Tải bản đầy đủ (.doc) (54 trang)

NGHIÊN cứu THÀNH PHẦN hóa học và một số tác DỤNG SINH học của cây bù dẻ tía UVARIA GRANDIFLORA ROXB EX HORNEM – ANNONACEAE

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 54 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Việt Nam là một quốc gia phong phú về các dạng địa hình và khí hậu, có
nguồn tài nguyên thuận lợi cho sự phát triển của ngành công nghiệp sản xuất
thuốc từ dược liệu. Theo thống kê, Việt Nam có mức độ đa dạng sinh học cao
thứ 16 trên thế giới về các loài động, thực vật và vi sinh vật. Trong 13.894
loài thực vật, có 3948 loài được sử dụng làm thuốc [3]. Phần lớn các loài
được sử dụng theo kinh nghiệm (truyền khẩu) trong nhân dân và được lưu giữ
lại từ nhiều đời. Hơn nữa, cộng đồng các dân tộc Việt Nam vốn có nhiều kinh
nghiệm độc đáo trong việc sử dụng cây cỏ làm thuốc. Tuy nhiên, hiện nay số
loài được đưa vào để chiết xuất hợp chất làm thuốc còn rất hạn chế [17]. Do
vậy, nghiên cứu những cây thuốc mới dựa trên tri thức bản địa đang là một
hướng đi đầy tiềm năng, đóng góp vào việc tạo nguồn dược liệu tương lai
hướng đến giải quyết các vấn đề sức khỏe và bệnh tật.
Theo kết quả sàng lọc hoạt tính diệt tế bào ung thư một số cây thuốc của
đồng bào Pako, Vân Kiều ở Quảng Trị mà chúng tôi đã khảo sát, 10 cây thuốc
chữa bệnh liên quan đến tác dụng chống khối u đã được đưa vào sàng lọc hoạt
tính gây độc tế bào invitro. Trong đó Bù dẻ tía (Uvaria grandiflora Roxb. ex
Hornem – Annonaceae) đã thể hiện hoạt tính ức chế sự phát triển các tế bào
ung thư tốt nhất, tác dụng mạnh và hướng đích trên cả 6 dòng tế bào ung thư
thử nghiệm [9]. Tuy nhiên, cho đến nay ở Việt Nam chưa có nhiều nghiên cứu
về thành phần hóa học và tác dụng sinh học của loài này. Làm sáng tỏ thành
phần hóa học và tác dụng sinh học của cây Bù dẻ tía để chứng minh kinh
nghiệm sử dụng của người dân là cần thiết. Đó chính là cơ sở khoa học cho
việc thực hiện đề tài: “ Nghiên cứu thành phần hóa học và một số tác dụng
sinh học của cây Bù dẻ tía (Uvaria grandiflora Roxb. ex Hornem –
Annonaceae)”. Đề tài được thực hiện với hai mục tiêu:
1


1. Nghiên cứu thành phần hóa học của cây Bù dẻ tía theo định hướng
tác dụng sinh học ức chế tế bào ung thư.


2. Thử độc tính cấp của dịch chiết toàn phần từ dược liệu và xác định
hoạt tính ức chế tế bào ung thư của các phân đoạn và các hợp chất phân lập
được.

2


Chương 1

TỔNG QUAN
1.1. Tổng quan về cây Bù dẻ tía (Uvaria grandiflora Roxb. ex Hornem)
1.1.1. Vị trí phân loại [4]
Bù dẻ tía - Uvaria grandiflora Roxb. ex Hornem (tên đồng nghĩa:
Unona grandiflora DC.; U. platypetala Champ. ex Benth.) thuộc chi Bù dẻ
(Uvaria), họ Na (Annonaceae), bộ Na (Annonales), phân lớp Ngọc lan
(Magnoliidae),

lớp

Ngọc

lan

(Magnoliopsida),

ngành

Ngọc

lan


(Magnoliophyta).
1.1.2. Vài nét về họ Na (Annonaceae)
Trong hệ thực vật Việt Nam, họ Na là một trong số rất ít họ được nghiên
cứu khá hoàn hảo về mặt phân loại. Đây cũng là một họ có số chi và loài
phong phú, đa dạng và phân bố rộng khắp ở hầu hết các địa phương trên đất
nước ta [10], [12]. Ở họ Na chúng ta có thể gặp hầu như tất cả các dạng
sống chủ yếu, chỉ trừ các cây thân cỏ và các dạng sống phụ sinh hay ký
sinh. Trong số các cây mọc đứng, thường gặp những cây bụi hoặc cây gỗ
nhỏ, hiếm khi gặp cây bụi rất nhỏ hoặc những cây gỗ lớn [1].
Lá của các cây thuộc họ Na thường không có lá kèm, mọc cách, đơn, mép
lá nguyên, gân lông chim. Gân chính nổi rõ ở mặt dưới và thường lõm ở mặt
trên. Ở các chi Artabotrys, Cyathocalyx, Stelechocerpus… gân chính lồi rõ cả 2
mặt. Gân bên (gân thứ cấp hoặc gân cấp II) thường rõ ở mặt dưới, chúng có thể
song song hoặc cong hình cung. Lá có lông hình sao (nhất là trong giai đoạn
non) gặp ở đại diện thuộc các chi Anomianthus, Cyathostemma, Ellipeiopsis,
Melodorum, Neouvaria, Uvaria…[1].
Hoa thường mọc riêng lẻ ở ngọn hay nách lá, kiểu vòng xoắn, đều, lưỡng
tính, ít khi đơn tính. Đế hoa lồi. Bao hoa thường gồm 3 vòng, mỗi vòng có 3
bộ phận, vòng ngoài là lá đài, 2 vòng trong là cánh hoa. Đài có thể rời hay
3


dính. Cánh hoa to, dày và mềm, đôi khi hoa chỉ có 3 cánh. Ô phấn hẹp, mở
bằng một đường nứt dọc, hướng ngoài. Bộ nhụy gồm nhiều lá noãn rời xếp
khít nhau, nhưng đôi khi giảm còn 3 hoặc 1 lá noãn. Vòi nhụy ngắn. Bộ nhị
gồm nhiều nhị rời xếp theo một đường xoắn ốc. Chỉ nhị rất ngắn. Trong họ
Annonaceae có 2 kiểu nhị chính [4]:
+ Kiểu Uvarioid: Trung đới khá dày và dài vượt quá bao phấn để tạo
thành mào trung đới.

