Tải bản đầy đủ (.pdf) (297 trang)

GIÁO TRÌNH LUẬT ĐẤT ĐAI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.56 MB, 297 trang )

1


HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH

KHOA NHÀ NƢỚC VÀ PHÁP LUẬT

GIÁO TRÌNH

LUẬT ĐẤT ĐAI VÀ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
VỀ ĐẤT ĐAI
(Dùng cho đào tạo Đại học hành chính)

2


HÀ NỘI - 2012

Chủ biên:
PGS. TS. Trần Thị Cúc
TS. Nguyễn Thị Phƣợng
Biên soạn
TS. Nguyễn Thị Phƣợng: Chƣơng I, II, III, IV, V, VI, XI, XIII.
TS. Trần Thị Cúc: Chƣơng VII, VIII, IX, X.
TS. Nguyễn Thị Phƣợng, TS. Trần Thị Cúc: Chƣơng XII

3


Lời nói đầu
Nhằm đáp ứng nhu cầu học tập, nghiên cứu của sinh viên, học viên hệ đại


học chính quy và tại chức tại Học viện Hành chính cũng như các cơ sở đào tạo
luật pháp khác, tập thể giảng viên bộ môn Luật Đất đai đã biên soạn cuốn giáo
trình đầu tiên vào năm 2000. Đến năm 2003, chúng tôi đã biên soạn lại trên cơ
sở Luật Đất đai năm 2003. Tuy nhiên, do nhu cầu về thay đổi nội dung, chương
trình đào tạo cho phù hợp với các đối tượng học viên của Học viện và các đối
tượng nghiên cứu khác ngoài Học viện, chúng tôi đã biên soạn lại cùng với việc
chỉnh lý một số chương và nội dung của các chương trong giáo trình trên cơ sở
những văn bản pháp luật đất đai hiện hành.
Vì vậy, cuốn Giáo trình Luật Đất đai năm 2009 ra đời với mong muốn
phục vụ chu đáo đối với đông đảo các bạn sinh viên, học viên và những ai quan
tâm đến ngành học này. Mặc dù đã rất cố gắng trong việc biện soạn, song cuốn
sách cũng không thể tránh được những sai sót nhất định. Vì vậy, tập thể tác giả
chân thành biết ơn sự đóng góp, phê bình nhằm hoàn thiện hơn nữa Giáo trình
Luật Đất đai.
Tập thể tác giả

4


PHẦN 1

PHÁP LUẬT ĐẤT ĐAI VIỆT NAM
Chƣơng 1
LỊCH SỬ PHÁP LUẬT ĐẤT ĐAI VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KỲ
I. PHÁP LUẬT ĐẤT ĐAI VỀ CHẾ ĐỘ SỞ HỮU VÀ SỬ DỤNG ĐẤT
TRƢỚC NĂM 1975
1. Chế độ sở hữu và sử dụng đất dƣới các triều đại phong kiến.
Trƣớc khi thực dân Pháp xâm lƣợc, xã hội Việt Nam trải qua hàng ngàn
nǎm dƣới chế độ phong kiến, bắt đầu từ nhà nƣớc Văn lang - Âu lạc khoảng thế
kỷ thứ III trƣớc công nguyên, với nền kinh tế nông nghiệp lúa nƣớc nên nhân dân

ta coi đất là nền tảng hàng đầu của sự sinh tồn, ruộng đất thuộc quyền chiếm đoạt
và chi phối của giai cấp địa chủ phong kiến. Những hình thức bóc lột phổ biến
trong xã hội phong kiến là địa tô, nợ lãi và thuế. Trong đó, hình thức đặc trƣng là
địa tô phong kiến đã kìm hãm phát triển lực lƣợng sản xuất và là nguồn gốc khổ
cực của ngƣời nông dân. Mâu thuẫn trong xã hội Việt Nam lúc bấy giờ chủ yếu là
giai cấp nông dân, với giai cấp địa chủ phong kiến thông qua chế độ chiếm hữu
ruộng đất của giai cấp địa chủ, phong kiến đối với ruộng đất và tƣ liệu sản xuất
khác.
Đáng lƣu ý:
Năm 1397, sau khi thoán đoạt nhà Trần, Hồ Quý Ly đã thực hiện chính
sách hạn điền, qui định dân thƣờng không đƣợc quá 10 mẫu ruộng. Chính sách
hạn điền của nhà Hồ tạo cơ hội cho ngƣời cày có ruộng và thu hẹp sở hữu đất đai
của tầng lớp quý tộc nhà Trần. Chính sách này nhằm tranh thủ lòng dân và làm
suy yếu lực lƣợng quan chức của triều đại cũ. Nhƣng chính sách hạn điền của Hồ
Quý Ly chỉ có hiệu lực với thƣờng dân, không thi hành đƣợc với các bậc vƣơng
giả. Chính sách này chỉ tồn tại 10 năm, sau đó nhà Hồ đi đến sụp đổ.
5


Kể từ triều đại nhà Lê (thế kỷ XV), đất đai đã có vai trò rất quan trọng
trong việc bảo đảm ổn định về chính trị và lòng trung thành của ngƣời dân đối
với triều đình. Vì vậy, Nhà Lê đã có nhiều chính sách ruộng đất theo khuynh
hƣớng không để đất hoang, tăng hiệu quả sử dụng đất, đa dạng hoá các hình thức
sử dụng. Lê Lợi đã tiến hành kiểm kê ruộng đất, tịch thu ruộng đất của giới quí
tộc nhà Trần, của đại địa chủ, của quan chức chính quyền đô hộ, của thƣơng gia
và ngƣời dân tuyệt tự để ban thƣởng cho công thần nhà Lê, mỗi ngƣời từ 200 đến
500 mẫu ruộng tuỳ theo công trạng.
Năm 1468, vua Lê Thánh Tông định ra lệnh dùng ruộng công để làm lộc
điều trả lƣơng cho các quan. Ông còn có sáng kiến lập ra các đồn điền để “khai
thác hết những lợi thế của việc làm ruộng, để cho kho chứa của Nhà nƣớc có

nhiều thóc lúa”. Đặc biệt Bộ luật Hồng Đức năm 1442 đã dành trọn chƣơng 6
gồm 59 điều về điền sản để qui định chế độ sở hữu, sử dụng và bảo vệ ruộng đất,
ví dụ nhƣ qui định về việc cấp chia ruộng, chuyển dịch ruộng đất, quyền và nghĩa
vụ của chủ sở hữu thừa kế đất đai v.v…
Năm 1664 Lê Huyền Tông sửa đổi chế độ thuế ruộng đất của thời nhà
Trần, theo đó ruộng công hạng nhất “ mỗi mẫu định 1 quan tiền, ruộng tƣ điền
không phải đóng thuế”.
Đến Nhà Nguyễn, chính sách đất đai vẫn đƣợc duy trì kể từ thời nhà Đinh,
Tiền Lê, ngƣời dân nhận ruộng cày cấy và nộp tô thuế cho triều đình. Tuy nhiên,
trên thực tế những ruộng đất do ngƣời dân cày lâu ngày đƣợc coi nhƣ của riêng,
có thể mua bán, cầm cố hay thừa kế. Nếu triều đình muốn trƣng dụng phải trả
tiền bồi thƣờng. Công điền (ruộng công) là đất của công, do chính phủ giao cho
xã, thôn sử dụng và cấm bán, trừ 1 vài trƣờng hợp có thể cầm cố trong hạn 3
năm, hết hạn phải lấy lại. Về thời hạn sử dụng, cứ 3 năm phân chia lại 1 lần cho
dân đế mỗi ngƣời đều có một số ruộng tƣơng tự nhau một cách công bằng, cách
này gọi là phép quân điền.

