sản vợ
chồng theo thỏa thuận;
Nghiên cứu, phát hiện điểm bất cập của pháp luật hiện hành về chế độ tài
sản vợ chồng theo thỏa thuận;
Đưa ra kiến nghị để góp phần bảo đảm hiệu quả thi hành, áp dụng chế độ
tài sản vợ chồng theo thỏa thuận tại Việt Nam.
7.

Cơ cấu của Luận văn

Ngoài lời nói đầu và kết luận, luận văn được kết cấu thành 03 chương
Chương 1. Lý luận chung về chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận.
Chương 2. Nội dung quy định của pháp luật Hôn nhân và gia đình Việt
Nam hiện hành về chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận.
Chương 3. Thực tiễn áp dụng chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận ở
Việt Nam.



7

Chƣơng 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẾ ĐỘ TÀI SẢN VỢ CHỒNG THEO THỎA
THUẬN
1.1.

Khái niệm chế độ tài sản vợ chồng

Kết hôn là sự kiện làm phát sinh quan hệ hôn nhân – cơ sở hình thành
nên gia đình, ở đó có sự chung sống của các thành viên gia đình. Gia đình
phải thực hiện các chức năng xã hội như chức năng sinh đẻ, chức năng giáo
dục, chức năng kinh tế,... Sau khi kết hôn, tài sản của vợ, chồng sẽ được quản
lý, sử dụng, định đoạt để đáp ứng nhu cầu chung của gia đình.
Theo quy định tại Điều 105 Bộ luật dân sự 2015 thì tài sản là “vật, tiền,
giấy tờ có giá và quyền tài sản...”. Nội dung quyền sở hữu bao gồm quyền
chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt.
Khi quan hệ hôn nhân được hình thành thì chủ sở hữu tài sản là cả hai
vợ, chồng (trừ những tài sản là tài sản riêng của vợ, chồng). Trong cuộc sống
thường ngày sẽ phát sinh các giao dịch có thể chỉ cần vợ thực hiện hoặc chỉ
cần chồng thực hiện hoặc cả hai vợ chồng cùng thực hiện. Để đảm bảo quyền
chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt của vợ và chồng đối với tài sản
cũng như quyền lợi của bên thứ ba trong giao dịch với vợ, chồng thì pháp luật
cần quy định cụ thể, rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với tài
sản chung, tài sản riêng của mỗi bên. Hay nói cách khác, pháp luật cần quy
định chế độ tài sản của vợ chồng.
Ở Việt Nam, chế độ tài sản của vợ chồng từ lâu đã được luật quy định
nhưng chưa được định nghĩa trong bất kỳ văn bản nào. Từ điển Luật học giải

thích ngắn gọn: “chế độ tài sản của vợ chồng là tổng hợp các quy định của


8

pháp luật về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung và tài sản
riêng”1.
Theo Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình tập 2 của khoa Luật trường
Đại học Cần Thơ định nghĩa:
Chế độ tài sản vợ chồng là tổng hợp các qui phạm pháp luật điều
chỉnh quan hệ tài sản của vợ chồng, bao gồm các qui định về căn cứ xác lập
tài sản, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng;
nguyên tắc phân chia tài sản giữa vợ chồng. Tài sản được phân loại gồm: tài
sản chung và tài sản riêng. Với quan hệ tài sản chung, vợ chồng cùng tham
gia vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản mà họ có quyền sở hữu
chung. Trong khi quan hệ tài sản riêng bảo tồn sự độc lập của mỗi người
trong việc xác lập và thực hiện quyền sở hữu đối với tài sản.
Định nghĩa này đã cho thấy những nội dung trong chế độ tài sản vợ
chồng. Tuy nhiên, định nghĩa cho rằng chế độ tài sản vợ chồng là tổng hợp
các quy phạm pháp luật điều chỉnh “quan hệ tài sản của vợ chồng” là chưa
chính xác. Bởi quan hệ tài sản của vợ chồng bao gồm các vấn đề: quyền sở
hữu tài sản của vợ, chồng; nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng và quyền
thừa kế tài sản. Trong khi đó, chế độ tài sản vợ chồng là các vấn đề liên quan
đến tài sản của vợ, chồng như xác định tài sản chung, tài sản riêng; quyền,
nghĩa vụ của vợ, chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng và việc phân chia
tài sản. Như vậy, cho rằng chế độ tài sản vợ chồng là “tổng hợp các qui phạm
pháp luật điều chỉnh quan hệ tài sản của vợ chồng” là chưa chính xác.
Theo PGS.TS.Nguyễn Văn Cừ “chế độ tài sản của vợ chồng là tổng hợp
các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh quan hệ sở
hữu tài sản của vợ chồng; bao gồm các quy định về căn cứ, nguồn gốc xác

