Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Một số biện pháp khơi gợi sự hứng thú cho học sinh trong dạy học văn bản ngữ văn 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.16 MB, 28 trang )

1. MỞ ĐẦU:
1.1. Lí do chọn đề tài:
M.Gorki đã từng nói: “Văn học là nhân học”. Đúng như vậy, Ngữ văn
không chỉ là một môn khoa học cơ bản mà nó còn có vai trò quan trọng trong
việc hình thành nhân cách con người, môn Ngữ văn với những tác phẩm Văn
học chứa đựng nội dung phong phú, đa dạng về văn hoá, tinh thần, tư tưởng, tâm
hồn của dân tộc, góp phần hình thành nhân cách xã hội chủ nghĩa cho học sinh
(HS), giúp các em cảm thụ được những giá trị chân - thiện - mĩ, biết rung động
trước cái đẹp dù là âm thanh của tiếng chim hót, tiếng róc rách của dòng nước
mát, cảm giác thanh thản trước một bầu trời xanh cao, biết day dứt trước một
người tàn tật, biết ngậm ngùi cảm thông trước một bà lão ăn mày, biết yêu và
biết ghét… Học Văn là học cách làm người, học để hoàn thiện con người. Học
giao tiếp học, ứng xử để tâm hồn được xanh tươi hơn, phong phú hơn, biết kiềm
chế xa lánh cái xấu, biết say mê cái đẹp trong cuộc sống... Thế nhưng thực tế
hiện nay cho thấy phần lớn học sinh chưa thực sự yêu thích môn học này, chưa
thấy hứng thú thậm chí là chán giờ học Văn. Vậy làm thế để khơi gợi niềm hứng
thú cho học sinh trong tiết dạy Ngữ văn? Qua nhiều năm giảng dạy môn Ngữ
văn ở trường THCS tôi nhận thấy rằng: muốn giờ dạy đạt hiệu quả cao, ngoài
việc truyền đạt kiến thức giáo viên cần phải giúp học sinh phát huy tính tích cực,
tự giác, chủ động, sáng tạo, rèn luyện thói quen và khả năng tự học, tinh thần
hợp tác, kỹ năng vận dụng kiến thức vào những tình huống khác nhau trong học
tập và thực tiễn, tạo niềm tin, niềm vui hứng thú trong học tập... Vì vậy tôi đã
chọn đề tài: “Biện pháp khơi gợi sự hứng thú cho học sinh trong dạy - học
văn bản Ngữ Văn 9” để nghiên cứu trong năm học 2017-2018.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Các nhà nghiên cứu phương pháp dạy học Văn đã khẳng định: Biện pháp
khơi hứng thú cho học sinh trong dạy – học văn bản Ngữ Văn – xem như một
nguyên tắc dạy học đảm bảo chất lượng và hiệu quả.
Để có được giờ dạy Văn tốt theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy học,
giáo viên phải vất vả hơn nhiều trong việc soạn giảng và điều hành giờ dạy Văn.
Mỗi giáo viên ai cũng muốn tất cả các giờ dạy của mình đạt được hiệu quả cao


thì chính ta phải chủ động, sáng tạo mới có thể khơi dậy được sự hoạt động chủ
động, tính tích cực sáng tạo của tất cả học sinh trong lớp. Bởi vì mỗi tác phẩm
văn chương được chọn đưa vào chương trình văn học đã là một sáng tạo độc đáo
của nhà văn, mỗi cá nhân học sinh lại là một chủ tiếp nhận. Do đó, sự áp đặt
cách hiểu, cách cảm nhận của giáo viên tới học sinh là chưa đúng với bản chất
học tập và đặc biệt là học Văn.
Như vậy để có giờ dạy văn đúng theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy
học, bản thân tôi đã nhận thấy: biện pháp khơi gợi sự hứng thú cho học sinh
trong dạy - học văn bản Ngữ Văn là một phương pháp cực kỳ quan trọng, nó tác
hợp được mối quan hệ dân chủ hóa trong qua trình dạy học. Học sinh được tham
gia trực tiếp vào quá trình tiếp nhận tri thức. Từ đó góp phần giải quyết thực
trạng lười học, chán học và không biết cách học môn văn của học sinh trong nhà
trường hiện nay đồng thời giúp các em có hứng thú, ham thích học môn Ngữ


Văn và tạo điều kiện cho giáo viên hứng khởi hơn trong giờ dạy. Vì vậy viết đề
tài này, bản thân tôi mong muốn được góp phần cùng đồng nghiệp áp dụng
thành công trong bài giảng của mình.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu là Một số biện pháp khơi gợi sự
hứng thú cho học sinh trong dạy - học văn bản Ngữ Văn 9.
- Phạm vi nghiên cứu: Học sinh lớp 9B – Trường trung học cơ sở
- Thời gian nghiên cứu: năm học 2017 - 2018.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp điều tra khả năng và hứng thú học tập của học sinh.
- Phương pháp thực nghiệm.
- Phương pháp trắc nghiệm khách quan
- Phương pháp thu thập thông tin
- Phương pháp thống kê, xử lí số liệu.
- Tổng kết rút kinh nghiệm.

1.5. Những điểm mới của SKKN: không


2. NỘI DUNG:
2.1. Cơ sở lí luận:
- Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã phân tích và
nhận định sâu sắc thực trạng phương pháp giảng dạy ở nước ta thời gian qua còn
chậm đổi mới, chưa phát huy được khả năng sáng tạo của người học và yêu cầu
đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một
chiều, rèn luyện thành lối tư duy sáng tạo ở người học.
- Luật giáo dục của nước CHXHCNVN trong điều 4 (yêu cầu về nội dung
phương pháp giáo dục) cũng chỉ rõ: “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính
tích cực tự giác, chủ động , tư duy, sáng tạo ở người học, bồi dưỡng năng lực tự
học, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên” (Luật Giáo dục - trang 9 - 1998).
Đứng trước thực trạng và yêu cầu chung của nền giáo dục nước nhà, môn
Ngữ văn có vị trí đặc biệt trong việc thực hiên mục tiêu chung đó. Là môn học
giúp học sinh có ý thức tự tu dưỡng, biết yêu thương, quý trọng gia đình bạn bè,
có lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, biết hướng tới những tư tưởng, tình cảm
cao đẹp như lòng nhân ái, tinh thần tôn trọng lẽ phải, sự công bằng, biết căm
ghét cái xấu, cái ác…Đó là những con người biết rèn luyện để có tính tự lập, có
tư duy sáng tạo, bước đầu có năng lực cảm thụ các giá trị chân thiện mĩ trong
nghệ thuật, trước hết là trong văn học. Đó cũng là con người có ham muốn đem
tài, trí của mình cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc.
Có thể nói cuộc cải cách giảng dạy bộ môn Văn ở nhà trường Trung học
cơ sở trong suốt những năm qua đã đem lại những thành công đáng kể. Giờ học
văn trên lớp giáo viên với vai trò tổ chức, hướng dẫn, là người mở ra cho học
sinh con người mới đầy sáng tạo chủ động trong tiếp nhận tác phẩm văn chương,
là người “thắp sáng lên tình yêu văn học” nơi học sinh. Học sinh được tạo điều
kiện tiếp xúc trực tiếp với tác phẩm, được phát huy tính tích cực của mình trong
giờ học nên chất lương phần nào được nâng lên. Tuy nhiên để đáp ứng yêu cầu

của xã hội, yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học văn đã và đang đề ra: Phải
phát huy chủ thể sáng tạo của học sinh - học sinh phải là người chủ động chiếm
lĩnh và vận dụng kiến thức thì còn cả một chặng đường dài.
2.2. Thực trạng của vấn đề:
a. Thực trạng chung:
Vấn đề dạy - học môn Ngữ văn trong nhà trường phổ thông đang là vấn
đề thời sự nóng hổi, luôn thu hút sư quan tâm của các cấp, các ngành trong xã
hội, theo kết quả khảo sát của các nhà giáo dục Việt Nam , trong những năm gần
đây chất lượng học văn của học sinh nói chung và cấp THCS nói riêng ở nước ta
ngày càng giảm sút, môn Văn đang dần mất đi vị thế vốn có của nó. Tình trạng
học sinh không còn hứng thú với việc học Văn đã trở thành hiện tượng phổ biến
trong nhà trường phổ thông hiện nay, hay nói như giáo sư, nhà giáo Hoàng Như
Mai đã nói trong một cuộc trao đổi về thực trạng giảng dạy văn học trong nền
giáo dục Việt Nam hiện nay: “ sự rung cảm và sáng tạo của học sinh có nguy cơ
bị bào mòn”. Trước thực trạng đó hàng năm đã có nhiều cuộc hội thảo, chuyên
đề đổi mới phương pháp dạy học văn được tổ chức dưới nhiều cấp độ khác nhau


trong phạm vi cả nước, hàng loạt phương pháp đổi mới được đề xuất, được thử
nghiệm, vậy
mà căn bệnh “chán học văn” của học sinh vẫn chẳng được cải thiện là bao.
b. Thực trạng giáo viên:
- Giáo viên mặc dù đã có ý thức đổi mới phương pháp dạy học văn nhưng
việc thực hiện chưa đem lại hiệu quả như mong muốn, nhiều giáo viên vẫn còn
thói quen truyền thụ kiến thức một chiều, giáo viên giảng giải, học sinh lắng
nghe, ghi nhớ và biết nhắc lại đúng những điều mà giáo viên đã truyền đạt, giáo
viên chủ động cung cấp kiến thức cho học sinh, áp đặt những kinh nghiệm, hiểu
biết, cách cảm, cách nghĩ của mình trước học sinh, nhiều giáo viên chưa chú
trọng đến việc tiếp thu vận dụng kiến thức của học sinh cũng như việc chỉ ra cho
các em con đường tích cực chủ động để thu nhận kiến thức đó.