6


Cuối thế kỷ XVIII, khi diễn ra cuộc nội chiến, đất công ngày càng bị thu
hẹp dẫn tới việc tƣ hữu hóa ruộng đất 1. Đàng ngoài ngày càng tiêu điều, nông
dân bỏ làng lƣu tán khắp nơi. Ở đàng trong (1669) chúa Nguyễn công hữu hoá
toàn bộ ruộng đất đang canh tác, ruộng đất đƣợc đo đạc, lập sổ và giao cho xã để
nộp thuế đồng thời thành lập các quan điều trang; quan đồn điền để phục vụ cho
ngân khố nhà nƣớc và là nguồn để cung cấp ruộng đất cho các quan chức cao
cấp. Chúa Nguyễn cho mọi ngƣời đƣợc tổ chức khai hoang để làm ruộng.
Khi nhà Tây Sơn lên nắm quyền năm 1771, đã đánh bại hai chế độ cai trị
của hai họ Nguyễn, Trịnh, chấm dứt việc chia đôi đất nƣớc và bãi bỏ nhà Hậu Lê.
Nguyễn Huệ trở thành vua Quang Trung của nhà Tây Sơn tiếp tục thực hiện

chính sách đất đai bằng việc đề ra “chiếu khuyến nông”, theo đó ai cày ruộng
công phải đóng thuế nặng gấp hơn 3 lần so với cày ruộng tƣ của mình (công điền
hạng nhất mỗi mẫu đóng thuế 130 bát thóc, tƣ điền cùng hạng chỉ đóng 40 bát
thóc một mẫu).
Đặc biệt, khi lên ngôi Vua Gia Long đã phải ra lệnh cấm bán ruộng đất
công và quy định chặt chẽ việc cầm cố loại công điền công thổ để bảo đảm đất
cày cho mọi ngƣời nông dân. Đạo dụ năm Gia Long thứ 2 (1803) có ghi rõ:"Theo
lệ cũ thì công điền công thổ cho dân quân cấp, đem bán riêng là có tội, do đó
nhân dân đều được lợi cả. Từ đời Tây Sơn bỏ hết luật cũ, dân gian nhiều người
đổi ruộng công làm ruộng tư, cũng có kẻ tạ sự việc công mà cầm bán ruộng đất
công...Phàm xã dân có công điền công thổ đều không được mua bán riêng, làm
trái là có tội. Ai mua nhầm thì mất tiền..." 2. Bên cạnh đó, Nhà Vua còn dùng đất
để thƣởng công cho các quan lại, đồng thời tìm cách giành lại diện tích đất công
do các địa chủ chiếm giữ từ thời khởi nghĩa Tây sơn. Còn đất tƣ đƣợc thừa nhận
nhƣng không thuộc hẳn về một cá nhân nào vì tất cả đều thuộc quyền sở hữu của
Nhà Vua. Vào năm 1803, thời Minh Mạng đã định lại phép quân cấp ruộng khẩu

1

. Hội Khoa học lịch sử Việt Nam: Làng Việt, đối diện tương lai, hồi sinh quá khứ. NXB Đà
Nẵng. Tr 45 -46.
2
. Nguyễn Thế Anh: Kinh tế & Xã hội VN dưới các vua triều Nguyễn. NXB Văn Học, tr 91.

7


phần, quan lại, binh lính, công tƣợng (thợ làm quan xƣởng) cùng các hạng dân
đinh, không kể phẩm trật cao thấp đều đƣợc hƣởng 1 phần khẩu phân, ngƣời già,
ngƣời tàn tật thì đƣợc nửa phần. Cô nhi, quả phụ đƣợc 1/3, nhƣng các chức sắc

trong làng, xã đòi hỏi quyền lợi nhiều hơn nên dẫn tới việc „„giấu giếm công
điền, công thổ‟‟, gây đau đầu cho triều đình, nên triều đình đã quyết định mở
cuộc điều tra về đất đai3.
Cuối thế kỷ XIX (giữa những năm 1880) vua quan phong kiến triều
Nguyễn đầu hàng và bán rẻ nƣớc ta cho thực dân Pháp trong cuộc xâm chiếm của
Pháp ở Miền Bắc và Miền Trung Việt Nam. Trong quá trình khai thác thuộc địa,
Thực dân Pháp tiếp tục duy trì quan hệ sản xuất phong kiến, đồng thời cho phép
tƣ bản Pháp chiếm hữu và khai thác ruộng đất ở nƣớc ta trên quy mô lớn.
Trong quá trình khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, quan hệ sản xuất tƣ
bản chủ nghĩa đã hình thành ở nƣớc ta, sự thống trị của tƣ bản độc quyền không
có nghĩa là quan hệ sản xuất phong kiến bị loại trừ; trái lại, chúng duy trì nó để
kìm hãm sự phát triển, tạo ra cơ sở kinh tế - xã hội cho sự tồn tại của chế độ thực
dân ở Việt Nam.
Về chính trị, thực dân Pháp sử dụng bộ máy chính quyền phong kiến làm
tay sai cho chế độ thực dân; mặt khác, chế độ thực dân làm chỗ dựa tồn tại của
giai cấp địa chủ phong kiến, nhằm bóc lột, đàn áp nhân dân Việt Nam. Xã hội
Việt Nam lúc này tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa dân tộc Việt
Nam với đế quốc xâm lƣợc và mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ phong kiến.
Xã hội Việt Nam từ chỗ là xã hội phong kiến chuyển thành xã hội thuộc địa nửa
phong kiến. Tính chất này đƣợc thể hiện trong nền kinh tế là chế độ chiếm hữu
ruộng đất và đời sống nông dân.
Tóm lại. Nhà Nguyễn và triều đại phong kiến Nhà Nguyễn bắt đầu khi Vua
Gia Long lên ngôi năm 1802 sau khi đánh bại nhà Tây Sơn và chấm dứt khi vua

3

. Đào Duy Anh: Lịch sử Việt Nam thế kỷ XIX. NXB Văn hóa Thông tin. tr 457.

8



Bảo Đại thoái vị vào năm 1945 - tổng cộng là 143 năm. Với 13 đời Vua đã làm
đƣợc một số việc lớn trong lĩnh vực ruộng đất. Đầu tiên phải kể đến công trình đo
đạc và lập sổ địa bạ trên phạm vi toàn quốc từ Lạng Sơn đến mũi Cà Mau. Công
trình này đƣợc tiến hành từ năm 1805 đến năm 1836, nhƣ vậy mất 31 năm. Nhà
Vua đã cử các quan lại có đủ tài đủ đức để phụ trách công việc đo đạc, lập sổ địa
bạ tới từng mảnh đất để biết rõ diện tích, hiện trạng sử dụng, chủ sở hữu và tất cả
các thông số khác về mảnh đất. Dựa vào kết quả của công trình này triều đình
nhà Nguyễn đã hoạch định ra chính sách khai thác, sử dụng từng loại đất, nắm
đƣợc sự biến động của đất đai trong phạm vi cả nƣớc. Theo nhà sử học Nguyễn
Đình Đẩu thì hiện nay chúng ta còn lƣu giữ khoảng 10.044 tập địa bạ. Theo tập
địa bạ này thì ruộng đất thuộc sở hữu tƣ nhân đƣợc thể hiện nhƣ sau: ở Bắc bộ là
65-70%, Trung bộ là 60-65%, Nam bộ là 92-93%. Đặc biệt, mức độ tập trung
ruộng đất tƣ điền của chủ Nam Bộ là rất lớn. Phổ biến mỗi điền chủ có từ 100
đến 500 mẫu ruộng có ngƣời tới 2000 mẫu ruộng...(Lƣợc sử chế độ sở hữu ruộng
đất ở nƣớc ta từ nguyên thuỷ đến 1975 - Nguyễn Đình Đẩu - NXB KHXH
TP.HCM 1994.
Chính sách đất đai của nhà Nguyễn dựa trên nguyên tắc: Vua có quyền sở
hữu tối cao đối với đất đai, bên cạnh đó cũng tôn trọng quyền sở hữu tƣ nhân đối
với đất đai. Ví dụ mỗi khi nhà nƣớc thu hồi đất để làm các công trình của nhà
nƣớc phải đƣợc đền bù đầy đủ, ngƣời bỏ nhà, bỏ xứ đi hàng chục năm khi trở về
vẫn đƣợc khôi phục quyền sở hữu của mình trên mảnh đất đó.
Từ năm 1839-1840 triều đình nhà Nguyễn thực hiện chính sách chia lại
ruộng đất, vận động các điền chủ lớn hiến ruộng cho nhà nƣớc, Nhà Nguyễn đã
thực hiện thành công chính sách đất đai nhƣ cấm các chủ sở hữu bỏ hoang ruộng,
san sẻ ruộng đất của địa phƣơng nhiều đất cho địa phƣơng ít đất. Ngoài ra còn
thực hiện chính sách khai hoang, lập ấp mới.
Đi đầu trong thực hiện chính sách khai hoang, lấn biển là Nguyễn Công
Trứ và Nguyễn Tri Phƣơng.


