Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Báo cáo về khái niệm công chứng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.84 KB, 13 trang )

MỤC LỤC
CHƯƠNG I................................................................................................................1
MỞ ĐẦU....................................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài.......................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài...........................................................................1
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu........................................................2
4. Phương pháp nghiên cứu.....................................................................................2
CHƯƠNG II...............................................................................................................3
KHÁI NIỆM CÔNG CHỨNG QUA CÁC THỜI KÌ CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM
KHÁI NIỆM CÔNG CHỨNG TRONG PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH............................3
I. Khái niệm công chứng.........................................................................................3
1. Công chứng..........................................................................................................3
2. Đặc điểm của hoạt động công chứng...................................................................4
3. Vai trò của hoạt động công chứng........................................................................5
II.

Quá trình hình thành và phát triển của công chứng ở Việt Nam......................5

1. Công chứng thời kỳ Pháp thuộc 1886..................................................................5
2. Công chứng thời kỳ dân chủ cộng hòa................................................................6
3. Công chứng thời kỳ xã hội chủ nghĩa..................................................................7
CHƯƠNG III. KẾT LUẬN......................................................................................11
Danh mục tài liệu tham khảo...................................................................................12


CHƯƠNG I
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay mọi lĩnh vực đề phát triển mạnh mẽ. Hiện
tại chúng ta đang ở thời đại công nghệ 4.0 nên có rất nhiều ngành nghề để mỗi con
người lựa chọn. Tuy nhiên, ngành nào, nghề nào cũng có những đặc điểm và tính


chất riêng của ngành nghề đó, nên muốn làm tốt một công việc nào đó chúng ta
cũng phải nắm rõ về chuyên môn và kỹ năng nghiệp vụ về ngành nghề mình hoạt
động. Trong đó nghề công chứng cũng là một trong những nghề đòi hỏi về chuyên
môn cao bên cạnh đó thì phải kỹ năng cũng phải nhiều để ta hoạt động ngành nghề
một cách hiệu quả.
Ở xã hội nước ta hiện nay, hoạt động công chứng mới chỉ được tiếp tục và hoạt
động được hơn ba mươi năm qua. Vì vậy trong nhận thức chung của những cá
nhân, tổ chức về công chứng ngày càng được từng bước nâng cao và phát triển
mạnh mẽ.
Để giúp cho nhận thức về nghề nghiệp và làm tiền đề cho việc tác nghiệp đối
với nhưng người sẽ được bổ nhiệm công chứng viên chúng ta cần có những cách
nhìn toàn diện về nghề công chứng.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Với tinh thần nghiên cứu, học hỏi một cách nghiêm túc, Qua quá trình học tập
và nghiên cứu tại học viện tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh tôi cũng có một bài
báo cáo trình bày về chủ đề sau: “Khái niệm công chứng qua các thời kì của pháp
luật Việt Nam – Hướng hoàn thiện, khái niệm công chứng trong pháp luật hiện
hành” . Bên cạnh việc phân tích về mặt khái niệm công chứng qua các thời kỳ của
nước ta bên cạnh đó bài báo cáo đề cập sâu về khái niệm công chứng trong pháp
Luật hiện hành, qua đó mong muốn cung cấp thêm cách nhìn khác về nghề công
chứng trong xu thế phát triển của loại hình dịch vụ công này và kiến nghị một
1


số giải pháp hoàn thiện pháp luật và các biện pháp bảo đảm đối với ngành nghề
công chứng.
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của bài báo cáo là “Khái niệm công chứng qua các
thời kì của pháp luật Việt Nam – Hướng hoàn thiện, khái niệm công chứng
trong pháp luật hiện hành”, trong đó tập trung vào một số nội dung chủ yếu

như: xác định rõ khái niệm công chứng, sự hình thành phát triển công chứng Việt
Nam, đề xuất quan điểm, định hướng nhằm tiếp tục hoàn thiện các quy định của
pháp luật công chứng, nâng cao giá trị của ngành nghề công chứng.
Phạm vi nghiên cứu: Báo cáo tập trung nghiên cứu những quy định của pháp
luật trong nước Việt Nam và lịch sử hình thành hoạt động công chứng.
4. Phương pháp nghiên cứu
Báo cáo nghiên cứu thực hiện nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể
như phương pháp so sánh, thống kê, tổng hợp và kỹ năng phân tích tình hình thực
tiễn tình hình hiện nay. Qua đó làm sáng tỏ các: “Khái niệm công chứng qua các
thời kì của pháp luật Việt Nam – Hướng hoàn thiện, khái niệm công chứng trong
pháp luật hiện hành”.