c. Thực trạng học sinh:
Tồn tại lớn nhất đối với học sinh là thói quen thụ động, quen nghe, quen
chép, ghi nhớ và tái hiện một cách máy móc rập khuôn những gì giáo viên đã
giảng, đa phần học sinh chưa có thói quen chủ động tìm hiểu khám phá bài học,
chính điều này đã thui đi óc sáng tạo, suy nghĩ của người học, biến học sinh
thành những người quen suy nghĩ, diễn đạt bằng ý vay mượn, bằng những lời có
sẵn, người học chưa có nhu cầu tự thân bộc lộ những suy nghĩ tình cảm của các
nhân trước tập thể. Khảo sát bài thi của học sinh cho thấy những lỗi thường gặp
là: tên riêng của nhà văn, nhà thơ không viết hoa, không sử dụng dấu chấm câu,
lỗi dùng từ và đặt câu, không có ý thức qua dòng, không biết tổ chức các đoạn
văn và viết câu thì câu què, câu cụt, câu sai cấu trúc, sai lô gích, nghèo nàn về
vốn từ rồi thiếu sự sáng tạo khi làm bài…, điều đó cho thấy học sinh hết sức lơ
mơ về kiến thức ngữ văn, rất ít học sinh biết rung động trước những tác phẩm
văn học hay. Do vậy khi làm bài, học sinh thường suy luận chủ quan, thô tục hoá
văn chương. Ngoài những lỗi trên thì tình trạng học sinh làm bài sai kiến thức cơ
bản vẫn chiếm tỷ lệ lớn. Đó là tình trạng “râu ông nọ cắm cằm bà kia”, viết sai
tên tác giả, tác phẩm, nhầm tác phẩm của nhà văn này với nhà văn khác…
d. Nguyên nhân của các thực trạng trên thì có rất nhiều, có thể kể đến
một số nguyên nhân chính sau:
- Nguyên nhân khách quan:
+ Do xu thế xã hội: ngày nay các bậc phụ huynh thường định hướng cho
con cái đầu tư thời gian và sức lực vào các môn khoa học tự nhiên, còn Văn thì
chỉ cần đạt điểm trung bình là được, vì vậy vô tình các em đã dần xa rời môn
học này.
+ Do thị trường sách hiện nay: sách in ấn tràn lan, dễ tìm, dễ mua, giảng
giải cụ thể tác phẩm, học sinh mua về chép lại một cách máy móc khi làm bài
mà không suy nghĩ, sáng tạo do đó dẫn đến tình trạng mù mờ về kiến thức môn
văn.
+ Do sự hạn chế về phương tiện: các phương tiện dạy học, dụng cụ trực
quan minh hoạ cho bài giảng, tài liệu tham khảo, các tác phẩm văn học có giá trị

…nên ít nhiều cũng ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình dạy - học văn.


+ Do chương trình: mặc dù chương trình đã được giảm tải nhiều nhưng
vẫn còn những bài dạy dung lượng kiến thức lớn so với thời lượng 45-90 phút
dạy- học trên lớp, thời gian hạn hẹp nên ít nhiều ảnh hưởng đến việc truyền đạt
kiến thức của giáo viên cũng như đến việc tiếp thu và cảm thụ tác phẩm của HS.
- Nguyên nhân chủ quan:
* Giáo viên:
+ Do áp lực của kiến thức, lo cháy giáo án: Với một chương trình Ngữ
Văn trong nhà trường dày đặc như hiện nay, thầy cô không đủ thời gian để
truyền đạt cho HS niềm đam mê văn học mà cứ phải vội vàng giảng một cách
vội vã về tác phẩm, vậy nên các em chỉ được tiếp cận tác phẩm ở bề mặt, trong
khi những tác phẩm đã được đưa vào chương trình sách giáo khoa đều là những
tác phẩm đã qua sự chọn lọc của thời gian và bao thế hệ người đọc cho nên đều
có giá trị nhân văn sâu sắc, là mảnh đất màu mỡ của tâm hồn. Nhưng với một
thời gian hạn hẹp như vậy giáo viên và học sinh không thể cày sâu tới những lớp
nghĩa sâu trong tác phẩm. Kết quả là những cái cây mọc trên cánh đồng màu mỡ
nhưng lại không thể chạm tới lớp đất màu mỡ đầy dinh dưỡng để chúng lớn lên
thành những cây to xanh tốt, và dĩ nhiên từ người dạy cho đến người học dù
muốn hay không đều trở thành những vận động viên maraton chạy một cách thụ
động trên giá trị của những tác phẩm văn chương còn chưa hiểu hết.
* Học sinh:
+ Học văn là học người. Học văn giỏi không chỉ giúp học sinh khám phá
thế giới nghệ thuật, hiểu biết sâu sắc cuộc sống, ứng xử tốt hơn trong mọi mối
quan hệ hàng ngày mà còn giúp các em học tốt các môn học khác thế nhưng
hiện nay học sinh học yếu môn văn, nhiều HS lên bậc THCS còn chưa đọc thông
viết thạo. Đây là một trở ngại lớn khi các em lại phải tiếp tục tìm hiểu, khám
phá những kiến thức cao hơn, trừu tượng hơn. Từ đó dẫn đến việc các em mất
dần kiến thức cơ bản, dẫn đến chán học, không hứng thú học văn

+ HS thường bị ám ảnh bởi những ba-rem của thầy cô đưa ra vì phải
thuộc và làm đúng với mới có điểm cao. Chính phương pháp giáo dục áp đặt bắt
học trò phải cảm nhận văn học theo khuôn khổ đã giết chết sự hứng thú học văn
của HS.
+ Không ít học sinh ngày nay không có lòng mê văn chương, nhiều học
sinh đến giờ giảng văn thì nằm ngủ gật, đọc truyện trong lớp, trao đổi việc
riêng…Việc đọc sách của học sinh chủ yếu nhằm thỏa mãn trí tò mò, các em chỉ
đọc một số truyện tranh có nhiều yếu tố hoang đường hay li kỳ hoặc các loại
truyện tình mùi mẫn còn mảng thơ ca và các loại truyện khác các em hình như
không ngó ngàng đến. Vả lại, học sinh đọc để thỏa mãn trí tò mò chứ không
nhằm đọc để khám phá cái hay, cái đẹp của tác phẩm, không đọc kỹ tác phẩm,
không soạn kỹ lưỡng các bài văn trong sách giáo khoa trước khi đến lớp, không
chịu suy nghĩ để cùng thầy khám phá nội dung và nghệ thuật bài văn, bài thơ.
+ Ngoài ra phần lớn phụ huynh quan niệm chưa đúng, xem nhẹ vai trò của
môn Văn. Họ cho môn Văn không quan trọng bằng các môn khoa học tự nhiên
và ngoại ngữ; rằng học văn dễ, không cần đầu tư nhiều thời gian công sức cũng
có thể học được, làm được bài chứ không phải “cắn bút” như mônToán, Lí, Hóa.


Từ sai lầm tai hại đó mà họ chỉ nhắc nhở con em mình ngày đêm luyện giải các
dạng bài tập Toán, Lí, Hóa mà quên đi môn Văn
e. Hậu quả của thực trạng:
Để có kế hoạch và biện pháp giảng dạy đạt kết quả cao, sát với mục tiêu
chương trình, tôi đã thực hiện công tác điều tra chất lượng thực tế của Học sinh
qua việc kiểm tra sự chuẩn bị bài trước khi đến lớp, qua tinh thần học tập của
các em trên lớp và qua việc làm bài kiểm tra của các em.
- Thời gian điều tra: Tiến hành từ đầu năm học 2017 - 2018
- Quy mô điều tra: Hai lớp 9A , 9B với tổng số là 63 học sinh
- Đối tượng điều tra: Tất cả đối tượng từ yếu đến khá, giỏi
* Khảo sát về hứng thú học tập:

- Số học sinh có hứng thú học Ngữ văn: 17 HS =27%
- Số học sinh không có hứng thú học Ngữ văn: 37 HS =58,7%
Còn lại không đưa ra ý kiến : 9 HS = 14,3%
* Khảo sát thực tế học bài cũ và chuẩn bị bài mới ở nhà:
- Số học sinh chăm học bài cũ và chuẩn bị bài mới: 14 HS =22,2%
- Số học sinh có học bài cũ và chuẩn bị bài mới nhưng chưa thường xuyên:
17 HS=27%
- Số học sinh không học bài mới, không chuẩn bị bài cũ : 32 HS =50,8%
* Khảo sát qua tinh thần học tập trên lớp:
- Số học sinh giơ hăng hái giơ tay phát biểu xây dựng bài: 11 HS =17,5%
- Số học sinh giơ tay phát biểu nhưng không thường xuyên: 9 HS =14,3%.
- Số học sinh không giơ tay phát biểu xây dựng bài trước lớp: 43 HS =68,2%
* Kết quả khảo sát chất lượng đầu năm:
Lớp Tổng
Điểm
Kém
Yếu
TB
Khá
Giỏi
Khối HS
SL
%
SL %
SL
% SL
%
SL %
4
13,3