1

Bộ Tư Pháp – Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, NXB Từ điển Bách khoa, NXB Tư pháp
(Tr.129).


9

lập tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng; quyền và nghĩa vụ của vợ,
chồng đối với các loại tài sản đó; quy định các trường hợp và nguyên tắc chia
tài sản chung của vợ chồng”2
Định nghĩa này đã hàm chứa được những nội dung cơ bản của chế độ tài
sản vợ chồng.
Các khái niệm trên đều đã đưa ra những nội dung cơ bản về chế độ tài
sản vợ chồng. Tuy nhiên các khái niệm này không khái quát được hết về chế
độ tài sản nói chung theo pháp luật của các nước trên thế giới và pháp luật
Việt Nam hiện hành. Theo chúng tôi, có thể đưa ra định nghĩa chế độ tài sản
vợ chồng như sau: Chế độ tài sản của vợ chồng là tổng hợp các quy phạm
pháp luật điều chỉnh về quan hệ sở hữu tài sản của vợ chồng bao gồm: căn cứ
xác lập tài sản của vợ chồng, quyền và nghĩa vụ của vợ và chồng đối với các
loại tài sản và việc phân chia tài sản của vợ chồng trong từng trường hợp cụ
thể.
Việc quy định chế độ tài sản vợ chồng ở các quốc gia là khác nhau tùy
thuộc vào chế độ kinh tế, xã hội cũng như tập quán, thuần phong, mỹ tục. Ở
Việt Nam, đối với việc xác lập tài sản của vợ chồng, Luật HN & GĐ năm
2014 quy định có hai chế độ tài sản để vợ chồng lựa chọn: chế độ tài sản vợ
chồng theo luật định và chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận.
Chế độ tài sản theo luật định là pháp luật đề ra các hình thức xác lập và
thực hiện các quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với khối tài sản của họ.
Chế độ tài sản theo thỏa thuận là vợ chồng tự thỏa thuận với nhau về

việc xác lập và thực hiện quyền, nghĩa vụ đối với tài sản của họ. Thỏa thuận

2

Nguyễn Văn Cừ (2014), Một số nội dung cơ bản về chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật Việt Nam –
được kế thừa và phát triển trong Dự thảo Luật HN & GĐ (sửa đổi), Tạp chí Tòa án nhân dân, kỳ II tháng 4 –
2014, tr.1-4; kỳ 1 tháng 5 – 2014, tr.9 – 12,27.


10

này thường được thể hiện dưới dạng văn bản (dưới nhiều tên gọi: hôn ước,
chế độ tài sản ước định, hợp đồng tiền hôn nhân hay thỏa thuận trước hôn
nhân...).
Vợ chồng có thể lựa chọn một trong các chế độ tài sản do pháp luật quy
định hoặc tự thiết lập một chế độ tài sản riêng với điều kiện là không trái pháp
luật.
1.2.

Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa chế độ tài sản vợ chồng theo

thỏa thuận
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận
Có thể thấy chế độ tài sản theo luật định đã tồn tại ở Việt Nam từ rất lâu
nhưng chế độ tài sản theo thỏa thuận chỉ được ghi nhận trong một số văn bản
tùy từng thời kỳ: Bộ Dân Luật Bắc kì (1931), Bộ Dân Luật Trung kì (1936),
Luật gia đình 1959, Sắc luật 15/64, Bộ luật dân sự năm 1972. Trong hệ thống
Luật HN & GĐ của Nhà nước Việt Nam từ năm 1945 đến nay, chỉ có Luật
HN & GĐ năm 2014 thừa nhận chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận song
song với chế độ tài sản theo luật định.