9


Diễn biến tình hình đất đai trong lịch sử phong kiến Việt Nam có thể tóm
lƣợc một số nét sau:
Toàn bộ diện tích đất của lãnh thổ quốc gia chia làm 2 loại: Đất công và
đất tƣ.
Thời kỳ đầu ruộng đất công đƣợc hình thành và củng cố trên cơ sở chế độ
công hữu nguyên thuỷ về đất đai.
Trong quá trình phát triển nhà nƣớc phong kiến nhất là thời kỳ nhà nƣớc
phong kiến độc lập đồng thời là thời kỳ củng cố chế độ công hữu về ruộng đất.
Tuy các nhà nƣớc phong kiến đều cố gắng củng cố chế độ công hữu để
phục vụ cho bộ máy quản lý nhà nƣớc, nhƣng thực tế do lực lƣợng sản xuất phát
triển, bộ máy hành chính quan liêu đã làm thúc đẩy quá trình tƣ hữu hoá ruộng
đất. Cho đến trƣớc cách mạng Tháng 8 năm 1945 thì ruộng đất tƣ vẫn chƣa
chiếm tuyệt đối ở nông thôn Việt Nam. Tuy nhiên ý thức và thực tế về ruộng đất
tƣ ở miền Nam mạnh mẽ hơn miền Bắc.
2. Chế độ sở hữu và sử dụng đất ở Việt Nam dƣới thời Pháp thuộc
Sau khi đặt ách thống trị, thực dân Pháp bắt đầu tìm cách chiếm đoạt đất
đai, đƣa pháp luật của Pháp để củng cố quyền sở hữu đất đai của Tƣ Bản Pháp ở
Việt Nam. Tại Nam kỳ khi đã thành thuộc địa, Thực dân Pháp đã áp dụng các qui
định của Bộ luật Dân sự Napoleon năm 1804 trong quản lý đất đai và các tài sản
gắn liền với đất. Sau này tinh thần của Bộ luật Dân sự Napoleon 1804 cũng đƣợc
thể hiện trong Bộ luật Dân sự Bắc kỳ (1931) và Bộ luật Dân sự Trung kỳ (1936 1939). Còn ở Bắc và Trung kỳ là 2 xứ bảo hộ thì chính quyền Pháp áp dụng theo
qui định của Bộ luật Gia Long và theo phong tục tập quán, tức là vẫn tôn trọng
quyền sở hữu đất của quan lại, vua quan và quyền sở hữu đất đai của làng xã. Vì
vậy, giai cấp địa chủ và tƣ bản thực dân trong quá trình duy trì chế độ chiếm hữu
ruộng đất đã chiếm dụng trong tay khoảng 70% ruộng đất, trong khi nông dân
chiếm trên 90% số dân chỉ có khoảng gần 30% ruộng đất. Mức chiếm hữu ruộng
đất nhƣ trên tạo cho giai cấp thống trị có đầy đủ phƣơng tiện vật chất để áp bức

bóc lột nông dân.
10


Thực dân Pháp thực hiện việc củng cố chế độ tƣ hữu về điền sản. Thể hiện
ở chỗ tôn trọng triệt để các loại ruộng đất tƣ hữu nhƣ ruộng hƣơng hoả, ruộng
cúng giỗ, ruộng dùng cho dƣỡng lão. Những ruộng này hình thành theo qui định
của Bộ luật Hồng Đức hoặc theo Luật Gia Long. Những ruộng tƣ nếu phải trƣng
thu vào việc công ích thì đều đƣợc bồi thƣờng thoả đáng bằng các chính sách
thuế. Ƣu điểm của chính sách thuế về ruộng đất thời kỳ này là đƣợc thực hiện
dựa trên cơ sở các phân loại về ruộng đất và cách nâng cấp đất hạng hai, hạng ba
khác nhau: Thuế đất thƣờng dao động trong khoảng từ cao nhất là 1,5 đồng cho
ruộng loại một (đất trồng một vụ lúa và có tƣới tiêu), đến thấp nhất là 30 xu cho
đất ruộng loại 3. Các hồ ao nhỏ cũng bị đánh thuế với mức chuẩn là 18 xu/đơn vị.
Bên cạnh đó, những vi phạm về qui định pháp luật trong lĩnh vực đất đai không
bị xử lý hình sự nhƣ thời phong kiến trƣớc đó, mà thƣờng đƣợc xử lý bằng biện
pháp hành chính, phạt tiền theo qui định Bộ luật Dân sự ở 3 xứ Bắc - Trung Nam. Bên cạnh một số chính sách tích cực về đất đai nhƣ trên thì thực dân Pháp
cũng đẩy mạnh chính sách cƣớp đoạt ruộng đất của ngƣời dân Việt Nam để lập
đồn điền. Đến nǎm 1890, ở Việt Nam đã có 126 đồn điền, hầu hết là của bọn tay
sai và thực dân ngƣời Pháp. Số ruộng đất mà Thực dân Pháp khai thác ở Trung
Kỳ là 3484 hécta, Bắc Kỳ là 3068 hécta và Nam Kỳ là 4346 hécta. Trong khoảng
thời gian từ nǎm 1890 đến nǎm 1900, tƣ bản Pháp chiếm 320.000 hécta ruộng đất
trồng lúa và cao su. Đặc biệt từ nǎm 1907 trở đi, thực dân Pháp tập trung khai
thác vùng đất đỏ tại Nam Bộ, và Nam Trung Bộ, đồng thời mở rộng các đồn điền
ở Sơn Tây, Bắc Giang, Thái Nguyên. Từ nǎm 1921 đến nǎm 1926, chúng chiếm
trên 100.000 hécta đồn điền cao su, từ nǎm 1926 đến nǎm 1928 chúng chiếm
215.000 hécta. Nhƣ vậy, từ khi trở thành thuộc địa của Pháp cho đến nǎm 1930,
ruộng đất ở Việt Nam tập trung trong tay tƣ bản Pháp lên tới 1.025.000 hécta
(riêng đồn điền cao su là 706.000 hécta), chiếm 1/4 diện tích canh tác của Việt
Nam bao gồm cả những nhà tƣ bản tài chính (Đông Pháp ngân hàng, Địa ốc ngân

hàng và các chi nhánh của nó). Nông khố ngân hàng có ở hầu khắp các tỉnh bằng
hình thức cho vay rồi chiếm đoạt ruộng đất của cả địa chủ và nông dân.
11


