Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Tiểu luận triết học cao học về đói nghèo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.06 KB, 13 trang )

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

Đề bài: “Trình bày mối quan hệ biện chứng giữa Tồn tại xã hội và Ý thức
xã hội. Vận dụng mối quan hệ này để phân tích thực trạng, nguyên nhân đói
nghèo của người dân vùng sâu, vùng xa và cách khắc phục chúng”

Giảng viên:
Học viên:
Lớp:

Bài làm


Trình bày mối quan hệ biện chứng giữa Tồn tại xã hội và Ý thức xã hội:
Mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội là mối quan hệ biện
chứng, ý thức xã hội do tồn tại xã hội sinh ra nhưng nó độc lập tương đối. Nếu
chỉ thấy tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội một cách đơn giản sẽ rơi vào chủ
nghĩa duy vật tầm thường. Còn nếu tuyệt đối hóa vai trò tồn tại ý thức xã hội mà
không thấy vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội thì sẽ rơi
vào chủ nghĩa duy tâm. Chính vì vậy tìm hiểu mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và
ý thức xã hội sẽ giúp ta nhận thức đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa chúng.
Điều đó có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn. Để hiểu về mối quan hệ biện
chứng giữa chúng, chúng ta cùng nhau tìm hiểu các khái niệm về tồn tại xã hội,
ý thức xã hội và mối quan hệ giữa chúng ra sao.
1. Khái niệm tồn tại xã hội và Ý thức xã hội:
a. Khái niệm Tồn tại xã hội: là toàn bộ đời sống vật chất của XH và
những điều kiện sinh hoạt vật chất của nó. Đây là hình thức biểu hiện của vật
chất trong lĩnh vực XH, bao gồm 3 yếu tố cơ bản:
+ Phương thức SX: đầu tiên nhất, quyết định nhất; phương thức sản xuất
là cách thức con người làm ra của cải vật chất trong những giai đoạn nhất định
của lịch sử, có vai trò quyết định sự phát triển và tồn tại xã hội; Phương thức sản


xuất bao gồm lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất là sự
thống nhất giữa tư liệu sản xuất và người sử dụng tư liệu sản xuất đó để làm ra
của cải. Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản
xuất ra của cải bao gồm các mặt sở hữu, quản lý, phân phối.
+ Môi trường tự nhiên: là điều kiện sinh sống tất yếu và thường xuyên của
con người; bao gồm địa lý tự nhiên, của cải trong thiên nhiên và nguồn năng
lượng trong tự nhiên; môi trường tự nhiên có thể tạo ra điều kiện thuận lợi cho
sản xuất của con người nhưng cũng có thể tạo ra khó khăn cho hoạt động sản
xuất của con người,
+ Điều kiện dân số: số lượng dân cư, sự tăng về mật độ dân cư, là điều
kiện đối với đời sống xã hội tùy nơi ảnh hưởng đến thuận lợi và khó khăn đối
với đời sống và sản xuất. Dân số là điều kiện tất yếu và thường xuyên của sự tồn
tại và phát triển của xã hội; dân số và tốc độ phát triển dân số của một nước ảnh
hưởng rất lớn đến sự phát triển và tồn tại của xã hội.

2


b. Khái niệm ý thức xã hội: là toàn bộ những quan điểm, tư tưởng, những
tâm tư, tình cảm, những tập tục truyền thống, những thiên hướng, hứng thú...
của XH phản ánh lại tồn tại XH ở từng giai đoạn phát triển lịch sử nhất định.
- Nếu phân chia theo chiều ngang (tạo các cấp độ cao thấp) thì ý thức xã
hội XH bao gồm 2 cấp độ cơ bản:
+ Ý thức xã hội thông thường
+ Ý thức lý luận (ý thức xã hội khái quát từ kinh nghiệm hoạt động thực
tiễn).
Trong hai cấp độ trên, thì vai trò quan trọng nhất thuộc về hai yếu tố là
tâm lý XH và hệ tư tưởng.
+ Tâm lý XH là bộ phận của ý thức xã hội thông thường, nó bao gồm
những tâm tư tình cảm, những tập tục truyền thống, những thói quen, tập quán...