+ Kiểu Milliusoid: Trung đới mỏng và hẹp, làm cho bao phấn lồi lên so
với trung đới.
Quả thường theo 2 kiểu [4]:
+ Kiểu Annona: Quả tụ, mỗi lá noãn cho một quả mọng riêng biệt và tất
cả các quả này dính vào nhau.
+ Kiểu Cananga: Mỗi lá noãn cho một quả mọng có cuống và mỗi hoa
cho một chùm quả mọng. Mỗi quả mọng mang 2 hàng hạt. Ở cây Gié nam
(Unona cochinchinensis Lour.), mỗi lá noãn cho ra một chuỗi hạt thắt lại
thành nhiều khúc, mỗi khúc đựng một hạt.
Hạt có vỏ cứng, láng. Nội nhũ to, xếp nếp [4].
Ở Việt Nam, họ Annonaceae có 29 chi, bao gồm: Alphonsea,
Anaxagorea, Annona, Anomianthus, Artabotrys, Cananga (Canangium),
Cyathocalyx,

Cyathostemma,

Dasymaschalon,

Desmos

(Unona),

Drepananthus, Enicosanthella, Enicosanthum, Fissistigma, Friesodielsia
(Oxymitra),

Goniothalamus

(Rauwenhoffia),
Phaeanthus,


Miliusa

Polyalthia,

(Becariodendron),

Meiogyne,

Melodorum

(Saccopetalum),Mitrella,Mitrephora,Orophea,
Popowia,

Pseuduvaria,

Sageraea,

Uvaria

(Uvariella) và Xylopia với gần 179 loài [4].
1.1.3. Đặc điểm thực vật và phân bố chi Bù dẻ (Uvaria L.)
1.1.3.1. Đặc điểm thực vật
Phần lớn các loài trong chi Uvaria là dây leo thân gỗ hay bụi trườn. Phần
non của cây có lông hình sao. Lá thường có gân bên khá rõ ở mặt dưới. Trong
4


các tế bào biểu bì lá có tinh thể hợp thành khối nhỏ. Hoa lưỡng tính, thường
đối diện với lá, mọc đơn độc hoặc hợp thành cụm hoa dạng xim. Lá đài 3, xếp
van, thường hợp ở gốc thành đấu. Cánh hoa thường 6, phần lớn rời nhau, xếp

lợp thành 2 vòng, rất ít khi cánh hoa 9 và xếp thành 3 vòng. Các cánh hoa xòe
ra khi hoa nở và gần giống nhau về hình dạng và kích thước. Nhị nhiều, có
trung đới dày (dạng Uvarioid), mào trung đới hình đĩa hay gần hình cầu (lớn
hơn bao phấn) hoặc hình lưỡi nhỏ (hẹp hơn bao phấn). Bao phấn hướng
ngoài. Hạt phấn từ trung bình đến lớn (cỡ 40 - 80 µm), gần hình cầu, đơn độc,
thường đối xứng tỏa tròn hoặc đối xứng 2 bên, vỏ ngoài lồi lõm. Lá noãn
nhiều, không có vòi. Núm nhụy hình móng ngựa. Noãn thường nhiều (5 - 30),
đính thành 2 hàng dọc theo đường nối bụng. Phân quả dạng mọng, thường có
cuống rõ, đôi khi cuống rất dài [1].
Năm 1999, Phạm Hoàng Hộ [10] đã miêu tả 15 loài thuộc chi Uvaria có
mặt ở Việt Nam, bao gồm:
















Uvaria boniana Fin. & Gagn. (Bồ quả Bon)
Uvaria calamistrata Hance. (Bồ quả nhãn, Bồ quả men)
Uvaria cordata (Dun.) Wall. ex Alston (Bồ quả lá to)

Uvaria dac Pierre ex Fin. & Gagn. (Bồ quả Đac)
Uvaria fauveliana Pierre ex Ast. (Bồ quả Ast)
Uvaria grandiflora Roxb. ex Hornem (Bù dẻ tía)
Uvaria flexuosa Ast. (Bồ quả cong quẹo)
Uvaria hamiltonii Hook.f. & Thoms. (Bồ quả Hamilton)
Uvaria lurida Hook.f. & Thoms. (Bồ quả tái)
Uvaria micrantha Hook.f. & Thoms. (Bồ quả bông nhỏ)
Uvaria microcarpa Champ. ex Benth. & Hook.f. (Bồ quả trái nhỏ)
Uvaria pachychila Merr. (Bồ quả phiến dày)
Uvaria plagioneuron Diels (Bồ quả Petelot)
Uvaria pierrei Fin. & Gagn. (Bồ quả Pierre)
Uvaria rufa BI. (Bồ quả hoe)
Sau đó vào năm 2000, Nguyễn Tiến Bân [1] đã miêu tả 17 loài thuộc chi
Uvaria có mặt ở Việt Nam, bao gồm 15 loài mà Phạm Hoàng Hộ đã mô tả và
thêm 2 loài là Uvaria sphenocarpa Hook.f. & Thoms (Bù dẻ gai) và Uvaria

5


varaigneana Pierre ex Fin. & Gagnep (Bù dẻ varaigne).
1.1.3.2. Phân bố
Chi Bù dẻ (Uvaria L.) phân bố rộng rãi ở các vùng nhiệt đới châu Á,
châu Đại Dương, châu Phi và châu Mỹ [49]. Ở Việt Nam, chi Uvaria phân bố
khắp cả nước [1].
1.1.4. Đặc điểm thực vật cây Bù dẻ tía (Uvaria grandiflora Roxb. ex
Hornem)
Bù dẻ tía là cây dây leo thân gỗ, dài 8 - 10 m. Cành non có lông tơ màu
vàng nâu. Lá lúc non đầy lông vàng, lúc già đổi màu nâu và có màu ôliu lúc
khô. Chóp lá có mũi ngắn, gốc tròn, hoặc hơi hình tim. Mặt trên của lá nhẵn,
mặt dưới có lông rậm. Gân bên khoảng 13 - 20 đôi, rõ ở mặt dưới. Cuống lá

dài 4 - 5 mm. Hoa thường mọc đơn độc, cuống hoa dài 1 - 2 cm, có 2 lá bắc
dạng lá lớn. Đài bao kín nụ hoa, lá đài mỏng, hình trái xoan hay hình tròn,
đường kính khoảng 2 cm, mặt ngoài có lông ngắn. Cánh hoa rời, màu đỏ tía,
hình trái xoan, cả 2 mặt đều có lông. Nhị dài 6 - 7 mm, đôi khi có lông ở mép
bao phấn, mào trung đới hình lưỡi, rất nhỏ. Đế hoa lồi hình bán cầu, đôi khi
hơi lõm ở đỉnh. Phân quả hình trụ, dài 4 - 6 cm, rộng 1 - 1,5 cm, có lông tơ
màu vàng nâu. Cuống phân quả dài 1 - 2 cm, vỏ quả dày. Quả có eo cạn, hạt
nhiều, xếp theo 2 hàng, xen ke. Hạt màu vàng hơi nâu, nhẵn. Cây ra hoa vào
tháng 4 - 6, có quả tháng 8 – 9 hàng năm [1], [10].
1.1.5. Phân bố sinh thái của Bù dẻ tía [1]
Bù dẻ tía mọc rải rác trong rừng thứ sinh, ở độ cao dưới 300 m, phân bố
tự nhiên ở Thanh Hóa, Quảng Bình (Bố Trạch, Ba Rền), Quảng Trị, Thừa
Thiên-Huế (Phú Lộc, Sông Hai Nhánh), Đà Nẵng, Quảng Nam (Cù Lao
Chàm), Khánh Hòa (Hòn Tre) và Đồng Nai (Biên Hòa).
Ngoài ra, cây còn phân bố ở Ấn Độ (Calcutta), Mianma, Trung Quốc
(Quảng Tây, Hồng Kông, Hải Nam), Xrilanka, Malaysia và Indonesia (Java).
1.2. Thành phần hóa học chi Uvaria và cây Bù dẻ tía