Chính sách cƣớp đoạt ruộng đất lập đồn điền của Pháp ở Việt Nam đã đẩy
hàng vạn nông dân Việt Nam vào cảnh mất ruộng thiếu ruộng, họ buộc phải trở
thành tá điền để làm thuê cho các chủ đất, hoặc ra thành thị để kiếm việc. Tuy
nhiên, việc mở mang đồn điền cũng có mặt tích cực của nó, đó là góp phần làm
tăng thêm diện tích đất canh tác, từng bƣớc phá thế độc canh của cây lúa, đổi mới
cơ cấu cây trồng, nâng cao năng suất và hiệu quả của sản xuất nông nghiệp.
Nhƣ vậy, dƣới ách thống trị của thực dân Pháp, với toàn bộ thiết chế chính
trị của chúng, chính quyền thực dân cùng vua quan phong kiến và địa chủ đã kìm
hãm nền kinh tế Việt Nam với phƣơng thức sản xuất lỗi thời, lạc hậu. Tuy nhiên,
cùng với việc đặt ách thống trị của mình, thực dân Pháp cũng mang theo luật
pháp của Pháp vào áp dụng cho công cuộc quản lý và khai thác đất đai thuộc địa
tại Việt Nam cùng với việc duy trì hình thức sở hữu và sử dụng đất theo kiểu
phong kiến bản địa.
3. Chính sách ruộng đất của Nhà nƣớc Việt Nam thời kỳ 1930 - 1945
Trƣớc khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, trong hơn nửa thế kỷ, nhiều
giai cấp và tầng lớp đã đứng lên lãnh đạo nhân dân ta chống xâm lƣợc. Nhƣng do
hạn chế về mặt giai cấp, nên nƣớc ta chƣa có một tầng lớp hay một giai cấp nào
nhận thức đƣợc tính bức thiết của vấn đề ruộng đất cũng nhƣ mối quan hệ của nó
với vấn đề giải phóng dân tộc. Đó chính là nguyên nhân khiến cho họ không lôi
kéo đƣợc đông đảo nông dân tiến hành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và
không tránh khỏi thất bại.
Khi Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo toàn dân đấu tranh giành độc lập
dân tộc thì vấn đề ruộng đất và vấn đề nông dân mới đƣợc nhận thức đúng đắn:
đó là hai nhiệm vụ chiến lƣợc của cách mạng Việt Nam.
Trong Chính cƣơng vắn tắt và Điều lệ vắn tắt do Nguyễn ái Quốc khởi

thảo và đƣợc thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng cộng sản Việt Nam (3-21930) đã chỉ rõ: "Cách mạng Việt Nam là tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa
cách mạng để tiến tới xã hội cộng sản".

12


Luận cƣơng chính trị tháng 10-1930 khẳng định tính chất của cách mạng
Việt Nam là "cách mạng tƣ sản dân quyền, nó phải giải quyết hai nhiệm vụ chiến
lƣợc là đánh đế quốc giành độc lập dân tộc và đánh đổ phong kiến giành ruộng
đất cho nông dân. Lần đầu tiên trong lịch sử, Đảng ta đã nhận thức đúng vị trí của
vấn đề ruộng đất và vấn đề nông dân ở một nƣớc thuộc địa nửa phong kiến và đặt
thành một nhiệm vụ chiến lƣợc gắn liền với nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Cƣơng
lĩnh của Đảng đã định hƣớng đúng cho sự vận động phát triển của cách mạng
Việt Nam.
Giải quyết vấn đề ruộng đất cho nông dân chính là bảo đảm quyền dân chủ
cơ bản về mặt kinh tế của nông dân. Nó không chỉ đƣợc thực hiện trong cách
mạng dân tộc dân chủ, mà còn đƣợc định hƣớng cho sự phát triển tiếp theo trong
giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Theo phƣơng hƣớng mà Cƣơng lĩnh vạch ra, một phong trào cách mạng
của công - nông dƣới sự lãnh đạo của Đảng, đỉnh cao là Xôviết Nghệ Tĩnh. Lần
đầu tiên nhân dân ta đã nắm quyền ở một số địa phƣơng, thực hiện ngay những
quyền dân chủ đối với nông dân, trong đó có vấn đề ruộng đất cho dân cày.
Từ nǎm 1939 đến nǎm 1945, mục tiêu trực tiếp của cách mạng Việt Nam
là giành độc lập dân tộc. Vì vậy, Đảng chủ trƣơng tạm gác khẩu hiệu cách mạng
thổ địa để tập hợp lực lƣợng toàn dân tộc chống đế quốc, phátxít. Đảng ta chỉ rõ:
Trong giai đoạn hiện tại ai cũng biết rằng, nếu không đánh đuổi đƣợc giặc Pháp Nhật thì vận mệnh của dân tộc phải chịu kiếp ngựa trâu muôn đời mà vấn đề
ruộng đất cũng không làm sao giải quyết đƣợc.
Về vấn đề ruộng đất trong thời kỳ này, Đảng nêu khẩu hiệu tịch thu tài sản
của bọn phát xít Nhật - Pháp và bọn việt gian, thi hành giảm tô, chia lại công điền
theo chƣơng trình của Mặt trận Việt Minh.

Vấn đề ruộng đất đƣợc đặt ra ở đây tuy mới chỉ là chủ trƣơng, chính sách,
song nói có ý nghĩa thực tiễn là: chủ trƣơng, chính sách đó đã phù hợp với lợi ích
của giai cấp nông dân nên đã sớm phát huy tác dụng, phát triển phong trào cách
mạng của quần chúng, tạo nên sức mạnh vật chất, góp phần cùng toàn dân tiến
13


hành cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, lập nên nhà nƣớc Việt Nam
dân chủ cộng hoà.
4. Chính sách ruộng đất của Nhà nƣớc thời kỳ 1945 - 1953
Sau khi giành chính quyền, vấn đề ruộng đất đã đƣợc Đảng và Nhà nƣớc
đề ra thành một hệ thống các chính sách và từng bƣớc giải quyết ruộng đất cho
nông dân, cụ thể là:
- Tịch thu ruộng đất của thực dân Pháp để chia cấp cho nông dân. Tính đến
trƣớc cải cách ruộng đất 1952 - 1953, đã tịch thu 81,3% ruộng đất từ tay thực dân
Pháp chia cho nông dân.
- Chia cấp lại công điền, công thổ cho nông dân. Tính đến nǎm 1953 đã
chia cấp 77,8% ruộng công điền cho nông dân.
- Tạm giao ruộng đất của địa chủ, việt gian và địa chủ vắng mặt cho nông
dân, 84,7% loại ruộng đất này đã đƣợc chia cho nông dân.
Nhà nƣớc đã ban hành sắc lệnh giảm tô 25%, cho nông dân lĩnh canh
ruộng đất của địa chủ, thu thuế nông nghiệp (nǎm 1952).
Tóm lại, đến nǎm 1953 đã có 58,3% tổng số ruộng đất của tƣ bản Pháp, địa
chủ, cùng ruộng công đƣợc chia cho nông dân. Kết quả trên đây có ý nghĩa thực
tiễn to lớn đối với sự nghiệp cách mạng nƣớc ta, quyền sở hữu ruộng đất đã thay
đổi, từng bƣớc chuyển từ tay giai cấp địa chủ phong kiến và đế quốc sang tay
nông dân, thu hẹp thế lực kinh tế và chính trị của chúng, tǎng cƣờng thế và lực
của Nhà nƣớc dân chủ nhân dân Việt Nam. Trên cơ sở đó, từng bƣớc cải thiện
đời sống nhân dân, củng cố liên minh công - nông - nòng cốt của mặt trận dân tộc
thống nhất, đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống Pháp.

