Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

Hoàn thiện pháp luật về trợ giúp viên pháp lý dựa trên mô hình luật sư công từ thực tiễn tại tỉnh bến tre

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.51 MB, 71 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM

ĐÀO CÔNG HAI

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRỢ GIÚP VIÊN PHÁP LÝ
DỰA TRÊN MÔ HÌNH LUẬT SƯ CÔNG TỪ THỰC TIỄN
TẠI TỈNH BẾN TRE

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM

ĐÀO CÔNG HAI

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRỢ GIÚP VIÊN PHÁP LÝ
DỰA TRÊN MÔ HÌNH LUẬT SƯ CÔNG TỪ THỰC TIỄN
TẠI TỈNH BẾN TRE
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số : 8380107

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. TRẦN VĂN LONG

Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2018



LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên Đào Công Hai – Mã số học viên: 7701270035A, là học viên lớp Cao
học luật kinh tế chuyên ngành Luật kinh tế, Khoa Luật, Trường Đại học Kinh tế
TP.Hồ Chí Minh, là tác giả Luận văn thạc sĩ luật với đề tài “Hoàn thiện pháp luật
về Trợ giúp viên pháp lý dựa trên mô hình luật sư công từ thực tiễn tại tỉnh Bến
Tre” (Sau đây gọi tắt là “Luận văn”).
Tôi xin cam đoan tất cả các nội dung được trình bày trong luận văn này là kết
quả nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của người hướng dẫn khoa
học. Trong luận văn có sử dụng, trích dẫn một số ý kiến, quan điểm khoa học của một
số tác giả. Các thông tin này đều được trích dẫn nguồn cụ thể, chính xác và có thể
kiểm chứng. Các số liệu, thông tin được sử dụng trong luận văn là hoàn toàn khách
quan và trung thực.
Học viên thực hiện

Đào Công Hai


MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
TÓM TẮT LUẬN VĂN ............................................................................................1
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................6
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................6
2. Câu hỏi nghiên cứu ..............................................................................................7
3. Mục đích nghiên cứu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu ....................................8
3.1. Mục đích nghiên cứu ....................................................................................8
3.2. Đối tượng nghiên cứu ....................................................................................8
3.3. Phạm vi nghiên cứu .......................................................................................8

4. Phương pháp nghiên cứu .....................................................................................8
5. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa ứng dụng của đề tài ...............................................8
5.1.Ý nghĩa về mặt khoa học ................................................................................8
5.2. Ý nghĩa về mặt ứng dụng ..............................................................................9
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGHỀ LUẬT SƯ CÔNG VÀ MÔ HÌNH
LUẬT SƯ CÔNG Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI ..................................10
1.1. KHÁI NIỆM NGHỀ LUẬT SƯ VÀ LUẬT SƯ CÔNG ................................10
1.1.1. Nghề luật sư ..............................................................................................10
1.1.2. Luật sư công .............................................................................................12
1.2. VAI TRÒ CHẾ ĐỊNH CỦA LUẬT SƯ CÔNG TRONG HOẠT ĐỘNG TƯ
PHÁP .....................................................................................................................12
1.3. MÔ HÌNH LUẬT SƯ CÔNG MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI ..............14
1.3.1. Luật sư công tại Israel .............................................................................14
1.3.1.1. Lĩnh vực hình sự ................................................................................14
1.3.1.2. Lĩnh vực dân sự..................................................................................15
1.3.2. Luật sư công ở Argentina .........................................................................16
1.3.3. Luật sư công ở Canada .............................................................................18


1.3.3.1. Kinh phí cho luật sư công thực hiện trợ giúp pháp lý luôn tốn ít ......18
1.3.3.2. Luật sư công thực hiện trợ giúp pháp lý tốn ít thời gian....................19
1.3.3.3. Chất lượng vụ việc luật sư công cao .................................................20
1.4. SO SÁNH GIỮA MÔ HÌNH LUẬT SƯ CÔNG VÀ TRỢ GIÚP VIÊN
PHÁP LÝ Ở VIỆT NAM ......................................................................................21
1.4.1 Giống nhau ................................................................................................21
1.4.2 Khác nhau ..................................................................................................22
CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TRỢ GIÚP VIÊN PHÁP LÝ VÀ
HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ TẠI VIỆT NAM .....................................23
2.1. QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TRỢ GIÚP VIÊN PHÁP LÝ ........................23
2.1.1. Sự ra đời văn bản pháp luật quy định trong hoạt động trợ giúp pháp lý ..23

2.1.2. Luật Trợ giúp pháp lý quy định về hoạt động trợ giúp pháp lý ...............27
2.2. TRỢ GIÚP VIÊN PHÁP LÝ TRONG QUY ĐỊNH LUẬT TRỢ GIÚP PHÁP LÝ
...............................................................................................................................32
2.2.1. Tiêu chuẩn Trợ giúp viên pháp lý (Điều 19) ............................................32
2.2.1.1. Khái niệm ...........................................................................................32
2.2.2. Quyền và nghĩa vụ của Trợ giúp viên pháp lý (Điều 18) .........................34
2.2.2.1. Quyền Trợ giúp viên pháp lý .............................................................34
2.2.2.2. Nghĩa vụ Trợ giúp viên pháp lý .........................................................34
2.2.3. Mối quan hệ giữa Trợ giúp viên pháp lý với người được trợ giúp pháp lý
............................................................................................................................34
CHƯƠNG 3. THỰC TIỄN TRỢ GIÚP PHÁP LÝ TẠI BẾN TRE VÀ NHỮNG
VƯỚNG MẮC PHÁP LÝ TRONG MÔ HÌNH TRỢ GIÚP VIÊN PHÁP LÝ .36
3.1. THỰC TIỄN TRỢ GIÚP PHÁP LÝ TẠI TỈNH BẾN TRE ..........................36
3.1.1. Tổng quan về công tác trợ giúp pháp lý ...................................................36
3.1.1.1. Hoạt động của Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý cho phụ nữ ....................38
3.1.1.1.Về hoạt động trợ giúp pháp lý tại trung tâm .......................................39
3.1.2. Hạn chế, vướng mắc trong hoạt động trợ giúp pháp lý ............................41
3.1.2.1 Về mạng lưới trợ giúp pháp lý ở cơ sở ...............................................41


3.1.2.2. Về công tác trợ giúp pháp lý lưu động...............................................41
3.1.2.3. Về công tác phối hợp với cơ quan tố tụng .........................................42
3.2. NHỮNG VƯỚNG MẮC PHÁP LÝ TRONG MÔ HÌNH TRỢ GIÚP VIÊN
PHÁP LÝ ...............................................................................................................43
3.2.1 Tên gọi chức danh Trợ giúp viên pháp lý .................................................43
3.2.2. Tiêu chuẩn, điều kiện Trợ giúp viên pháp lý ...........................................43
3.2.3. Quy định hoàn thành chỉ tiêu vụ việc tham gia tố tụng ...........................44
3.2.4 Đối tượng được trợ giúp pháp lý ...............................................................45
CHƯƠNG 4. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRỢ GIÚP VIÊN PHÁP LÝ
THEO MÔ HÌNH LUẬT SƯ CÔNG ....................................................................47