6


1.2.1. Thành phần hóa học chi Uvaria
Các nghiên cứu về thành phần hóa học của chi Uvaria đã phát triển trong
2 thập kỷ qua, nghiên cứu đầu tiên được công bố vào năm 1968. Từ đó đến nay,
các nghiên cứu về chi này liên tục phát triển. Sự có mặt các nhóm chất chính
như alcaloid, flavonoid và dẫn xuất của cyclohexen trong chi Uvaria được trình
bày ở bảng 1.1.
Bảng 1.1. Các nhóm chất alcaloid, flavonoid,
dẫn xuất của cyclohexen trong chi Uvaria
Nhóm

chất

Alcaloid

Flavonoid

Hoạt chất

Có trong loài

Aristololactam A II
Armepavine
Nantenine
Chondrofolin
Crotsparine
Enterocarpam I, II
Uvariadiamide
Uvarindole A, B, C, D
Angoletin
Angoluvarin
Anguvetin
Uvangoletin
Chamuvaritin
Diuvaretin
Flavokawin B
Isoschefflerin
Schefflerin
Chamanetin-5-methylether
Demethoxymatteucinol
2’- hydroxymatteucinol


TLTK

U. microcarpa

[52]

U. chamae

[32]

U. ovata
U. klaineana
U. kweichowensis
U. kweichowensis
U. angolensis

[48]
[45]
[50]
[51]
[22]

U. angolensis

[22],
[31]

U. chamae, U. angolensis,
U.lucida

U. angolensis
U. scheffleri

[22]
[31]
[41]

U. angolensis
[22]
U. afzelii

Uvafzelin
Vafzelin
2,5-dihydroxy-7methoxyflavanon
Isouvaretin

U. rufa
U. chamae, U. angolensis, U.
leptocladon

7


U. accuminata, U. chamae, U.
kirkii, U. angolensis, U. lucida, U.
leptocladon

Uvaretin

Dẫn xuất của

cyclohexen

1,6- desoxysenepoxid
Ferrudiol
Isoschefflerin
1- epizeylenol
Kweichowenol A, B
Kweichowenol C, D
Pipoxid
Senepoxid
Tingtanoxid
Zeylenol
Uvarirufone A
Uvarirufol A, B, C

U. ferruginea

[22]

U. zeylanica

[33]

U. kweichowensis

[51]

U. catocarpa, U. ferruginea
U. grandiflora
U. ferruginea

U. grandiflora, U. zeylanica

[22]

U. rufa

[26]

Như vậy có thể thấy rất nhiều hợp chất thuộc các nhóm này đã được
phân lập từ các loài thuộc chi Uvaria. Ngoài ra ở chi Uvaria còn có các nhóm
chất như acetogenin, steroid, terpenoid, dẫn chất của lacton và một số nhóm
chất có cấu trúc khác.
 Nhóm Acetogenin
Acetogenin là dãy các hợp chất thiên nhiên C-35/C-37 đi từ các acid
béo C-32/C-34 kết hợp với một đơn vị propan-2-ol. Chúng được đặc trưng
bằng mạch hydrocacbon no dài gắn với một vòng methyl-α, β- không no-γ
lacton ở cuối mạch. Ngoài ra, còn có 1, 2 hoặc 3 vòng tetrahydrofuran phân
bố dọc theo mạch hydrocacbon và một số nhóm chứa oxy như hydroxy,
acetyl, ceton, epoxy hoặc các liên kết bội. Lớp chất này đặc trưng cho họ
Annonaceae và được xem là một trong những lớp chất tự nhiên phát triển
nhanh nhất hiện nay [47].
Các hợp chất Acetogenin được tìm thấy ở một số loài thuộc chi Uvaria
như U. calamistrata, U. chamae, U. tonkinensis…Ví dụ: Từ loài U.
calamistrata người ta đã tách được hợp chất Calamistrin A; từ loài U. chamae
đã

phân

lập


được

Chamuvarinin,

8

Tripoxyrollin,

Diepoxyrollin,


Dieporeticanin-1, Dieporeticanin-2 và Dieporeticenin [27], [28]; từ loài U.
tonkinensis đã phân lập được Tonkinelin [23]; từ loài U. narum đã tách được
2 hợp chất Squamocin-28-on và Panalicin [30].
 Nhóm steroid
Các dẫn xuất oxy hóa khung steroid cũng được tìm thấy ở một số loài
thuộc chi Uvaria. Chẳng hạn như từ loài U. kurzii đã phân lập được Betaacetylsitosterol,

Stigmasterol



Stigmasterol

hexadecanoate;

từ

U.microcarpa đã phân lập được Daucosterol, Beta-daucosterol, Betasitosterol và Stigmasterol-3-O-beta-D-glucopyranoside. Bên cạnh đó,
Stigmasterol và 6b-hydroxystigmasta-4,22-dien-3-one cũng đã được phân lập

từ loài U. hamiltonii [34], [52], [66].
 Nhóm terpenoid
Các chất có khung terpenoid được phát hiện ở một số ít loài thuộc chi
Uvaria, ví dụ: hợp chất Tanzanene được phân lập từ rễ của loài U. tanzaniae;
hợp chất Uvariasesquiterpene A, B, C được phân lập từ phần trên mặt đất loài
U. angolensis [22].
 Dẫn chất của lacton
Một số dẫn chất của lacton như Squamocin được phân lập từ U. narum
[30], Desacetyluvaricin và Uvaricin được phân lập từ U. accuminata [22].
 Nhóm chất có cấu trúc khác
Ngoài những nhóm hợp chất đã nêu trên, một số hợp chất có cấu trúc
khác cũng được tách từ các loài thuộc chi Uvaria. Ví dụ: Emorydone, Acid
uvafzelic và Acid syncarpic được phân lập từ U. afzelii; hợp chất Zeylena
được phân lập từ U. zeylanica; hai hợp chất Syncarpurea và 7-methyl juglone
được phân lập từ U. kirkii [22].
1.2.2. Thành phần hóa học của cây Bù dẻ tía