5. Chính sách ruộng đất của Nhà nƣớc thời kỳ từ năm 1953 - 1957
Việc thực hiện từng bƣớc chính sách ruộng đất của Đảng từ sau Cách
mạng tháng Tám 1945 đến đầu nǎm 1953 đã tạo ra những chuyển biến sâu sắc về
sở hữu ruộng đất và quan hệ giai cấp ở nông thôn. Tuy vậy, chế độ chiếm hữu và
bóc lột phong kiến chƣa bị thủ tiêu, khẩu hiệu "Ngƣời cày có ruộng" chƣa đƣợc
giải quyết cǎn bản, giai cấp địa chủ vẫn tồn tại. Vì vậy, tháng 1-1953, Ban chấp
14


hành trung ƣơng Đảng họp Hội nghị lần thứ 4 kiểm điểm chính sách ruộng đất
trong kháng chiến và phát động triệt để giảm tô nhằm bƣớc đầu thực hiện yêu cầu
về kinh tế của nông dân. Tháng 11-1953, Hội nghị Ban chấp hành trung ƣơng
Đảng lần thứ 5 quyết định cải cách ruộng đất và đề ra chủ trƣơng, biện pháp tiến
hành cải cách ruộng đất...
Trên cơ sở những thành tựu đã đạt đƣợc, tháng 12-1953 Luật Cải cách
ruộng đất đƣợc ban hành với các biện pháp thực hiện gồm: Tịch thu, trƣng thu,
trƣng mua ruộng đất của địa chủ để chia cho nông dân. Vì vậy, sau hai năm thực
hiện cải cách ruộng đất đã đem chia đƣợc hơn 810.000ha ruộng đất cho
2.104.138 hộ với 8.223.636 nhân khẩu tức 72.78% số hộ nông dân. Ngoài ra
nông dân còn đƣợc chia hàng triệu nông cụ, hàng chục vạn trâu bò và nhà ở. Việc
cải cách ruộng đất xuất phát từ thực tế miền Bắc lúc bấy giờ là 75% ruộng đất
canh tác nằm trong tay địa chủ, thực dân, nhà thờ, nông dân chiếm 87% dân số
mà chỉ chiếm có 25% diện tích ruộng đất.
Nhƣ vậy, cải cách ruộng đất ở miền Bắc đã xoá bỏ chế độ chiếm hữu
ruộng đất và bóc lột của giai cấp địa chủ phong kiến, xác lập quyền sở hữu
ruộng đất của nông dân, bƣớc đầu thực hiện dân chủ hoá về mặt kinh tế đối với
nông dân - cơ sở của dân chủ về mặt chính trị ở nông thôn. Trên cơ sở đó, nǎng
lực sản xuất trong nông nghiệp đƣợc giải phóng, sức lao động và ruộng đất của
nông dân đƣợc gắn với nhau trong quá trình sản xuất.
Tuy nhiên, cải cách ruộng đất không chỉ giải quyết vấn đề kinh tế mà còn

giải quyết cả vấn đề giai cấp trong xã hội với một tinh thần triệt để, chính vì thế
mà nó đã trở thành cuộc cách mạng mang tính giai cấp nên đã phạm một số sai
lầm nghiêm trọng trong chỉ đạo thực hiện nhƣ: Do chủ quan, giáo điều, không
xuất phát đầy đủ từ thực tiễn nƣớc ta, nên không thấy rõ đƣợc những thay đổi
quan trọng về sở hữu ruộng đất ở nông thôn Việt Nam từ sau Cách mạng tháng
Tám, nhất là trong 9 nǎm kháng chiến. Từ đó, trong chỉ đạo tiến hành cải cách
ruộng đất đã cƣờng điệu tính chất đấu tranh giai cấp ở nông thôn, dẫn đến mở
rộng quá mức đối tƣợng đấu tranh, gây ra tình trạng đánh nhầm vào nội bộ nông
15


dân, nhất là trung nông lớp trên. Trong chỉnh đốn tổ chức, đã nhận định sai về tổ
chức cơ sở đảng ở nông thôn, cho là bị địch lũng đoạn. Từ đó, đã dẫn đến việc xử
lý oan những cán bộ, đảng viên tốt.
Việc tổ chức ra một hệ thống tổ chức chỉ đạo cải cách ruộng đất từ Trung
ƣơng đến cơ sở tách rời sự chỉ đạo và kiểm soát của các cấp uỷ đảng ở khu, tỉnh,
huyện; hệ thống này đƣợc giao quyền hạn quá rộng, dẫn đến mệnh lệnh, độc
đoán, hạ thấp vai trò lãnh đạo của các cấp lãnh đạo, nhiều cán bộ theo lập trƣờng
tƣ tƣởng của giai cấp nông dân để giải quyết những vấn đề kinh tế - xã hội nông
thôn.
Hội nghị lần thứ 10 (khoá II) của Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng đã
nghiêm khắc kiểm điểm những sai lầm trong thực hiện cải cách ruộng đất cùng
với việc xác lập quyền làm chủ ruộng đất của nông dân, tháng 5-1955, Quốc hội
đã ban hành các chính sách kinh tế quan trọng nhằm khuyến khích khôi phục và
phát triển kinh tế hộ nông dân, nội dung cơ bản là bảo đảm quyền sở hữu ruộng
đất, bảo vệ tài sản của nông dân và các tầng lớp khác, khuyến khích khai hoang
phục hoá (khai hoang đƣợc miễn thuế 5 nǎm, phục hoá đƣợc miễn thuế 3 nǎm),
tǎng vụ, tǎng nǎng suất, tự do thuê mƣớn nhân công, tự do thuê mƣớn trâu bò, tự
do vay mƣợn, khuyến khích các hình thức đổi công tƣơng trợ, khuyến khích khôi
phục các nghề thủ công truyền thống, bảo hộ, khuyến khích, khen thƣởng nông

dân sản xuất giỏi, nghiêm cấm phá hoại sản xuất...
Nhƣ vậy, sau khi giải phóng khỏi phƣơng thức sản xuất phong kiến các
chính sách về quyền sở hữu và sử dụng đất là phù hợp và đƣợc pháp luật bảo hộ,
đã làm cho sức sản xuất ở nông thôn nƣớc ta cuối thập kỷ 50 có bƣớc tiến bộ rõ
rệt. ở vào thời điểm đất nƣớc vừa trải qua chiến tranh, kinh tế còn nghèo nàn, kỹ
thuật còn lạc hậu, quan hệ hợp tác giúp đỡ quốc tế chƣa có gì đáng kể, nhƣng với
hệ thống chính sách đúng đắn, đã đƣa lại quyền làm chủ ruộng đất cho nông dân,
giải phóng mọi nǎng lực sản xuất trong nông nghiệp, đã tạo ra động lực mới phát
triển sản xuất góp phần khôi phục kinh tế và ổn định đời sống nhân dân.

16


6. Chính sách ruộng đất ở Miền Bắc Việt Nam thời kỳ 1958 đến trƣớc
năm 1975
Sau thời kỳ khôi phục kinh tế, Đảng chủ trƣơng cải tạo xã hội chủ nghĩa
đối với nông nghiệp bằng hình thức hợp tác xã. Vấn đề ruộng đất đƣợc đặt ra và
giải quyết thông qua phong trào hợp tác hoá là một nội dung cơ bản của hợp tác
xã nông nghiệp. Xác lập chế độ sở hữu tập thể về ruộng đất gắn liền với tổ chức
lao động tập thể trong các hợp tác xã nông nghiệp từ thấp đến cao, từ nhỏ đến
lớn. Từ đây, kinh tế hộ nông dân bị coi là kinh tế phụ.
Đầu những năm 1960, ở Miền Bắc với chế độ làm ăn tập thể, ngƣời nông
dân đem ruộng đất, nông cụ trâu bò thuộc quyền sở hữu của mình vào làm ăn tập
thể. Những tài sản này đƣợc định giá và hợp tác xã thanh toán dần cho xã viên
cho đến hết thì trở thành tài sản thuộc quyền sở hữu tập thể của hợp tác xã. Kết
quả, trong hơn một nǎm, từ tháng 4-1959 đến mùa thu 1960, đã tập thể hoá 76%
diện tích ruộng đất canh tác của 2,4 triệu hộ nông dân, chiếm 84,8% tổng số hộ
nông dân miền Bắc.
Từ nǎm 1961 trở đi, Đảng và Nhà nƣớc tập trung củng cố, tǎng cƣờng và
mở rộng mô hình sở hữu tập thể, bằng một loạt cuộc vận động ở nông thôn. Nội

dung cơ bản của các cuộc vận động thể hiện trên những điểm sau:
Một là, mở rộng quy mô sở hữu tập thể về ruộng đất từ thôn lên liên thôn,
đỉnh cao là quy mô toàn xã sau Hội nghị nông nghiệp ở Thái Bình tháng 8-1974.
Hai là, xác lập và thực hiện cơ chế quản lý tập trung trong kinh tế nông
nghiệp từ vi mô đến vĩ mô.
Quản lý và sử dụng ruộng đất tập trung thống nhất theo chế độ sở hữu tập
thể. Mọi phân biệt về lợi ích kinh tế trên đất đai đều bị xoá bỏ.
Về phân phối, thực hiện nguyên tắc "trừ lùi" (thuế, quỹ, chi phí sản xuất,
các khoản điều hoà...), còn lại chia theo ngày công, bằng hiện vật.
Ba là, cơ chế vận hành của mô hình tập thể hoá triệt để ruộng đất, sức lao
động và các tƣ liệu sản xuất khác của nông dân bằng một bộ máy hành chính hoá,
qua nhiều tầng nấc trung gian từ Trung ƣơng xuống tỉnh, huyện, xã và hợp tác xã.
17