Ở các nước phương Tây, một trong các đặc thù của pháp luật Hôn nhân
và gia đình là đề cao quyền tự do cá nhân, tự do thỏa thuận, tự do định đoạt
của các chủ thể trong quan hệ hôn nhân và gia đình, đặc biệt là trong quan hệ
giữa vợ và chồng. Pháp luật ở các nước này cho phép vợ chồng có quyền thỏa
thuận chế độ tài sản trước khi kết hôn, chỉ khi không có thỏa thuận về chế độ
tài sản thì sẽ áp dụng chế độ tài sản theo luật định. Trong chế độ tài sản vợ
chồng theo thỏa thuận, vợ chồng có quyền thỏa thuận về việc quản lý tài sản
chung, tài sản riêng, việc đóng góp tài sản để đảm bảo quyền lợi chung cho
gia đình, việc phân chia tài sản,...


11

Một số nước trên thế giới đã thừa nhận chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa
thuận như Nhật Bản, Thái Lan, Pháp,...
Điều 756 Bộ Luật dân sự Nhật Bản quy định “Nếu vợ hoặc chồng trước
khi đăng ký kết hôn không ký một hợp đồng nào nhằm quy định khác đi tài
sản của mình, thì quan hệ tài sản của họ được điều chỉnh bởi quy định tại tiểu
mục II (tiểu mục quy định chế định tài sản pháp định)”. Có thể thấy quy định
này trong Bộ luật dân sự Nhật Bản đã chỉ rõ sự ưu tiên áp dụng việc giao kết
hợp đồng của vợ chồng về các vấn đề tài sản của họ, pháp luật chỉ quy định
khi vợ, chồng không có thỏa thuận gì về tài sản thì vấn đề tài sản của vợ
chồng mới theo quy định của pháp luật.
Điều 1465 Bộ Luật dân sự và thương mại Thái Lan quy định: “Khi vợ
chồng không có thỏa thuận đặc biệt về tài sản của họ trước khi kết hôn, thì
quan hệ giữa họ về tài sản sẽ được điều chỉnh bởi những quy định của
chương này. Bất cứ thỏa thuận nào trong điều khoản trước khi thành hôn trái
với trật tự công cộng, đạo đức hoặc quy định là quan hệ giữa hai vợ chồng về
tài sản đó sẽ được điều chỉnh bởi pháp luật nước ngoài thì vô hiệu”.
Điều 1387 Bộ luật Dân sự Cộng hòa Pháp cũng quy định: “Luật pháp

chỉ điều chỉnh quan hệ vợ chồng về tài sản khi không có thỏa thuận riêng mà
vợ chồng có thể làm vì cho rằng điều đó là cần thiết, miễn sao những thỏa
thuận đó không trái với thuần phong mỹ tục và những quy định sau đây…”.
Việc pháp luật hôn nhân gia đình ở các nước tư bản chủ nghĩa quy định
chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận có những ưu điểm nhất định. Tự do
thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng là bước cụ thể hóa nguyên tắc cá
nhân công dân có quyền tự quyết định các vấn đề của bản thân, trong đó có
hôn nhân và quyền sở hữu tài sản trong hôn nhân. Đặc biệt trong nền kinh tế
thị trường thì sở hữu cá nhân và tự do kinh doanh ngày càng phát triển.


12

Có rất nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm chế độ tài sản vợ chồng
theo thỏa thuận. Theo TS.Nguyễn Văn Cừ “Hôn ước (còn gọi là hôn khế, khế
ước) theo pháp luật của các quốc gia phương Tây là sự thỏa thuận bằng văn
bản (hợp đồng) do vợ chồng kết lập với nhau từ trước khi kết hôn nhằm điều
chỉnh về chế độ tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân” 3
Quan điểm khác cho rằng: “Hôn ước là sự thỏa thuận giữa vợ và chồng
về việc lựa chọn chế độ quản lý và thanh toán tài sản trong gia đình để áp
dụng cho suốt thời kỳ hôn nhân của họ” 4. Hay: “Chế độ tài sản vợ chồng
theo thỏa thuận là chế độ tài sản mà theo đó vợ chồng cùng thỏa thuận về
việc xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với tài sản của họ. Thỏa thuận
này được thể hiện dưới dạng văn bản và dưới nhiều tên gọi khác nhau như:
hôn ước, hợp đồng tiền hôn nhân hoặc thỏa thuận trước hôn nhân...”5
Có thể thấy dù hiểu theo quan điểm nào thì chế độ tài sản vợ chồng theo
thỏa thuận là chế độ tài sản được xác lập theo sự thỏa thuận của vợ và chồng
trước khi kết hôn, có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký kết hôn và được áp
dụng trong suốt thời kỳ hôn nhân; có hiệu lực đến khi hôn nhân chấm dứt.
Trong trường hợp vợ, chồng thỏa thuận sửa đổi, bổ sung, thay đổi toàn bộ