9


 Trên thế giới
Nghiên cứu định tính sơ bộ về thành phần hóa học của lá và vỏ thân
Uvaria grandiflora cho thấy sự có mặt của alcaloid, flavonoid và steroid
trong dịch chiết [42].
Căn cứ vào các tài liệu thu thập được, thành phần hóa học của Bù dẻ tía
được tóm tắt ở bảng 1.2.
Bảng 1.2. Thành phần hóa học của cây Bù dẻ tía
Nhóm chất

Tên chất


Bộ

Nơi thu

phận

hái

TLTK

2-methoxybenzyl benzoat
Benzyl benzoat
Benzyl-2-hydroxybenzoat
Benzyl-2-methoxybenzoat
Benzyl-2,6-dihydroxybenzoat
Dẫn chất
thơm

Rễ

Benzyl-2-hydroxy-6-methoxy benzoat

Thái
Lan

[36]

Benzyl-2,6-dimethoxybenzoat
Benzyl-2-hydroxy-5-methoxy benzoat

Benzyl-2,5-dimethoxybenzoat
Grandiuvarone A
Grandiuvarin A

Vỏ

Grandiuvarin B

thân

Nigeria

[54]

Trung
Quốc

[56]

Grandiuvarin C

Dẫn chất
Polyoxygenated
cyclohexen

2-acetoxyzeylenon
6-methoxyzeylenol
Zeylenol
Zeylenon
1-epizeylenol

Uvarigranol G
Uvarigranol H
Uvarigranol I
2-zeylenyl 2,6-diacetat

Lõi gỗ
Rễ

10

Trung
Quốc

[46]


Grandifloron
Grandifloracin
Zeylenon
2-O-acetyl-6-O-methylzeylenol
2-O-benzoyl-3-O-debenzoylzeylenon
3-O-debenzoylzeylenon
3-O-debenzoylgrandifloron

Thân,


Pipoxid
Uvarigranol C
Uvarigranol D

Nhóm chất
Acetogenin
Triterpen

Suberosol
Lupeol

[37]



Trung
Quốc

[56]

Rễ

Thái
Lan

[22]

Rễ

Uvarigrin
Uvarigrandin A

Trung
Quốc


Trung
Quốc

[46]

Rễ

Trung
Quốc

[47]

Phần
trên
mặt đất

Trung
Quốc

[65]

Qua bảng 1.2., có thể thấy thành phần hóa học của cây Bù dẻ tía gồm các
dẫn chất thơm, dẫn chất Polyoxygenated cyclohexen, dẫn chất triterpen, nhóm
chất Acetogenin. Đặc biệt, trong đó nhóm chất Polyoxygenated cyclohexen có
số lượng hợp chất nhiều đáng kể so với các nhóm đã biết khác.
 Ở Việt Nam
Năm 2010, GS. Nguyễn Xuân Dũng và cộng sự xác định được hàm
lượng tinh dầu trong lá Bù dẻ tía thu hái ở tỉnh Hà Tĩnh là 0,1% theo nguyên
liệu tươi. Hơn 50 hợp chất đã được phân tích từ tinh dầu lá của dược liệu này,

trong đó 33 hợp chất đã được xác định (chiếm 94,2% tổng lượng tinh dầu).
Thành phần chính của tinh dầu gồm Bicyclogermacren (35,7%), βcaryophyllen (13,9%), (Z)-β-ocimen (10,7%) và một số hợp chất hàm lượng ít
hơn bao gồm β-elemen, Germacren D, α-humulen… [6]. Đây là nghiên cứu
về hóa học đầu tiên của loài Bù dẻ tía mọc ở Việt Nam.
1.3. Tác dụng sinh học và công dụng của chi Uvaria

11


1.3.1. Tác dụng sinh học của chi Uvaria
Các nghiên cứu về tác dụng dược lý của chi Uvaria đã cho thấy nhiều
hợp chất được phân lập từ các loài thuộc chi này có một số hoạt tính sinh học
đáng lưu ý như kháng u và ung thư, kháng nấm, kháng khuẩn, ức chế vận
chuyển nucleosid… Dưới đây là một số tác dụng sinh học điển hình.
 Hoạt tính kháng u và ung thư
Hoạt tính kháng u và ung thư là một trong những hoạt tính nổi bật của
các loài thuộc chi Uvaria, đã được nghiên cứu trong nhiều công trình trên thế
giới. Chẳng hạn như dịch chiết ethanol từ vỏ rễ U. chamae có khả năng diệt tế
bào ung thư bạch cầu dòng lympho P-388 ở chuột và diệt tế bào ung thư vòm
họng ở người [52]. Các hợp chất có khung pyrenedion như 2-hydroxy-1,8pyrenedion, 2-methoxy-1,8-pyrenedion từ loài U. lucida có tác dụng ức chế
mạnh dòng tế bào HL-60 (ung thư bạch cầu) với giá trị IC 50 tương ứng là
0,070 và 1,044 g/ml so với chất đối chứng là Etoposide (IC 50 = 0,060 g/ml)
[38]. Theo kết quả của một nhóm nghiên cứu người Trung Quốc, hai dẫn chất
cyclohexen- Kweichowenol A và Kweichowenol B, được phân lập từ lá của
loài U. kweichowensis, đã thể hiện hoạt tính ức chế sự phát triển của tế bào
ung thư biểu mô phế quản [51]. Hợp chất Uvaricin, phân lập được từ rễ loài
U. accumitana, có khả năng diệt tế bào ung thư bạch cầu lympho P-388 ở
chuột [40].
Gần đây, các hợp chất Acetogenin từ họ Annonaceae đã được chứng
minh là chất ức chế hiệu lực với NADH oxydase của màng tế bào ung thư,

dẫn đến sự tự chết của tế bào. Acetogenin còn có tác dụng ức chế các tế bào
ung thư đa kháng [47].
 Hoạt tính kháng khuẩn
Bên cạnh hoạt tính chống khối u, các loài thuộc chi Uvaria cũng thể hiện
hoạt tính kháng khuẩn trên nhiều dòng vi khuẩn khác nhau. Các thử nghiệm
12