của XH phản ánh trực tiếp những điều kiện sinh hoạt vật chất hàng ngày của
XH, đây là bộ phận có tính bền vững và bảo thủ cao.
+ Hệ tư tưởng là bộ phận của ý thức lý luận, nó bao gồm những quan
điểm tư tưởng đã được hệ thống hóa thành chỉnh thể học thuyết để phản ánh
những lợi ích cơ bản và địa vị của một giai cấp nhất định.
- Nếu phân chia ý thức xã hội theo chiều dọc thì ý thức xã hội bao gồm
các hình thái ý thức xã hội khác nhau: ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý
thức đạo đức, ý thức tôn giáo, ý thức thẩm mỹ, triết học, khoa học...
2. Về mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội:
a. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội: Theo quan điểm thế gới quan
duy vật thì vật chất có trước, nó sinh ra và quyết định ý thức. Trong lĩnh vực XH
thì quan hệ này được biểu hiện là: tồn tại xã hội có trước, nó sinh ra và quyết
định ý thức xã hội, điều đó được thể hiện cụ thể là:
- Tồn tại xã hội nào thì sinh ra ý thức xã hội ấy. Tức là người ta không thể
tìm nguồn gốc tư tưởng trong đầu óc con người, mà phải tìm nó trong chính tồn
tại xã hội. Do đó phải tồn tại xã hội để lý giải cho ý thức xã hội.
- Khi tồn tại xã hội thay đổi một cách căn bản, nhất là khi phương thức
SX đã thay đổi thì sớm hay muộn thì ý thức xã hội cũng phải thay đổi theo.
b. Tính độc lập tương đối và sự tác động trở lại của ý thức xã hội lên
tồn tại xã hội: Sự lệ thuộc của ý thức xã hội vào tồn tại xã hội không phải lúc
nào cũng diễn ra trực tiếp mà cần phải xét đến cùng qua nhiều khâu trung gian
mới thấy được, bởi vì ý thức xã hội có tính độc lập của mình. Tính độc lập tương
đối của ý thức xã hội được thể hiện dưới các hình thức sau:
3


- Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội. Sở dĩ như vậy bởi vì:
+ Do nó chỉ là phản ánh của tồn tại xã hội nên thường biến đổi sau;
+ Do nó có những bộ phận có tính bền vững, tính bảo thủ cao (tâm lý XH,
tôn giáo...);

+ Do có những lực lượng XH luôn tìm cách duy trì tính lạc hậu trên
(nhằm cai trị ND, nô dịch ND...).
- Vai trò tiên phong vượt trước của tri thức khoa học, bộ phận này trong ý
thức xã hội có khả năng nắm bắt các quy luật vận động khách quan, từ đó đưa ra
được những dự báo, tiên đoán về sự phát triển của XH, nên có thể đi tồn tại xã
hội nên có thể đi trước một bước so với tồn tại xã hội (VD dự báo của Mác về sự
sụp đổ của CNTB...).
- Tính kế thừa trong sự phát triển của ý thức xã hội có thể làm cho nó có
một trình độ phát triển cao hơn so với tồn tại xã hội. Nên có những dân tộc với
trình độ kinh tế, chính trị kém phát triển nhưng đời sống tinh thần lại rất phát
triển, chẳng hạn dân tộc Đức ở thể kỷ XIX: kinh tế lạc hậu so với Châu Âu,
nhưng văn hóa tinh thần cực kỳ phát triển (âm nhạc, hội họa....).
- Sự tương tác giữa các hình thái ý thức xã hội có thể tạo ra những quy
luật đặc thù, chi phối sự phát triển của ý thức xã hội, làm cho nó không hoàn
toàn lệ thuộc vào tồn tại xã hội. Cụ thể là ở những giai đoạn nhất định thường
nổi lên một hình thái ý thức xã hội chủ đạo, chi phối các hình thái ý thức còn lại
(làm cho toàn bộ XH phụ thuộc hoàn toàn vào ý thức chủ đạo: thời trung cổ thì
tôn giáo chi phối xã hội, ngày nay khoa học chi phối xã hội).
- Do có tính độc lập tương đối nên ý thức xã hội có thể tác động trở lại lên
tồn tại xã hội theo 2 xu hướng:
+ Nếu ý thức xã hội phản ánh đúng đắn các quy luật khách quan của tồn
tại xã hội thì nó có thể thúc đẩy sự phát triển của tồn tại xã hội. Vai trò này thuộc
về ý thức của những giai cấp tiến bộ và cách mạng.
+ Nếu ý thức xã hội phản ánh sai lệch, xuyên tác các quy luật khách quan
của tồn tại xã hội thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của tồn tại xã hội. Tác động
này thuộc về ý thức của những giai cấp cũ, lạc hậu, phản động. Sự tác động của
ý thức xã hội lên tồn tại xã hội phụ thuộc vào mức độ thâm nhập của nó vào
trong phong trào của quần chúng nhân dân. Cho nên phải thường xuyên đấu
tranh để phổ biến tri thức khoa học và lý luận cách mạng cho quần chúng nhân
dân, đồng thời để đấu tranh để loại bỏ những tàn dư của văn hóa, tư tưởng cũ,