6 20
15 50
5
16,7 0
0
9A
30
9B
33
3
9,0
7 21,2
17 51,6 6
18,2 0
0
K9
63
7
11,1
13 20,6
32 50,7 11
17,6 0
0
Với kết quả điều tra trên khiến tôi không khỏi băn khoăn, trăn trở làm thế
nào để giúp các em trở về với môn Văn, với vẻ đẹp của tiếng mẹ đẻ hàng ngày,
những bài học nhân văn sâu sắc, những rung cảm, nhận thức đúng đắn về con
người và cuộc sống… thông qua đó mà bồi dưỡng tâm hồn và nhân cách, hình
thành cho các em những cảm xúc thẩm mĩ, tình cảm nhân văn, lòng yêu quê
hương, đất nước, con người, khát vọng sống đẹp, sống cao thượng. Tôi đã mạnh
dạn áp dụng một số biện pháp khơi gợi sự hứng thú cho học sinh trong dạy

học văn bản ngữ văn 9.
2.3. Giải pháp tổ chức thực hiện:
Đề cập đến bản chất của giờ giảng văn, GS Đặng Thai Mai cho rằng:
“Giảng văn trước hết là theo dõi trong nếp áng văn tất cả cái tinh vi về tư
tưởng, cái độc đáo về nghệ thuật của một tác giả”. Hiểu như vậy giảng văn


trước hết là chỉ ra sự thống nhất giữa hình thức và nội dung, giữa kĩ thuật và tư
tưởng trong một tác phẩm văn chương. Vậy thì muốn chỉ ra sự thống nhất ấy
trong tác phẩm rõ ràng lao động của giáo viên dạy văn vừa phải có tính nghệ
thuật vừa phải có tính sư phạm. Mà tính nghệ thuật của giờ giảng văn tất nhiên
lại phải phụ thuộc vào tài năng của giáo viên và trình độ, khả năng của học sinh.
Tiếp xúc với tác phẩm văn chương, học sinh cần có sự liên tưởng, tưởng tượng
phong phú, rõ ràng mới có thể cảm nhận được cái hay của tác phẩm, cái tài và
các tình của tác giả. Vậy thì việc đầu tiên theo tôi, người thầy dạy văn cần phải
làm đó là phải bằng mọi cách tác động vào tư duy sáng tạo của học sinh trong
quá trình tiếp nhận tác phẩm văn học. Sự tác động ấy có thể bằng nhiều hình
thức khác nhau. Có thể đó là giọng đọc thiết tha diễn cảm khi phân tích tác
phẩm trữ tình, giọng đọc hài hước, dí dỏm khi tiếp cận tác phẩm trào phúng,
giọng đọc đanh thép mạnh mẽ khi thể hiện thái độ căm thù, giọng đọc nhẹ nhàng
ấm áp khi diễn tả tình cảm yêu thương... hoặc có thể đó còn là một hệ thống câu
hỏi phù hợp, đúng lúc gõ vào trí tuệ học sinh, bắt học sinh phải suy nghĩ, phải
căng thẳng chút ít để phán đoán mở hướng hiểu, cách khai thác vấn đề. Qua
nhiều năm giảng dạy bộ môn văn ở trường THCS, tôi thấy rằng để có được một
giờ giảng văn trọn vẹn quả thật là khó bởi vì đó là cả một nghệ thuật. Giờ giảng
văn đòi hỏi học sinh phải liên tưởng, tưởng tượng mới có sự sáng tạo trong phát
hiện tìm tòi trong khi đó thời gian rất eo hẹp, sự liên tưởng, tưởng tượng không
đồng đều ở học sinh... Tất cả chừng ấy yếu tố cũng đủ để chúng ta hiểu rằng khó
có thể cầu toàn đối với một giờ giảng văn. Tuy nhiên nói như vậy không có
nghĩa là chúng ta hoàn toàn không thể có được những giờ dạy, bài giảng thành

công. Với những gì đã làm, đã học tập ở đồng nghiệp và tiếp xúc với nhiều khoá
học sinh, tôi thấy rằng chúng ta có thể giúp cho học sinh có điều kiện rèn luyện
tư duy sáng tạo, khơi gợi sự hứng thú cho học sinh khi tiếp xúc với tác phẩm văn
chương qua một số biện pháp sau đây:
a. Khơi gợi sự hứng thú cho học sinh qua hoạt động giới thiệu bài:
Để có một giờ dạy thành công, kích thích được tinh thần học tập của HS
ngay ở bước hoạt động đầu tiên là bước giới thiệu bài, giáo viên cần tạo ra một
không khí học tập thuận lợi cả về mặt tâm lí lẫn nội dung cho hoạt động dạy
-học tiếp theo đó. Giúp các em bước đầu có một tinh thần hăng hái, hứng thú
khám phá và lĩnh hội những giá trị thẩm mĩ ẩn chứa trong bài học diễn ra sau ít
phút. Theo tôi nghĩ, đó sẽ là khúc dạo đầu tuyệt vời để các em sẵn sàng tiếp
nhận tri thức, đánh thức ở các em tâm trạng và thái độ học tập.
Thường những hoạt động gây không khí này thường rất ngắn, chỉ chiếm
khoảng 2 đến 3 phút, tối đa là 5 phút nhưng có ý nghĩa vô cùng quan trọng như:
ổn định lớp, tạo điều kiện cho HS thích nghi với bài học, chuẩn bị kiến thức, đặc
biệt là gây hứng thú cho HS trong quá trình học tập.Vậy giới thiệu bài nên làm
gì? và làm như thế nào để có thể thực hiện được mục tiêu của bài học một cách
hiệu quả nhất? Thông thường khi giới thiệu bài mới giáo viên thường sử dụng
các thủ thuật như hỏi kiến thức cũ có liên quan đến bài mới, khai thác các kiến
thức có sẵn trong sách giáo khoa và kiến thức có sẵn của học sinh, sử dụng tranh


ảnh, tư liệu có liên quan đến bài học…nhưng có một thủ thuật giới thiệu bài mới
có thể đem lại hiệu quả không ngờ cho tiết dạy đó là:
Trong giờ giảng văn, trước khi vào giảng bài giáo viên có thể dùng lời kể
hoặc lời dẫn kết hợp với một số hình ảnh, đoạn phim, bài hát, câu thơ minh hoạ
để tạo tâm thế thoải mái, giúp học sinh có điều kiện thâm nhập được vào tác
phẩm, vào bài dạy một cách hứng thú. Đây là một hình thức vào bài mà giáo
viên thường dùng thêm các phương tiện hỗ trợ như: băng, đĩa, phim ảnh… đó có
thể là một bài hát có chủ đề liên quan đến bài học, một đoạn phim ngắn có nội

dung của một cuộc hội thoại hay một câu chuyện nào đó có đề tài hướng đến
vấn đề chính mà giáo viên sẽ truyền đạt trong tiết học. Nói chung dùng cách kể
chuyện, hát hoặc xây dựng đối thoại để dẫn dắt vào bài học là một hình thức giới
thiệu sáng tạo của giáo viên. Hiệu quả đạt được chính là sự nhiệt tình của các em
khi tham gia vào việc giải quyêt những câu hỏi hoặc tình huống mà giáo viên đặt
ra đối với những điều mà chính mắt các em nhìn thấy, nghe được thì giờ học sẽ
trở nên thú vị, có hiệu quả ngay với các em học sinh yếu thường xuyên không
chú ý vào bài học.
Ví dụ 1: Khi dạy bài “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” (Phạm Tiến
Duật), “Đồng Chí” (Chính Hữu), ta có thể dẫn dắt học sinh bằng lời giới thiệu,
lời dẫn về vẻ đẹp ngời sáng của những chàng chiến sĩ trẻ, những cô thanh niên
xung phong trên tuyến đường Trường Sơn đầy máu lửa những năm chống Mĩ
trong một số tác phẩm cùng thời, hoặc cho học sinh nghe đoạn nhạc bài hát
“Trường sơn đông, Trường sơn tây” kết hợp một số hình ảnh về hình tượng
những anh bộ đội, những cô thanh niên xung phong và hỏi cảm nhận của học
sinh về vẻ đẹp của hình tượng nghệ thuật này.
Ví dụ 2: Khi dạy các bài “Con cò”(Chế Lan Viên), “Mây và Sóng”( R.Ta
–go), “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ”(Nguyễn Khoa Điềm)…, sẽ
ý nghĩa và sâu sắc biết bao nếu như ta biết vận dụng những bài ca, những câu
thơ, những mẫu chuyện nói về tình mẫu tử, từ đó nhen lên trong các em cảm
xúc dạt dào về thứ tình cảm cao quí và rất đỗi thiêng liêng này, ta cũng có thể
bắt đầu bằng một đoạn bài hát về tình mẹ, tình cha, hoặc một trò chơi từ đó gợi
dẫn về vấn đề cơ bản cần tìm hiểu trong tác phẩm.
Ví dụ 3: Đối với những văn bản thơ đã được phổ nhạc như “Mùa xuân
nho nhỏ”( Thanh Hải), “Đồng chí” (Chính Hữu), “Viếng lăng Bác” (Viễn
Phương)… giáo viên hoàn toàn có thể cho học sinh thưởng thức những ca khúc
này, chúng sẽ có tác dụng rất lớn trong việc tạo nên những xúc động mạnh mẽ
của học sinh về văn bản. Công việc này cùng với đọc diễn cảm có khả năng
đánh thức cảm giác về nhịp điệu, giai điệu cho học sinh và cũng từ đó cảm nhận
những cung bậc của tâm hồn đang hát lên trong những giai điệu đó.

Ví dụ 4: Đối với bài “Những ngôi sao xa xôi” ( Lê Minh Khuê), khi
dạy giáo viên có thể trình bày bài hát hoặc mở casset bài hát quen thuộc “Cô gái
mở đường” yêu cầu học sinh sau khi nghe bài hát trả lời câu hỏi: ?Trong chương
trình Ngữ văn, em đã học tác phẩm nào ca ngợi tinh thần lạc quan yêu đời, yêu
những chiến sĩ lái xe Trường Sơn thời chống Mĩ?Ngoài ra em còn biết những
tác phẩm nào cùng đề tài này?