invitro đã chứng minh dịch chiết dichloromethan và methanol của một số loài
như U. dependens, U. faulknearae, U. kirkii, U. laptocladon, U. scheffleri, U.
lucida và U. tanzaniae có tác dụng chống lại sự đa kháng thuốc K1 của dòng
Plasmodium falciparum. Trong đó dịch chiết từ thân và vỏ rễ của U. lucida và
vỏ rễ của U. scheffleri có tác dụng mạnh nhất [49]. Dịch chiết của U. afzelii
có tác dụng chống lại các vi khuẩn Gram âm và vi khuẩn kháng acid [12],
[49]. Dịch chiết toàn phần và các phân đoạn từ U. rufa cho thấy tác dụng ức
chế vi khuẩn lao - Mycobacterium tuberculosis H37Rv, hiệu lực ức chế càng
tăng ở những phân đoạn sạch với giá trị MIC lên tới 23 µg/mL [20]. Dịch
chiết rễ cây U. angolensis cũng thể hiện hoạt tính kháng khuẩn và gây độc tế
bào [31].
 Hoạt tính kháng nấm
Nhiều loài thuộc chi Uvaria chứa các alcaloid benzylisoquinolin có hoạt
tính kháng khuẩn, kháng nấm mạnh như các loài U. rufa Blume, U. cordata
(Dun.) Wall. ex Alston [12], [49]. U. elliotiana là một trong những cây thuốc
ở Châu Phi có khả năng tiêu diệt một số loại nấm [49]. Schefflone, một hợp
chất thuộc nhóm Acetogenin được phân lập từ vỏ thân và rễ của loài U.
scheffleri, đã thể hiện khả năng tiêu diệt các loài nấm như Fusarium solani,
Botryodiplodia theobromae, Asperillus niger và Aspergillus flavus [43].
 Hoạt tính chống oxy hóa
Dịch chiết methanol từ rễ và vỏ thân loài U. chamae có tác dụng chống
oxy hóa thông qua khả năng chống lại các tổn thương gan do acetaminophen

gây ra [49]. Trong khi đó, theo một nghiên cứu tại Ấn Độ, dịch chiết methanol
và tinh dầu chiết từ lá của loài U. narum (Dunal) Wall. đã thể hiện hoạt tính
chống oxy hóa mạnh nhờ khả năng thu gọn gốc tự do DPPH [44].
 Hoạt tính ức chế sự tạo thành các sản phẩm glycat hóa protein
(Advanced Glycation End-products - AGEs)
Glycat hóa protein là sự gắn kết của một phân tử glucose với một protein

13


mà không cần enzym. Khi glucose kết hợp với protein se làm thay đổi cấu trúc
và chức năng của các protein. Đường huyết càng tăng và sự tiếp xúc giữa đường
và protein càng lâu thì quá trình này càng lan rộng. Quá trình glycat hoá sinh ra
các gốc tự do và các sản phẩm gọi chung là AGEs. AGEs có vai trò rất quan
trọng trong cơ chế bệnh sinh các biến chứng mạn của bệnh đái tháo đường.
Các thử nghiệm cho thấy hợp chất Isoquercitrin [Quercetin 3-O-β-Dglucopyranoside] và Isoquercitrin-6-acetate [Quercetin 3-(6''-O-acetyl)-β-Dglucopyranoside] từ lá cây Uvaria rufa có tác dụng ức chế sự tạo thành AGEs
trong albumin huyết thanh bò với giá trị IC50 lần lượt là 8,4 và 6,9 µmol/l so
với đối chứng dương Quercetin (IC50 = 10,9 µmol/l) [35].
1.3.2. Công dụng của chi Uvaria
Trong dân gian, nhiều loài thuộc chi Uvaria được sử dụng làm thuốc
chữa bệnh ở nhiều nơi trên thế giới. Ở phía đông Châu Phi, người ta uống
nước sắc từ rễ loài U. chamae để giảm đau bụng, làm thuốc xổ và hạ sốt. Ở
Kenya, U. lucida là một loài cây thuốc quan trọng. Rễ của loài này được
dùng để chữa đau dạ dày và đường ruột, đặc biệt trong trường hợp tiêu chảy
và nôn mửa. Loài U. welwitschii cũng được sử dụng để chữa rối loạn dạ dày
ở Kenya [38]. U. kweichowensis là một loài thảo mộc được người dân ở vùng
tây nam Trung Quốc sử dụng với tác dụng chống viêm và chống khối u [50].
Ở Ấn Độ, rễ U. cordata có tác dụng trừ phong thấp, bổ gân cốt, lá có tác dụng
tán ứ tiêu thũng, ngừng ho [49].
Các loài thuộc chi Uvaria từ lâu cũng đã được sử dụng trong các bài

thuốc cổ truyền của nhân dân ta. Rễ U. rufa dùng nấu nước cho phụ nữ sau
khi sinh uống như là thuốc bổ dưỡng để hồi phục sức khoẻ. Rễ và lá U.
microcarpa dùng để trị tiêu hóa kém, đầy bụng, ỉa chảy, đau lưng. Vỏ cây U.
micrantha dùng làm thuốc bổ, giúp tiêu hoá, thường dùng chữa chứng đầy
bụng, khó tiêu và chữa đau lưng nhức mỏi. Nước sắc của vỏ cây U. narum

14


được dùng để giảm đau cho thai phụ trong khi sinh. Ngoài ra, nó còn có tác
dụng điều trị thấp khớp, đau ruột và eczema. Lá của U. narum được dùng
trong bệnh vàng da, đau mật, sốt [12]. Cây Bù dẻ lá lớn (U. cordata ) từ lâu
đã được nhân dân ta sử dụng để trị chứng khó tiêu, đầy bụng, ỉa chảy, phong
thấp, lưng gối mỏi, chấn thương. Rễ được sử dụng làm thuốc an thần, ngừng
nôn mữa, thấp khớp. Lá được sử dụng để làm giảm đau, giảm sưng [12].
1.4. Tác dụng sinh học và công dụng của cây Bù dẻ tía
1.4.1. Tác dụng sinh học của cây Bù dẻ tía
Các công trình nghiên cứu về hoạt tính sinh học của Bù dẻ tía cho thấy
dược liệu này có một số tác dụng dược lý đáng lưu ý như kháng u và ung thư,
kháng viêm, kháng khuẩn, chống oxy hóa…
 Hoạt tính kháng u và ung thư
Tác dụng dược lý của cây Bù dẻ tía đã được chứng minh ở một số công
trình trên thế giới, trong đó nổi bật là hoạt tính ức chế sự phát triển của khối u
và tế bào ung thư. Theo một nghiên cứu ở Malaysia, dịch chiết từ các phân
đoạn n-hexan, chloroform, ethanol từ thân U. grandiflora có khả năng ức chế
sự phát triển dòng tế bào ung thư ruột kết HTC 116. Hoạt tính này được dự
đoán là do nhóm chất Acetogenin hoặc dẫn xuất Polyoxygenated cyclohexen
gây ra [19].
Các hợp chất tinh khiết phân lập từ U. grandiflora cũng thể hiện khả
năng gây độc tế bào ung thư. Zeylenon được phân lập từ thân và lá U.

grandiflora, đã được chứng minh là một chất ức chế vận chuyển nucleosid,
đặc biệt trong các tế bào ung thư Ehrlich và có khả năng gây độc tế bào ung
thư nuôi cấy [37]. Hợp chất Uvarigrin phân lập từ rễ cho thấy khả năng gây
độc tế bào đối với dòng tế bào khối u HCT-8 (ung thư ruột kết), Bel 7402
(ung thư gan) và A 2780 (ung thư buồng trứng) [47]. Ở Việt Nam, nghiên cứu
của Nguyễn Thị Hoài và cộng sự năm 2012 [9] đã cho thấy khả năng ức chế