phản động ra khỏi quần chúng (không ảnh hưởng đến quần chúng nhân dân).
4


Vận dụng mối quan hệ này để phân tích thực trạng nguyên nhân đói
nghèo của người dân vùng sâu, vùng xa và cách khắc phục chúng.
Thực trạng đó nghèo của người dân vùng sâu, vùng xa:
Bước sang thế kỷ XXI, đói nghèo vẫn là vấn đề có tính toàn cầu. Một bức
tranh tổng thể là thế giới với gần một nửa số dân sống dưới 2USD/ngày. Còn
Việt Nam thì sao? Trong những năm gần đây, Việt Nam được đánh giá là một
trong những nước có công tác xoá đói giảm nghèo tốt nhất theo tiêu chuẩn và
phương pháp xác định đường nghèo khổ của WB, tỷ lệ nghèo ở Việt Nam giảm
từ 58,1% năm 1993 xuống còn 37,4% năm 1998 và hiện nay còn khoảng 30%.
Theo tiêu chuẩn quốc gia tỷ lệ nghèo đói của nước ta giảm từ 30,01% năm 1992
xuống 11% năm 2000. Tuy quy mô đói nghèo toàn quốc giảm nhanh. Nhưng
thực trạng cho thấy, Việt Nam vẫn là một nước nghèo. Trong số đó nghèo đói
tập trung chủ yếu đồng bào dân tộc vùng sâu, vùng xa đó là nơi đồng bào dân
tộc thiểu số sinh sống.
Tỷ lệ hộ nghèo của đồng bào dân tộc thiểu số là 23,1%, cao gấp 3,3 lần so
với mức trung bình chung cả nước. Hướng tới đến năm 2020, giảm tỷ lệ hộ
nghèo từ 1-1,5%/năm. Lần đầu tiên một cuộc điều tra thực trạng Kinh tế - xã hội
của 53 dân tộc thiểu số sẽ chính thức được Ủy ban Dân tộc và Tổng cục Thống
kê công bố tại Hà Nội vào chiều 29/9. Theo yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ,
cứ 5 năm 1 lần, điều tra này sẽ được thực hiện lại.Theo kết quả điều tra, thu
nhập bình quân 1 nhân khẩu hộ dân tộc thiểu số là 1,16 triệu đồng. Người dân
tộc thiểu số chiếm 15% dân số của Việt Nam nhưng chiếm tới 70% nhóm đối
tượng cực nghèo (được đo lường theo chuẩn cực nghèo quốc gia). Trong suốt
hai thập kỷ tăng trưởng nhanh của Việt Nam, người dân tộc thiểu số ở quốc gia
này đã có mức sống được cải thiện lên một cách toàn diện, song thành quả được
hưởng của nhóm đối tượng này còn kém xa so với dân tộc chiếm đa số là người

Kinh.
Cùng với kết quả đó, vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số cũng có tỷ
lệ nghèo giảm nhanh, song so với tỷ lệ chung của cả nước vẫn là vùng có tỷ lệ
nghèo cao, cụ thể như sau: Vùng Tây Bắc: 49%; Vùng Bắc Trung Bộ: 29,1%;
Vùng Tây Nguyên: 28,6%; Vùng Đông Bắc: 25%; Vùng Nam Trung Bộ: 12,6%;
Các vùng còn lại đều dưới 10%...Cả nước hiện còn 58 huyện có tỷ lệ nghèo trên
50% và 3006 xã tỷ lệ nghèo trên 25%, nơi đây tập trung đông đồng bào dân tộc
thiểu số ít người. Từ những nghiên cứu, thống kê, phân tích, báo cáo có thể rút
ra một số nhận định sau:
5


- Đồng bào dân tộc thiểu số chiếm khoảng 14% dân số cả nước nhưng lại
chiếm gần 44% tổng số người nghèo, hay nói cách khác là cứ 100 người nghèo
thì có gần 44 người là đồng bào dân tộc thiểu số.
- Tốc độ giảm nghèo của đồng bào dân tộc thiểu số cũng.
- Tỷ lệ nghèo của đồng bào dân tộc thiểu số giữa các vùng khó khăn nhất
cũng có sự khác nhau; Tỷ lệ nghèo của đồng bào dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc
từ gần 90% năm 1993 giảm xuống còn dưới 60% năm 2006; trong khi đó tỷ lệ
nghèo của đồng bào dân tộc thiểu số vùng Tây Nguyên giảm từ trên 90% xuống
còn 70% trong cùng thời gian trên.
- Tỷ lệ nghèo giữa các nhóm dân tộc thiểu số cũng khác nhau. Nhóm dân
tộc Tày, Thái, Mường, Nùng tỷ lệ nghèo năm 1993 là 82% xuống còn khoảng
42% năm 2006. Các nhóm dân tộc thiểu số khác từ 84% (1995) giảm xuống còn
50%. Nhóm các dân tộc thiểu số ít người ở Tây Nguyên từ 96% giảm xuống còn
khoảng 73% cùng trong khoảng thời gian trên ( Eđê, Raglai...). Nhóm dân tộc
thiểu số ít người khác ở miền núi phía Bắc từ 85% (năm 1993) giảm xuống còn
trên 70% (năm 2006). Nhìn chung nhóm dân tộc thiểu số có tỷ lệ nghèo cao gấp
nhiều lần tỷ lệ nghèo chung của cả nước, nhất là nhóm dân tộc thiểu số ít người;
tập trung ở vùng Tây Nguyên, Tây Bắc, Đông Bắc, miền Tây Bắc Trung Bộ, và