4.1. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRỢ GIÚP VIÊN
PHÁP LÝ ...............................................................................................................47
4.1.1. Tên gọi chức danh Trợ giúp viên pháp lý ................................................47
4.1.2. Tiêu chuẩn, điều kiện Trợ giúp viên pháp lý ...........................................48
4.1.3. Quy định hoàn thành chỉ tiêu vụ việc tham gia tố tụng ...........................50
4.1.4. Đối tượng được trợ giúp pháp lý ..............................................................51
4.1.5. Trách nhiệm các cơ quan có liên quan hoạt động trợ giúp pháp lý .........53
4.2. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ
TRỢ GIÚP VIÊN PHÁP LÝ .................................................................................55
4.2.1 Hình thức đào tạo nghề luật sư cho nguồn bổ nhiệm Trợ giúp viên pháp
lý .........................................................................................................................55
4.2.2. Xây dựng hành lang pháp lý.....................................................................57
4.3. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TRỢ GIÚP VIÊN
PHÁP LÝ ...............................................................................................................59
KẾT LUẬN ..............................................................................................................60
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC VĂN BẢN PHÁP LUẬT


1

TÓM TẮT LUẬN VĂN
Trợ giúp pháp lý là hoạt động từ thiện mục đích nhằm hỗ trợ pháp lý miễn phí
cho các đối tượng thuộc hộ nghèo, hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn, người có
công với cách mạng, người yếu thế trong xã hội khi phải vướng mắc vấn đề về pháp
luật. Khi vụ việc xảy ra họ không thể tự bảo vệ mình mà cần phải có một cá nhân
hoặc một tổ chức am hiểu về pháp luật để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho họ.
Trước khi pháp luật về hoạt động TGPL chưa ra đời họ phải bỏ ra một khoảng phí
nhất định để thuê một luật sư tham gia bảo vệ cho họ. Đảng và Nhà nước ta nhận
thấy được vấn đề này nên đã ban hành những văn bản luật liên quan hoạt động TGPL.

Hoạt động TGPL hiện nay đang được điều chỉnh bởi Luật TGPL năm 2017 và các
văn bản pháp luật có liên quan. Hoạt động TGPL được quản lý trực tiếp là các chi
nhánh, Trung tâm TGPL nhà nước trực thuộc Sở Tư pháp tỉnh và Cục TGPL trực
thuộc Bộ Tư pháp. Hoạt động TGPL được chính thức hình thành và phát triển bắt đầu
từ năm 1995. Đã hơn 20 năm hoạt động TGPL đã đạt được nhiều kết quả đáng kể và
giải quyết được hàng triệu vụ việc mà người dân vướng mắc pháp luật.
Để hoàn thiện pháp luật về TGVPL dựa trên mô hình luật sư công trước hết cần
phải nhận biết được nghề LSC và mô hình hoạt động TGPL của LSC mà ở một số
nước trên thế giới đã thực hiện. Nghề luật sư được hình từ sự phát triển không đồng
đều cả về vật chất lẫn tinh thần, bất kỳ xã hội nào cũng có sự ức hiếp, bị đối xử không
công bằng. Khi họ có những hành vi trái pháp luật bị buộc tội hoặc quyền lợi của họ
bị xâm phạm thì luôn mong muốn có người am hiểu về pháp luật đứng ra bảo vệ và
luật sư là người bảo vệ cho họ. Nghề luật sư hoạt động theo sự được điều chỉnh bởi
Luật Luật sư và thực hiện vụ việc được trả thù lao theo quy định. Nghề LSC ở Việt
Nam không có quy định nghề nghiệp chức danh này nhưng ở một số nước như
Canada, Israel, Argentina thì nghề LSC được quy định bởi Luật LSC ở nước sở tại
(Israel có Luật LSC năm 1995, Argentina có Luật LSC liêng bang 1988). Nghề LSC
hoạt động chủ yếu thực hiện TGPL miễn phí cho các đối tượng được TGPL mà Luật
LSC quy định. Mô hình LSC một số nước hoạt động mang tính chất từ thiện, nhân
đạo. Mục tiêu hoạt động phục vụ TGPL miễn phí cho các đối tượng như người nghèo,


2

ly hôn yêu cầu nuôi con nhỏ, người có khả năng bị buộc tội, các vụ án hình sự, người
có khó khăn về tài chính và yếu thế trong xã hội. Mỗi nước đều có loại hình hoạt
động TGPL đặc trưng riêng của nó như Israel LSC thực hiện gồm 02 lĩnh vực hình
sự và dân sự. Lĩnh vực hình sự LSC thực hiện khi đương sự bị bắt ở đồn cảnh sát và
đượng sự không cần phải xuất trình các giấy tờ chứng minh là mình thuộc đối tượng
được TGPL. Lĩnh vực dân sự chủ yếu phục vụ cho người có khó khăn về tài chính

thông qua việc kiểm tra thu nhập, tài sản và có cơ sở pháp lý vững chắc (khả năng
thắng kiện). 1Mô hình LSC nước Argentina hoạt động TGPL do các Văn phòng LSC
Liêng bang và chịu sự điều chỉnh của Luật về văn phòng LSC Liên bang năm 2015
trách nhiệm bảo vệ nhân quyền cho những người dễ bị tổn thương trong lĩnh vực hình
sự, dân sự và hành chính. Ngoài ra, văn phòng LSC Liên bang thực hiện TGPL về
lĩnh vực nhà ở, y tế, hỗ trợ cho tù nhân trong tù; cho trẻ em và vị thành niên; nạn nhân
về bạo lực giới, người bị tị nạn.2 Mô hình LSC Canada hoạt động rất hiệu quả như
kinh phí cho LSC thực hiện TGPL luôn ít tốn kém hơn luật sư tư chỉ tốn 235USD còn
trong khi đó luật sư tư thực hiện tốn mất 264 USD; LSC thực hiện TGPL với thời
gian ít hơn như vụ án hành hung thì LSC chỉ thực hiện trong 4 giờ còn luật sư tư phải
mất tới 8 giờ; Vụ án sử dụng vụ khí LSC mất 5 giờ còn luật sư tư mất gần 10 giờ.
Ngoài ra, đối với chất lượng vụ việc LSC đa số đạt chất lượng hơn như theo đánh
giá tại dự án Burnaby khoảng 60% đối tượng bị kết án thì có 40% đối đượng luật sư
tư bào chữa bị phạt tù còn đối LSC chỉ chiếm khoảng 30% hoặc bang Saskatcgwa đối
tượng LSC bị phạt tù chiếm 14% còn luật sư tư lại chiếm 32%.3 Tiêu chuẩn, điều kiện

Theo Phan Hà (2013)“Trợ giúp pháp lý ở Israel”, Nghiên cứu – Trao đổi, Trang thông tin điện tử
Trợ giúp pháp lý Việt Nam, tại truy cập ngày 5/6/2018.
1

