Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Lập luận trong chí phèo của nam cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 79 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
------------ o0o ------------

NGUYỄN THỊ THU THỦY

LẬP LUẬN TRONG CHÍ PHÈO
CỦA NAM CAO

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học

HÀ NỘI - 2019


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
------------ o0o ------------

NGUYỄN THỊ THU THỦY

LẬP LUẬN TRONG CHÍ PHÈO
CỦA NAM CAO

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học

TS. NGUYỄN VĂN THẠO


HÀ NỘI - 2019


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất tới TS.
Nguyễn Văn Thạo, người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và luôn động viên tôi trong
suốt quá trình nghiên cứu để tôi có thể hoàn thành tốt khóa luận của mình.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu Trường Đại học Sư phạm Hà
Nội 2, các thầy cô giáo trong Khoa Ngữ văn, các thầy cô giáo trong tổ Ngôn ngữ học đã
trang bị cho tôi những kiến thức đầu tiên, giúp tôi định hướng đúng đắn trong học
tập, rèn luyện và tu dưỡng đạo đức.
Xin dành những lời cuối cùng để cảm ơn gia đình, bạn bè đã luôn quan tâm, ủng
hộ, động viên để tôi hoàn thành tốt khóa luận này.

Tác giả

NGUYỄN THỊ THU THỦY


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những vấn đề trình bày trong khóa luận là kết quả nghiên
cứu của riêng tôi và có sự hướng dẫn tận tình của TS. Nguyễn Văn Thạo. Tất cả
nguồn số liệu và kết quả trong khóa luận này là trung thực và chưa được sử dụng để
bảo vệ một học vị nào. Các thông tin trích dẫn trong khóa luận đều được ghi rõ
nguồn gốc.

Tác giả

NGUYỄN THỊ THU THỦY



QUY ƢỚC TRÌNH BÀY TRONG KHÓA LUẬN

1.

Quy ƣớc kí hiệu



Dẫn đến

LL

Lập luận

LC (P1, P2)

Luận cứ

KL (R)

Kết luận

P1,P2... → R

Quan hệ lập luận

LATS

Luận án tiến sĩ


ĐTĐ

Đại tiền đề

TTĐ

Tiểu tiền đề

2.

Quy ƣớc trình bày
- Chú thích cho tài liệu trích dẫn được đặt trong dấu ngoặc vuông [ ] theo thứ

tự: tên tài liệu trích dẫn, trang tài liệu, thông tin tài liệu được trích dẫn được ghi
trong mục Tài liệu tham khảo.
- Bài khóa luận sử dụng ví dụ; các ví dụ được đánh số thứ tự bắt đầu từ 1 đến
35, các số thứ tự được đặt trong dấu ngoặc đơn ( ).


BẢNG ĐỐI CHIẾU THUẬT NGỮ DÙNG TRONG KHÓA LUẬN

Tiếng Việt
Diễn ngôn
Hàm ý

Tiếng Anh
Discourse
Implicature


Hành động ngôn ngữ
Hành động tạo lời

Speech act
Locutionary act

Hành động mượn lời
Hành động ở lời
Kết tử

Perlocutionary act
illocutionary act
Connector

Lập luận
Lí thuyết lập luận

Argumentation
Argument theory

Lập luận đơn giản
Lập luận phức tạp
Lập luận phức hợp

Simple argumentation
Complex argumentation
Compound argumentation

Lập luận vòng quanh


Around argumentation

Lẽ thường
Lí lẽ

Common/topos
Argument/reason

Logic học
Mạng lập luận

Logicalogy
Argumentation net

Ngữ cảnh
Ngôn ngữ học
Ngữ dụng học

Context
Linguistics
Pragmatics

Ngữ nghĩa

Semantics

Nghịch hướng

Different directions


Quan hệ lập luận
Tường minh
Tác tử

Argument relationship
Explicit
Factor

Tu từ học
Thuận hướng

Rhetoric
Same direction

Tiền giả định
Tiền đề

presupposition
Premise


DANH MỤC BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ
Bảng 2.1. Bảng thống kê số lượng và tỉ lệ của các kiểu lập luận ............................ 34
Biểu đồ 2.1. Tỉ lệ giữa các kiểu lập luận ................................................................ 35
Bảng 2.2. Bảng thống kê số lượng và tỉ lệ của các chiến lược lập luận................... 41
Biểu đồ 2.2. Tỉ lệ giữa các chiến lược lập luận ...................................................... 42