Giáo viên nói chậm: Cùng ca ngợi sự hi sinh và tinh thần dũng cảm của
những tâm hồn lạc quan, mơ mộng của các thanh niên xung phong hoạt động
trên tuyến đường Trường Sơn thời chống Mĩ như bài: “Bài thơ về tiểu đội xe
không kính” nhưng đối với “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê, ta sẽ
bắt gặp một hình ảnh mới – hình ảnh những cô gái thanh niên xung phong,
những cô trinh sát mặt đường, những cô chuyên phá bom nổ chậm mở đường
cho xe qua với những tâm hồn và tính cách vô cùng đẹp đẽ. Vậy, ba vì sao xa
xôi trên cao điểm Trường Sơn có những nét đẹp nào? Thông qua họ ta hiểu thêm
điều gì về thế hệ thanh niên Việt Nam thời kháng chiến chống Mĩ ...
Hiệu quả của cách giới thiệu bài này sẽ giúp cho không khí lớp học sôi
nổi, tạo cho học sinh tâm lí thoải mái hào hứng với bài học mà giáo viên sẽ cung
cấp, đặc biệt sẽ tránh được lối vào bài đơn điệu nhàm chán lâu nay, đồng thời
cũng là điều kiện để giáo viên trau dồi trình độ chuyên môn, kỹ năng sư phạm.
b. Khơi gợi sự hứng thú cho học sinh qua hoạt động đọc diễn cảm:
M.Gorki đã từng cho rằng: “ Đọc diễn cảm cũng là một hoạt động sáng
tạo nghệ thuật. Có khác chăng là nhà văn đi từ tư tưởng đến ngôn ngữ; người
đọc lại đi từ ngôn ngữ đến tư tưởng”. Trong giảng văn, giọng điệu đọc của giáo
viên có vai trò vô cùng quan trọng. Với giọng đọc của mình, giáo viên có thể đã
và đang truyền thụ được cái hồn của tác phẩm đến với học sinh, có thể mở ra thế
giới tâm trạng, cảm xúc và tư duy mà học sinh cần lĩnh hội và cũng bằng hình
thức đọc diễn cảm, giáo viên có thể tạo cho học sinh những bất ngờ, hoặc sự
hứng thú và có thể khiến các em có cảm nhận mới mẻ về văn bản và tình yêu đối

với văn học cũng được lớn lên từ những giây phút ấy. Đọc đúng, đọc diễn cảm
đòi hỏi sự luyện tập công phu của người thầy. Nhiều đoạn thơ, đoạn văn thầy
không cần giảng, bình mà chỉ đọc đã có thể mở ra cho trò bao nhiêu điều thú vị.
Tuy nhiên không chỉ có thầy đọc mà thầy phải có trách nhiệm tập luyện cho học
sinh thói quen đọc đúng, đọc diễn cảm văn bản bởi vì đây chính là khâu đầu tiên
giúp học sinh cảm nhận tác phẩm văn chương bằng chính giọng đọc của mình để
cảm thụ đúng tác phẩm, cảm thụ cái hay của tác phẩm thông qua sự ngân vang
của nó trong cảm xúc, là yếu tố quan trọng cho học sinh đến được, dần hiểu
chuyển vào thế giới của tác phẩm văn chương. Chính vì thế, giáo viên sử dụng
thích đáng biện pháp này sẽ tạo cho học sinh những ấn tượng tươi mới, những
xúc động mạnh mẽ về văn bản; đồng thời nó có khả năng kích thích liên tưởng,
tưởng tượng tạo sự thâm nhập thuận lợi vào thế giới nghệ thuật của văn bản.
Cho nên, đây là biện pháp có tác dụng rèn luyện cảm thụ văn học cho học
sinh. Giáo viên có thể sử dụng biện pháp này trước khi hướng dẫn học sinh bước
vào phân tích cụ thể văn bản, hoặc kết hợp với việc phân tích; cũng hoàn toàn có
thể sử dụng sau khi đã hoàn tất việc tìm hiểu văn bản. Ở mỗi thời điểm nó đều
có tác dụng riêng; hoặc là tạo những ấn tượng chung; hoặc kiểm nghiệm hay
khắc sâu một sắc thái tình cảm nào đó; hoặc củng cố, thống nhất, nâng cao mọi
ấn tượng về văn bản. Một giờ giảng văn mà cả thầy lẫn trò đều có giọng đọc tốt
sẽ truyền được cảm xúc của mình từ tác phẩm cho học sinh trong lớp.
- Đối với các văn bản thơ: Đọc thơ là phải nắm bắt được giọng điệu tâm
tình của tác giả, nghĩa là phải bắt mạch được, hòa nhập được bầu không khí của


tác phẩm và lắng nghe tiếng nói tình cảm tâm tình của tác giả. Trong thơ giọng
điệu thể hiện trong tiết tấu, nhịp điệu, âm hưởng, ngôn ngữ...khi bắt được giọng
điệu cảm xúc là học sinh bắt đầu chuyển vào thế giới của tác phẩm, bắt đầu hòa
nhập vào nội tâm của tác giả.
Ví dụ 1: Khi dạy bài “Mùa xuân nho nhỏ” (Thanh Hải), với văn bản này,
trước hết giáo viên phải xác định nó thuộc thể thơ năm chữ. Với thể thơ này

thường không ngắt nhịp trong từng câu và các khổ không đều đặn, nhịp điệu của
bài có thể biến đổi theo mạch cảm xúc, tiếp đến xác định mạch cảm xúc và tư
tưởng của văn bản là xúc cảm trước mùa xuân của thiên nhiên đất nước, khát
vọng được dâng hiến “mùa xuân nho nhỏ” của mỗi người vào “ mùa xuân lớn”
của cuộc đời, để từ đó định hướng đọc cho đúng. Sau đó giáo viên xác định
giọng đọc cho toàn văn bản là giọng nhẹ nhàng, sâu lắng, tha thiết.
+ Khổ 1: Giọng say sưa, trìu mến ở phần đầu khi diễn tả mùa xuân của đất trời.
+ Khổ 2,3: nhịp nhanh, hối hả, phấn chấn khi nói về mùa xuân của đất nước.
+ Khổ 4,5: Giọng tha thiết trầm lắng khi bày tỏ suy nghĩ và ước nguyện khi
được góp “mùa xuân nho nhỏ” của mình vào “mùa xuân lớn”của cuộc đời
chung.
+ Khổ 6: Giọng đọc thiết tha, tự hào về quê hương, đất nước qua điệu dân ca xứ
Huế.
Ví dụ 2: Bài thơ “Viếng lăng Bác” (Viễn Phương) là tình cảm chân thành
của tác giả khi ra thăm lăng Bác. Cảm hứng bao trùm bài thơ là niềm xúc động
thiêng liêng, thành kính, lòng biết ơn tự hào xen lẫn nổi đau xót nên khi đọc cần
chú ý giọng chậm , sâu lắng, thiết tha ở khổ thơ 1,2,3. Còn khổ 4 khi thể hiện
ước nguyện của nhà thơ nhịp thơ đọc nhanh gợi cảm xúc mạnh mẽ, khát vọng
dâng trào.
- Đối với các văn bản truyện giọng điệu thể hiện qua thái độ, sắc thái ngôn
từ của tác giả...
Ví dụ 3: Khi dạy văn bản “Làng”( Kim Lân) với hình tượng nhân vật ông
Hai- một người nông dân yêu làng sâu sắc, tình yêu đó hòa quyện trong tình yêu
nước vì vậy cần tìm ra giọng đọc phù hợp trong từng hoàn cảnh :
+ Lúc chưa nghe tin làng theo giặc: đọc giọng tràn đầy tự hào, sung sướng
kiêu hãnh, cần nhấn giọng ở một số câu tiêu biểu “nắng này là bỏ mẹ chúng nó”,
“các ông các bà ở đâu ta lên đấy ạ”...
+ Khi nghe tin làng theo giặc: giọng buồn bã, thất vọng, đau đớn, tủi hổ
và bực tức, cần nhấn giọng ở một số câu tiêu biểu “Cha mẹ tiên sư nhà chúng
nó! Đói khổ ăn cắp ăn trộm bắt được người ta còn thương Cái giống Việt gian

bán nước thì cứ cho mỗi đứa một nhát!, “Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì
vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này.”...
+ Lúc nghe tin làng được cải chính: giọng thể hiện niềm vui sướng, tự
hào, hãnh diện, cần nhấn giọng ở một số câu “ Bác Thứ đâu rồi? Bác Thứ làm gì
đấy? Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ. Đốt nhẵn! Ông chủ tịch làng tôi vừa mới lên
trên này cải chính....Láo! Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả”...
Hay khi đọc nhân vật mụ chủ nhà khi thì đọc giọng đanh đá, lúc giọng
điệu mỉa mai chua chát, lúc thì ngọt ngào, a dua nịnh hót.


Giọng cu Húc thì hồn nhiên thơ ngây, giọng bà Hai hiền lành, cam chịu.
Như vậy thông qua kĩ năng đọc diễn cảm kết hợp với nét mặt cử chỉ, điệu
bộ học sinh như được sống lại với từng nhân vật; học sinh cũng vui buồn hờn
giận với nhân vật... điều này không chỉ giúp cho học sinh hiểu bài mà còn giúp
các em cảm thụ tác phẩm một cách hiệu quả nhất.
c. Khơi gợi hứng thú học văn cho học sinh qua việc sử dụng phối hợp,
hợp lí hệ thống câu hỏi.
Với quan điểm coi HS là thành viên chính thức trực tiếp tham gia xây
dựng nội dung kiến thức, và tạo tiền đề cho việc học văn phát huy tính năng
động sáng tạo của chủ thể HS. Trong quá trình phân tích tác phẩm văn học GV
cần xây dựng hệ thống câu hỏi phát huy tính sáng tạo của HS như: câu hỏi bám
sát tác phẩm, câu hỏi mang tính hệ thống nhằm dẫn dắt học sinh tự khám phá tác
phẩm, câu hỏi bài tập tình huống buộc học sinh phải vận dụng hiểu biết để khám
phá, câu hỏi kích thích những cảm xúc, thẩm mĩ của học sinh, câu hỏi tạo tâm
thế và hứng thú cho học sinh, câu hỏi phát triển năng lực hình dung và liên
tưởng trong tiếp nhận tác phẩm văn học, câu hỏi phát triển năng lực đánh giá...
Trong giờ học giáo viên có thể khơi gợi sự hứng thú ở học sinh bằng hệ
thống câu hỏi sáng tạo có khả năng tạo được tâm lí thoải mái trong tư duy của
các em khi tiếp cận tác phẩm ở các dạng câu hỏi từ khái quát đến cụ thể, từ
khẳng định đến gợi mở, định hướng.