15


tế bào ung thư rất mạnh của dịch chiết toàn phần cây Bù dẻ tía trên thử
nghiệm invitro, với 6 dòng tế bào bao gồm LU-1 (ung thư phổi người), KB
(ung thư biểu mô), MDA-BA-321 (ung thư vú), Hep G2 (ung thư gan người),
SW-480 (ung thư ruột kết) và MKN7 (ung thư dạ dày) ở các giá trị IC 50 từ
0,62 - 7,51 µg/ml. Những kết quả trên cho thấy tính cấp thiết trong việc tiến
hành các nghiên cứu về Bù dẻ tía để định hướng sử dụng dược liệu này trong
tương lai.
 Hoạt tính kháng viêm và kháng khuẩn
Một nghiên cứu ở Thái Lan cho thấy dịch chiết phân đoạn ethyl atetat từ
loài U. grandiflora thể hiện hoạt tính kháng khuẩn trên 2 dòng vi khuẩn
Escherichia coli và Vibrio cholera, trong khi đó dịch chiết phân đoạn aceton
có khả năng ức chế 4 dòng vi khuẩn Staphylococcus aureus, Salmonella
typhi, Staphylococcus typhinurium và Enterobacter cloacae [24]. Cũng theo
nghiên cứu này, hợp chất Zeylenol, phân lập được từ phân đoạn ethyl acetat
của loài U. grandiflora, thể hiện hoạt tính kháng viêm trong thử nghiệm làm
phù tai chuột và hoạt tính kháng khuẩn trên 4 dòng vi khuẩn là S. typhi, S.
aureus và 2 dòng E. coli với cùng giá trị MIC 1,00 μg/mL.
 Hoạt tính chống oxy hóa
Nghiên cứu về tác dụng chống oxy hóa của vỏ thân U. grandiflora cho
thấy dịch chiết ethanol có hàm lượng flavonoid cao nhất, biểu hiện hoạt tính

chống oxy hóa mạnh nhất [42].
1.4.2. Công dụng của cây Bù dẻ tía
Theo kinh nghiệm dân gian ở Malaysia, lá U. grandiflora được nấu chín
uống để điều trị đau thắt lưng, đau dạ dày, đầy hơi, làm dịu đau bụng và hỗ
trợ trong phục hồi cho phụ nữ sau khi sinh [61]. Ngoài ra người dân Malaysia
còn thường dùng lá và thân U. grandiflora để điều trị một số bệnh như bong

16


gân, đau lưng, bệnh thấp khớp, giải độc ngộ độc thực phẩm, ong chích hoặc
phòng chống ngộ độc rượu [53]. Ở Việt Nam, cây Bù dẻ tía được các thầy
lang đồng bào dân tộc Pako Vân Kiều sử dụng để chữa các bệnh liên quan
đến khối u cho thấy hiệu quả tốt [9].

17


Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là phần trên mặt đất của cây Bù dẻ tía (Uvaria
grandiflora Roxb. ex Hornem - Annonaceae). Mẫu thu tại huyện Đakrông
tỉnh Quảng Trị vào tháng 9 năm 2011. Tên khoa học được xác định bởi TS.
Nguyễn Thế Cường - Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật – Viện Hàn lâm
Khoa học và công nghệ Việt Nam. Mẫu nguyên liệu được rửa sạch, thái nhỏ,
phơi, sấy khô ở 50ºC- 60ºC, sau đó xay thành bột thô và bảo quản ở nơi khô
thoáng.

Hình 2.1. Hoa của cây Bù dẻ tía


Hình 2.2. Quả của cây Bù dẻ tía

- Các dòng tế bào ung thư thử nghiệm: LU-1 (ung thư phổi người),
KB (ung thư biểu mô), MDA-BA-321 (ung thư vú), Hep G2 (ung thư gan
người), SW-480 (ung thư ruột kết) và MKN7 (ung thư dạ dày). Các dòng tế
bào do GS. TS. J. M. Pezzuto, Trường Đại học Hawaii và GS. Jeanette Maier,
trường Đại học Milan, Italia cung cấp.
2.2. Hoá chất và máy móc - thiết bị
2.2.1. Hoá chất
Dung môi được sử dụng: methanol, ethanol, n-butanol, ethyl acetat,
chloroform, n-hexan, aceton, toluen, acid formic, amoniac, dichloromethan,
nước cất, acid acetic… Thuốc thử: dung dịch H2SO4 10% /Ethanol tuyệt đối,
18


dung dịch NH3 đậm đặc, thuốc thử Magic, thuốc thử Dragendoff...
Chất nhồi cột sắc ký: silicagel pha thường (silicagel 60, 0,040 – 0,063mm
(230-400 mesh ASTM), Merck) và pha đảo (YMC, 30-50 µm, FuJisilisa
Chemical Ltd.); Sephadex LH-20, Dianion HP-20. Bản sắc ký lớp mỏng pha
thường (TLC-silicagel 60 F254, Merck) và pha đảo (RP18, F254, Merck).
Các hoá chất và thuốc thử đạt tiêu chuẩn phân tích theo quy định của
Dược Điển Việt Nam IV [5].
2.2.2. Máy móc - thiết bị
Các dụng cụ thủy tinh: cột sắc ký, cốc có mỏ nhiều thể tích, đũa thủy
tinh, bình cầu hai cổ nhám, ống sinh hàn, bình tam giác, bình gạn, bình chạy
sắc ký, pipette...
Cân phân tích hiện số Mettler Toledo AB204-S, độ chính xác 0,0001 g.
Micropipette 100, 200, 500 µl (Human), micropipette 50 µl (Excel monopette
8000). Bếp điện, tủ sấy Memmert, máy cô quay Yamato, bình chiết, máy lọc

hút chân không. Máy đo phổ cộng hưởng từ hạt nhân Bruker Avance AM500
FT-NMR, máy đo phổ khối phun mù điện tử AGILENT 6310 Ion Trap, máy
đo phổ UV Jacob, máy đo mật độ quang OD Microplate Reader.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Định tính một số nhóm chất hữu cơ trong dược liệu
Định tính các nhóm chất hữu cơ theo phương pháp phân tích các nhóm
hợp chất thiên nhiên có trong cây bằng phản ứng hóa học đặc trưng và sắc ký
lớp mỏng [2], [7]. Dự kiến định tính các nhóm chất: alcaloid, anthranoid, acid
hữu cơ, coumarin, flavonoid, tanin, saponin, glycosid tim, acid amin, chất
béo, đường khử, steroid…
2.3.2. Phương pháp chiết xuất
Phương pháp chiết xuất được sử dụng là phương pháp ngâm. Bột dược
liệu được tiến hành ngâm ở nhiệt độ phòng với dung môi methanol. Thời gian
chiết xuất: chiết 3 đợt, mỗi đợt chiết trong 1 tuần. Gộp dịch chiết, bốc hơi
dung môi dưới áp suất giảm để thu được cao toàn phần.