hoặc một phần nội dung chế độ tài sản theo thỏa thuận thì chế độ tài sản đã
xác lập có thể chấm dứt hiệu lực ngay khi hôn nhân còn tồn tại.
Như vậy, có thể hiểu “Chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận là chế độ
tài sản mà theo đó vợ chồng được phép tự thỏa thuận về căn cứ xác lập tài
sản, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên đối với tài sản cũng như phương thức
phân chia tài sản thông qua một vản bản được lập trước khi kết hôn”.
3

Nguyễn Văn Cừ (2012), Một số vấn đề về hôn ước và quan điểm áp dụng ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí
Luật học số 10/2012, tr.3 – tr.9.
4
Nguyễn Hồng Hải (1998), Vấn đề thừa nhận chế độ tài sản ước định trong Luật HN & GĐ, Tạp chí Luật
học số 3/1998, tr.10 – tr.12.
5
Nguyễn Thị Kim Dung (2014), Chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận trong pháp luật Việt Nam , Luận
văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội.


13

Đối với việc xác lập tài sản của vợ chồng tại Việt Nam, Luật HN & GĐ
năm 2014 quy định có hai chế độ tài sản của vợ chồng là chế độ tài sản vợ
chồng theo luật định và chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận. Do đó, chế
độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận có đầy đủ đặc điểm của chế độ tài sản vợ
chồng:
Thứ nhất, chủ thể của quan hệ sở hữu trong chế độ tài sản này phải có
quan hệ hôn nhân hợp pháp.
Thứ hai, xuất phát từ vai trò của gia đình đối với sự phát triển của xã hội,
pháp luật quy định chế độ tài sản vợ chồng luôn hướng đến mục tiêu bảo đảm
quyền lợi của gia đình, trong đó có lợi ích cá nhân của vợ và chồng.

Thứ ba, chế độ tài sản vợ chồng chỉ tồn tại trong thời kỳ hôn nhân.
Thứ tư, chế độ tài sản vợ chồng mang đặc thù riêng trong việc thực hiện
quyền và nghĩa vụ của chủ thể.
Bên cạnh những đặc điểm chung nói trên, chế độ tài sản của vợ chồng
theo thỏa thuận còn có những đặc điểm riêng sau:
Thứ nhất, chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận do chính vợ,
chồng tự thỏa thuận dựa trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng.
Hầu hết các nước thừa nhận chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận đều
quy định vợ chồng tự nguyện thỏa thuận với nhau trước khi kết hôn. Theo đó,
trước khi kết hôn hai bên cùng nhau thể hiện ý chí cá nhân đối với tài sản của
mình. Thời điểm này chưa chịu sự ảnh hưởng của các mối quan hệ gia đình
do đó quyền tự định đoạt tài sản của cá nhân sẽ được bảo đảm hơn.
Thứ hai, chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận phải được lập thành
văn bản trước khi kết hôn và có hiệu lực kể từ khi quan hệ vợ chồng được xác


14

lập – kể từ thời điểm đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền
theo trình tự, thủ tục luật định.
Theo quan điểm của các nhà làm luật tư sản, hôn nhân thực chất là một
hợp đồng do hai bên nam, nữ thỏa thuận trên nguyên tắc tự do, tự nguyện.
Các quyền và nghĩa vụ của vợ chồng phát sinh và thực hiện trong thời kỳ hôn
nhân cũng giống như các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia giao kết
hợp đồng đó. Với mục đích là đề cao quyền tự định đoạt đối với tài sản của
vợ chồng thì trước khi kết hôn hai vợ chồng có quyền tự do thỏa thuận xác
định tài sản chung, tài sản riêng, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên đối với tài
sản, việc phân chia tài sản,...
Thứ ba, chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận có thể được sửa đổi, bổ
sung nhiều lần. Khác với chế độ tài sản theo luật định thường có tính ổn định