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1


1. Lí do chọn đề tài ....................................................................................... 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................... 2
2.1. Mục đích nghiên cứu .................................................................................. 2
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................. 2

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu............................................................ 2
3.1. Đối tượng nghiên cứu ................................................................................. 2
3.2. Phạm vi nghiên cứu .................................................................................... 2

4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn ................................................................. 2
4.1. Ý nghĩa khoa học ........................................................................................ 2
4.2. Ý nghĩa thực tiễn ........................................................................................ 2

5. Phƣơng pháp nghiên cứu ......................................................................... 2
5.1. Phương pháp miêu tả .................................................................................. 3
5.2. Phương pháp phân tích diễn ngôn ............................................................... 3

6. Bố cục của khóa luận ................................................................................ 3
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ
THUYẾT ................................................................................................................ 4

1.1. Lịch sử vấn đề ........................................................................................ 4
1.2. Cơ sở lí thuyết về lập luận .................................................................... 5
1.2.1. Các quan niệm về lập luận ....................................................................... 5
1.2.2. Cấu trúc của lập luận ............................................................................... 7
1.2.3. Các kiểu lập luận ..................................................................................... 9
1.2.4. Lẽ thường trong lập luận ........................................................................ 11
1.2.5. Tiền giả định và hàm ý........................................................................... 11
1.2.6. Lập luận và hành động ngôn ngữ ........................................................... 12


1.3. Khái quát về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Nam Cao .............. 13
1.3.1. Vài nét về cuộc đời tác giả Nam Cao ..................................................... 13
1.3.2. Khái quát về các sáng tác của Nam Cao ................................................. 14
1.3.3.

Đôi nét về Truyện Ngắn “Chí Phèo” .................................................. 14

Tiểu kết chƣơng 1 ................................................................................................ 19


CHƢƠNG 2. CÁC KIỂU VÀ CHIẾN LƢỢC LẬP LUẬN TRONG “CHÍ
PHÈO” ................................................................................................................. 20

2.1. Đặt vấn đề ............................................................................................ 20
2.2. Các kiểu lập luận ................................................................................. 20
2.2.1. Lập luận đơn giản .................................................................................. 20
2.2.2. Lập luận phức tạp .................................................................................. 30

2.3. Lý thuyết về chiến lƣợc lập luận ......................................................... 35
2.3.1. Lập luận phức hợp ................................................................................ 35
2.3.2. Mạng lập luận ........................................................................................ 38
2.3.3. Lập luận vòng ........................................................................................ 39
Tiểu kết chƣơng 2 ................................................................................................ 42
CHƢƠNG 3. HIỆU QUẢ CỦA LẬP LUẬN TRONG TRUYỆN NGẮN “CHÍ
PHÈO” ................................................................................................................. 43

3.1. Hiệu quả về mặt nội dung ................................................................... 43
3.1.1. Hiệu quả trong việc miêu tả hiện thực đời sống...................................... 43
3.1.2. Hiệu quả trong việc miêu tả ngoại hình nhân vật .................................... 44

3.1.3. Hiệu quả trong việc miêu tả tính cách, số phận nhân vật ........................ 46

3.2. Hiệu quả về mặt nghệ thuật ................................................................ 55
Tiểu kết chƣơng 3 ................................................................................................ 42
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 57
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong ngôn ngữ nói hoặc viết, đóng vai trò điều khiển hoạt động giao tiếp
của con người là lập luận (argumentation). Sự có mặt của lập luận trong diễn ngôn
(Discourse) là cơ sở để duy trì quan hệ giao tiếp và diễn đạt chủ ý của người nói.
Lập luận có mặt ở khắp mọi nơi, trong khắp diễn ngôn đời thường. Lập luận là vấn
đề không mới nhưng nghiên cứu lập luận từ góc độ Ngữ dụng học (pragmatics) và
dưới ánh sáng của phân tích diễn ngôn lại là một vấn đề tương đối mới mẻ và hấp
dẫn. Lập luận trong ngữ dụng học là một phạm trù phức tạp và đặc biệt thú vị. Việc
giải mã các hàm ý (Implicature) chủ yếu dựa trên nguyên tắc lập luận là để chạm
đến ý nghĩa ẩn sâu bên dưới lớp bề mặt ngôn từ. Vì vậy, lập luận còn có ý nghĩa
quan trọng trong việc truyền tải nội dung, mục đích của cuộc giao tiếp.
“Chí Phèo” là truyện ngắn nổi tiếng của Nam Cao đã được nghiên cứu nhiều
dưới cái nhìn của văn học hay một số ít bài nghiên cứu về ngôn ngữ học
(linguistics) có liên quan đến Chí Phèo. Tuy nhiên, từ trước đến nay, việc khảo sát
và tìm hiểu Chí Phèo chưa được ai nghiên cứu một cách thấu triệt, mà chỉ giới hạn
ở một số vấn đề nhất định, sẽ được chúng tôi trình bày trong phần lịch sử nghiên
cứu vấn đề. Do đó, chúng tôi chọn Chí Phèo của Nam Cao để nghiên cứu về lập
luận nhằm mang đến những kiến giải mới về tác phẩm được coi là đã quá quen
thuộc với mọi người Việt về các đặc trưng ngữ nghĩa (Semantics), ngữ dụng của
truyện như: diễn biến tâm lí, tình cảm… và những dụng ý sâu xa của nhà văn và