2


CHƯƠNG II
KHÁI NIỆM CÔNG CHỨNG QUA CÁC THỜI KÌ CỦA PHÁP LUẬT VIỆT
NAM KHÁI NIỆM CÔNG CHỨNG TRONG PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH
I.

Khái niệm công chứng
1. Công chứng
Cuộc sống con người trong xã hội là sự tổng hòa của nhiều mối quan hệ, trong

đó có những mối quan hệ về giao dịch dân sự diễn ra hàng ngày. Việc mua bán, trao
đổi hàng hóa, tài sản nói chung không chỉ được thực hiện thông qua quan hệ giao
tiếp, giao dịch bằng lời nói, cử chỉ và thông qua các hình thức bằng văn bản. Người
có tài sản theo quy định của bộ luật dân sự có quyền định đoạt tài sản qua nhiều
hình thức bằng văn bản như: chuyển nhượng, mua bán, tặng cho, ủy quyền, thừa kế
….Các giao dịch đó phải được xác lập và thực hiện theo một trình tự do pháp luật

quy định. Một số loại hợp đồng giao dịch liên quan đến việc định đoạt liên quan
đến tài sản mà pháp luật quy định bắt buộc phải thực hiện công chứng, chứng thực.
Thì các bên tham gia giao dịch phải thực hiện thì mới có tính pháp lý và các hợp
đồng giao dịch đó mới có hiệu lực.
Ví dụ:
- Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất.
- Hợp đồng ủy quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất.
- Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất.
- Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất.
- Hợp đồng mua bán tài sản, tặng cho tài sản khác mà pháp luật quy định tài
sản đó phải đăng ký quyền sở hữu …
Mặt khác theo quy định của luật dân sự các hợp đồng giao dịch dân sự được
thực hiện theo nguyên tắc chung cơ bản là thể hiện ý chí của cả các bên tham gia
giao dịch và phải đảm bảo các bên hiểu rõ về hợp đồng, có đầy đủ năng lực hành vi
dân sự, các hợp đồng có nội dung không trái với pháp luật và đạo đức xã hội. Ngoài
3


các giao dịch mà luật bắt buộc phải công chứng hoặc chứng thực, các giao dịch dân
sự được thực hiện theo nguyên tắc chung không trái với pháp luật và đạo đức xã
hội nếu có yêu cầu công chứng thì vẫn được công chứng.
Ví dụ: - Hợp đồng thuê nhà giữa ông A và ông B. Theo pháp luật hiện hành thì
hợp đồng này không bắt buộc phải công chứng chứng thực. Nhưng ông A và ông B
có yêu cầu công chứng về hợp đồng này thì vẫn được tổ chức hành nghề công
chứng, công chứng hợp đồng này.
Công chứng được hiểu là việc công quyền đứng ra làm chứng, do các công
chứng viên chuyên nghiệp trong các tổ chức hành nghề công chứng thực hiện và
việc thực hiện thông qua việc ghi lời chứng của mình trong các hợp đồng giao dịch
dân sự, thương mại.
Theo quy định tại khoản 1, Điều 2 Luật Công chứng 2014 thì công chứng được

định nghĩa như sau: “Công chứng là việc công chứng viên của một tổ chức hành
nghề công chứng chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân
sự khác (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch), tính chính xác, hợp pháp không trái
đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài
hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt (sau đây gọi là bản dịch) mà theo quy
định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công
chứng”
2. Đặc điểm của hoạt động công chứng
Thứ nhất, hoạt động công chứng do công chứng viên của các tổ chức hành nghề
công chứng thực hiện;
Thứ hai, hoạt động công chứng tạo lập và cung cấp văn bản công chứng có giá
trị pháp lý. Các hợp đồng, giao dịch khi đã được công chứng có giá trị chứng cứ
khi xảy ra tranh chấp, giúp tòa án có cơ sở pháp lý để giải quyết.
Thứ ba, hoạt động công chứng góp phần bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa,
phòng ngừa vi phạm pháp luật và tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật.
4


3. Vai trò của hoạt động công chứng
- Hoạt động công chứng góp phần bảo đảm an toàn pháp lý cho các giao
dịch dân sự.
- Phòng ngừa vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa;
- Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân;
- Góp phần hội nhập, hòa nhập với các nước trên thế giới;
- Giúp nước ta thu hút đầu tư và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa.
II.