Theo Trịnh Thị Thanh (2015) “Giới thiệu trợ giúp pháp lý Argentina”, Nghiên cứu – Trao đổi,
Trang thông tin điện tử Trợ giúp pháp lý Việt Nam, tại truy cập ngày 5/6/2018.
2

Theo báo Pháp luật TP.Hồ Chí Minh ngày 12/01/2006 “Trợ giúp pháp lý ở Canada: Luật sư công hiệu quả”, Trang thông tin điện tử Tuổi trẻ oline, tại truy cập ngày 5/6/2018.
3


3


trở thành LSC thông qua thi tuyển. LSC là công chức nhà nước và lãnh lương ổn định
từ ngân sách nhà nước. Ở một số nước quy định điều kiện LSC là phải có thời gian
công tác pháp luật ít nhất 6 năm, có kinh nghiệm bào chữa luật sư, tuân thủ nguyên
tắc đạo đức nghề nghiệp. Từ sự phân tích đánh giá hoạt động TGPL của các mô hình
LSC nước Canada, Israel, Argentina tác giả đã so sánh với mô hình TGVPL ở Việt
Nam. Qua phân tích tác giả nhận thấy cả hai mô hình này có hình thức hoạt động khá
giống nhau về đối tượng được TGPL, hình thức hoạt động TGPL nhưng chỉ khác
nhau LSC là công chức nhà nước còn TGVPL chỉ có Giám Đốc Trung tâm TGPL là
công chức còn lại viên chức nhà nước. Một số đối tượng được TGPL miễn phí được
quy định ở mô hình LSC nhưng ở Việt Nam không có như người có khả năng bị buộc
tội, các vụ án hình sự, ly hôn yêu cầu nuôi con nhỏ, người tị nạn và một số đối tượng
được TGPL khác.
Có cơ sở so sánh hoạt động TGPL của mô hình LSC một số nước trên thế giới
với mô hình TGVPL ở Việt Nam tác giả đã khái quát lịch sử hình thành và phát triển
về TGPL qua những kết quả đã đạt được. Hoạt động TGPL ở Việt Nam trước năm
1975 tuy chưa có quy định TGVPL, LSC thực hiện TGPL nhưng vẫn có sự tồn tại
TGPL miễn phí. TGPL được thể hiện tại Sắc lệnh số 69/SL ngày 18/6/1949 của Chủ
Tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có quy định trong các tòa án thường và tòa án
đặc biệt xử việc tiểu hình và đại hình, trừ tòa án tại mặt trận, bị can có thể nhờ một
công dân không phải là luật sư bào chữa cho họ và nếu bị can không có ai bênh vực
thì ông Chánh án có thể tự mình hay theo lời yêu cầu của bị can cử một người ra bào
chữa cho bị can; người đứng ra bênh vực không được nhận tiền thù lao hay của thân
nhân bị can. Bộ luật tố tụng hình sự 1988 cũng thể hiện hoạt động có TGPL tại điểm
a, b khoản 2 Điều 37 đối với bị can, bị cáo về tội khung hình phạt có mức án cao nhất
tử hình được quy định Bộ luật hình sự; những bị can, bị cáo là người chưa thành niên,
người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần nếu bị can, bị cáo hoặc người đại diện
hợp pháp của họ mà chưa mời được người bào chữa thì cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát hoặc Tòa án yêu cầu Đoàn luật sư cử người tham gia bào chữa cho họ. Các bị can,
bị cáo được bào chữa miễn phí không phải trả thù lao cho luật sư. Đến năm 1995,



4

hoạt động TGPL bắt đầu được nghiên cứu mãi đến cuối thế kỷ thứ XX (năm 1997)
TGPL mới hình thành đi vào hoạt động. Năm 2006, Luật TGPL đầu tiên ra đời quy
định về đối tượng, phạm vi, hình thức hoạt động TGPL. Sau hơn 10 thi hành Luật
TGPL năm 2006 Đảng và Nhà nước ta nhận thấy cần phải bổ sung thêm đối tượng
được TGPL và điều chỉnh một số Điều Luật cho phù hợp điều kiện thực tế hiện nay
nên năm 2017 Quốc Hội đã ban hành Luật TGPL năm 2017 (có hiệu lực pháp luật kể
từ ngày 01/01/2018).
Tác giả đã phân tích đánh những điểm mới, khó khăn vướng mắc khi áp dụng
triển khai, thi hành Luật TGPL năm 2017. Bên cạnh kết quả đạt được tác giả cũng đã
nêu lên những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động TGPL như về mạng lưới TGPL
cơ sở; về công tác TGPL lưu động; về công tác phối hợp với cơ quan liên quan hoạt
động TGPL; tiêu chuẩn, điều kiện TGVPL; quy định hoàn thành chỉ tiêu vụ việc tham
gia tố tụng của Bộ Tư pháp; đối tượng được TGPL. Qua những khó khăn, vướng mắc
tác giả đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm để hoàn thiện pháp luật về TGVPL
theo mô hình LSC.


5

TỪ KHÓA LUẬN VĂN
1. Trợ giúp pháp lý
2. Luật sư công
3. Hoàn thiện pháp luật


6


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ở một số nước trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng nhu cầu của người
dân mong được tiếp xúc dịch vụ pháp lý là rất cần thiết nhưng đối tượng có điều kiện
được tham gia dịch vụ này thì còn hạn chế với lý do về điều kiện kinh tế còn khó
khăn, ở vùng sâu vùng xa, vùng dân tộc ít người, đi lại khó khăn.......Để giải quyết
vấn đề trên một số nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam đã quan tâm tạo thuận lợi
cho họ để được tiếp cận pháp lý vì lẻ đó Chính phủ trích ra một nguồn ngân sách nhà
nước để ký hợp đồng luật sư hoặc tuyển dụng đào tạo LSC (nước ngoài), TGVPL (tại
Việt Nam) để thực hiện TGPL. Từ đó, những đối tượng yếu thế trong xã hội, người
dân khó khăn về tài chính sẽ được tiếp cận dịch vụ pháp lý miễn phí. Người thực hiện
TGPL là luật sư tư, LSC, TGVPL hoạt động TGPL dưới sự điều chỉnh của các văn
bản pháp luật hiện hành như ở Việt Nam TGVPL chịu sự điều chỉnh của Luật TGPL
2018 và các văn bản qui phạm pháp luật có liên quan.
Ở các nước trên thế giới tổ chức thực hiện TGPL được sự quản lý của Bộ Tư
pháp còn ở Việt Nam có Cục TGPL (Trực thuộc Bộ Tư pháp) và mỗi tỉnh có 01 Trung
tâm TGPL (trực thuộc sở Tư pháp), Chi nhánh TGPL (trực thuộc Trung tâm). Tất cả
các tổ chức này hoạt động từ nguồn ngân sách nhà nước. Ở Việt Nam tổ chức TGPL
được hình thành từ năm 1997. Qua nhiều năm hoạt động tổ chức đã lớn mạnh phát
triển rộng rãi xuống tận nông thôn nghèo. Bến Tre là một trong những tổ chức pháp
lý được hình thành sớm nhất tại 63 tỉnh thành ở Việt Nam (sau tỉnh Cần Thơ). Bến
Tre thuộc tỉnh nghèo ở khu vực Đồng Bằng sông Cửu Long, một vùng quê sông nước,
kinh tế chủ yếu là ngành nghề nông nghiệp là chính. Đối tượng yếu thế trong xã hội
và khó khăn về kính tế rất nhiều. Toàn tỉnh đối tượng hộ nghèo, cận nghèo; đối tượng
bị bạo lực gia đình hàng năm khá cao. Từ sự khó khăn đó, Trung tâm TGPL Nhà
nước tỉnh Bến Tre được thành lập với 01 Trung tâm đặt tại thành phố Bến Tre, 04
chi nhánh được bố trí các huyện xa trung tâm và 15 TGVPL, 19 tổ chức hành nghề
luật sư phục vụ thực hiện TGPL.
Hình thức hoạt động TGPL của các TGVPL so với mô hình LSC một số nước