các nhân vật mà cách tiếp cận khác khó có thể lí giải được.
Có thể nghiên cứu lập luận ở nhiều góc độ khác nhau như: tác tử
(operator/factor) lập luận, kết tử (connector) lập luận, lẽ thường (common/topos)
của lập luận…Song, đề tài này nghiên cứu lập luận dưới các góc độ sau: Bước đầu
là nhận diện, từ đó, trong chừng mực nhất định chúng tôi sẽ tái hiện lại các lập
luận; bước tiếp theo là phân tích chúng dưới các bình diện ngữ nghĩa và ngữ dụng
nhằm lí giải ý nghĩa và cách sử dụng của chúng trong diễn ngôn.
Như vậy, việc nghiên cứu đề tài này là rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay
dưới cái nhìn của lý thuyết ngôn ngữ học.

1


2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Với đề tài này chúng tôi đi tìm hiểu các vấn đề của lập luận, hướng đến
nghiên cứu các kiểu, loại, tiểu loại lập luận trong truyện ngắn “Chí Phèo” của Nam
Cao để nhằm chỉ ra đặc điểm ngữ nghĩa, ngữ dụng của truyện. Từ đó, có thể thấy
được sự suy tính, sự biện giải và các dụng ý của nhân vật trong các ngữ cảnh
(context) mà tác giả muốn truyền tải.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nhận diện, thống kê, phân loại, so sánh các kiểu, loại, tiểu loại lập luận.
- Phân tích, lí giải, chỉ ra các đặc điểm ngữ nghĩa, ngữ dụng và cách sử dụng
lập luận trong diễn ngôn.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Lập luận trong truyện ngắn “Chí Phèo” của Nam Cao (2/ 1941).
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi khảo sát là truyện ngắn “Chí Phèo” của Nam Cao được in trong tập
Tinh hoa văn học Việt Nam “Truyện ngắn Nam Cao” – Nhà xuất bản Văn học –

Công ty Cổ phần Văn hóa và Truyền thông Liên Việt, năm 2016.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
4.1. Ý nghĩa khoa học
Khóa luận góp phần củng cố và làm sâu sắc thêm lí thuyết về lập luận.
4.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Khóa luận đã giải quyết triệt để các cách lập luận của Nam Cao trong truyện
ngắn Chí Phèo.
- Khóa luận cung cấp những gợi dẫn hữu ích trong việc lĩnh hội và tạo lập
lập luận, góp phần nâng cao hiệu quả giao tiếp.
- Khóa luận có thể sử dụng làm tài liệu giảng dạy và học tập về các kiểu lập
luận trong truyện Chí Phèo ở các trường phổ thông, cao đẳng và đại học.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài vận dụng các phương pháp và thủ pháp nghiên cứu ngôn ngữ học chủ
yếu sau:

2


5.1. Phương pháp miêu tả
Phương pháp này được áp dụng nhằm miêu tả các lập luận và ngữ nghĩa của
chúng trong các phát ngôn có chứa các lập luận.
5.2. Phương pháp phân tích diễn ngôn
Phương pháp này nhằm phân tích ngữ nghĩa của các diễn ngôn một cách triệt
để và sâu sắc các ý nghĩa, các dụng ý của nhân vật và của tác giả.
Ngoài các phương pháp nghiên cứu trên, chúng tôi còn sử dụng các thủ
pháp: so sánh, thống kê – phân loại ngôn ngữ học nhằm phân xuất ra thành các
kiểu, loại, tiểu loại lập luận và so sánh về tỉ lệ giữa chúng. Từ kết quả định lượng
này làm cơ sở cho các nhận định mang tính định tính của chúng tôi.
6. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được triển khai thành ba chương:

Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí thuyết
Chương 2: Lập luận trong “Chí Phèo” của Nam Cao
Chương 3: Hiệu quả của lập luận trong truyện ngắn “Chí Phèo”

3


CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT
1.1. Lịch sử vấn đề
“Lập luận từ lâu đã được nhiều nhà ngôn ngữ học quan tâm tìm hiểu và
nghiên cứu, mở đầu là các nhà ngôn ngữ học phương Tây. Trước đây, lập luận được
nghiên cứu trong tu từ học (rhetoric) và logic học (logicalogy). Mặc dù ra đời sớm
nhưng sang nửa đầu thế kỉ XX, lí thuyết lập luận mới được quan tâm thích đáng.
Những năm 70 của thế kỉ XX, hai nhà ngôn ngữ học Pháp là Oswald Ducrot và Jean
Claude Anscombre đã đặc biệt quan tâm tới bản chất ngữ dụng học của lập luận, từ
đó đã phát triển lí thuyết này” [31].
Ở Việt Nam, cho đến trước năm 1993, lí thuyết lập luận (argument theory)
còn khá xa lạ với ngôn ngữ học, kể cả các nhà nghiên cứu quan tâm đến ngữ dụng
học. Trong những thập niên gần đây, một số nhà Việt ngữ học đã quan tâm nghiên
cứu và giới thiệu lí thuyết lập luận vào Việt Nam như: Diệp Quang Ban [1],
Đỗ Hữu Châu [3], Nguyễn Đức Dân [7]…từ cơ sở đó đã mở đường cho nhiều luận
án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ nghiên cứu về lập luận.
Lí thuyết lập luận được các tác giả trình bày trong nhiều công trình nghiên
cứu như: Nguyễn Đức Dân trong cuốn Nhập môn logic hình thức, phi logic hình
thức (2005), Diệp Quang Ban trong cuốn Giao tiếp, diễn ngôn và cấu tạo của văn
bản (2009), Đỗ Hữu Châu trong cuốn Đại cương ngôn ngữ học (tập 2- 2010)…Qua
các công trình trên, ta thấy ít nhiều các nhà nghiên cứu đã chú ý đến lập luận, tuy
nhiên mới chỉ dừng lại ở mức độ khái quát về lí thuyết mà chưa nghiên cứu chuyên
sâu về lập luận trong một văn bản cụ thể. Nghiên cứu chuyên sâu về lập luận có một

số luận án tiến sĩ như của Huỳnh Thị Chuyên với luận án Ngôn ngữ bình luận trong
báo in tiếng việt hiện nay, LATS Ngữ văn, năm 2014 và của Trần Trọng Nghĩa với
luận án Lập luận trong tiểu phẩm trào phúng, LATS Ngữ văn, năm 2015. Và các
bài nghiên cứu như của Phạm Thị Mai Hương, Ngôn ngữ hội thoại của Thúy Kiều
dưới góc nhìn của lí thuyết lập luận, kỷ yếu hội tháo khoa học cán bộ trẻ các trường
Đại hoc Sư phạm toàn quốc lần thứ V (Trường Đại học sư phạm Hà Nội). Nguyễn
Thị Thu Trang đã công bố bài viết Kết tử đồng hướng với việc tổ chức lập luận
trong tiếng Việt trên tạp chí Ngôn ngữ và đời sống (số 6/2012). Năm 2016, Nguyễn
Thị Thu Trang và Nguyễn Thị Thu Hương với luận văn Lập luận qua đoạn văn
4