Nam Trung Bộ.
- Tiếp cận các dịch vụ giáo dục cũng như thành tựu về giáo dục giữa
nhóm dân tộc thiểu số và người Kinh, người Hoa cũng có sự khác biệt đáng kể .
Năm 1993 trên 50% người Kinh và Hoa chưa hoàn thành bậc học nào, đến năm
2006 giảm xuống còn trên 20%. Tỷ kệ ngày của nhóm dân tộc thiểu số là trên
70% và trên 45%. Giáo dục trung học cơ sở cũng có tình trạng tương tự. Năm
1993 chỉ có khoảng 8% đồng bào dân tộc thiểu số đã tốt gnhiệp trung học cơ sở
và đã tăng lên giảm 17% vào năm 2006. Tỷ lệ này ở nhóm người Kinh và Hoa là
10% và 25% (tính theo dân số là người lớn).
- Tiếp cận với dịch vụ tín dụng có vẻ khá hơn, vì không có sự khác biệt
lắm giữa nhóm dân tộc thiểu số và người kinh, người Hoa (xét theo tỷ lệ %);
nhưng chất lượng dịch vụ y tế vẫn có sự khác nhau. Khoảng 69% người dân tộc
thiểu số tiếp cận được tín dụng chính thức và 31% tiếp cận dụng phi chính thức;
con số này của người Kinh và người Hoa là 70% và 30%.
- Tiếp cận với dịch vụ y tế tính theo tỷ lệ % dân số thì nhóm dân tộc thiểu
số tỏ ra tốt hơn người Kinh và người Hoa. Năm 1993 chỉ có 8% đồng bào dân

6


tộc thiểu số có thẻ Bảo hiểm y tế (BHYT) đến năm 2006 là 78% có thẻ BHYT
và thẻ khám chữa bệnh miễn phí.
Bên cạnh đó, một số chỉ tiêu về hạ tầng kinh tế xã hội vùng đồng bào
cũng được đưa ra. Trong những năm qua, diện mạo nhiều khu vực bà con đang
dần thay đổi với những con đường giao thông đến tận thôn, bản, mạng lưới y tế,
thông tin liên lạc, báo chí, nhà văn hóa... Đây là cơ sở để xây dựng chính sách
dân tộc góp phần hỗ trợ để đồng bào dân tộc phát huy được nội lực, giảm bớt sự
chênh lệch giữa trình độ phát triển của các dân tộc.
Trong kết quả điều tra thực trạng kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc
thiểu số, có những con số liên quan trực tiếp đến tình trạng tảo hôn và hôn nhân

cận huyết thống có thể sẽ khiến nhiều người cảm thấy lo ngại. Đối với một số
dân tộc, tỷ lệ kết hôn cận huyết thống lên tới hơn 50%.
Ngoài ra còn Về giáo dục, vẫn có gần 21% đồng bào dân tộc trên 15 tuổi
không thể đọc, viết và hiểu một câu đơn giản bằng chữ phổ thong tồn tại vấn đề
khó khăn trong việc dạy tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số…
Nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ nghèo cao của người dân vùng sâu vùng
xa, đặc biệt là của người dân tộc thiểu số ở Việt Nam là do những nguyên
nhân cơ bản sau:
- Bị cách biệt về địa lý và hạn chế trong tiếp cận thị trường:
Vùng sâu, vùng xa là nơi có vị trí địa lý không thuận lợi. Địa hình bị
chia cắt bởi sông, suối, núi cao, vực sâu. Đường giao thông đi lại vô cùng khó
khăn, khí hậu thời tiết khắc nghiệt, nghèo nàn thiếu thốn về cơ sở hạ tầng hoặc
có nhưng không được đồng bộ. Vì vậy, đây là nguyên nhân cơ bản dẫn đến kìm
hãm sự phát triển kinh tế ở vùng sâu vùng xa, họ ít có điều kiện được tiếp xúc
với thị trường mặc dù họ có nhiều tiềm năng cho việc phát triển kinh tế đặc
biệt là tiềm năng về đất đai. Mặt khác nhiều địa phương ở vùng cao còn còn
chịu dựng tình trạng thiên tai nguy hiểm như sói mòn, sạt nở đất hay lũ cuốn
trong mùa mưa lũ… Mức độ nghèo đói thường có quan hệ mật thiết với điều
kiện địa lí tự nhiên. Những vùng chịu ảnh hưởng bởi các điều kiện địa lí, thiên
tai như vậy, mọi thứ đều thiếu thốn hoặc ở trong tình trạng rất tệ, từ các dịch vụ
công cộng thiết yếu như điện, nước, y tế, giáo duc... Tất cả những đặc điểm
này đã phần nào gây ra tình ra tình trạng nghèo khổ của người dân vùng sâu,
vùng xa của Việt Nam. Bên cạnh đó, khả năng đối phó và khắc phục rủi ro này
của người nghèo rất kém do nguồn thu nhập thấp, bấp bênh và khả năng tích
lũy kém nên họ khó có khả năng chống chọi với những biến cố xảy ra trong
7