7

trên thế giới khá giống nhau. Tuy nhiên, so với mô hình LSC các nước trên thế giới
có sự chênh lệch hơn về chuyên môn đào tạo nghiệp vụ. Đối với TGVPL tại Việt
Nam cũng như TGVPL đang thực hiện TGPL ở Bến Tre cần phải học hỏi nhiều hơn
về chuyên môn, nghiệp vụ.
Mô hình người thực hiện TGPL là LSC đã có từ lâu như Canada, Israel,
Argentina......... Mục đích của họ là thực hiện TGPL miễn phí cho đa số đối tượng là
người dân nghèo, người yếu thế trong xã hội. Tổ chức hoạt động mô hình LSC một
số nước trên thế giới rất hiệu quả. Vụ việc tham gia đạt chất lượng cao hơn so với
luật sư tư.
Từ những nhận định mô hình LSC một số nước trên thế giới hoạt động có hiệu
quả. Trên cơ sở nghiên cứu những kinh nghiệm để xây dựng tổ chức và hoạt động
TGPL tại Việt Nam theo hướng trở thành mô hình LSC. Để đạt được mô hình LSC ở
Việt Nam ta cần phải hoàn thiện pháp luật về TGVPL nâng cao trình độ, chuyên
môn, nghiệp vụ nhằm mục đích đưa chức danh TGVPL thành chức danh LSC giống
mô hình LSC một số nước trên thế giới. Do đó, tôi chọn đề tài “Hoàn thiện pháp luật
về Trợ giúp viên pháp lý dựa trên mô hình luật sư công từ thực tiễn tại tỉnh Bến
Tre”.
2. Câu hỏi nghiên cứu
1. Nghề LSC và mô hình LSC ở các nước quy định ra sao?
2. Pháp luật hiện nay quy định về TGVPL như thế nào?
3. Thực tiễn tại Bến Tre TGVPL gặp khó khăn, vướng mắc gì?
4. Pháp luật về TGVPL so với mô hình LSC cần hoàn thiện như thế nào?


8

3. Mục đích nghiên cứu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu ở đây là phân tích đánh giá việc thực hiện TGPL có hiệu
quả về mô hình LSC của một số nước trên thế giới cho người dân. Từ đó, rút ra một
số kinh nghiệm để hoàn thiện, xây dựng văn bản luật TGPL áp dụng tại Việt Nam.
Xây dựng đội ngũ TGVPL để từ “Trợ giúp viên pháp lý” thành “Luật sư công”.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Các văn bản pháp luật quy định TGPL (Luật TGPL năm 2006, Luật TGPL năm
2017, Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2015, Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015, Luật
Tố tụng hành chính năm 2015).
3.3. Phạm vi nghiên cứu
- Mô hình LSC thực hiện TGPL ở nước Canada, Israel, Argentina.
- TGVPL thực hiện TGPL ở Việt Nam và thực tiễn tại tỉnh Bến Tre.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Khảo sát, nghiên cứu nghề LSC và mô hình LSC nước Canada, Israel,
Argentina.
- Phân tích, đánh giá việc thực hiện TGPL của các TGVPL tại Bến Tre.
- Hoàn thiện pháp luật về TGPL để chuyển từ TGVPL có đủ điều kiện trở thành
LSC.
5. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa ứng dụng của đề tài
5.1.Ý nghĩa về mặt khoa học
Luận văn nghiên cứu các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam Luật
TGPL năm 2006; Luật TGPL năm 2017 và các văn bản quy phạm pháp luật khác có
liên quan về hoạt động TGPL và so sánh hoạt động TGPL của mô hình LSC của một
số nước trên thế giới. Qua đó, xác định những điểm tương đồng, khác biệt một cách
có hệ thống của mô hình LSC về hoạt động TGPL và rút ra kinh nghiệm thực hiện có
hiệu quả từ mô hình LSC để áp dụng hoàn thiện pháp luật TGPL ở Việt Nam xây
dựng đội ngũ TGVPL đủ điều kiện chuyển thành LSC.


9


5.2. Ý nghĩa về mặt ứng dụng
Các nước trên thế giới thực hiện TGPL với người thực hiện TGPL là LSC. Mô
hình LSC phát triển rất mạnh mẽ và họat động có hiệu quả so với luật sư tư. Chính
phủ luôn tạo điều kiện về vật chất, lẫn kinh phí cho hoạt động của LSC. Luật LSC
được quy định chặt chẽ, rõ ràng và có vai trò rất quan trọng trong tham gia tố tụng.
Việt Nam ta nên học hỏi theo các mô hình của họ vì vậy Luật TGPL nên điều chỉnh
chuyển đổi mô hình LSC thay cho mô hình TGVPL và một số văn bản luật khác. Từ
đó Tư pháp Việt Nam sẽ tồn tại hai loại hình luật sư là LSC và Luật sư tư. Hình thức
và hoạt động như nhau mục tiêu phục vụ cho những người dân có điều kiện khó khăn
về tài chính và yếu thế trong xã hội. Tên chức danh LSC sẽ được nhiều người dân
biết và hiểu rõ chức năng, nhiệm vụ hơn so với chức danh TGVPL.
Luận văn này được viết với mục đích học hỏi từ thực tiễn mô hình LSC một số
nước trên thế giới để từ đó xây dựng, hoàn thiện pháp luật quy định TGVPL tại Việt
Nam. Điều chỉnh một số quy định pháp luật Việt Nam về TGPL để chuyển thành mô
hình LSC hoạt động TGPL có hiệu quả.