Những chủ trƣơng và biện pháp trong quá trình hợp tác hoá nông nghiệp
đã tạo ra “một cuộc cải cách ruộng đất” thứ hai nhằm thiết lập chế độ sở hữu tập
thể về ruộng đất trong đời sống kinh tế xã hội nông thôn miền Bắc suốt 20 nǎm
(1960-1980). Tuy nhiên, trong điều kiện lịch sử cụ thể lúc bấy giờ chế độ tập thể
hoá đất đai đã đem lại một số lợi ích thiết thực: đã xây dựng đƣợc một hệ thống
cơ sở vật chất, kỹ thuật bƣớc đầu, đặc biệt là hệ thống thuỷ lợi, cải tạo đồng
ruộng, phát triển giao thông nông thôn, khai hoang, phục hoá. Nhiều tiến bộ khoa
học - kỹ thuật đƣợc áp dụng trong nông nghiệp, làm thay đổi tập quán và phƣơng
pháp canh tác cổ truyền, đƣa lại nǎng suất cao, nhất là nǎng suất lúa. Trong thời
kỳ cả nƣớc có chiến tranh, mô hình tập thể hoá triệt để này đã góp phần to lớn
vào việc cung cấp sức ngƣời, sức của cho kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc, giải
phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Tuy nhiên, xét về bản chất kinh tế tập thể hoá quyền sở hữu ruộng đất dần
dần có những mặt trái của nó, đó là:
- Quá trình củng cố mô hình kinh tế tập thể hoá quyền sở hữu ruộng đất

chính là quá trình tách lao động nông nghiệp ra khỏi ruộng đất mà hệ quả trực
tiếp là làm tha hoá ngƣời lao động, đỉnh cao là thời kỳ 1976-1980.
- Kinh tế hộ nông dân bị hoà tan vào kinh tế tập thể. Các thành viên lao
động trong gia đình nông dân bị xé lẻ, phân công vào các đội chuyên hoặc đội cơ
bản đặt dƣới sự điều hành của bộ máy quản lý tập trung.
- Chức nǎng kinh tế của hộ gia đình cơ bản bị thủ tiêu, chỉ còn lại chức
nǎng xã hội. Lợi ích kinh tế trực tiếp của ngƣời lao động bị vi phạm đã làm mất
đi sự thiết tha với ruộng đất, làm mất đi bản chất cần cù một nắng hai sƣơng của
ngƣời nông dân Việt Nam.
- Do cơ chế quản lý tập trung quan liêu, ruộng đất thuộc sở hữu và sử dụng
tập thể theo kiểu "cha chung không ai khóc" đã dẫn đến tình trạng vô chủ trong
quản lý và sử dụng đất đai, gây ra lãng phí và mất đất đai nghiêm trọng. ở Nam
Hà, Thanh Hoá và Hải Hƣng mỗi tỉnh mất 2 vạn hécta. Trong 10 nǎm (1961-

18


1971), mỗi tỉnh mất đi diện tích canh tác bằng diện tích hai huyện, còn đất gieo
trồng ở miền Bắc mất đi bằng diện tích hai tỉnh .
Nguyên nhân chính xuất phát từ chỗ :
- Do vi phạm các nguyên tắc về hợp tác hoá, đã bỏ qua nội dung kinh tế
của các nguyên tắc này. Cơ sở kinh tế của nguyên tắc tự nguyện chính là sự xã
hội hoá sức sản xuất, trên cơ sở đó xuất hiện nhu cầu hợp tác hoá các hộ nông
dân, hợp tác ở những khâu nào có lợi nhất cho phát triển sản xuất.
- Cơ sở kinh tế cǎn bản nhất của nông dân là quyền làm chủ sử dụng ruộng
đất. Trong tập thể hoá, chúng ta đã xoá bỏ ngay từ đầu cơ sở kinh tế này Song,
trên thực tế là do nhận thức đơn giản, giáo điều, duy ý chí về chế độ kinh tế xã
hội chủ nghĩa. Cụ thể là: quan niệm thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội chỉ tồn
tại hai hình thức sở hữu: toàn dân và tập thể, và sau này đồng nghĩa với sở hữu
nhà nƣớc, từ đó đã nóng vội muốn nhanh chóng xoá bỏ các loại hình sở hữu

khác, coi đó là điều kiện tiên quyết để xây dựng chế độ kinh tế mới trong khi
chƣa có đủ các tiền đề cần thiết.
- Do phân phối bình quân, lợi ích kinh tế của nông dân bị vi phạm đã dẫn
đến thủ tiêu động lực sản xuất của ngƣời lao động.
- Hoạt động "quản lý là khâu yếu kém nhất, ruộng đất đƣợc tập thể hoá
nhƣng sử dụng không có kế hoạch, dẫn đến cày sâu cấy muộn, bỏ sót ruộng, nǎng
suất và sản lƣợng thấp. Cán bộ quản lý thiếu nǎng lực do trình độ vǎn hoá thấp,
không đủ kinh nghiệm quản lý sản xuất, từ đó dẫn đến hiệu quả kinh tế giảm sút,
không hơn sản xuất cá thể".
Tóm lại, từ năm 1946, sau khi giành đƣợc độc lập cho đến trƣớc năm 1975,
đất nƣớc ta tuy trải qua nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau, nhƣng luôn tồn tại sự
đa dạng về các hình thức sở hữu và chế độ sử dụng đất trong đó sở hữu tƣ nhân
về đất đai chiếm một vị trí hết sức quan trọng trong nền kinh tế đất nƣớc.
7. Chính sách ruộng đất ở Miền Nam Việt Nam thời kỳ từ 1954 - 1975
Thời chúa Nguyễn và nhà Tây Sơn, Miền Nam Việt Nam đƣợc gọi là xứ
Gia Định (Gia Định thành) và đƣợc khai khẩn từ thế kỷ 17. Năm 1698, xứ Gia
19


Định đƣợc chia thành 3 dinh: Phiên Trấn, Trấn Biên và Long Hồ. Năm 1859,
Pháp đánh chiếm thành Gia Định, mở đầu cuộc xâm lƣợc đất Việt Nam.
Sau khi chiếm đƣợc Nam Kỳ, thực dân Pháp xóa bỏ cách phân chia địa
giới hành chính cũ của triều Nguyễn. Năm 1876, Pháp chia Nam Kỳ thành 4 khu
vực hành chính lớn, mỗi khu vực lại đƣợc chia nhỏ thành các "hạt" (còn gọi là
địa hạt, "hạt tham biện" hay "tiểu khu", do tham biện cai trị).
Năm 1887, Nam Kỳ trở thành một vùng lãnh thổ nằm trong Liên bang
Đông Dƣơng. Năm 1933, quần đảo Trƣờng Sa sát nhập vào Nam Kỳ thuộc Pháp.
Tháng 3 năm 1945 Thống sứ Nhật Nashimura đổi Nam Kỳ thành Nam Bộ.
Năm 1945, Chính phủ Trần Trọng Kim tuyên bố sáp nhập Nam Kỳ thành
một bộ phận của nƣớc Việt Nam độc lập. Sau khi Cách mạng tháng Tám nổ ra,