19


2.3.3. Phương pháp phân lập
Quá trình phân lập sử dụng phương pháp sắc ký cột với các cơ chế cột
hấp phụ, cột trao đổi ion và cột lọc qua gel. Sắc ký lớp mỏng được sử dụng để
theo dõi quá trình rửa giải.
2.3.3.1.Sắc ký cột hấp phụ
Nguyên tắc: Sắc ký cột hấp phụ dựa trên sự phân bố khác nhau của các
cấu tử trong hỗn hợp với hai pha không trộn lẫn, trong đó pha động là chất
lỏng chảy qua pha tĩnh là chất hấp phụ dạng bột mịn được nhồi trong cột thủy
tinh. Nhờ vậy mà có thể khai triển dung môi liên tục với nhiều hệ dung môi
khác nhau có độ phân cực thay đổi từ yếu đến mạnh [5], [7].
Chất nhồi cột là silicagel pha thường (silicagel 60, 0,040 - 0,063mm

(230-400 mesh ASTM), Merck); silicagel pha đảo YMC (silicagel 30-50 µm,
FuJisilisa Chemical Ltd.).
2.3.3.2.Sắc ký lọc qua gel
Sử dụng chất nhồi cột là Sephadex LH-20.
Nguyên tắc: Sắc ký lọc qua gel là phương pháp phân tách các phân tử
trong dung dịch dựa trên kích thước của chúng thông qua sự trao đổi lặp đi
lặp lại các phân tử chất tan giữa dung môi pha động và cùng dung môi đó
được pha tĩnh giữ trong các lỗ xốp của gel. Khoảng kích thước lỗ của gel xác
định khoảng kích thước phân tử được phân tách qua quá trình sắc ký [5].
Phương pháp nhồi cột ướt được thực hiện đối với tất cả các loại sắc ký
cột đã sử dụng [7].
2.3.4. Phương pháp xác định cấu trúc
Xác định cấu trúc của hợp chất tinh khiết được thực hiện thông qua phân
tích dữ liệu phổ khối lượng (MS), phổ cộng hưởng từ hạt nhân (NMR). Kết
quả biện luận được khẳng định sau khi giải phổ và so sánh với số liệu phổ
trong các nghiên cứu đã được công bố trước đó.
Phổ cộng hưởng từ hạt nhân được đo gồm có NMR một chiều ( 1H-NMR,
13

C-NMR, DEPT) và hai chiều (HMBC, HSQC, COSY, NOESY). Thực hiện
20


trên máy Bruker Avance AM500 FT-NMR tại Viện Hoá học, Viện Hàn lâm
Khoa học và Công nghệ Việt Nam với chất chuẩn nội là tetramethyl silan
(TMS). Phổ khối phun mù điện tử (ESI-MS) được đo trên máy AGILENT
6310 Ion Trap tại Viện Hóa học các hợp chất thiên nhiên − Viện Hàn lâm
Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
2.3.5. Nghiên cứu hoạt tính sinh học
2.3.5.1. Đánh giá độc tính cấp dịch chiết toàn phần của dược liệu

36 chuột BALB/c khoẻ mạnh, khối lượng 20-22 gram, không phân biệt
giống, nuôi tại khu nuôi động vật của Viện Công nghệ Sinh học, được chia
làm 6 lô (6 chuột/lô), và bị bỏ đói hoàn toàn 16 h trước khi cho uống dịch
chiết toàn phần cây Bù dẻ tía một lần duy nhất ở các ở nồng độ 5000, 6000,
7000, 8000, 9000 và 10000 mg/kg thể trọng (kgP) tương ứng với 6 lô thí
nghiệm. Cao toàn phần Bù dẻ tía được pha trong dung dịch nước muối sinh lý
NaCl 0,9% với tỷ lệ 1g/1ml. Sau khi cho uống 1-2 giờ, chuột được nuôi
dưỡng bình thường trở lại (cho ăn, uống tự do) và theo dõi liên tục trong 72
giờ để xác định số chuột chết trong từng lô và tính giá trị LD 50 theo công thức
của Abraham [18] và Turner [57].
2.3.5.2. Đánh giá hoạt tính ức chế tế bào ung thư invitro
Thử nghiệm được tiến hành trên 6 dòng tế bào ung thư (mục 2.1.). Mẫu thử
là dịch chiết các phân đoạn và các hợp chất tinh khiết phân lập từ dược liệu.
Phương pháp nuôi cấy tế bào invitro
Các dòng tế bào ung thư được nuôi cấy dưới dạng đơn lớp trong môi
trường nuôi cấy DMEM với thành phần kèm theo gồm 2 mM L-glutamine, 10
mM HEPES, và 1,0 mM sodium pyruvate, ngoài ra bổ sung 10% fetal bovine
serum – FBS (GIBCO).
Tế bào được cấy chuyển sau 3-5 ngày với tỉ lệ (1:3) và nuôi trong tủ ấm
CO2 ở điều kiện 37oC, 5% CO2.

21


Phép thử sinh học xác định mức độ độc tế bào: Phương pháp thử độ
độc tế bào invitro được Viện Ung thư Quốc gia Hoa Kỳ (National Cancer
Institute – NCI) xác nhận là phép thử độ độc tế bào chuẩn nhằm sàng lọc,
phát hiện các chất có khả năng kìm hãm sự phát triển hoặc diệt tế bào ung
thư. Phép thử này được thực hiện theo phương pháp của Monks (1991) [20].
Việc xác định hàm lượng protein tế bào tổng số dựa vào mật độ quang học