Ví dụ 1: Khi dạy văn bản “Chuyện người con gái Nam Xương” (Nguyễn
Dữ), Giáo viên có thể nêu câu hỏi:
? Khi bị chồng là Trương Sinh nghi ngờ mình thất tiết, cách giải quyết trong
truyện là Vũ Nương tự vẫn để chứng tỏ lòng trong sạch của mình, theo em Vũ
Nương còn có cách giải quyết nào khác tốt hơn không.
Hs sẽ có nhiều phương án lựa chọn:
- Nhờ bà con hàng xóm nói giúp để minh oan
- Giả vờ tự vẫn, để sau này khi Trương Sinh hiểu ra thì sẽ trở về.
- Tra hỏi cặn kẽ người nói ra sự việc này để có cơ hội giãy bày, minh oan.
Dạng câu hỏi này thích hợp với hoạt động thảo luận tập thể. Nhiệm vụ của
các em học sinh trong nhóm là đề ra phương án có tính khả thi nhất, được bảo vệ
vững chắc bằng những luận cứ, luận điểm của nhóm mình.
Ví dụ nếu học sinh lựa chọn phương án “nhờ bà con hàng xóm nói giúp
để minh oan” thì phải có luận cứ, luận điểm cụ thể trong bài; nhóm học sinh đó
phải tìm ra (có thể qua gợi mở của giáo viên) là Vũ Nương vốn thuận thảo với
mọi người (chi tiết minh hoạ: Vũ Nương tốt người đẹp nết, họ hàng, làng xóm
bênh vực và biện bạch cho nàng…)
Ví dụ 2: Khi tìm hiểu tác phẩm “Lặng lẽ Sa Pa” (Nguyễn Thành Long)
để bình giá về chi tiết anh thanh niên trong vì “thèm người” nên anh đã nghĩ ra
một cách thật ngộ nghĩnh, đáng yêu đó là ngáng gỗ ngang đường không cho xe
đi qua để được gặp và trò chuyện cùng những người qua đường, giáo viên có thể
hỏi học sinh: ?Có thể hiểu thèm người là cảm giác mà ai cũng có khi phải ở
hoàn cảnh một mình hay cô đơn không? Tại sao tác giả không nói anh rất cô
đơn, rất muốn gặp ai đó để nói chuyện mà lại nói là “thèm người”? Và các em


đã bao giờ trải qua cảm giác này hay chưa? Em nghĩ gì về anh thanh niên?
Những câu hỏi dạng này khiến học sinh phải huy động kinh nghiệm bản thân để
soi sáng bản chất nhân vật, từ đó các em dễ đồng cảm sâu sắc với tình huống và
cảnh ngộ của tác phẩm hoặc nhân vật.

- Ngoài ra, giáo viên có thể dùng những câu hỏi khơi gợi liên tưởng của
học sinh. Văn học là bộ môn dùng ngôn ngữ làm chất liệu, do tính chất phi vật
thể của ngôn ngữ nên hình tượng văn học không thể tác động trực tiếp vào giác
quan của người đọc, mà chỉ tác động gián tiếp thông qua liên tưởng, tưởng
tượng, vậy nên có thể nói liên tưởng, tưởng tượng có một vai trò quan trọng
trong quá trình tiếp nhận văn học, nếu thiếu năng lực liên tưởng tưởng tượng thì
khó có thể hiểu được những tín hiệu nghệ thuật trong tác phẩm văn học. Liên
tưởng và tưởng tượng như một điều kiện tiên quyết đối với quá trình tiếp nhận
của bạn đọc nói chung và học sinh trong giờ học tác phẩm văn chương nói riêng.
Bạn đọc và học sinh trong giờ học văn có vai trò “đồng sáng tạo” với tác giả của
tác phẩm văn học. Trong thực tế khi tiếp nhận tác phẩm người đọc thường thông
qua khả năng sáng tạo để bổ xung những yếu tố chủ quan vào bức tranh của nhà
văn những hình tượng, những bóng dáng, khung cảnh đời sống hay tính cách
nhân vật- đó chính là cuộc giao tiếp trong im lặng, sự giao cảm và đồng điệu
tinh tế giữa nhà văn và bạn đọc thông qua những liên tưởng, tưởng tượng.
Ví dụ 3: Với văn bản “Mùa xuân nho nhỏ” (Thanh Hải), để huy động
hình thức liên tưởng, tưởng tượng của học sinh vào cảm thụ văn bản, giáo viên
đặt các câu hỏi với dạng sau: ?Em hình dung thế nào về bức tranh mùa xuân
được Thanh Hải thể hiện trong tác phẩm “Mùa xuân nho nhỏ”? Ở đây, hoàn
toàn không phải là việc phân tích bức tranh mùa xuân mà là yêu cầu học sinh
phải có cái nhìn bên trong thầm kín, phải hình dung thấy bức tranh đó trong đầu
mình, và trong chừng mực nhất định là sống với nó, đồng cảm với nó. Khả năng
tưởng tượng càng cao thì sự thâm nhập vào văn bản càng sâu sắc, và người đọc
có xu hướng quên đi thế giới thực tại, sống bằng thế giới tưởng tượng do nhà
văn sáng tạo nên.
- Nhưng tưởng tượng trong cảm thụ văn học còn có hình thức khác đó
chính là sự nhập thân vào nhân vật, làm sống lại trên chính bản thân mình những
cảm xúc nhân vật trải qua. Với thao tác liên tưởng, HS vận dụng những gì mình
đã trải nghiệm để hiểu nhân vật, còn hình thức tưởng tượng này lại yêu cầu HS
thể nghiệm những gì chưa hề trải qua. Nó tạo ra sự xúc động, đắm say mãnh liệt

đối với văn bản. Để huy động hình thức tưởng tượng này của học sinh, giáo viên
có thể dùng hình thức đặt câu hỏi, các câu hỏi kèm theo những gợi ý nhất định.
Ví dụ 4: Chẳng hạn, tổ chức đọc hiểu bài “ Cố hương” (Lỗ Tấn) giáo
viên hỏi:? Một người lâu ngày về thăm quê hương thì tâm trạng thế nào? Một
người bình thường về thăm quê có giống với người biền biệt xa quê 20 năm giờ
mới trở về quê hay không? Cảm giác của một người biết mình về quê lần cuối
rồi sau đó xa mãi mãi sẽ như thế nào? Em nghĩ gì về tình huống của tác giả
trong truyện?...Với những dạng câu hỏi trên học sinh hoàn toàn có cơ hội tự
chiếm lĩnh kiến thức, làm chủ kiến thức cũng như giáo viên đã khơi gợi sự hứng
thú cho học sinh trong giờ học.


Ví dụ 5: Khi nói về nguyên nhân cái chết của nàng Vũ Nương trong văn
bản “Chuyện người con gái Nam Xương” (Nguyễn Dữ) GV có thể hỏi HS
? Ai là người có lỗi trong cái chết của Vũ Nương? Nếu sống trong giai đoạn xã
hội có nhiều nhiều biến động đó em sẽ làm gì để bảo vệ mình và bảo vệ những
con người bất hạnh như Vũ Nương?
Ví dụ 6: Khi dạy văn bản “ Đấu tranh cho một thế giới hoà bình”
(G.Mác-Két) GV có thể hỏi. ?Được sống trong một môi trường giáo dục tốt,
được cha mẹ yêu thương và đùm bọc, em tự thấy mình phải có trách nhiệm như
thế nào trước những thách thức, những nguy cơ mà các bạn không có được
cuộc sống như mình đang gặp phải? Với câu hỏi này GV có thể hướng cho HS –
những người đang được hưởng một môi trường sống tốt biết mở rộng lòng mình
bằng những hành động cụ thể, xác định giá trị bản thân mình để lên tiếng bênh
vực những bạn bị bạo hành xung quanh nơi mình đang sống, tuyên truyền hoặc
kết hợp với một số tổ chức xã hội khác để phát huy quyền được bảo vệ và phát
triển của các bạn. Ngoài ra đối với một số bạn khó khăn trong cuộc sống HS
cũng có thể thể hiện trực tiếp bằng những hành động cảm thông, chia sẻ, giúp đỡ
về mặt vật chất cũng như tinh thần để các em ý thức được rằng: chăm lo sự phát
triển của trẻ em là nhiệm vụ cấp thiết hàng đầu và cũng là một trong những tiêu

chí đánh giá sự văn minh của một quốc gia vì “ trẻ em hôm nay là thế giới ngày
mai”...
d. Khơi gợi hứng thú học văn bằng việc sử dụng lời bình.
Nhà văn, nhà giáo Phan Nhật Chiêu cho rằng: “ Dạy văn giống như thuật
gọi hồn, gọi linh hồn của tác phẩm sống dậy, chỉ khi gọi được hồn của tác phẩm
sống dậy thì ta mới truyền được cảm hứng. Bởi nếu tác phẩm chỉ trên trang giấy
thì nó còn khô hơn cái xác lá khô”.Trong quá trình tổ chức cho học sinh bộc lộ
và thúc đẩy sự sáng tạo trong giảng văn, giáo viên phải chọn những chi tiết nào
là điểm sáng, những cách nói ấn tượng, độc đáo để bình.
Bình văn là thể hiện sự liên tưởng thẩm mĩ của người đọc đối với tác
phẩm , một lời bình hay, đúng lúc, đúng chỗ có khả năng đánh thức liên tưởng
của học sinh, là con đường dẫn học sinh thâm nhập tự nhiên vào thế giới nghệ
thuật của văn bản, góp phần nâng cao giá trị thẩm mĩ của bài văn, bài thơ, khơi
dậy ở trái tim các em tình yêu con người và cuộc đời, để các em biết ghét cái
ác,cái xấu, hướng tới chân, thiện, mĩ, đúng như nhà thơ Xuân Diệu đã nói: “Mỗi
áng văn, lời thơ là một con cá lội, con bướm bay, con chim hót”. Việc nghiên
cứu giảng dạy thơ văn là phải đưa được vào trái tim người đọc cái kì diệu của
chim hót, bướm bay, cá lội, chứ không phải làm cho con bướm ép dẹp, chim
nhồi rơm và cá chết khô”.
Ta thử xem có còn cái gì khô khan hơn đề tài “chống vũ khí hạt nhân”?
Đây chắc chắn sẽ là một bài đầy tính diễn giải, đầy tính thuyết minh và những
kêu gọi đầy tính chính trị. Nhưng thật bất ngờ , chúng ta thử đọc vài câu thôi về
cái đề tài này trong một văn bản ở sách giáo khoa ngữ văn 9- tham luận của
G.G.Mác- Két: “Từ khi mới nhen nhúm sự sống trên trái đất đã phải qua 380
triệu năm con bướm mới bay được, rồi 180 triệu năm nữa bông hồng mới nở chỉ
để làm đẹp mà thôi, cũng đã phải trãi qua bốn kỷ địa chất con người mới hát”