cao thì chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận trong quá trình thực hiện để
phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, yêu cầu từ cuộc sống chung giữa vợ
chồng thì vợ chồng có thể thỏa thuận về việc thay đổi chế độ tài sản vợ chồng
theo thỏa thuận được ký kết trước khi kết hôn. Điều này hoàn toàn phù hợp
với lợi ích giữa vợ, chồng và gia đình; giảm tránh xung đột giữa quan hệ hôn
nhân và trách nhiệm, nghĩa vụ yêu thương, chăm sóc giữa các thành viên
trong gia đình.
Tuy nhiên, việc sửa đổi này không được thực hiện một cách tùy tiện mà
phải tuân theo quy định pháp luật.
1.2.2. Ý nghĩa của chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn đời sống hiện nay, sự phát triển của kinh
tế - xã hội, cũng như sự cần thiết trong sự tương thích giữa pháp luật trong
nước và thế giới, Luật HN & GĐ năm 2014 đã thừa nhận chế độ tài sản vợ


15

chồng theo thỏa thuận. Việc thừa nhận chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa
thuận mang những ý nghĩa sau:
Thứ nhất, đảm bảo quyền tự định đoạt của cá nhân đối với tài sản của
mình. Quyền tự định đoạt tài sản của chủ sở hữu được ghi nhận trong Hiến
pháp 2013 và Bộ Luật Dân sự 2015.
Cụ thể, Điều 14 Hiến pháp 2013 quy định trách nhiệm của Nhà nước và
những đảm bảo của Nhà nước trong việc ghi nhận, tôn trọng, thực hiện và bảo
vệ quyền con người, quyền công dân như nguyên tắc: “...quyền con người,
quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận,
tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” đồng thời khắc
phục sự tùy tiện trong việc hạn chế quyền: “Quyền con người, quyền công
dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì
lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội,

sức khỏe của cộng đồng”. Theo đó, không ai được tùy tiện hạn chế các quyền,
ngoại trừ các trường hợp do Luật định.
Quyền tư hữu tài sản được quy định tại Điều 32 Hiến pháp 2013 cho
thấy mọi cá nhân đều có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải, nhà ở,
tư liệu sản xuất,...; quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo
hộ để thực hiện.
Theo quy định tại Điều 17 Bộ luật dân sự 2015, có ba nhóm quyền dân
sự thuộc về năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là: nhóm quyền nhân thân,
nhóm quyền tài sản và nhóm quyền tham gia vào quan hệ dân sự; tương ứng
với mỗi nhóm quyền này, các cá nhân có những nghĩa vụ phát sinh từ các
nhóm quyền thuộc năng lực pháp luật dân sự của họ.


16

Theo quy định pháp luật, mỗi cá nhân có quyền chiếm hữu, sử dụng,
định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu của mình theo ý chí của mình, miễn sao
không xâm phạm lợi ích của người khác, không trái với đạo đức xã hội.
Chế độ tài sản theo thỏa thuận cho phép vợ chồng tự thỏa thuận về việc
xác lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ đối với tài sản của họ. Như vậy sẽ
đảm bảo vợ, chồng có quyền tự định đoạt tài sản riêng của mình. Đồng thời,
điều này còn cho phép vợ chồng có thể tự bảo toàn khối tài sản riêng, giảm
hoặc tránh những xung đột, tranh chấp về tài sản sau khi ly hôn.
Quyền tài sản của vợ chồng là quyền gắn với nhân thân vợ chồng vì vậy
cần phải để cho chính họ cùng nhau thỏa thuận, quyết định lựa chọn một hình
thức hợp lý, có lợi nhất cho bản thân và gia đình.
Thứ hai, xét về góc độ kinh tế, trong điều kiện kinh tế thị trường, sở hữu
cá nhân và tự do kinh doanh đang dẫn đến ý thức tự chủ ngày càng cao của cá
nhân về sở hữu tài sản. Chế độ tài sản theo thỏa thuận cho phép vợ chồng tự
quyết định quyền sở hữu trong gia đình, tạo ra khả năng đôi bên có thể tự giác

thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo thỏa thuận, giúp họ giảm thiểu các rủi
ro trong kinh doanh, do đó tránh được tình trạng gia đình bấp bênh khi cả hai
vợ chồng cùng tham gia các hoạt động kinh doanh mang tính rủi ro cao.
Thứ ba, chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận được thừa nhận giúp
bảo vệ quyền lợi của người thứ ba – những người thực hiện giao dịch về tài
sản với vợ chồng và các thành viên trong gia đình. Khi vợ, chồng tham gia
giao dịch với bên thứ ba, nhờ có thỏa thuận cụ thể, rõ ràng về tài sản của vợ
chồng mà người thứ ba tham gia giao dịch có thể tránh được rủi ro khi tiến
hành các giao dịch với vợ hoặc chồng như chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê
lại đất đai,... Bởi chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận được thể hiện bằng
văn bản giúp bên thứ ba dễ dàng xác định được nghĩa vụ vợ, chồng phải thực


17

hiện bằng tài sản chung hay tài sản riêng? Đồng thời bảo vệ quyền lợi của các
thành viên trong gia đình, tránh ảnh hưởng đến đời sống của các thành viên
trong gia đình.
Thứ tư, trong trường hợp vợ chồng có yêu cầu phân chia tài sản thì việc
thừa nhận chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận góp phần làm giảm chi phí
khi ly hôn và giúp Tòa án xác định được tài sản riêng, tài sản chung nhanh
chóng và dễ dàng hơn.
Đối với chế độ tài sản theo luật định thì Tòa án sẽ khó khăn trong việc
xác định đâu là tài sản chung, đâu là tài sản riêng của vợ chồng nằm trong
khối tài sản tranh chấp thì chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận được thể
hiện dưới dạng văn bản, được lập trước khi kết hôn là cơ sở, căn cứ quan
trọng để Tòa án xác minh tài sản chung, tài sản riêng, tài sản bị tranh chấp để
giải quyết vụ việc một cách nhanh chóng.
1.2.3. Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận
 Cơ sở lý luận

Xác định tài sản của vợ chồng dựa trên cơ sở hôn ước được xuất phát từ
quan niệm của nhà làm luật ở các nước phương Tây. Theo họ, hôn nhân thực
chất là một loại hợp đồng dân sự, hôn nhân chỉ khác với các loại hợp đồng
thông thường khác ở tính chất long trọng trong thiết lập (việc kết hôn phải
được đăng ký tại cơ quan nhà nước hoặc nhà thờ có thẩm quyền theo một
nghi thức đặc biệt được quy định trong pháp luật) và trong việc chấm dứt
(hôn nhân chỉ chấm dứt khi có sự kiện chết, có tuyên bố của một Tòa án về ly
hôn có hiệu lực pháp luật, tất cả các trường hợp chấm dứt này phải tiến hành
theo những thủ tục hành chính hoặc thủ tục tố tụng tại tòa án được pháp luật
quy định). Bên cạnh đó nhà làm luật ở các nước phương Tây cũng đề cao
quyền tự do cá nhân, quyền tự định đoạt đối với tài sản của vợ, chồng. Với


18

quan niệm trên, tự do lập hôn ước đã trở thành một nguyên tắc và là giải pháp
đầu tiên khi quy định chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật về HN&GĐ
ở hầu hết các nước phương Tây. Theo nguyên tắc trên, trước khi kết hôn vợ
chồng hoàn toàn có quyền tự do lập hôn ước để quy định chế độ tài sản của
họ. Họ muốn lựa chọn chế độ tài sản nào cũng được, pháp luật chỉ can thiệp
và quy định chế độ tài sản của vợ chồng khi họ không lập hôn ước.
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Hiến pháp 2013)
đề cao quyền sở hữu riêng của công dân và Bộ luật dân sự số 91/2015/QH13
ngày 24 tháng 11 năm 2015 (Bộ luật dân sự 2015) đã quy định cá nhân có
toàn quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu của mình...
Nguyên tắc tự do cam kết, thỏa thuận trong các quan hệ dân sự, được ghi
nhận trong Bộ luật dân sự, đảm bảo cho các cá nhân có quyền tự do thỏa
thuận để xác lập các quyền và nghĩa vụ, miễn sao các thỏa thuận đó không vi
phạm điều cấm của pháp luật và đạo đức xã hội.
Trong các quan hệ gia đình, vợ chồng có bổn phận, trách nhiệm phải