cuộc sống (mất mùa, thiên tai, mất nguồn lao động, mất sức khỏe,…). Với
năng lực kinh tế mong manh của các hộ gia đình nghèo ở vùng sâu vùng xa,

những đột biến này sẽ tạo ra những bất ổn trong cuộc sống của họ và tất nhiên
người nghèo thì càng nghèo hơn.
- Bị cô lập về mặt xã hội, yếu tố văn hóa và ngôn ngữ:
Những người dân ở vùng sâu, vùng xa bị tách biệt về địa lý nên việc giao
lưu tiếp xúc bị hạn chế, đặc biệt phần lớn những người dân ở vùng sâu, vùng xa
đa số là nơi cư trú của đồng bào người dân tộc thiểu số. Do bị hạn chế về ngôn
ngữ và phong tục tạp quán vùng miền nên họ ít, thậm trí là không được tiếp xúc
với sự phát triển của khoa học công nghệ tiên tiến của đất nước cũng như của
thế giới, dẫn tới họ không khai thác được những thế mạnh để thúc đẩy kinh tế
phát triển. Vì vậy,họ khó thoát ra khỏi hoàn cảnh nghèo khó… ví dụ như vùng
biên giới Việt Nam – Trung Quốc đi qua phần địa giới hành chính của huyện Hải
Hà, tỉnh Quảng Ninh thì dọc tuyến biên giới dài 12 km từ bản Vằn Tốc của xã
Quảng Đức, huyện Hải Hà đến bản Phật Chỉ của xã Đồng Văn, huyện Bình Liêu
vẫn chưa có dân sinh sống; các bản làng như Phật Chỉ của xã Đồng Văn, huyện
Bình Liêu; bản Vằn Tốc của Xã Quảng Đức, huyện Hải Hà đều nằm xa khu
trung tâm xã, trung tâm huyện nên rất khó có thể tiếp cận các tiến bộ về khoa
học kỹ thuật, đời sống văn hóa xã hội mới.
- Tỷ lệ di cư khỏi nơi sinh sống thấp:
Vùng sâu ,vùng xa là nơi không có đường giao thông thuận lợi nên người
dân ở đây ít có cơ hội di chuyển khỏi địa bàn cư trú. Từ đời này qua đời khác họ
ít, thậm chí là không rời khỏi địa bàn cư trú, vì vậy, họ không tiếp thu được
những tiến bộ của khoa học công nghệ trong nước, cũng như của thế giới. Họ
chủ yếu lao động sản xuất bằng kinh nghiệm. Vì ít di cư khỏi noi cư trú nên họ
bị cách biệt về mặt xã hội. Sự cách biệt với xã hội: Cách biệt với xã hội thể hiện
ở hai mặt là quan hệ xã hội và khoảng cách địa lí. Trong mối quan hệ xã hội, hộ
nào có được mối quan hệ tốt hơn với những người xung quanh thì có thể được
giúp đỡ, hỗ trợ trong những thời điểm khó khăn. Điều này càng có ý nghĩa đặc
biệt với những hộ ở vùng sâu vùng xa, nơi mà những hỗ trợ chính thức từ chính
quyền thường đến rất chậm.Cách biệt về địa lí làm cho các hộ hạn chế giao lưu
với thế giới bên ngoài và hầu như không có điều kiện để tiếp xúc những kĩ thuật,

công nghệ hay thông tin mới.
Sự bất bình đẳng giữa các dân tộc: Sự bất bình đẳng giữa các chủng tộc
cũng là nguyên nhân của nghèo đói. Đa phần các nhóm dân tộc thiểu số đều phải
8