Quá trình hình thành và phát triển của công chứng ở Việt Nam
1. Công chứng thời kỳ Pháp thuộc 1886

Hoạt động công chứng xuất hiện khá sớm ở Việt Nam từ những năm 30 của thế

kỉ XX, do người Pháp du nhập vào nước ta để phục vụ cho các hoạt động giao dịch
dân sự và thương mại của các thương nhân người Pháp và thương nhân người Việt
và các tầng lớp thị dân ở các thành thị. Thời kỳ này, công chứng được tổ chức và
hoạt động theo nguyên tắc cơ bản của hệ thống pháp luật Pháp chủ yếu phục vụ cho
chính sách cai trị của Pháp tại Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng. Tiêu
biểu là sắc lệnh ngày 24 tháng 5 năm 1931 của Tổng thống Cộng hòa Pháp về tổ
chức công chứng. Theo đó, người thực hiện hoạt động công chứng là công chứng
viên (hay còn gọi là Chưởng khế) mang quốc tịch Pháp, do Tổng thống Pháp bổ
nhiệm và giữ chức vụ suốt đời. Công chứng viên hoạt động với tư cách người thi
hành công vụ, vừa như với tư cách người hành nghề tự do. ở thời kỳ này, ở nước ta
chỉ có một văn phòng công chứng tại Hà Nội, ba văn phòng công chứng tại Sài
Gòn, tại các tòa án sơ thẩm ở Hải Phòng, Nam Định, Đà Nẵng có Chánh Lục sự
kiêm công chứng viên. Được xếp và trường phái công chứng thuộc hệ pháp luật La
Mã.

5


2. Công chứng thời kỳ dân chủ cộng hòa
Sau khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ngày mùng 1 tháng 10 năm
1945 Bộ trưởng Bộ Tư pháp Vũ Trọng Khánh kí Nghị định quyết định về một số
vấn đề liên quan đến hoạt động công chứng như: bãi chức công chứng viên của ông
Deroche người Pháp và bổ nhiệm một công chứng viên người Việt Nam là ông Vũ
Quý Vỹ thay thế công chứng viên người Pháp tại Hà Nội, những luật lệ về công
chứng vẫn đươc áp dụng trừ những điều trái với chính thể nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa. Thời kỳ này, công chứng viên phải chịu trách nhiệm và chịu sự kiểm tra
giám sát của Ủy ban hành chính các cấp.
Để đáp ứng nhu cầu gia dịch của nhân dân, ngày 15 tháng 11 năm 1945 chủ tịch

Hồ Chí Minh đã ký Sắc Lệnh số 59/SL quy định thể lệ việc thị thực các giấy tờ. Xét
về trình tự, thủ tục, nội dung và thẩm quyền thì việc thị thực này chỉ là một thủ tục
hành chính, càng về sau việc áp dụng nội dung của Sắc Lệnh này càng mang nặng
tính hình thức, chủ yếu xác nhận ngày, tháng, năm, chữ ký và địa chỉ thường chú
của đương sự.
Ngày 29/2/1952 Hồ Chủ Tịch ký Sắc Lệnh số 85/SL ban hành thể lệ trước bạ về
các việc mua, bán, cho, đổi nhà cửa, ruộng đất. Do hoàn cảnh lịch sử mà Sắc Lệnh
này chỉ được áp dụng ở các vùng tự do và các vùng còn duy trì được Ủy ban kháng
chiến hành chính đến cấp xã. Theo Sắc lệnh này, Ủy ban kháng chiến cấp xã hay thị
xã có thẩm quyền: nhận thực chữ ký cho các bên mua, bán, đổi, cho ruộng đất, nhà
cửa; nhận thực người đứng ra bán, cho, đổi là chủ của những nhà cửa, ruộng đất
đem ra bán, cho, đổi. Có thể thấy rằng hoạt động công chứng trong giai đoạn này
không được phát triển do rất nhiều nguyên nhân, cụ thể:
Thứ nhất, là do hoàn cảnh đất nước đang trong giai đoạn chiến tranh khó khăn,
thiếu thốn nhiều mặt, đặc biệt là nền kinh tế thời kì này rất kém phát triển.
Thứ hai, do nhà nước ta thời kỳ này không chấp nhận chế độ sở hữu của các
thành phần kinh tế khác ngoài quốc doanh và tập thể, trong khi đó hoạt động công
6