Ủy ban Hành chính Lâm thời Nam Bộ đã ra mắt ngày 25 tháng 8 năm 1945 do
Trần Văn Giàu làm Chủ tịch.
Tính đến thập niên 1950 thì tình hình sở hữu ruộng đất ở Miền Nam có
nhiều chênh lệch: 2,5% đại điền chủ sở hữu 45% tổng số ruộng trong khi 73%
tiểu điền chủ chia nhau 15%4.
Thời kỳ từ năm 1954 đến 1975 sau Hiệp định Genève ở Miền Nam tồn tại
2 chính sách ruộng đất: Chính sách ruộng đất của Chính phủ Lâm thời Cộng hoà
Miền Nam Việt Nam và chính sách ruộng đất của Mỹ - Nguỵ.
- Nội dung chính sách ruộng đất của Chính phủ lâm thời Cộng hoà Miền
Nam là đấu tranh giành độc lập dân tộc và ruộng đất về tay ngƣời cày. Song do
chiến tranh kéo dài, chính sách này chỉ đƣợc thực hiện ở những vùng giải phóng.
- Nội dung chính sách ruộng đất của Chính quyền Mỹ - Nguỵ là “cải cách
điền địa” với 2 giai đoạn khác nhau: Chính sách “Cải cách điền địa” đƣợc thực
hiện từ năm 1954 đến cuối những năm 1960 và “Luật ngƣời cày có ruộng” đƣợc
thực hiện từ năm 1970 đến năm 1975.

4

. Lê Xuân Khoa: Việt Nam 1945-1995, Tập I. Bethesda, MD: Tiên Rồng, 2004. Trang 444.

20


* Chính sách “ Cải cách điền địa” của chính quyền Ngô Đình Diệm.
Trong tuyên bố của Mỹ về các mục tiêu ở Đông Nam Á năm 1952, Mỹ đã
tuyên bố giúp đỡ giúp đỡ chính quyền Nguỵ thực hiện “cải cách điền địa”. Tháng
12-1952 thực dân pháp và chính phủ bù nhìn Bảo Đại đã thành lập Uỷ ban cải
cách điền địa. Ngày 4/6/1953 chính quyền này đã công bố chính sách : “Cải cách
điền địa”. Nội dung cải cách điền địa của Ngô Đình Diệm chủ yếu trong ba Đạo
Dụ:

Trong đó, Dụ số 2 (8/1/1955) và số 7 (5/2/1955) buộc nông dân lập khế
ƣớc tá điền:
- Loại A (thời hạn 5 năm, tăng tô 15% - 20%);
- Loại B (đối với ruộng hoang có chủ);
- Loại C (đối với ruộng hoang vắng chủ có công).
Tuy nhiên, chính sách “Cải cách điền địa” của chính phủ Bảo Đại vừa mới
thực hiện đã bị dập xuống trƣớc thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta tại Điện Biên
Phủ. Sau khi Pháp thất bại ở Đông Dƣơng, Mỹ thế chân vào Miền Nam Việt
Nam đồng thời thực hiện âm mƣu áp đặt chủ nghĩa thực dân mới tại đó.
Để đối phó với phong trào cách mạng ở miền Nam Việt Nam, Mỹ - Diệm
luôn coi trọng vấn đề nông thôn và nông dân, họ cho rằng “Cứu nông thôn là cứu
chế độ”, “ Xã ấp còn, quốc gia còn, xã ấp mất là quốc gia mất” Bởi vậy chính
sách ruộng đất giữ vai trò chiến lƣợc. Tháng 10 năm 1956 Tổng thống “Cộng hoà
Việt Nam” ban hành đạo dụ 57 về cải cách điền địa, nhằm mục đích cải tiến lại
chế độ sở hữu và sử dụng đất đã có thời pháp thuộc.
Dụ số 57 (20/10/1956) quy định việc truất hữu địa chủ. Mỗi địa chủ chỉ
đƣợc giữ lại 100 ha ruộng đất và 15 hecta ruộng hƣơng hỏa. Ruộng bị truất hữu
sẽ đƣợc đem bán lại cho những ngƣời thiếu ruộng mỗi hộ không quá 5 ha, ngƣời
mua sẽ trả tiền trong 6 năm. Trong thời gian đó ruộng đất vẫn thuộc quyền sở
hữu của chính quyền. Trong vòng 10 năm đất không đƣợc cho mƣớn hay đem
bán lại. Địa chủ sẽ đƣợc bồi thƣờng 10% tiền mặt, số còn lại đƣợc trả bằng trái
phiếu trong 12 năm, mỗi năm lời 5%.
21


Đến năm 1958, Ngô Đình Diệm đã khôi phục đƣợc kiểu sở hữu đất tại
đồng bằng Nam Bộ về lại nhƣ thời trƣớc chiến tranh khi 2% chủ đất sở hữu 45%
đất đai và khoảng một nửa số ngƣời cày không có ruộng.
Ngày 30 tháng 6 năm 1959, chủ yếu ở đồng bằng sông Cửu Long số khế
ƣớc tá điền lập đƣợc đã lên tới 774.286 ha (Loại A: 576.856 ha, loại B và C:

197.530 ha), liên quan tới khoảng ¾ số tá điền5.
Tính chung cả Miền Nam, theo Bộ Điền Thổ và cải cách điền địa cho biết
đến hết ngày 15 tháng 5 năm 1960 đã đo đạc xong 424.081 ha và bán lại cho
123.979 nông dân không có ruộng. So với 1 triệu hộ tá điền ở đồng bằng sông
Cửu Long thì dụ 57 về cơ bản không ảnh hƣởng bao nhiêu 6.
*Luật người cày có ruộng của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu.
Cuộc tổng tấn công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968 buộc Mỹ phải xuống
thang và chuyển sang chiến lƣợc "Việt Nam hóa chiến tranh". Vì một vùng nông
thôn rộng lớn đã ở dƣới quyền kiểm soát của Mặt trận giải phóng miền Nam nên
Mỹ và Việt Nam Cộng hòa càng chú ý đến việc giành lại đất đai ở nông thôn.
Ngày 6/3/1970 Quốc hội Việt Nam Cộng hòa đã thông qua đạo luật người cày có
ruộng và ngày 26 tháng 3 năm 1970 và đƣợc Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ký
tại Cần Thơ theo lệnh số 003/60 ban hành Luật "Ngƣời Cày Có Ruộng"..
Về cơ bản, chính sách của Nguyễn Văn Thiệu cùng theo đuổi mục đích
nhƣ thời Ngô Đình Diệm có điều khác là hạn điền của mỗi địa chủ bị hạ thấp
xuống nhiều lần so với cải cách của Ngô Đình Diệm. Cụ thể, Luật quy định
ruộng đất không trực canh (không canh tác) đƣơng nhiên bị truất hữu và phải
đƣợc bồi thƣờng thỏa đáng theo thời giá và Chính phủ phát hành công khố phiếu
để chi trả những khoản này. Ruộng đất truất hữu đƣợc ƣu tiên cấp phát miễn phí
cho tá điền (3 mẫu ở Nam phần và 1 mẫu ở Cao Nguyên và Trung phần). Điền

5

6

. Nguồn: Wikipedia.org: Cải cách điền địa tại Việt Nam.
. Tạp chí Chấn hưng Kinh tế, số 173 ngày 16/6/1960.