10

CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGHỀ LUẬT SƯ CÔNG VÀ MÔ HÌNH
LUẬT SƯ CÔNG Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
1.1. KHÁI NIỆM NGHỀ LUẬT SƯ VÀ LUẬT SƯ CÔNG
1.1.1. Nghề luật sư
Do sự phát triển không đồng đều cả về vật chất lẫn tinh thần, bất kỳ xã hội nào
cũng có sự ức hiếp, bị đối xử không công bằng. Những người nghèo, người có vị thế
yếu kém trong xã hội và kém hiểu biết về pháp luật luôn bị đối xử bất công, không
được bảo vệ. Khi họ có những hành vi trái pháp luật bị buộc tội hoặc quyền lợi của
họ bị xâm phạm thì luôn mong muốn có người am hiểu về pháp luật đứng ra bảo vệ
cho họ. Do đó, để bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp của họ và đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về tư vấn pháp luật của cá
nhân, tổ chức nên nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật về luật
sư và nghề luật sư bắt đầu ra đời.
Pháp lệnh luật sư năm 1987 và Nghị định số 15/HĐBT ngày 21 tháng 12 năm
1989 của Hội đồng Bộ trưởng ban hành quy chế Đoàn luật sư đã xác định luật sư thực
hiện TGPL không thu phí.
Bộ luật hình sự năm 1988 đã được Quốc hội thông qua ngày 29/6/1988 cũng đã
có quy định về luật sư trong các trường hợp bị can, bị cáo bị xử về tội có khung hình
phạt cao nhất tử hình hoặc bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược
điểm về thể chất hoặc tâm thần nếu họ hoặc người đại diện hợp pháp của họ không
mời được người bào chữa thì cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án phải yêu
cầu Đoàn luật sư cử người tham gia bào chữa cho họ.
Ngày 25 tháng 7 năm 2001, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành pháp lệnh
số 37/2001/PL-UBTVQH10 quy định luật sư. Từ khi Pháp lệnh luật sư ban hành cho
đến nay Quốc Hội đã ban hành và sửa đổi nhiều văn bản pháp luật quy định về nghề
luật sư như Luật Luật sư năm 2006, Luật Luật sư sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Luật sư năm 2012 và văn bản hợp nhất của Văn phòng Quốc hội Luật Luật sư
năm 2015. Kể từ thời điểm này nghề luật sư đóng vai trò quan trọng và phát triển
mạnh mẽ trong xã hội. Góp phần bảo vệ công lý, công bằng xã hội và pháp chế xã


11

hội chủ nghĩa. Luật Luật sư năm 2006 và văn bản hợp nhất của Văn phòng Quốc hội
có quy định:
Điều 10. Tiêu chuẩn luật sư
Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất
đạo đức tốt, có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề
luật sư, có sức khoẻ bảo đảm hành nghề luật sư thì có thể trở thành luật sư.4


Điều kiện để bổ nhiệm luật sư cũng quy định rõ là người phải có bằng cử nhân
luật và đăng ký đào tạo tại một khóa đào tạo nghề luật sư. Sau khi hoàn thành khóa
học và được cấp giấy chứng nhận tốt nghiệp đào tạo nghề luật sư thì phải đăng ký tập
sự tại một tổ chức hành nghề luật sư. Hết thời gian tập sự phải được Liên đoàn luật
sư Việt Nam tổ chức kiểm tra nếu đạt yêu cầu thì mới được cấp chứng chỉ hành nghề
luật sư. Luật Luật sư cũng có quy định rõ quyền của luật sư là được ký hợp đồng thực
hiện dịch vụ pháp lý với các đương sự và được hưởng phí dịch vụ từ hợp đồng vụ
việc chỉ trừ trường hợp theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng buộc phải có luật
sư tham gia bào chữa. Hình thức hoạt động pháp lý của Luật sư là thực hiện tư vấn
pháp luật, tham gia tố tụng và các dịch vụ pháp lý khác theo yêu cầu của cá nhân, tổ
chức. Luật sư hoạt động dịch vụ pháp lý phải luôn tuân thủ pháp luật, quy tắc đạo đức
nghề nghiệp, trung thực, khách quan và chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động
nghề nghiệp của mình. Đối với khách hàng luôn tận tâm trong công việc và hạn chế
rủi ro cho khách hàng.
Đối với quy định luật sư ở các nước trên thế giới nhìn chung cũng không khác
gì quy định luật sư ở tại Việt Nam. Luật sư thực hiện pháp lý là tư vấn pháp luật, bào
chữa, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho người dân. Luật sư được quyền ký hợp đồng
dịch vụ pháp lý với người yêu cầu cần luật sư bảo vệ, bào chữa. Sau khi kết thúc vụ
việc luật sư được nhận thù lao do người có yêu cầu chi trả (Thù lao của luật sư nhận
theo khung giá quy định mà pháp luật tại nước sở tại cho phép). Luật sư hoạt động
luôn tuân theo quy tắc đạo đức nghề nghiệp và pháp luật quy định nghề luật sư. Mục
tiêu chung luật sư là phục vụ dịch vụ pháp lý cho người có nhu cầu trợ giúp pháp luật.

4

Trích Điều 10 Luật Luật sư năm 2006 “Tiêu chuẩn luật sư”


12


1.1.2. Luật sư công
Ở Việt Nam nghề LSC chưa có quy định chức danh này mà chỉ có Luật sư ký
hợp đồng với Trung tâm TGPL Nhà nước làm cộng tác viên thực hiện TGPL miễn
phí cho người dân thuộc đối tượng được hưởng dịch vụ pháp lý theo quy định Luật
TGPL (Điều 17 Luật TGPL năm 2017). Luật sư cộng tác viên Trung tâm sau khi thực
hiện xong vụ việc thì được nhà nước trả thù lao trích từ nguồn ngân sách và người
dân không phải trả bất kỳ khoảng phí nào cho luật sư.5
Theo một số nước trên thế giới (Canada, Israel, Argentina) quy định về LSC thì
LSC là người thực hiện TGPL đó là luật sư làm việc tại các cơ quan nhà nước theo
biên chế hoặc theo hợp đồng lao động. LSC sẽ phải tuân thủ việc chỉnh thị, báo cáo
về nội dung công việc của mình với thủ trưởng cơ quan, của đơn vị mà mình đang
công tác. Hoạt động mang tính chất từ thiện, miễn phí cho đối tượng được thụ hưởng
dịch vụ TGPL. LSC được tuyển dụng vào làm việc trong cơ quan nhà nước là công
chức nhà nước được hưởng lương ổn định từ ngân sách nhà nước và các chính sách
khác. LSC hoạt động thực hiện pháp lý theo sự điều chỉnh của Luật LSC của mỗi
nước và tuân thủ quy tắc đạo đức nghề nghiệp. Mọi hoạt động TGPL của LSC đều
chịu sự quản lý, giám sát của Cục TGPL, Bộ Tư pháp.6
1.2. VAI TRÒ CHẾ ĐỊNH CỦA LUẬT SƯ CÔNG TRONG HOẠT ĐỘNG TƯ
PHÁP
Từ những nhu cầu thực tế đối với những đối tượng có trình độ dân trí thấp, kém
hiểu biết pháp luật, yếu thế trong xã hội và điều kiện khó khăn về tài chính nên việc
tiếp cận dịch vụ pháp lý là rất khó khăn đối với họ. Để được bảo vệ quyền lợi, lợi ích
hợp pháp cho mình thì họ phải bỏ ra một khoảng phí ký hợp đồng dịch vụ pháp lý với
luật sư. Điều kiện này thì quá khó khăn. Do đó, để phục vụ cho những đối tượng yếu
thế này nên một số nước trên thế giới như Israel, Canada, Argentina và một số nước
khác đã triển khai thực hiện thí điểm mô hình LSC thực hiện miễn phí cho đối tượng
5

Trích Điều 17 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 “Người thực hiện trợ giúp pháp lý”.