chứng lại chủ yếu chứng thực các quan hệ sở hữu tư nhân. Mọi giao lưu kinh tế,
dân sự chủ yếu được xác lập theo quan hệ hành chính, thương mại gần như không
phát triển. Do vậy nên các tổ chức công chứng không được thành lập trong giai
đoạn này.
3. Công chứng thời kỳ xã hội chủ nghĩa
Sau ngày hòa bình lập lại ở miền Bắc, do hoàn cảnh của công cuộc thống nhất
đất nước và điều kiện kinh tế xã hội một số yêu cầu công chứng được giao cho Ủy
ban nhân dân các cấp thị thực.
Trong giai đoạn 1954- 1981 không có văn bản quy phạm nào của Nhà nước về
công tác này. Để đáp ứng công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước, 10/10/1987

Bộ Tư pháp ban hành Thông tư số 574/QLTP về công tác công chứng với nội dung:
công tác công chứng của Ủy ban nhân dân các địa phương được cải tiến nâng cao
chất lượng; thành lập Phòng công chứng tại Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố
Hà Nội và một số địa phương khác nếu có nhu cầu lớn về công chứng và đủ các
điều kiện cần thiết. Sau đó, để tạo điều kiện hơn nữa cho các địa phương tiếp cận
với hoạt động công chứng, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 858/QLTPK ngày
15/10/1987 hướng dẫn thực hiện các việc làm công chứng, tại thời điểm này chủ
thể duy nhất được thực hiện công chứng là phòng công chứng. Căn cứ vào văn bản
này thì các tỉnh thành trên cả nước đã lập ra các phòng công chứng và dần dần hình
thành mạng lưới các phòng công chứng trên cả nước.
Tại miền Nam Việt Nam sau hiệp định Giơ ne vơ 1954, công chứng dưới thời
Ngụy-Sài Gòn được điều chỉnh ngày 29/11/1954 quy định về ngạch Chưởng khế
do Bảo Đại ký với tư cách là quốc trưởng. Mục đích là thiết lập trong mỗi quản hạt
của mỗi tòa sơ thẩm thuộc Bộ Tư pháp một phòng công chứng, nhưng trên thực tế
thì chỉ thiết lập được một phòng công chứng tại Sài Gòn và tồn tại đến năm 1975.

7


Kể từ sau đại hội Đảng lần VI năm 1986 nước ta có những chuyển biến lớn
sang thời kỳ của mở của và hội nhập. Nhằm đáp ứng nhu cầu của nhân dân và theo
quan điểm chỉ đạo của Đảng ngày 27/2/1991 Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị
định 45/1991/NĐ-HĐBT về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước. Theo quy
định của Nghị định này thì: “phòng công chứng Nhà nước là cơ quan thuộc ủy ban
nhân dân cấp tỉnh, có tư cách pháp nhân, có tài khoản riêng ở ngân hàng, có con
dấu mang hình quốc huy”
Ngày 18/5/1996 Chính phủ ban hành Nghị định 31/1996/NĐ-CP về tổ chức
hoạt động công chứng Nhà nước thay thế cho nghị định 45/1991/NĐ-HĐBT. Theo
đó phòng công chứng là thuộc Sở tư pháp, quy định này nhằm chuyên môn hóa cho
hoạt động công chứng làm giảm tải cho Ủy ban nhân dân.

Do tình hình kinh tế ngày càng phát triển, khiến cho các quy định của Nghị
định 31/1996/NĐ-CP trở nên lạc hậu, vì vậy ngày 8/12/2000 Chính phủ ban hành
Nghị định 75/2000/NĐ-CP về công chứng, chứng thực. Nghị định này quy định về
phạm vi công chứng, chứng thực; tổ chức phòng công chứng, chứng thực; nguyên
tắc hoạt động, trình tự thủ tục của công chứng, chứng thực…Cũng từ Nghị định
này thì thuật ngữ “ Phòng công chứng Nhà nước” đã được thay thế bằng “Phòng
công chứng”
Đây là Nghị định có nhiều điểm mới so với các văn bản trước đây như khái
niệm công chứng, chứng thực được phân biệt rạch ròi; phạm vi công chứng được
quy định rộng hơn; trình tự, thủ tục được quy định rõ ràng, cụ thể…
Để đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, xã hội hóa hoạt động công chứng, ngày
29/11/2006 Quốc hội đã thông qua Luật công chứng, chính thức có hiệu lực vào
ngày 1/7/2007 từ đây hai hành vi công chứng, chứng thực được phân biệt rõ ràng,
cụ thể. Luật công chứng là bộ luật đầu tiên của nước ta quy định về hoạt động công
chứng bao gồm 8 chương, 67 điều với các nội dung về công chứng viên, tổ chức