chấp nhận sự bất công từ nơi sống cô lập, hạn chế khả năng tiếp cận các nguồn
lực sản xuất. Ngoài ra họ còn phải đối mặt với những khác biệt về văn hoá, nhôn
ngữ hay định kiến của các nhóm dân tộc chiếm đa số. Tất cả những điều này dẫn
đến sự ngheo đói trở nên nghiêm trọng hơn.
- Trình độ học vấn thấp:
Việt Nam là quốc gia có 54 thành phần dân tộc anh em cùng chung sống
ổn định lâu đời, trong đó có 53 dân tộc thiểu số, với hơn 13 triệu người, chiếm
khoảng 14,6% dân số cả nước. Hiện nay, có 56/63 thành phố, 463 huyện và
5.453 xã có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống theo cộng đồng tại các thôn,
buôn, bản, phum, sóc… Hiện nay, có 48,6% đồng bào dân tộc thiểu số sống tại
vùng trung du miền núi phía Bắc, khoảng 30% sống tại các vùng Bắc Trung Bộ,
Duyên hải miền Trung và Tây Nguyên…
Tuy nhiên, ở vùng cao, vùng sâu,
vùng xa, tỷ lệ tái mù chữ còn cao, tình trạng học sinh bỏ học còn nhiều, nhất là
học sinh nữ con em các gia đình nghèo. Một số dân tộc ít người chưa có người
tốt nghiệp trung học phổ thông. Đến nay, vẫn còn hơn 95% số lao động là người
dân tộc thiểu số chưa có đào tạo ngành nghề, tác động của chính sách vĩ mô đến
người nghèo chưa hợp lý, tỷ lệ đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn còn thấp.
Việc phân phối lợi ích tăng trưởng trong các nhóm dân cư gồm cả các nhóm thu
nhập phụ thuộc vào đặc tính của tăng trưởng chưa hợp lý. Thông thường, người
giàu hưởng lợi từ tăng trưởng kinh tế nhiều hơn những người nghèo và như vậy
đã làm tăng thêm khoảng cách giàu nghèo giữa nội thành và ngoại thành là điều
khó tránh khỏi.
Những giải pháp xóa đói giảm nghèo đối với người dân vùng sâu

vùng xa, đặc biệt là đối với người dân tộc thiểu số ở Việt Nam
- Nhóm giải pháp nhằm cải tiến phương thức sản xuất lạc hậu cổ hủ dần
dần dịch chuyển bằng cách tích cực áp dựng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trong
sản xuất nhằm thay đổi phương thức sản xuất của đồng bào dân tộc thiểu số, đặc
biệt đồng bào dân tộc thiểu số vùng biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa bằng
cách triển khai thực hiện các chính sách tạo việc làm, đảm bảo thu nhập tối thiểu
và giảm nghèo đã hỗ trợ người dân nâng cao cơ hội tạo việc làm, tham gia thị
trường lao động, chuyển đổi cơ cấu việc làm theo hướng đa dạng hóa sinh kế,
giảm tỷ lệ thất nghiệp, xóa đói, giảm nghèo, cải thiện cuộc sống, góp phần ổn
định xã hội. Cụ thể:
(1) Hệ thống tín dụng ưu đãi với mạng lưới dịch vụ bao phủ 100% xã,
phường. Tỷ lệ đồng bào DTTS được vay vốn (27,5%) cao hơn so với các hộ dân
9


tộc Kinh/Hoa (20,3%). Đến 28/2/2013 thông qua ngân hàng Chính sách xã hội,
Nhà nước đã cho đồng bào DTTS vay số tiền là 23.425 tỷ đồng, góp phần phát
triển sản xuất kinh doanh, tạo việc làm, cải thiện đời sống, giảm nghèo cho gần
1 triệu hộ.
(2) Chính sách đào tạo nghề đã góp phần nâng cao chất lượng lao động
vùng DTTS: giai đoạn 2010-2012, đã có 848.574 lao động DTTS được đào tạo
nghề, vùng Trung du miền núi phía Bắc và Tây Nguyên có tỷ lệ người DTTS
được hỗ trợ học nghề đạt cao nhất. Sau đào tạo nghề, nhiều người đã có việc làm
mới hoặc tiếp tục làm nghề cũ có năng suất, thu nhập cao hơn.
(3) Chính sách đưa lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước
ngoài theo hợp đồng đã hỗ trợ cho 16.000 lao động DTTS, trong đó 7.132 lao
động DTTS thuộc 62 huyện nghèo (giai đoạn 2010-2013). Đa số lao động DTTS
đi xuất khẩu lao động đều có việc làm, thu nhập ổn định gửi tiền về cho gia đình
nhờ đó nhiều hộ đã thoát nghèo, đầu tư xây dựng nhà, mua sắm tài sản, đầu tư
phát triển sản xuất, kinh doanh hiệu quả.

(4) Chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất đã giúp cho đồng bào DTTS từng
bước bỏ tập quán sản xuất nương rẫy, phụ thuộc vào tự nhiên chuyển sang tích
cực áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất để nâng cao thu nhập,
giảm nghèo bền vững; đồng thời nâng cao năng lực làm chủ đầu tư cho các xã,
trình độ và kiến thức về xây dựng và quản lý dự án cho cán bộ cơ sở nhất là cán
bộ xã.
(5) Đầu tư vào cơ sở hạ tầng như các công trình đường giao thông đã tạo
điều kiện cho người dân đi lại thuận lợi, thúc đẩy giao lưu kinh tế, văn hoá, xã
hội; hệ thống thuỷ lợi được hoàn thiện đã nâng cao năng lực tưới tiêu, mở rộng
diện tích đất sản xuất, giúp người dân ổn định lương thực; các công trình nước
sinh hoạt, điện, trạm y tế xã, trường lớp học được đầu tư xây dựng kiên cố, đồng
bộ ở các xã, thôn bản giúp cho người dân nông thôn vùng sâu, vùng xa cải thiện
đời sống sinh hoạt hằng ngày
(6) Hỗ trợ đất ở, đất sản xuất đã giúp cho những hộ DTTS nghèo, đời
sống khó khăn phát triển sản xuất, ổn định và cải thiện cuộc sống: Tính đến cuối
năm 2012, các địa phương đã hỗ trợ đất ở cho 71.713 hộ ; hỗ trợ đất sản xuất
cho 83.563 hộ.
(7) Công tác định canh định cư ở miền núi đã đem lại những thay đổi
nhiều mặt trong đời sống nhiều cộng đồng dân cư. Từ năm 2007 đến 30/6/2012,
đã hoàn thành định canh định cư cho 9.827 hộ với 46.187 nhân khẩu, thực hiện
10