Theo Trịnh Thị Thanh (2015) “Giới thiệu trợ giúp pháp lý Argentina”, Nghiên cứu – Trao đổi,
Trang thông tin điện tử Trợ giúp pháp lý Việt Nam, tại truy cập ngày 5/6/2018.
6


13

trên và luật LSC đã được ban hành. Kết quả qua một thời gian hoạt động của LSC thì
nhận thấy rất có hiệu quả và LSC đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp dịch
vụ pháp lý miễn phí cho người dân. Từ khi có LSC hoạt động TGPL miễn phí đã góp
phần cải cách hệ thống tư pháp. Tạo điều kiện thuận lợi cho những người nghèo,
người có khó khăn về tài chính, người trình độ văn hóa thấp, yếu thế trong xã hội
được tiếp cận dịch vụ pháp lý miễn phí nhanh chóng, kịp thời. LSC thực hiện TGPL
ít tốn kém hơn về nguồn lực, thời gian và có sự hợp tác trong các cơ quan Tòa án, cơ
quan Tư pháp nhằm giúp họ tăng cường, mở rộng ảnh hưởng đối với hệ thống pháp
luật tư pháp. Đối với chi phí phục vụ cho hoạt động LSC thì lại luôn thấp hơn luật sư
tư, chất lượng vụ việc không thua kém gì đối với việc thực hiện pháp lý của luật sư
tư. LSC luôn có tâm trong công tác và thực hiện hết trách nhiệm của mình. Mỗi quốc
gia hoạt động TGPL của của LSC đều được sự điều chỉnh của Luật nơi sở tại (LSC
Israel có Luật LSC năm 1995; nước Argentina Luật về văn phòng LSC Liên bang
năm 1988)7.
LSC được tuyển dụng vào nhà nước để thực hiện TGPL là một công chức hưởng
lương hàng tháng từ ngân sách nhà nước, có trách nhiệm trong công việc. Họ được
quan tâm cho đi đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ và hưởng nhiều chính sách (bảo hiểm
y tế, phụ cấp, nghĩ phép…) và hoạt động LSC chịu sự điều chỉnh của các quy tắc đạo
đức nghề nghiệp. Đối với những đối tượng được thụ hưởng dịch vụ pháp lý miễn phí
như đối tượng bị thiệt thòi, có trình độ văn hóa thấp, yếu thế trong xã hội không tiếp
cận được thông tin pháp lý dễ gây mất ổn định xã hội và thường hay bị lợi dụng thì
được LSC kịp thời tiếp cận thực hiện TGPL. Những đối tượng này không phải chờ
đợi, bỏ tiền thuê luật sư (Luật sư tư). Sự tham gia thực hiện TGPL của LSC trong các

cơ quan tố tụng đã góp phần khắc phục sự lạm quyền của các cơ quan xét xử, cố ý
làm sai lệch sự thật vụ án, gây oan sai trong hoạt động tư pháp. LSC là một công
chức, hưởng lương từ ngân sách nhà nước nên họ xác định được trách nhiệm của họ

Trích từ Phan Hà (2013) “Chế định luật sư nhà nước ở một số nước”, Nghiên cứu – Trao đổi, Trang thông tin
điện tử Trợ giúp pháp lý Việt Nam, tại truy cập ngày 5/6/2018.
7


14

trong công việc. Họ luôn cố gắng thực hiện tốt và phấn đầu hoàn thành nhiệm vụ
được giao đảm bảo được quyền, lợi ích hợp pháp của người dân.
1.3. MÔ HÌNH LUẬT SƯ CÔNG MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
1.3.1. Luật sư công tại Israel
Cơ quan chịu trách nhiệm quản lý về TGPL tại Israel cũng giống như ở Việt
Nam là Bộ Tư pháp. Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm về nhà nước và quản lý sử dụng
nguồn ngân sách cho việc thực hiện TGPL. Hoạt động TGPL ở nước này chỉ chủ yếu
tập trung hai lĩnh vực hình sự và dân sự còn ở Việt Nam thực hiện các lĩnh vực trừ
lĩnh vực kinh doanh, thương mại.
1.3.1.1. Lĩnh vực hình sự
Tại Israel mô hình LSC hoạt động theo sự được điều chỉnh của luật LSC ban
hành năm 1995. Các tổ chức Văn phòng LSC thực hiện TGPL do Văn phòng LSC
cấp quốc gia thành lập. Văn phòng này chịu trách nhiệm tuyển dụng và trả phí cho
người thực hiện TGPL trong các vụ án hình sự. Tổ chức Văn phòng LSC là các ban
thực hiện các công việc như Ban vị thành niên, Ban trại giam và tù nhân, Ban tranh
tụng, Ban tạm giam……
Hoạt động TGPL của LSC là thực hiện khi đương sự bị bắt tại đồn cảnh sát.
Đương sự này không cần phải xuất trình các giấy tờ thể hiện mình là đối tượng được
TGPL miễn phí. Quá trình TGPL thì được thực hiện 24/24h và trong tất cả các ngày

trong tuần. Hình thức tham gia tư vấn tại nơi đương sự bị tạm giam, giam giữ trong
quá trình điều tra, tham gia tại phiên tòa trong giai đoạn xét xử, hỗ trợ cho việc kháng
cáo bản án và thực hiện các công việc sau bản án. Ngoài ra còn đại diện pháp lý thực
hiện các thủ tục hành chính trong quá trình tố tụng như đơn xin giảm án và các công
việc khác liên quan đến vụ án.
Đối với các tù nhân được TGPL thực hiện TGPL thường xuyên. LSC mỗi tuần
được vào nhà tù hai lần để thực hiện TGPL. LSC được quyền hỏi, theo dõi các tù
nhân có bị đối xử trái quy định của pháp luật hay không. Hướng dẫn các tù nhân gửi
những yêu cầu TGPL thông qua các nhân viên làm việc tại nhà tù.