(Đấu tranh cho một thế giới hòa bình). Đó là một câu trong bản tham luận đọc
giữa hội nghị chống chiến tranh. Mà chống bằng cái gì? chống bằng con bướm,

bằng tiếng chim, chống bằng sự thăng hoa của tình yêu trai gái. Qủa là một cách
nói đầy hình tượng và cũng thật bất ngờ độc đáo. Tạo hoá phải lao lực, phải đem
hết tài năng ra thì cũng phải mất hàng triệu năm mới làm thành con bướm, tạo
hoa phải mất thêm gần 200 triệu năm nữa mới làm ra được bông hồng, và mất
thêm cả trăm triệu năm nữa mới tạo ra được tiếng hát, mới làm ra được tình yêu.
Thế nhưng con người chỉ cần bấm một cái nút trong tích tắc là xoá sạch 14 lần
dấu vết của sự sống ... Điều này đi ngược lại ý chí của tự nhiên, lí trí của con
người nhưng những kẻ hiếu chiến vẫn làm để sẵn sàng đưa nhân lọai không chỉ
về thời kì đồ đá mà về số không, về hư vô.
Như vậy những lời diễn văn của G.G.Mác -két về một đề tài tưởng chừng
như không gì khô khan hơn- chiến tranh nhưng đã được ông nói bằng cánh
bướm, bông hồng, tình yêu nên nó đã thấm xuyên vào tâm hồn học sinh kể cả
những em kém văn nhất.
Hay khi bình về chi tiết ông Hai Thu ( Làng- Kim Lân) hoan hỉ đi khoe
hết mọi người tin vui – nhà ông bị Tây đốt nhẵn, cần giúp học sinh thấy rõ được
điều hợp lí tưởng chừng như vô lí ở nhân vật ông Hai. Đối với mỗi một người
nông dân, ngôi nhà là cả cơ nghiệp mà suốt đời họ căn cơ, xây đắp gìn giữ nó.
Vậy mà ông Hai không hề buồn tiếc về ngôi nhà của mình bị tây đốt nhẵn, ông
múa tay lên mà khoe tin vui ấy, trong cái khoe của ông dường như có chứa cả
niềm hạnh phúc và tự hào, vì nó chính là minh chứng hùng hồn khẳng định làng
ông không theo giặc và trên hết nó như một sự “đóng góp” của gia đình ông cho
kháng chiến. Trong sự cháy rụi của nhà ông có sự hồi sinh của làng chợ Dầu và
trong niềm vui lớn lao ấy, sự mất mát kia có đáng là bao.
e. Sử dụng công nghệ thông tin để khơi gợi sự hứng thú học văn:
Thế kỉ XXI Công nghệ thông tin (CNTT) phát triển mạnh mẽ và đi vào
mọi lĩnh vực của đời sống đặc biệt trong quá trình đổi mới phương pháp dạy
học ở nhà trường. Việc đẩy mạnh ứng dụng CNTT góp phần rất lớn trong việc
đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa quá trình dạy học. Đối
với môn Ngữ văn nó mang lại cho cả GV và HS không gian mới với nhiều hình
thức trong giờ học. GV thì tận dụng được nguồn tư liệu phong phú để áp dụng

vào quá trình dạy học. HS có sự chuyến biến rõ về mức độ tập trung và niềm
đam mê hứng thú, đặc biệt sử dụng CNTT còn tạo cơ hội để tích hợp môn Ngữ
văn với các môn học khác trong nhà trường.
Việc sử dụng CNTT vào dạy học Ngữ văn có nhiều hình thức tùy theo sự
sáng tạo cũng như dụng ý của giáo viên, trong phạm vi của biện pháp này tôi
không đi vào trình bày cách ứng dụng CNTT trong một tiết dạy học hoàn chỉnh
mà chỉ tập trung ở các khía cạnh mà CNTT phát huy hiệu quả cao nhất (tức là
dùng CNTT như một phương tiện trực quan trong quá trình dạy học).
Khác với các bộ môn khác, bộ môn Ngữ văn có rất ít các đồ dùng dạy học
trực quan trong dạy học, ở một số văn bản (chủ yếu là lớp 6) có tranh ảnh nhưng
đa phần là đã cũ, rách, tranh minh họa trong sách giáo khoa nhỏ, giấy in tối mầu,
đơn điệu, khó quan sát và cảm nhận, vì vậy sử dụng CNTT như một phương tiện


trực quan chính là một biện pháp lí tưởng giúp cho giờ học của học sinh sinh
động, hấp dẫn, giúp các em có hứng thú và say mê với môn học hơn.
Ví dụ 1: Sử dụng CNTT trong phần tìm hiểu chung về tác giả tác phẩm:
Khi dạy các tác phẩm (văn bản) văn học giáo viên có thể sử dụng CNTT
để trình chiếu các hình ảnh, các đoạn phim tư liệu để giới thiệu về tác giả tác
phẩm đến học sinh, giúp các em nắm kiến thức một cách tốt nhất.
* Khi dạy tác phẩm Truyện Kiều ( Nguyễn Du) giáo viên đưa ra một số
hình ảnh về tác giả, quê hương của ông, một số hình ảnh về các bản dịch của
Truyện Kiều sang tiếng nước ngoài, hay một số một số hình ảnh về các nhận vật
trong tác phẩm để khơi gợi hứng thú học tập cho học sinh.

Tượng Nguyễn Du

Lăng mộ Nguyễn Du tại Hà Tĩnh

Một số bản dịch của Truyện Kiều



Tranh minh họa Thúy Vân- Thúy Kiều & Kiều ở lầu Ngưng Bích

Ví dụ 2: Sử dụng CNTT trong hoạt động đọc văn bản:
Hiện nay có rất nhiều tác phẩm văn học giảng dạy trong nhà trường được
chuyển thể thành kịch bản phim, được phổ nhạc, ngâm thơ. Giáo viên có thể
dùng tư liệu này để sử dụng trong hoạt động đọc văn bản là cho giờ học thêm
sinh động, không gây nhàm chán, học sinh dễ nhớ, dễ thuộc hơn.
* Khi dạy văn bản “Mùa Xuân nho nhỏ” giáo viên có thể bật bài hát này
do nhạc sĩ Trần Hoàn phổ nhạc và nghệ sĩ Kim Phúc trình bày, bài “Đồng chí”
nhạc sĩ Minh Quốc phổ nhạc, ca sĩ Cao Minh thể hiện, các khúc ngâm của bài
“Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ”, bài “Viếng lăng Bác”...
Với cách đưa tư liệu để minh họa này vừa giúp cho bài học sinh động
hơn, học sinh hứng thú hơn, vừa giúp cho các em hiểu kĩ, hiểu sâu về văn bản
được học.
Ví dụ 3: Sử dụng CNTT trong quá trình phân tích tác phẩm văn học:
Trong quá trình phân tích tác phẩm (văn bản) văn học, giáo viên sử dụng
CNTT để trình chiếu các nguồn tư liệu, tranh ảnh trong và ngoài văn bản có liên
quan đến nội dung bài học:
* Khi dạy văn bản “ Phong cách Hồ Chí Minh” (Lê Anh Trà) giáo viên
sử dụng một số hình ảnh minh họa cho lối sống giản dị của Bác như ngôi nhà
sàn đơn sơ nơi Bác ở, bộ quần áo bà ba nâu giản dị Bác thường mặc, đôi dép cao
su...Qua đó HS sẽ thấy và hiểu rõ hơn về phong cách sống của Bác và có ý thức
học tập và trau dồi phong cách sống của mình.


Những đồ dùng hàng ngày vô cùng giản dị của Bác

Ngôi nhà sàn –nơi ở và cũng là nơi làm việc của Bác.


* Khi nói về tác hại của chiến tranh hạt nhân trong văn bản “Đấu tranh
cho một thế giới hòa bình” (G.G. Mác-két) giáo viên trình chiếu những hình
ảnh về vũ khí hạt nhân, hình ảnh về thảm họa hạt nhân rơi xuống hai thành phố
lớn của Nhật để các em ý thức được sự hủy diệt ghê gớm của nó, từ đó biết căm
ghét chiến tranh, có ý thức bảo vệ hòa bình.


Đầu đạn hạt nhân

Tàu Sân bay

Tên lửa MX

Tàu ngầm mang vũ khí hạt nhân của Mĩ

Thành phố Hiroshima (Nhật Bản) hoang tàn sau khi bị Mĩ ném bom ngày 6/9/1945.
Vụ ném bom kinh hoàng đã phá hủy hầu hết kiến trúc của thành phố và khiến cho
140.000 người chết


Ngày 9/9/1945 quả bom thứ hai của Mĩ phát nổ trên bầu trời thành phố Nagasaki,
cả bầu trời chìm trong biển lửa và khiến 74.000 người chết.