đảm bảo những điều kiện về tinh thần cũng như vật chất cho sự tồn tại và phát
triển của gia đình mình. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là tất cả các cặp
vợ chồng đều cần phải thực hiện một chế độ tài sản. Quyền tài sản của vợ
chồng là quyền gắn với nhân thân vợ chồng, vì vậy cần phải để cho chính họ
cùng nhau thỏa thuận, quyết định lựa chọn một hình thức thực hiện hợp lý, có
lợi nhất cho bản thân và cho gia đình. Mặt khác, để bảo vệ lợi ích của gia
đình, của con cái, Luật HN & GĐ cần tập trung quy định một cách rõ ràng
hơn những nghĩa vụ và quyền về tài sản của vợ và chồng – áp dụng chung
nhất cho mọi trường hợp, đồng thời phải đi kèm với những biện pháp đảm
bảo thực hiện.
 Cơ sở thực tiễn
- Sự thay đổi về yếu tố cá nhân và chức năng kinh tế trong gia đình


19

Từ xưa, các gia đình Việt Nam có truyền thống trồng lúa nước. Nghề
trồng lúa nước cần có sự đoàn kết giúp đỡ nhau nên con người sống gắn bó,
gia đình càng đông người thì càng tăng thêm sức lao động, hỗ trợ lẫn nhau
trong công việc đồng áng để thu hoạch nhanh chóng; lúc đó chức năng kinh tế
của gia đình chính là sản xuất. Đời sống kinh tế theo kiểu cùng làm, cùng
hưởng, cùng sinh hoạt dưới một mái nhà. Chính vì không thể không đoàn kết,
gắn bó để cả gia đình cùng lao động sản xuất mà yếu tố cá nhân trong gia đình
Việt Nam xưa có phần mờ nhạt, lợi ích chung của gia đình luôn được đặt lên
hàng đầu.
Cùng với sự phát triển của tình hình kinh tế - xã hội, qua quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa; quan niệm về gia đình và vấn đề sở hữu tài sản
trong gia đình, về các mối quan hệ trong gia đình đã có nhiều biến đổi trong
đó yếu tố cá nhân được đề cao nhiều hơn.
Vấn đề bình đẳng giới cũng được chú trọng và đề cao, người đàn ông người cha trong gia đình không còn nắm độc quyền kinh tế mà người phụ nữ

cũng bắt đầu bước ra xã hội để khẳng định vị trí của mình trong sự đóng góp
vào nguồn thu nhập của cả gia đình. Sự thay đổi về kinh tế, xã hội và giao lưu
văn hóa đã mang lại cho gia đình một luồng sinh khí mới: thu nhập, mức
sống, mức hưởng thụ, trình độ tiêu dùng, đời sống vật chất và tinh thần, sự
cập nhật thông tin, sự bình đẳng và dân chủ của hai vợ chồng ngày càng được
nâng cao. Cả gia đình nói chung và vợ chồng nói riêng không cùng làm kinh
tế như trước, họ theo đuổi những con đường riêng và có những hoạt động
kinh tế khác nhau. Vì vậy mà họ có thu nhập riêng, có tài sản riêng, bên cạnh
sự tiêu dùng chung cho gia đình thì việc tiêu dùng riêng cho cá nhân cũng là
lẽ rất bình thường. Vậy nên, nhu cầu được chủ động quản lí tiền bạc và tự do
hoạch định về tài chính của các cặp vợ chồng có xu hướng tăng mà theo quy
định của pháp luật thì những tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao


20

động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của
vợ chồng trong thời kì hôn nhân đều là tài sản chung, điều này dễ khiến cho
các kế hoạch về tài chính của vợ chồng trở nên không có cơ sở pháp lí và dễ
dàng bị vô hiệu. Pháp luật cũng đã có quy định về thỏa thuận chia tài sản
chung trong thời kì hôn nhân song chưa thể trở thành giải pháp tốt cho việc
hoạch định tài chính của vợ chồng. Việc xây dựng những quy định phù hợp
để tạo điều kiện cho vợ chồng tự do hoạch định vấn đề tài chính là điều cần
thiết hiện nay.
- Tình trạng chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân để đầu tư kinh doanh
riêng
Toàn cầu hoá kinh tế là xu thế tất yếu và nó đang diễn ra ngày càng sâu
rộng trên phạm vi toàn cầu. Sự ra đời của các tổ chức kinh tế thế giới như
WTO, EU, AFTA...và nhiều tam giác phát triển khác cũng do toàn cầu hoá
đem lại. Theo xu thế chung của thế giới, Việt Nam đã và đang từng bước chủ

động hội nhập kinh tế quốc tế.
Như đã phân tích, chức năng kinh tế của gia đình đã chuyển từ sản xuất
sang tiêu dùng, vợ chồng có những hoạt động kinh tế khác nhau. Trong thực
tế, hoạt động đầu tư kinh doanh thường chỉ thực hiện bởi một người vợ hoặc
chồng, điều này dẫn đến logic là chỉ có một người vợ hoặc chồng nắm được
và chịu trách nhiệm với hoạt động đầu tư kinh doanh, nhưng các hoạt động
kinh tế này lại liên quan đến vấn đề tài sản chung của vợ chồng nên cần thiết
phải có một cơ chế để giải quyết vấn đề này. Bởi vậy nhiều cặp vợ chồng đã
tìm đến giải pháp chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân.
- Tình trạng ly hôn gia tăng kèm theo tranh chấp tài sản khi ly hôn
Hiện nay tình trạng ly hôn và vấn đề chia tài sản khi ly hôn ngày càng
phức tạp do đó việc đề cao quyền tự định đoạt về tài sản của các bên trước khi


21

xác lập hôn nhân sẽ tránh được các rủi ro không đáng có, bảo đảm được
quyền lợi của người vợ và người chồng.
Trong hôn nhân người ta thường nói “của chồng công vợ”, tuy nhiên, khi
đời sống vợ chồng không còn êm ấm, những tranh chấp tài sản trở thành đề
tài nóng hổi trước tòa; lúc vợ chồng thuận hoà, người trong cuộc thường
không nghĩ đến chuyện phân chia tài sản vì “của anh cũng như của em” và
ngược lại, tuy nhiên, khi chia tay, tranh chấp tài sản là một vấn đề nóng bỏng.
Việc phân định rạch ròi tài sản thuộc về ai là điều hết sức quan trọng đối với
cuộc sống của hai người và cả con cái sau khi ly hôn. Thế nhưng, việc phân
định này không phải lúc nào cũng dễ dàng. Trên thực tế, đã có những trường
hợp người phụ nữ hay đàn ông phải chạy theo những vụ kiện kéo dài vài năm,
thậm chí nhiều hơn thế để đòi quyền lợi, phần tài sản chính đáng của mình.
Có những vụ ly hôn đầy cay đắng và nước mắt trong đó người vợ chỉ nhận
được 1/20 khối tài sản đã chung tay tạo dựng, có những vụ ly hôn bạc tỉ đã

khiến nhiều người tham dự phiên tòa phải kinh hãi vì mức độ kiệt nghĩa cạn
tình. Tất cả những hoàn cảnh bi đát đó cũng chỉ vì vấn đề chứng minh tài sản
chung, tài sản riêng. Trong thời đại ngày nay, đã xuất hiện nhiều gia đình có
tài sản kếch xù và trong nhiều trường hợp khả năng tạo lập tài sản chỉ thuộc
về một người. Nếu vợ chồng không có thỏa thuận gì khác và theo đúng quy
định của pháp luật thì khối tài sản tạo lập được sẽ phải chia đôi, trong nhiều
trường hợp điều này trở nên thiếu công bằng và bất hợp lí. Việc tạo một cơ sở
pháp lí để bảo đảm quyền sở hữu của vợ chồng thật sự là cần thiết và là nhu
cầu của thời đại ngày nay; không chỉ đơn thuần là để tránh các tranh chấp về
tài sản của vợ chồng khi ly hôn, nó còn bảo vệ quyền lợi hợp lí cho người đã
bỏ rất nhiều công sức tạo lập nên tài sản.
- Hiện tượng kết hôn với người nước ngoài trở nên phổ biến


×