15

Nguyên tắc thực hiện TGPL theo quy định pháp luật nước Israel luôn đảm bảo
tính độc lập. Giữa công tố viên và LSC đều ở vị trí ngang bằng nhau không có sự
phân biệt cao thấp. LSC luôn tuân thủ trung thành với khách hàng của mình và đảm
bảo lợi ích cho thân chủ. Không né tránh mà phải chịu trách nhiệm với những công
việc mà mình đã thực hiện đối với khách hàng.8
Ở Israel LSC là công chức nhà nước được nhận lương từ ngân sách nhà nước
và chịu sự điều chỉnh nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp của người luật sư. (Ở Việt
Nam TGVPL đa số là viên chức chỉ có giám đốc trung tâm TGPL là công chức).
Theo đó, đối tượng được nhận sự TGPL của LSC bao gồm các đối tượng thiệt
thòi và dễ bị tổn thương như trẻ vị thành niên, người có khả năng bị phạt tù, người
khuyết tật, người có vấn đề về tâm thần, người có khó khăn về điều kiện tài chính.
Những đối tượng được TGPL này cũng được quy định tương tự tại Điều 7 Luật TGPL
năm 2017 của Việt Nam.
Người thực hiện TGPL ngoài LSC còn có luật sư tư. Luật sư tư ký hợp đồng
với Văn phòng LSC và được trả thù lao theo quy định pháp luật hiện hành. LSC chỉ
thực hiện một số vụ án nhất định còn lại là chỉ định và giám sát hoạt động TGPL của
luật sư tư. LSC và luật sư tư được trả lương theo tháng hoặc thù lao cho từng vụ án.

1.3.1.2. Lĩnh vực dân sự
Năm 1972, hoạt động TGPL về lĩnh vực dân sự được điều chỉnh bởi luật TGPL
năm 1972 và quy chế kèm theo là Quy chế TGPL năm 1973. Để quản lý, theo dõi quá
trình hoạt động TGPL Bộ Tư pháp đã thành lập Cục TGPL. Cục TGPL có chức năng,
nhiệm vụ quản lý các vụ án lĩnh vực dân sự và các việc có liên quan TGPL. Cục
TGPL thực các công việc TGPL, bảo vệ các đượng sự như các công ty, văn phòng
luật sư tư. Ngoài ra, Cục TGPL còn có nhiệm vụ nghiên cứu xây dựng các văn bản
luật quy định về chính sách TGPL và xét duyệt đơn xin yêu cầu TGPL của người dân.
Giám sát mọi hoạt động TGPL là do Cục TGPL đảm nhận và chịu trách nhiệm xét
duyệt đơn yêu cầu TGPL. Người đứng đầu Cục TGPL có Cục trưởng và các phòng
Theo Theo Phan Hà (2013)“Trợ giúp pháp lý ở Israel”, Nghiên cứu – Trao đổi, Trang thông tin
điện tử Trợ giúp pháp lý Việt Nam, tại truy cập ngày 5/6/2018.
8


16

ban nghiệp vụ chuyên môn. Các phòng ban nghiệp vụ này chịu trách nhiệm nhận án
và phân công án.
Hình thức hoạt động TGPL chỉ phục vụ cho người có nhu cầu và có khó khăn
về tài chính vướng mắc pháp luật theo quy định luật TGPL dân sự. Điều kiện được
hưởng dịch vụ TGPL là người yêu cầu TGPL phải có nơi cư trú, nội dung yêu cầu
TGPL, có cơ sở pháp lý vững chắc (khả năng thắng kiện) và khả năng tài chính phải
khó khăn thông qua kiểm tra về thu nhập và tài sản của người yêu cầu.
Người thực hiện TGPL là LSC và luật sư tư ký hợp đồng với cơ quan TGPL.
Văn phòng TGPL khu vực thì được quyền ký hợp đồng các luật sư tư. Quá trình thực
hiện TGPL của luật sư tư ký hợp đồng luôn được giám sát chắc chẽ và thường xuyên.
Để từ đó việc tham gia vụ việc luật sư tư sẽ đảm bảo chất lượng hơn cho người được
TGPL. Luật sư tư ký hợp đồng được trả thù lao và các chi phí khác như photo, in ấn
tài liệu, thu thập chứng cứ….. Mô hình LSC Israel khá giống hình thức hoạt động

TGPL của TGVPL tại Việt Nam. Hoạt động TGPL theo sự điều chỉnh Luật TGPL
(có Cục TGPL trực thuộc Bộ Tư pháp).9
1.3.2. Luật sư công ở Argentina
Argentina chức năng TGPL thuộc hệ thống cơ quan tư pháp. Hoạt động TGPL
do các văn phòng LSC Liên bang và chịu sự điều chỉnh của Luật về văn phòng LSC
Liên bang năm 1988. LSC Liên bang được thay thế bởi Luật Tổ chức về Văn phòng
LSC Liên bang năm 2015. Đây là cơ quan thực hiện bào chữa và bảo vệ quyền con
người, đảm bảo việc tiếp cận pháp lý một cách có hiệu quả. Mục tiêu hoạt động TGPL
là bảo vệ và bào chữa cho những quyền cơ bản của con người đặc biệt là những người
yếu thế (Quy tắc này tương tự Luật TGPL tại Việt Nam – phục vụ cho người yếu thế).
Văn phòng LSC Liên bang là một cơ quan có trách nhiệm bảo vệ nhân quyền
cho những người dễ bị tổn thương trong lĩnh vực hình sự, dân sự và hành chính. Các
dịch vụ được cung cấp bởi văn phòng LSC là miễn phí cho những người đủ tiêu chuẩn
Theo Theo Phan Hà (2013)“Trợ giúp pháp lý ở Israel”, Nghiên cứu – Trao đổi, Trang thông tin
điện tử Trợ giúp pháp lý Việt Nam, tại truy cập ngày 5/6/2018.
9


17

theo luật và các quy định hiện hành. Văn phòng LSC đặt ra những mục tiêu và tiêu
chuẩn về mức thu nhập kinh tế hoặc sự yếu thế để cung cấp dịch vụ LSC ngoài những
vụ án bắt buộc phải tham gia. Ngoài ra, văn phòng LSC Liên bang thực hiện TGPL
về lĩnh vực nhà ở, y tế… cho người nghèo, người dễ bị tổn thương nhằm thúc đẩy
những biện pháp hỗ trợ chức năng bảo vệ quyền con người. Đứng đầu văn phòng
LSC Liên bang là Chủ tịch. Chủ tịch phải là người Argentina, tốt nghiệp luật sư và
có 8 năm kinh nghiệm, đáp ứng được những yêu cầu để trở thành thượng nghị sĩ quốc
gia và được bổ nhiệm dựa trên biểu quyết của 2/3 thành viên có mặt của Thượng viện
quốc gia. Ngoài ra, LSC Liên bang có thể thành lập những cơ quan cần thiết để thực
hiện hiệm vụ của mình. Văn phòng LSC Liên bang phát triển những Ủy ban hỗ trợ