* Khi dạy văn bản “ Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền được bảo
vệ và phát triển của trẻ em”, giáo viên cung cấp tranh ảnh tư liệu, giúp học sinh
hiểu được phần nào thực trạng cuộc sống của trẻ em trên thế giới hiện nay. Từ
đó khơi gợi lòng đồng cảm ở các em.

Nạn nhân của của đói nghèo, vô gia cư, bạo lực


Nhiều trẻ em chết mỗi ngày do suy dinh dưỡng và bệnh tật


* Khi dạy văn bản “ Bài thơ về tiểu đội xe không kính”(Phạm Tiến Duật)
,“Những ngôi sao xa xôi” (Lê Minh Khuê) giáo viên có thể sử dụng một số hình
ảnh, đoạn phim về tiểu đội xe không kính tuyến đường Trường Sơn, đoạn phim
về những cô gái thanh niên xung phong trong phim “ Ngã ba Đồng Lộc” giúp
các em hình dung rõ hơn về công việc, đời sống, phẩm chất anh hùng của một
thế hệ thanh niên trong thời kì kháng chiến chống đế quốc Mĩ của dân tộc ta.

Hình ảnh những chàng chiến sĩ lái xe và những chiếc xe không kính

Những đoàn xe “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”.

Hình ảnh những cô TNXP lấp hố bom

Vẻ đẹp của những nữ thanh niên xung phong trong kháng chiến chống Mĩ được đạo diễn
Lưu Trọng Ninh tái hiện trong phim “ Ngã ba Đồng Lộc”


Ngoài ra khi dạy văn bản Ngữ văn giáo viên còn sử dụng CNTT trong
hoạt động giới thiệu bài (như đã trình bày trong biện pháp giới thiệu bài ở trên ),
sử dụng CNTT để sơ đồ hóa nội dung kiến thức bài học (qua bản đồ tư duy) hay
quá trình giao bài tập về nhà.
g. Khơi gợi hứng thú học văn bằng việc phối hợp và phát huy tối ưu các
phương pháp trong dạy học.
Giáo sư Nguyễn Ngọc Khoa cho rằng: Phương pháp dạy học là cách thức
làm việc của thầy và trò trong sự phối hợp thống nhất và dưới sự chỉ đạo của
thầy nhằm làm cho trò tự giác tích cực tự học nhằm đạt tới mục đích dạy học.

Như vậy để môn Văn được học sinh đón nhận với một tâm thế nhẹ nhàng,
không trở thành áp lực thì hơn ai hết giáo viên cần phải lựa chọn phương pháp
dạy học phù hợp nhằm phát triển tối đa tính tự giác của học sinh, khơi dậy
những tiềm lực vẫn còn ngủ quên trong mỗi học sinh, gõ mạnh vào trí não, sở
trường của các em để các em phát huy nội lực bên trong của mình.
Bên cạnh những phương pháp dạy học truyền thống (đàm thoại, thuyết
trình, kể chuyện, trực quan..), GV cần chú trọng đến các phương pháp dạy học
hiện đại tích cực (thảo luận nhóm, nêu vấn đề, đóng vai, tổ chức trò chơi...), bởi
các phương pháp dạy học này ngoài việc tăng cường hứng thú cho HS, nâng cao
sự chú ý, giảm trạng thái tâm lí mệt mỏi nhàm chán thì nó còn rèn luyện kĩ năng
ứng xử giao tiếp, khả năng trình bày suy nghĩ trước tập thể của học sinh, giúp
các em tự tin hơn trong học tập và trong các hoạt động xã hội khác.
Ví dụ 1: Phương pháp thảo luận nhóm trong quá trình khai thác, khám
phá tác phẩm:
Phương pháp thảo luận nhóm là phương pháp dạy học mà giáo viên tổ
chức chia học sinh thành các nhóm nhỏ (từ 2 đến 8 học sinh) để thảo luận những
vấn đề của bài học dưới sự hướng dẫn, tổ chức của giáo viên. Đây là phương
pháp được sử dụng một cách rộng rãi nhằm giúp học sinh tham gia một cách chủ
động vào quá trình học tập, học sinh có thể chia sẻ kinh nghiệm, ý kiến hay để
giải quyết một vấn đề nào đó.
Để thực hiện một tiết dạy Ngữ Văn có sử dụng hình thức hoạt động nhóm
giáo viên cần:
- Tổ chức lớp học thành những nhóm học tập (số lượng học sinh trong các nhóm
tùy theo mục đích và yêu cầu của vấn đề học tập), trong đó có nhóm trưởng , thư
kí và các thành viên.
- Có phiếu học tập theo nội dung của từng tiết học.
- Giao nhiệm vụ cụ thể cho từng nhóm (các nhóm có thể thực hiện những nhiệm
vụ giống hoặc khác nhau) và quy định thời gian thảo luận.
- Gọi từng nhóm trình bày kết quả sau thời gian quy định bằng nhiều hình thức
khác nhau (trình bày tại chỗ, trình bày trên bảng, trình bày bằng lời, bằng văn

bản, bằng máy chiếu...)
- Yêu cầu các nhóm khác nhận xét và bổ sung câu trả lời.
- Giáo viên nhận xét, thẩm định tính chính xác và cho điểm.


* Khi dạy văn bản “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ
giáo viên có thể sử dụng một số câu hỏi thảo luận như sau:
? Lời trăn trối của bà mẹ chồng giúp ta hiểu thêm điều gì về nàng Vũ Nương?
? Theo em, nguyên nhân dẫn đến nỗi oan của Vũ Nương là gì? Em hãy chỉ rõ và
phân tích những nguyên nhân đó?
? Theo em có cách nào để kết cục cuộc đời của Vũ Nương không rơi vào bi kịch
mà không cần đến sức mạnh thần bí?
* Hay về văn bản “Chiếc lược ngà” của nhà văn Nguyễn Quang Sáng
giáo viên có thể hỏi:
? Khi chưa nhận ra ông Sáu là cha bé Thu đã có phản ứng và hành động gì?
?Theo em những hành động của bé Thu có phải là dấu hiệu của đứa trẻ hư
không? Vì sao?
? Nêu đánh giá của em về hành động, phản ứng của bé Thu với ông Sáu?
* Đối với bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt, có thể đặt câu hỏi:
? Tại sao tác giả lại viết “Một bếp lửa ấp iu nồng đượm”? Từ “ấp iu” thể hiện
điều gì? Bếp lửa luôn gắn với hình ảnh nào trong bài thơ? Bếp lửa có thể hiện
được sự ấp iu không?
Với cách tổ chức tiết học văn bản theo phương pháp này tạo được không
khí thảo luận cởi mở khuyến khích được sự tham gia của tất cả các đối tượng
học sinh (kể cả em học kém văn và nhút nhát) từ đó học sinh có hứng thú hơn
trong học tập.
Ví dụ 2: Phương pháp dạy học nêu vấn đề lấy HS làm trung tâm:
Dạy học nêu vấn đề (còn gọi là dạy học giải quyêt vấn đề, phương pháp
gợi mở vấn đề, phương pháp đặt và giải quyết vấn đề...) là một phương pháp
chiếm vị trí quan trọng trong việc giảng dạy các môn học trong nhà trường hiện

nay trong đó có môn Ngữ Văn. Bản chất của phương pháp này là giáo viên phải
tạo ra các câu hỏi, tình huống có vấn đề và người học cần phải xác định được
những tri thức cần phải có kết hợp với sự tìm tòi, khám phá, sáng tạo của bản
thân để giải quyết vấn đề. Như vậy mục đích của phương pháp này là nhằm tạo
được động cơ và hứng thú cho người học, phát huy khả năng cao nhất để học
sinh tiếp nhận tri thức, khám phá tri thức và chuyển tri thức từ bên ngoài vào
cho học sinh, dạy học tích cực hướng vào trí thông minh của học sinh làm cho
học sinh năng động, sáng tạo.
Dạy học nêu vấn đề gồm nhiều yếu tố khác nhau nhưng đối với phân môn
Văn bản giáo viên đặc biệt chú ý đến câu hỏi có vấn đề để giúp học sinh có hứng
thú dễ nhớ, nhớ lâu một tác phẩm mà các em được học.
Muốn thực hiện tốt phương pháp này trong quá trình đọc hiểu văn bản văn
học thì trước hết cần có sự chuẩn bị cần thiết như:
+ Giáo viên phải chuẩn bị một hệ thống câu hỏi có vấn đề theo hướng gợi
mở có ý thức trong việc lấy học sinh làm trung tâm
+ Cuốn hút học sinh bằng những câu hỏi có tính phát hiện.
+ Khuyến khích bằng điểm số cho học sinh nếu các em có những câu trả
lời hay có tính phát hiện.