khai hoang thêm gần 9.000 ha đất ở và đất sản xuất, xây dựng mới hàng trăm
công trình thủy lợi, điện sinh hoạt, nhà văn hóa, lớp học mẫu giáo, xây dựng trên
1.000 km đường giao thông nông thôn và 9.827 nhà ở cho các hộ định canh định
cư, góp phần thiết thực trong việc ổn định đời sống và giảm nghèo đối với các
hộ du canh du cư.
(8) Chính sách khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư có tác động lớn
đến cải thiện sinh kế cho đồng bào DTTS thông qua khuyến khích họ tự phát

triển sản xuất để vươn lên thoát nghèo, tránh tư tưởng ỷ lại, góp phần thay đổi
nhận thức, cách nghĩ cách làm, xóa bỏ tập quán canh tác lạc hậu qua đó góp
phần nâng cao thu nhập.
- Chính sách trợ giúp xã hội (TGXH) nhằm bảo đảm thu nhập và các điều
kiện sinh sống ở mức tối thiểu (bằng các hình thức và biện pháp khác nhau) cho
đồng bào DTTS gặp rủi ro, bất hạnh, nghèo đói, thiệt thòi trong cuộc sống
không đủ khả năng tự lo được cuộc sống của bản thân và gia đình. Cụ thể:
(1) Tỷ lệ các hộ nhận được TGXH thường xuyên của người DTTS đã tăng
từ 19,4% (năm 2007) lên 38,8% (năm 2012). Ước tính đến cuối năm 2013 có
khoảng 540 nghìn người DTTS đang hưởng chính sách TGXH thường xuyên.
Tỷ lệ DTTS nhận được trợ cấp xã hội lớn hơn so với hộ Kinh do có nhiều người
rơi vào hoàn ĐBKK và đã được hưởng đúng chính sách.
(2) Công tác cứu trợ đột xuất đối với đồng bào DTTS đã được triển khai
tương đối kịp thời, góp phần tạm thời ổn định cuộc sống của đối tượng bị rủi ro.
Giai đoạn 2006-2011, mỗi năm bình quân Nhà nước chi khoảng 1000 tỷ đồng và
khoảng 50-60 nghìn tấn gạo để hỗ trợ các địa phương và người dân nói chung,
DTTS nói riêng khắc phục thiên tai, ổn định cuộc sống.
- Nhóm giải pháp nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống, cải thiện môi
trường sống, môi trường sản xuất, kinh doanh và tiếp cận, áp dụng các tiến bộ
khoa học kỹ thuật bằng cách triển khai thực hiện các chính sách hỗ trợ tiếp cận
dịch vụ xã hội cơ bản:
(1) Giáo dục ở vùng đồng bào DTTS, vùng sâu, vùng xa có tiến bộ rõ rệt.
Mạng lưới giáo dục mầm non, tiểu học đã bao phủ đến tận các thôn bản vùng
sâu, vùng xa. Hệ thống trường dân tộc nội trú và bán trú ngày càng củng cố. Tỷ
lệ trẻ 5 tuổi người DTTS được đi học mầm non, tỷ lệ đi học tiểu học, trung học
cơ sở đúng độ tuổi ngày càng tăng.
(2) Thành công nhất trong chính sách đảm bảo y tế cho đồng bào DTTS là
việc cung cấp rộng rãi bảo hiểm y tế cho người dân, gần như 100% người nghèo,
11