(OD – Optical Density) đo được khi thành phần protein của tế bào được
nhuộm bằng Sulforhodamin B (SRB). Giá trị OD máy đo được tỉ lệ thuận với
lượng SRB gắn với phân tử protein, do đó khi lượng tế bào càng nhiều (lượng
protein càng nhiều) thì giá trị OD càng lớn. Phép thử được thực hiện trong
điều kiện cụ thể như sau:
- Chất thử (10 µl) pha trong DMSO 10% được đưa vào các giếng của
khay 96 giếng để có nồng độ sàng lọc là 20 µg/ml. Giá trị IC50 của chất thử có
hoạt tính được xác định bằng cách pha chất thử ở các nồng độ 20 µg/ml; 4
µg/ml; 0,8 µg/ml; 0,16 µg/ml.
- Trypsin hóa tế bào thí nghiệm để làm rời tế bào và đếm trong buồng
đếm để điều chỉnh mật độ cho phù hợp với thí nghiệm.
- Thêm vào các giếng thí nghiệm lượng tế bào có nồng độ tế bào phù hợp
với từng dòng (trong 180 µl môi trường) cụ thể như sau: dòng LU-1 (3 x 10 4
tb/ml) , KB (3 x 10 4 tb/ml), MDA-BA-321 (2,5 x 10 4 tb/ml), Hep G2 (3 x 10 4
tb/ml), SW-480 (3x 104 tb/ml) và MKN7 (3,5 x 104 tb/ml) và để chúng phát
triển trong vòng từ 3-5 ngày.
- Một khay 96 giếng khác không có chất thử nhưng có tế bào ung thư
(180 µl) se được sử dụng làm đối chứng ngày 0. Sau 1 giờ cho tế bào vào đĩa
thí nghiệm, đĩa đối chứng ngày 0 se được cố định tế bào bằng TCA
(trichloracetic acid) 20% trong 1h ở 4oC.
- Sau giai đoạn phát triển trong tủ ấm CO 2, tế bào được cố định vào đáy
22


giếng bằng TCA 20% trong 30 phút ở 4oC, được nhuộm bằng SRB trong 1 giờ
ở 37oC. Đổ bỏ SRB và các giếng thí nghiệm được rửa 3 lần bằng 5% Acid
acetic rồi để khô trong không khí ở nhiệt độ phòng.
Cuối cùng, sử dụng 10 mM UTB (unbuffered Tris base) để hòa tan lượng
SRB đã bám và nhuộm các phân tử protein, đưa lên máy lắc đĩa lắc nhẹ trong
10 phút và sử dụng máy ELISA Plate Reader (Bio-Rad) để đọc kết quả về

hàm lượng màu của chất nhuộm SRB qua phổ hấp phụ ở bước sóng 515 nm.
Khả năng ức chế sự sống sót của tế bào khi có mặt chất thử se được xác định
thông qua công thức sau:
[OD(chất thử) - OD(ngày 0)] x 100
% sống sót =

OD(đối chứng âm DMSO 10%) - OD(ngày 0)

% ức chế = 100% - % sống sót
Các phép thử được lặp lại 3 lần. Ellipticine (Sigma) được sử dụng làm
chất đối chứng dương và được thử nghiệm ở các nồng độ 10 µg/ml; 2 µg/ml;
0,4 µg/ml; 0,08 µg/ml. DMSO 10% được sử dụng như đối chứng âm. Giá trị
IC50 (nồng độ ức chế 50% sự phát triển) được xác định nhờ vào phần mềm
máy tính TableCurve. Chất thử nào có IC50 < 20 µg/ml (với chất chiết thô,
hoặc phân đoạn hóa học) hoặc IC50 ≤ 4 µg/ml (với hoạt chất tinh khiết) được
xem là có hoạt tính gây độc tế bào và có khả năng ức chế sự phát triển hoặc
diệt tế bào ung thư.

23


Chương 3

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1.Định tính các nhóm chất hữu cơ trong cây Bù dẻ tía
Kết quả định tính các nhóm chất hữu cơ từ phần trên mặt đất cây Bù dẻ
tía Uvaria grandiflora bằng các phản ứng hóa học đặc trưng được trình bày ở
bảng 3.1.
Bảng 3.1. Kết quả định tính các nhóm chất hữu cơ
từ phần trên mặt đất cây Bù dẻ tía


Nhóm chất

Thuốc thử/Phương
pháp

Bouchardat
Alcaloid
Dragendorff
Mayer
Anthranoid Bortrager
Acid amin Ninhydrin 0,1%
Acid hữu cơ Natri carbonat
Coumarin

Mở - đóng vòng lacton
Diazo hóa
Cyanidin

Flavonoid

Khí amoniac
Sắt (III) clorua
Khung

Glycosid
tim

Saponin


Hiện tượng

steroid

Tủa màu nâu
Tủa màu vàng cam
Tủa màu vàng nhạt
Màu đỏ sim
Xuất hiện màu tím
Sủi bọt khí
Hai ống nghiệm có tủa
đục sau khi acid hóa
Xuất hiện màu đỏ
Xuất hiện màu hồng hơi
tím
Chuyển màu vàng đậm
hơn
Xuất hiện màu xanh lục
Ở mặt tiếp xúc giữ hai

Liebermann lớp chất lỏng xuất hiện

Kết

Kết

quả

quả


phản

định

ứng

tính

++
++
++
++
+
+
-

Baljet
Xuất hiện màu đỏ cam
Legal
lacton
Quan sát hiện tượng tạo
Cột bọt bền sau 15 phút
bọt
Acid sulfuric đậm đặc
Màu tím hồng
24





Không

++
++



++
+++
Không

vòng màu tím đỏ

Vòng



+

Không


Sắt (III) clorua 5%

Tanin

Gelatin 1%
Chất béo
Đường khử
Steroid


Hơ nóng trên giấy lọc

Xuất hiện tủa màu xanh
đen
Xuất hiện tủa bông trắng
Vết mờ còn lại trên giấy

Fehling

lọc
Kết tủa màu đỏ gạch
Ở mặt tiếp xúc giữ hai

Liebermann

lớp chất lỏng se xuất

-

Không

++



++




+++



hiện vòng màu tím đỏ

Ghi chú:
+++ : Phản ứng dương tính rất rõ

+ : Phản ứng dương tính

++

- : Phản ứng âm tính

: Phản ứng dương tính rõ

Nhận xét: Kết quả nghiên cứu định tính cho thấy trong Bù dẻ tía có
alcaloid, anthranoid, acid amin, acid hữu cơ, flavonoid, chất béo, đường khử
và steroid.
3.2. Kết quả nghiên cứu về thành phần hoá học
3.2.1. Quá trình chiết xuất
Phần trên mặt đất cây Bù dẻ tía được rửa sạch, thái nhỏ, phơi, sấy khô ở
50ºC - 60ºC, sau đó xay thành bột thô và tiến hành chiết xuất, phân lập các
hợp chất. Lượng bột thô đem chiết xuất là 5,0 kg.
 Chiết xuất cao toàn phần
Toàn bộ lượng bột thô Bù dẻ tía được cho vào bình chiết và làm ẩm bằng
methanol tuyệt đối, đậy kín, để yên cho thấm ẩm và trương nở hoàn toàn. Sau
đó thêm methanol tuyệt đối ngập dược liệu và cách bề mặt dược liệu khoảng
3cm rồi ngâm ở nhiệt độ phòng.Tiến hành chiết 3 đợt, mỗi đợt chiết trong 1

tuần. Dịch chiết thu được đem cô quay hút chân không ở 50 oC thu được cắn
dạng cao đặc.
 Chiết các phân đoạn
Cắn toàn phần Bù dẻ tía được chiết phân đoạn với các dung môi hữu cơ
25


×