+ Tạo cho học sinh có thói quen nhận xét câu trả lời của bạn, có bổ sung
và đưa ra các ý kiến cũng như các cách hiểu vấn đề khác nhau.
* Với văn bản “Những ngôi sao xa xôi” (Lê Minh Khuê) có thể đưa ra
một số câu hỏi nêu vấn đề như sau:
? Trong văn bản em thích nhất nhân vật nào? Vì sao? Từ hình ảnh những
cô gái thanh niên xung phong em hiểu gì về thế hệ thanh niên Việt Nam trong
thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước?
Với câu hỏi thứ nhất (Trong văn bản em thích nhất nhân vật nào? ) học
sinh có thể trả lời ngay được là mình yêu thích nhân vật nào, nhưng câu thứ hai
(Vì sao?) học sinh phải giải thích được là vì sao mình yêu thích nhân vật đó ,

lúc này học sinh phải tư duy, lí giải tình huống có vấn đề, ở câu hỏi thứ ba đòi
hỏi học sinh phải suy luận mở rộng vấn đề, liên hệ với các tác phẩm văn học
khác viết về cùng đề tài, cùng giai đoạn lịch sử...
* Khi tìm hiểu về cái kết của nhân vật Vũ Nương trong “Chuyện người
con gái Nam Xương” ( Nguyễn Dữ ) giáo viên có thể sử dụng một số câu hỏi có
vấn đề như sau:
? Có ý kiến cho rằng nguyên nhân gây ra cái chết của Vũ Nương là do chiến
tranh phong kiến? Ý kiến của em như thế nào?
? Nếu nhà văn Nguyễn Dữ để cho nhân vật Vũ Nương trở về sum họp cùng
chồng con thì theo em cách kết nào có ý nghĩa hơn? Tại sao?
* Hay văn bản “Làng” ( Kim Lân) giáo viên có thể hỏi:
? Vì sao khi xây dựng hình tượng nhân vật ông Hai luôn hướng về làng chợ Dầu
nhưng Kim Lân lại đặt tên truyện ngắn của mình là “Làng” mà không phải là
“Làng chợ Dầu” hoặc tại sao tất cả các nhân vật trong truyện ngắn “ Lặng lẽ
Sa Pa” của nhà văn Nguyễn Thành Long đều không có tên riêng?...
* Hay về khổ thơ cuối của bài thơ “Sang thu” ( Hữu Thỉnh)
“ Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi”
? Những sự vật nào của thiên nhiên được nhắc tới trong khổ thơ? Cách nói về
những sự vật thiên nhiên có gì đặc biệt? Em hình dung như thế nào về hàng cây
đứng tuổi? Có ý kiến cho rằng hai câu thơ cuối cùng vừa tả thực hình ảnh thiên
nhiên mà vẫn có ý nghĩa sâu xa, em có đồng ý không? Vì sao?
Để trả lời được các câu hỏi trên yêu cầu học sinh phải có khả năng tổng
hợp, bao quát tri thức, tư duy sáng tạo mới có thể giải quyết được, những khó
khăn về nhận thức do câu hỏi nêu vấn đề gây ra chuyển thành hứng thú học tập
ở các em.
Để khơi gợi sự hứng thú cho học sinh trong giờ dạy học Văn bản giáo
viên còn cần vận dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học khác như: Thuyết

trình, giảng giải, phát vấn, giao dự án, so sánh... kết hợp kĩ thuật khăn trải bàn,
mảnh ghép…Tuy nhiên trong quá trình lên lớp giáo viên cần kết hợp một cách
linh hoạt, hợp lí các phương pháp dạy học phù hợp với nội dung bài học, phù
hợp với từng tình huống cũng như từng đối tượng học sinh cụ thể, không nên


phủ định hoàn toàn hoặc lạm dụng, tuyệt đối hóa vai trò vạn năng của một
phương pháp nào.
Ngoài các biện pháp trên, để khơi gợi sự hứng thú cho học sinh trong giờ
dạy học văn bản Ngữ văn giáo viên cũng cần chú ý đến các biện pháp sau:
+ Giao bài tập về nhà: Lâu nay khi dạy bộ môn Ngữ văn nói chung và
phân môn Văn bản nói riêng cuối mỗi tiết học giáo viên thường chỉ dặn dò các
em về học bài cũ và soạn bài mới để chuẩn bị cho tiết học tiếp theo mà ít giao
bài tập cụ thể để các em tổng hợp những kiến thức và kĩ năng đã học trên lớp,
nhưng đây chính là cơ hội để học sinh thể hiện sự hứng thú chủ động và sáng tạo
của mình trong tiếp nhận tác phẩm văn chương (ở trên lớp thời gian dành cho
luyện tập ít) vì vậy sau mối tiết học giáo viên nên giao bài tập về nhà (đặc biệt
là các dạng đề cảm thụ) để các em có thể phát huy hết khả năng sáng tạo của
mình...
+ Khuyến khích học sinh đọc nhiều văn bản: Thực tế cho thấy học sinh
rất lười đọc văn bản, các em có thể dành thời gian đọc một bộ truyện dài hàng
nghìn tờ giấy nhưng lại khó đọc một văn bản văn chương dài chỉ vài ba trang,
chính điều này cũng gây khó khăn cho việc cảm thụ tác phẩm văn chương chính
vì vậy giáo viên cần khơi nguồn và nuôi dưỡng thói quen đọc các tác phẩm văn
chương của học sinh...có như vậy các em mới tự tìm đến, làm bạn và yêu văn
chương trong một ngày không xa.
+ Đổi mới cách ra đề và cách chấm bài: Giáo viên nên đa dạng hóa các
hình thức kiểm tra bài đặc biệt là bài cũ. Có thể kiểm tra vở ghi (hình thức, chữ
viết, nội dung ghi chép), có thể kiểm tra sự chuẩn bị bài mới hoặc chuẩn bị tài
liệu học tập chứ không nhất thiết phải kiểm tra kiến thức như thông thường, thời

điểm kểm tra cũng không nhất thiết là đầu tiết học mà có thể là giữa tiết thậm
chí là cuối tiết nếu giáo viên thấy phù hợp. Hệ thống câu hỏi đặt ra phải linh
hoạt, phải có sự phân chia đối tượng, có câu hỏi khó cho học sinh giỏi, có câu
hỏi phù hợp cho học sinh trung bình, học sinh yếu. Khi chấm bài giáo viên cũng
nên coi trọng tính cá biệt, sự sáng tạo độc đáo của từng học sinh trong nội dung
bài viết hơn là độ dài của bài viết, giáo viên cần trân trọng, biểu dương và đánh
giá cao năng lực của học sinh qua cách cho điểm.
+ Rèn luyện các thói quen tốt: Để khơi gợi sự hứng thú cho học sinh
trong quá trình dạy học văn bản giáo viên còn phải rèn luyện cho học sinh có
thói quen cần thiết khi chuẩn bị ở nhà và khi học giờ giảng văn ở lớp như:
+ Thói quen đọc tác phẩm cẩn thận, kỹ càng, đọc đúng đọc, diễn cảm để
tự cảm nhận tác phẩm, đồng thời với việc đọc có suy nghĩ là thói quen gạch
chân và ghi lại những đoạn hay của tác phẩm mà mình tâm đắc nhất.
+ Thói quen liên tưởng, liên hệ với những vấn đề, những tác phẩm khác
có liên quan đến những giá trị cơ bản trong tác phẩm đang học.
+ Thói quen lật đi lật lại những vấn đề quan trọng khi cảm nhận phân tích
tác phẩm.
+ Thói quen cảm nhận tác phẩm theo nhiều chiều, nhiều khía cạnh không
máy móc thụ động; phải tập trung suy nghĩ, phát hiện những điều mới lạ ở tác


phẩm khi cảm nhận nó qua sự dẫn dắt gợi ý của thầy cô, có nghĩa là phải có sự
cảm nhận của riêng mình...
2.4. Hiệu quả của SKKN:
Trong năm học 2017 - 2018 sau khi thực hiện các biệp pháp Khơi gợi sự
hứng thú cho học sinh trong dạy - học văn bản ngữ văn 9 với lớp 9B, tôi thấy
có kết quả khả quan: Số HS có hứng thú và say mê môn học tăng lên, các em
không còn uể oải trong giờ học mà tích cực, chủ động hơn trong quá trình chiếm
lĩnh kiến thức, biết đặt ra nhiều vấn đề thú vị về tác phẩm, hiểu và biết cảm nhận
về tác phẩm, nhân vật văn học, đặc biệt là biết vận dụng những kiến thức tiếp

thu trong nội dung bài học vào thực tiễn đời sống , mặc dù kết quả chưa
được như mong muốn của bản thân tôi nhưng đây cũng là tín
hiệu đáng mừng cho những người dạy văn như tôi. Kết quả kiểm
tra cuối năm như sau:
Điểm
Lớp/
Tổng
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
Khối
sô HS
SL % SL % SL % SL
%
SL
%
9B

Thực
nghiệm

33

3

9,
0


10

30,
3

17

51,
5

3

9,0

0

0

9A

Đối
chứng

30

1

3,
3


7

23,
3

16

53,
4

5

16,
7

1

3,3

Qua bảng số liệu trên ta thấy kết quả thực nghiệm ở lớp 9B cao hơn lớp
đối chứng 9A, điều đó cho thấy sử dụng các biện pháp khơi gợi sự hứng thú cho
học sinh trong giờ dạy - học tác phẩm văn chương có thể giúp học sinh yêu và
có cảm xúc về văn hơn.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:
Góp phần khơi gợi sự hứng thú cho HS trong giờ dạy học là công việc
thường xuyên và cần thiết ở tất cả các môn học. Tuy nhiên ở bộ môn văn với đặc
thù của nó vẫn là sự sáng tạo dựa trên sự đồng cảm, sự cảm nhận của người học
qua người dạy văn và văn bản ngôn từ trong tác phẩm nên sự sáng tạo trong văn
chương không hề có sự giống nhau bởi sự liên tưởng, tưởng tượng ở mỗi người

khác nhau, tuy vậy vẫn có chỗ giống nhau trong tiếp nhận tác phẩm văn học
giữa các đối tượng: tác giả- người dạy- người học. Theo tôi để có sự gặp nhau
ấy, cả người dạy và người học phải có một sự liên tưởng, tưởng tượng phong
phú, linh hoạt để từ đó người dạy có thể đưa người học vào tác phẩm bằng hệ
thống các câu hỏi, bằng lời bình, cách đọc, lời phân tích... và người học tiếp
nhận tác phẩm bằng quá trình tích luỹ từ ngữ, vốn hiểu biết và khả năng cảm
nhận được tác phẩm văn chương để lĩnh hội từ người dạy những gì tâm đắc nhất,
đồng thời mở rộng tầm hiểu biết, suy nghĩ trong nhiều lĩnh vực khác nhau nh
Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói: “ Học sinh nhớ nhiều, học nhiều là
điều đáng khuyến khích nhưng đó quyết không phải là điều chủ yếu. Điều chủ


×