người DTTS đã được cấp thẻ BHYT. Mạng lưới cơ sở y tế ngày càng phát triển,
chất lượng khám chữa bệnh ngày càng tăng.
(3) Chính sách hỗ trợ nhà ở đã hỗ trợ 507.143 hộ trong giai đoạn 20092011, trong đó có 224.000 hộ là đồng bào DTTS. Hầu hết các căn nhà đều vượt
diện tích và chất lượng quy định, với diện tích đa số từ 28-32 m2, nhiều căn nhà
có diện tích 50-60 m2.
(4) Chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông
thôn mang tính xã hội và nhân văn sâu sắc, góp phần cải thiện điều kiện sống,
nâng cao nhận thức của người dân nông thôn nói chung DTTS nói riêng, góp
phần phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt là đối với người nghèo, đồng bào DTTS,
vùng sâu, vùng xa.
(5) Đồng bào DTTS được thông tin kịp thời về các chính sách của Đảng
và Nhà nước; nâng cao đời sống văn hóa tinh thần, rút ngắn khoảng cách về
thông tin giữa các vùng, miền. Năm 2013, tỷ lệ xã miền núi, vùng sâu, vùng xa,
biên giới, hải đảo được phủ sóng phát thanh ước đạt 99,8%; tỷ lệ xã miền núi,
vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo được phủ sóng truyền hình đạt 99,8%; tỷ lệ
xã miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo có đài truyền thanh xã đạt
87%.
- Nhóm giải pháp nâng cao chất lượng, ổn định và phát triển nguồn nhân
lực, đặc biệt nâng cao chất lượng nguồn nhân lực dân tộc thiểu số - nhiệm vụ
chiến lược của công tác dân tộc:
+ Nguồn nhân lực là tài sản lớn nhất, là nhân tố có ý nghĩa quyết định đối
với sự tồn tại và phát triển đất nước. Ở miền núi nước ta, nguồn nhân lực dân tộc
thiểu số là nhân tố trung tâm, có vai trò quyết định đối với sự tăng trưởng và
phát triển kinh tế - xã hội. Trong sự nghiệp cách mạng, Đảng và Nhà nước ta đặc
biệt ưu tiên đầu tư, phát triển nguồn nhân lực vùng miền núi đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ từng thời kỳ.
+ Nhiều chủ trương, chính sách trực tiếp liên quan đến giáo dục-đào tạo
đã được ban hành và tổ chức thực hiện như: Chính sách xây dựng và phát triển
hệ thống các trường phổ thông dân tộc nội trú; Chính sách cử tuyển học sinh vào

các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp nhằm đáp ứng yêu cầu
về cán bộ là người dân tộc thiểu số tại địa phương; Chính sách ưu tiên điểm đối
với học sinh thi đại học, cao đẳng tạo cơ hội cho học sinh tại các vùng miền có
điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn; Chính sách hỗ trợ học sinh là con hộ nghèo
tại các xã đặc biệt khó khăn; Đề án hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động nông thôn
12


theo Quyết định 1956/QĐ-TTg; Chính sách tín dụng đối với học sinh, sinh viên
nghèo.
+ Nhà nước cũng ban hành một số chính sách có ảnh hưởng gián tiếp đến
phát triển nguồn nhân lực vùng dân tộc miền núi, tiêu biểu: Chương trình 135
giai đoạn II; Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ về giảm nghèo nhanh
và bền vững với 62 huyện nghèo giai đoạn 2009 - 2020...
Như vậy, Đảng, Nhà nước trong nhiều năm qua, đã thực thi nhiều chính
sách về đầu tư cơ sở hạ tầng, hỗ trợ phát triển sản xuất, ưu tiên nhằm tạo nguồn,
xây dựng đội ngũ lao động, trí thức là người dân tộc thiểu số. Nhờ vậy, đến nay,
trình độ dân trí của vùng dân tộc thiểu số và miền núi đã được nâng lên đáng kể.
Cơ bản diện mạo của các thôn, bản biên giới, thôn bản vùng sâu, vùng xa đã cải
thiện rõ rệt. Về cơ bản, đã thực hiện thành công sự nghiệp xóa mù chữ, phổ cập
giáo dục tiểu học và trung học cơ sở; quy mô đào tạo đại học, cao đẳng, trung
học chuyên nghiệp và dạy nghề tiếp tục tăng với tốc độ cao; trình độ tay nghề,
chuyên môn kỹ thuật của lao động từng bước được nâng lên; tiềm lực và trình
độ khoa học - công nghệ đã có bước phát triển đáng kể... với sự vào cuộc tích
cực của nhà nước đời sống của người dân vùng sâu, vùng xa đã được nâng lên rõ
rệt, hướng tới xóa bỏ nghèo nàn lạc hậu. Tuy nhiên để rút ngắn khoảng cách
chênh lệnh về sự phát triển, sự phân hóa giầu nghèo giữa miền xuôi và miền
nước, giữa dân tộc kinh và đồng bào các dân tộc thiểu số trong cả nước thì
Đảng, Nhà nước tiếp tục xác định và ưu tiên nhiều hơn nữa thực thi các chính
sách áp dụng, đặc biệt phải có các chính sách áp dụng đặc thù đối với vùng biên

giới, hải đảo, vùng xâu, vùng xa nhằm tạo các nguồn lực tốt nhất đối với sự phát
triển từng vùng phù hợp với điều kiện tự nhiên, môi trường là tiềm năng vốn có
của nó và kết hợp nguồn nhân lực đã qua đào tạo, lực lượng tri thức trẻ tình
nguyện đang được bổ sung cho các xã nghèo, xã đồng bào, dân tộc thiểu số
trong cả nước.

13



×