22



chủ trực canh chỉ đƣợc giữ tối đa 15 mẫu. Tuy nhiên, Luật "Ngƣời Cày Có
Ruộng" không đƣợc phép áp dụng đối với ruộng đất của các tổ chức tôn giáo và
ruộng đất hƣơng hỏa gia đình của ngƣời dân. Mục tiêu của việc cải cách này là
cấp miễn phí 1,5 triệu hecta ruộng lúa cho 80 vạn hộ nông dân, đồng thời cấp
giấy chứng nhận sở hữu ruộng đất cho nông dân.
Ngoài ra chính sách ruộng đất còn có ba điểm mới:
- Địa chủ không có quyền bắt tá điền nộp địa tô thuộc những năm trƣớc.
- Nông dân lãnh ruộng do chính quyền vùng giải phóng cấp cũng đƣợc
miễn thuế trong một thời gian.
- Nông dân lãnh ruộng do chính quyền vùng giải phóng sẽ đƣợc nhận bằng
khoán để chính thức sở hữu số ruộng đó. Tính đến năm 1973 thì hơn một triệu
mẫu ruộng đã đƣợc chuyển sang quyền sở hữu của hơn 850.000 tá điền.
Kết quả chƣơng trình "Ngƣời Cày Có Ruộng" theo số liệu của Tổng nha
Điền Địa (tính đến ngày 15/7/1974)7:
- Toàn miền Nam cấp phát = 1.290.949 ha ;
- Đồng bằng sông Cửu Long = 1.154.371 ha (ruộng tƣ 1.099.382 ha; ruộng
công 54.989 ha) ;
- Chứng thƣ cấp đất = 693.258 chứng thƣ ;
- Số tiền bồi thƣờng = 151 tỷ đồng (số liệu 26/4/1974)
Tóm lại, ba năm sau khi triển khai chƣơng trình Luật ngƣời cày có ruộng,
tổng cộng có 75 vạn hộ gia đình, gồm khoảng 5 triệu ngƣời, đã đƣợc cấp đất 8.
Theo ông Nguyễn Tiến Hƣng trong sách Khi đồng minh tháo chạy: "Nhiều quan
sát viên quốc tế đã cho chƣơng trình "Ngƣời Cày Có Ruộng" là một trong những
chƣơng trình cải cách điền địa thành công nhất ở các nƣớc hậu tiến. Nó là điểm
vàng son của nền Đệ nhị Cộng hòa" 9. Chƣơng trình này đã tạo ra một tầng lớp
7

. Tài liệu đƣợc lƣu ở Khoa Sử, Viện Khoa Học Xã Hội, Thành phố Hồ Chí Minh
. Đặng Phong (2004), Kinh tế Miền Nam Việt nam thời kỳ 1955 - 1975, Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội, tháng 12 năm 2004.
8

9

. Nguyễn Tiến Hƣng, Khi đồng minh tháo chạy, phần 2 chƣơng 5, dẫn tại Xuất & Nhập khẩu Gạo

trƣớc 1975.

23


tiểu nông đông đảo, thúc đẩy kinh tế hàng hóa trong nông nghiệp phát triển.
Nông dân hăng hái sản xuất và năng suất lao động trong sản xuất lúa gạo tăng lên
nhanh chóng. Đời sống của nông dân đƣợc cải thiện.
II. PHÁP LUẬT ĐẤT ĐAI CỦA NHÀ NƢỚC VIỆT NAM TỪ NĂM
1975 ĐẾN NĂM 2003
Sau giải phóng (1975), Đảng và Nhà nƣớc chủ trƣơng "xác lập quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa thồng nhất trong cả nước dưới hai hình thức sở hữu toàn
dân và tập thể để phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất lớn" .
Về vấn đề ruộng đất, Đảng và Nhà nƣớc chủ trƣơng triệt để xoá bỏ tàn dƣ
bóc lột ruộng đất của địa chủ, phong kiến, tịch thu ruộng đất của bọn phản động
có nợ máu chia cho nông dân không ruộng và thiếu ruộng; điều chỉnh ruộng đất
trong nội bộ nông dân gắn với cải tạo nông nghiệp theo hình thức hợp tác xã; tập
thể hoá triệt để ruộng đất và các tƣ liệu sản xuất của nông dân. Kết quả thực hiện
chủ trƣơng trên đã đƣa lại ở các vùng không giống nhau:
- Ở các tỉnh duyên hải miền Trung, đến cuối nǎm 1975 đã thu hồi 125.527
hécta ruộng đất chia cho 2 triệu nông dân. Mức chênh lệch ruộng đất giữa các hộ
không đáng kể. Vì vậy, tạo thuận lợi cho quá trình điều chỉnh ruộng đất và tập
thể hoá.

- Ở Tây Nguyên, ruộng đất chủ yếu là quốc gia công thổ và đồn điền. Việc
tịch thu đất đai và quốc hữu hoá đồn điền từ tay giai cấp tƣ sản khá thuận lợi. Sau
khi chuyển các đồn điền cây công nghiệp thành nông trƣờng quốc doanh, còn lại
một số ruộng đƣợc chia cấp tập thể, lập các hợp tác xã và tập đoàn sản xuất.
- Ở Nam Bộ, trƣớc hết, là tịch thu ruộng đất của địa chủ, việt gian phản
động chia cho nông dân. Vấn đề mới đặt ra là ruộng đất tịch thu đƣợc của địa chủ
còn lại không nhiều trong khi gần hai triệu ngƣời, vốn đang hoạt động trong các
lĩnh vực công thƣơng nghiệp (phi nông nghiệp) đƣợc coi là đối tƣợng cải tạo
công thƣơng nghiệp phải trở về nông thôn, đòi hỏi có ruộng đất canh tác. Để có
ruộng đất cấp cho đối tƣợng này, phải tiến hành điều chỉnh ruộng đất bằng cuộc
vận động "nhƣờng áo sẻ cơm" theo tinh thần Chỉ thị 57 của Bộ Chính trị (tháng
24


1-1978). Thực chất là cắt đất của 10% số hộ trung nông khá giả để chia bình
quân cho ngƣời không có ruộng.
1. Hiến pháp năm 1980.
Hiến pháp năm 1980 đã cáo chung sự đa dạng về các hình thức sở hữu đất
đai ở nƣớc ta và mở ra một giai đoạn mới, giai đoạn mà cả nƣớc đi lên chủ nghĩa
xã hội và “đất đai, rừng núi, sông hồ đều thuộc sở hữu toàn dân” (Điều 19 Hiến
pháp 1980).
Trên cơ sở của Hiến pháp năm 1980, Đảng và nhà nƣớc ta đã ban hành
nhiều chủ trƣơng chính sách về quản lý và sử dụng đất. Đó là:
- Chỉ thị 100 của Ban Bí thƣ TW Đảng ngày 13/01/1981 về khoán sản
phẩm trong nông nghiệp.
- Chỉ thị 19 của Ban Bí thƣ TW Đảng ngày 03/05/1983 và thông báo số 44
của Ban Bí thƣ ngày 13/7/1984 về điều chỉnh ruộng đất và cải tạo nông nghiệp
Nam Bộ của Ban Bí thƣ trung ƣơng, tiếp tục điều chỉnh ruộng đất của 40% số hộ
trung nông có ruộng đất cao hơn mức bình quân ở địa phƣơng.
- Nghị quyết 10 của Bộ chính trị ngày 05/8/1988.

- Hội nghị TW khoá VII tháng 03/1989 v.v…
Chỉ thị 100 của Ban Bí thƣ TW Đảng năm 1981 về “cải tiến công tác
khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm và ngƣời lao động trong hợp tác xã
nông nghiệp. Nội dung cơ bản của chỉ thị 100 là giao diện tích ruộng đất cho đội
sản xuất, cho nhóm và ngƣời lao động sử dụng để thực hiện sản lƣợng khoán,
tránh để đồng ruộng bị chia cắt manh mún… Khi diện tích giao khoán cho ngƣời
lao động đƣợc phân bố hợp lý, thì có thể ổn định trong vài ba năm để xã viên yên
tâm thâm canh trên diện tích đó.
Các địa phƣơng ở Miền Bắc, Miền Trung đã nhanh chóng triển khai việc
thực hiện Chỉ thị 100 và sau một thời gian đã phát huy tác dụng nhƣ: phân chia
lại chức nǎng kinh tế giữa tập thể và hộ gia đình cả về quan hệ sở hữu, quan hệ
quản lý và phân phối, mở đầu cho quá trình dân chủ hoá về mặt kinh tế, bằng
việc gắn bó trở lại lao động với ruộng đất, mang lại lợi ích thiết thực cho nông
25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×