chức năng chung của văn phòng LSC Liên bang để tiếp cận với những nhóm người
khác nhau một cách có hiệu quả như hỗ trợ cho tù nhân trong tù; cho trẻ em và vị
thành niên; nạn nhân về bạo lực giới, người bị tị nạn……Hiện nay, có 16 Ủy ban
hoạt động với chức năng hỗ trợ, các nhân viên làm việc tại các Ủy ban này đều được
trả lương từ văn phòng LSC Liên bang.
Các LSC được tuyển dụng thông qua hình thức thi tuyển. Quy định bổ nhiệm,
lương và chế độ chính sách đối với LSC Liên bang cũng giống giống như Thẩm phán,
công tố viên họ cũng được bổ nhiệm đến năm 75 tuổi trừ trường hợp vi phạm đạo
đức nghề nghiệp hoặc vi phạm pháp luật nghiêm trọng. Mỗi LSC có các nhân viên
hỗ trợ đều có một văn phòng làm việc riêng, đóng rải rác theo các khu vực nhất định.
Tuy nhiên trong trường hợp cần thiết với sự nhất trí của người thực hiện TGPL (LSC)
thì LSC được quyền điều chuyển vị trí công tác của họ để thực hiện các công việc có
cùng tính chất, vị trí mà họ thực hiện trong cùng quận hoặc thậm chí khác quận.
Đối với vụ án hình sự LSC hỗ trợ theo yêu cầu của người dân hoặc do không có
người bào chữa thì sau kết thúc vụ án thẩm phán quyết định chi phí tham gia tố tụng
mà họ phải trả cho LSC nếu họ có điều kiện chi trả (nếu họ không có điều kiện để
thuê luật sư vào thời điểm kết án thì họ được miễn phí). Trong những vụ án khác
(không phải vụ án hình sự) chi phí được trả bên thua kiện, sau khi thắng kiện nhận
được toàn bộ tài sản của mình hoặc khi có một sự tăng lên đáng kể trong của cải của


18

họ. Các phí thu được này sẽ đưa vào một khoản thu đặc biệt của văn phòng LSC Liên
bang dùng để đào tạo cán bộ, kinh phí dành cho bảo hiểm xã hội của bị cáo, những
người được bào chữa và cho tất cả các hoat động nhằm phát triển dịch vụ theo quy
định.
Tại Argentina Bộ Tư pháp có chức năng phục vụ công lý và bảo vệ xã hội có
nhiệm vụ xây dựng và phổ biến pháp luật, tư vấn các vấn đề về chính sách pháp luật
cho Tổng thống, TGPL cho người dân. Hiện nay, Bộ tư pháp có 82 trung tâm tiếp cận

công lý cho người dân. Các trung tâm này hình thức hoạt động tư vấn, cung cấp thông
tin pháp luật, đại diện ngoài tố tụng.10
Ngoài ra, cộng tác viên của các trung tâm này là cán bộ, ngành khác trong các
lĩnh vực được xã hội quan tâm được cơ quan đó trả lương và làm việc tại các trung
tâm này để giúp người dân tiếp cận pháp luật (Mô hình này giống Trung tâm TGPL
Nhà nước tại Việt Nam).
1.3.3. Luật sư công ở Canada
Trong 20 năm qua, Canada có nhiều tranh cải về 12 chương trình thực hiện
TGPL tại 10 bang, 02 vùng lãnh thổ. Một số nơi chỉ sử dụng LSC thực hiện TGPL
và một số khác chỉ sử dụng luật sư tư. Tuy mỗi nơi sử dụng mô hình luật sư thực hiện
TGPL khác nhau nhưng mục tiêu cuối cùng là muốn được giảm chi phí và có chất
lượng vụ việc để đối tượng được TGPL miễn phí thụ hưởng. Hoạt động TGPL tại
Canada đạt hiệu quả cao như giảm chi phí, thời gian, nguồn lực cho cơ quan nhà
nước.
1.3.3.1. Kinh phí cho luật sư công thực hiện trợ giúp pháp lý luôn tốn ít
Tranh luận về các mô hình TGPL tại Canada ban đầu bằng những so sánh hệ
thống TGPL sử dụng LSC và với sử dụng luật sư tư. Nghiên cứu mô hình TGPL ở
thị trấn Burnaby từ năm 1981 cho thấy chi phí trung bình một vụ án của luật sư tư là
235 USD trong khi đo nếu thuê luật sư tư là 264 USD.

Theo Trịnh Thị Thanh (2015) “Giới thiệu trợ giúp pháp lý Argentina”, Nghiên cứu – Trao đổi, Trang
thông tin điện tử Trợ giúp pháp lý Việt Nam, tại truy cập ngày 5/6/2018.
10


19

Để đánh giá hiệu quả hoạt động các mô hình thực hiện TGPL tại Canada bằng
cách so sánh quá trình hoạt động thực hiện TGPL giữa LSC và luật sư tư. Kết quả
chi phí trung bình cho một vụ án đối với LSC chỉ tốn 235USD còn trong khi đó luật

sư tư thực hiện tốn mất 264 USD. Việc so sánh này được thực hiện tại thị trấn Burnaby
từ năm 1981.
Ngoài nghiên cứu hai mô hình luật sư ở Thị trấn Burnaby tại bang Maitoba và
bang Saskatchewa, bang Alberta cũng tiếp tục nghiên cứu so sánh chi phí hoạt động
LSC, luật sư tư thực hiện TGPL như Bang Manitoba LSC tốn phí 197 USD, luật sư
tư tốn phí 307 USD; Bang Saskatchewan tốn phí cho thực hiện TGPL có thể tăng
30% nếu 1/3 vụ việc giao cho luật sự tư và tăng 64% nếu giao hết vụ việc cho luật sư
tư.
Năm 2003, Hiệp hội TGPL Bang Alberta thử nghiệm thực hiện dự án TGPL
cho trẻ em vị thành niên vi phạm pháp luật tại hai trung tâm TGPL của hai thành phố
Calgry và Edmonton. Qua đánh giá kết quả trung bình chi phí cho một vụ án cho LSC
tốn phí 353 USD còn luật sư tư tốn 5.000 USD. So sánh mức chi phí thì luật sư tư
cao hơn LSC là khoảng 30%.
LSC thực hiện nhiệm vụ của luật sư nghĩa vụ tại cơ quan tòa án thực hiện thường
xuyên hơn nên hoạt động hiệu quả hơn ngay từ giai đoạn đầu với tư cách luật sư nghĩa
vụ. Qua đó đã tiết kiệm được 2,4 triệu USD cho gần 5.000 vụ kết thúc sớm từ giai
đoạn đầu và không phải tiếp tục cấp giấy chứng nhận cho các gai đoạn tiếp theo
TGPL. Mang lại nhiều lợi ích cho người dân.
1.3.3.2. Luật sư công thực hiện trợ giúp pháp lý tốn ít thời gian
Quá trình thực hiện TGPL ở một số nơi như Burnaby, bang Nova Scotia, British
Columbia và số nơi khác nhận thấy LSC thực hiện TGPL tốn thời gian ít hơn luật sư
tư như đối với việc hành hung thì LSC chỉ thực hiện trong 4 giờ còn luật sư tư phải
mất tới 8 giờ; Vụ án sử dụng vụ khí LSC mất 5 giờ còn luật sư tư mất gần 10 giờ; Vụ
án trộm cắp tài sản 200 USD LSC tốn 4 giờ còn luật sư tư tốn đến hơn 7 giờ.
Đánh giá kết quả thực hiện vụ án tuy luật sư tư tốn khá nhiều thời gian hơn so
với LSC nhưng chất lượng vụ việc LSC đạt hiệu quả hơn. Nguyên nhân chủ yếu là


×