8


hành nghề công chứng, thủ tục công chứng hợp đồng giao dịch, lưu trữ hồ sơ, phí
công chứng, thù lao công chứng, xử lí vi phạm, khiếu nại, giải quyết tranh chấp.
Điểm mới của Luật Công chứng 2006 so với các nghị định trước đây là:
Thứ nhất, chỉ quy định các vấn đề về công chứng không quy định các vấn đề về
chứng thực.
Thứ hai, có các quy định về các tổ chức hành nghề công chứng và chế định
công chứng viên. Theo đó công chứng viên không nhất thiết phải là công chứng
nhà nước.
Để tổ chức thực hiện Luật công chứng, ngày 4/1/2008 Chính phủ đã ban hành
Nghị định số 02/2008/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật công
chứng 2006.

Sau đó một thời gian, Chính phủ đã ban hành Nghị định 04/2013/NĐ-CP ngày
7/1/2013 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật công chứng 2006 thay thế
cho Nghị định 02/2008/NĐ-CP.
Do thực tiễn triển khai Luật công chứng 2006 cho thấy hoạt động công chứng
đã bộc lộ nhiều tồn tại, bất cập: nhiều quy định không còn phù hợp hoặc thiếu, một
số điều không phù hợp với thông lệ quốc tế về hành nghề công chứng. Vì vậy, cần
thiết phải sửa đổi, bổ sung để khắc phục những hạn chế, bất cập của Luật công
chứng 2006, tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước về hoạt động công chứng. Do
đó ngày 20/6/2014 Quốc hội đã thông qua Luật công chứng 2014 để đáp ứng yêu
cầu của xã hội.
Điểm mới so với Luật công chứng 2006 thì Luật công chứng 2014 đã mở rộng
quyền cho công chứng viên cụ thể: thêm quyền công chứng bản dịch giấy tờ, văn
bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài và ngược lại; thêm quyền chứng thực bản
sao từ bản chính, chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản. Siết chặt đào tạo nghề
công chứng, Tăng thời gian đào tạo công chứng lên 12 tháng; Tăng thời gian hành
nghề lên 05 năm đối với thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên, luật sư đồng thời
9


phải tham gia khóa bồi dưỡng nghề trong 03 tháng mới được miễn đào tạo nghề.
Cho phép văn phòng công chứng được chuyển nhượng nếu đã hoạt động được 2
năm.
Và gần đây nhất, để tổ chức thực hiện luật công chứng 2014, ngày 15/3/2015
Chính phủ đã ban hành Nghị định 29/2015/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành một số điều của Luật công chứng.

10


CHƯƠNG III. KẾT LUẬN

Như vậy hoạt động công chứng đã xuất hiện ở nước ta từ khá sớm vào khoảng
những năm 30 của thế kỷ XX, ngay từ những ngày đầu xây dựng nhà nước pháp
quyền Đảng và nhà nước ta đã chú trọng công tác hoàn thiện hơn nữa đội ngũ cán
bộ làm công tác công chứng đảm bảo cho người dân thực hiện đủ và tốt hoạt động
pháp lý thiết yếu này. Hiện nay nghề công chứng đang rất phát triển, có nhiều tổ
chức hành nghề công chứng được thành lập. Trên đây là báo cáo về “Khái niệm
công chứng qua các thời kì của pháp luật Việt Nam – Hướng hoàn thiện, khái niệm
công chứng trong pháp luật hiện hành”, do kiến thức còn hạn chế nên bài làm vẫn
còn nhiều thiếu xót mong thầy cô góp ý để bài làm được hoàn thiện hơn. Em xin
chân thành cảm ơn!

11


Danh Mục Tài Liệu Tham Khảo
1. Luật Công chứng 2014
2. Tailieu.vn
3. Thegioiluat.vn
4. Thuvienphapluat.vn
5. Giáo trình kỹ năng hành nghề công chứng tập 1.
6. Luật đất đai 2013

12



×