miêu tả nhân vật Thị Nở trong truyện ngắn “Chí Phèo” của Nam Cao (Trường Đại
học Khoa học – Đại học Thái Nguyên) và Hoàng Thị Thanh Huyền có bài Cấu trúc
của một số lập luận phức hợp trong câu ghép tiếng Việt trên tạp chí Từ điển học và
Bách khoa thư, năm 2014.
Có thể nói, nhìn tổng quát mảng lập luận nói chung đã thu hút được sự quan
tâm của một số nhiều nhà nghiên cứu ngôn ngữ. Tuy nhiên cho đến nay, số lượng
các công trình liên quan chưa nhiều và việc khảo sát toàn bộ các vấn đề của lập luận
còn hạn chế. Đặc biệt, các bài nghiên cứu về lập luận trong một tác phẩn văn học
(văn bản) cụ thể lại vô cùng ít. Từ đó, ta thấy việc tìm hiểu lập luận trong “Chí
Phèo” của Nam Cao là vô cùng cần thiết và có ý nghĩa sâu sắc.
1.2. Cơ sở lí thuyết về lập luận
Trong chương một này chúng tôi trình bày cơ sở lí thuyết về lập luận làm
điểm tựa cho nghiên cứu của chúng tôi ở chương hai. Tuy nhiên, nghiên cứu về tác
phẩm Chí Phèo của nhà văn Nam Cao thì không thể không nêu khái quát về cuộc
đời và sự nghiệp sáng tác của Ông. Đồng thời cũng không thể không nêu một cách
khái lược về tác phẩm Chí Phèo. Việc nêu khái lược về tác gia và tác phẩm nhằm
đưa đến cái nhìn toàn cảnh về vấn đề mà chúng tôi lựa chọn nghiên cứu. Ngoài ra,
chúng tôi cũng trình bày lịch sử nghiên cứu về lí thuyết lập luận nói chung và

nghiên cứu lập luận trong Chí Phèo nói riêng. Chính vì thế, phần cơ sở lí thuyết sẽ
được trình bày sau phần khái lược về tác giả, tác phẩm và lịch sử nghiên cứu vấn
đề. Sau từng vấn đề sẽ được trình bày một cách khái quát nhất.
1.2.1. Các quan niệm về lập luận
Trong cuộc sống, con người luôn dùng đến lập luận để chứng minh, giải
thích hay bác bỏ một ý kiến nào đó. Lập luận có tầm quan trọng đặc biệt, đó chính
là cơ sở để giải quyết mọi vấn đề. Dưới góc độ nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ
học, thuật ngữ trên được hiểu theo nhiều cách khác nhau:
Theo Từ điển tiếng việt, lập luận là hành động “sắp xếp lí lẽ một cách có hệ
thống để trình bày, nhằm chứng minh cho một kết luận về một vấn đề”.[22, tr.551];
Diệp Quang Ban quan niệm “Trong việc trình bày các ý kiến, người ta có thể
từ ý kiến này rút ra ý kiến khác bằng những suy lí. Việc đưa ra những luận cứ (căn
cứ để lập luận) nhằm đạt đến một kết luận nào đó (mang tính thuyết phục) được gọi
là lập luận” [1, tr.321].
Đỗ Hữu Châu cho rằng: “Lập luận là đưa ra những lí lẽ nhằm dẫn dắt người
5


nghe đến một kết luận hay chấp nhận một kết luận nào đấy mà người nói muốn đạt
tới” [5; tr.155].
Nguyễn Đức Dân cho rằng: “Lập luận là một hoạt động ngôn từ. Bằng công
cụ ngôn ngữ, người nói đưa ra những lí lẽ nhằm dẫn dắt người nghe đến một hệ
thống xác tín nào đó: rút ra một ( một số) kết luận hay chấp nhận một ( một số) kết
luận nào đó” [7; tr.165].
Như vậy, hầu hết các nhà nghiên cứu đều thống nhất rằng: “Lập luận là đưa
ra những lí lẽ (argument/reason) nhằm dẫn dắt người nghe đến một kết luận
(conclution) nào đấy mà người nói muốn đạt tới”.
Lập luận là một hành động ở lời có đích thuyết phục, một phát ngôn đóng
vai trò đặc biệt quan trọng trong điều khiển hoạt động giao tiếp của con người. Khi
giao tiếp, bao giờ người nói cũng có mục đích nhất định, vì vậy để đạt được mục

đích, họ phải dùng những lí lẽ, dẫn chứng nhằm dẫn dắt người nghe hướng đến một
kết luận nào đó mà người nói muốn đạt tới. Trong ngôn ngữ viết, lập luận nhằm
mục đích thuyết phục người đọc. Vì vậy, lập luận đóng vai trò là yếu tố cấu thành
nên văn bản. Một văn bản được cấu thành bởi nhiều yếu tố khác nhau nhưng lập
luận là yếu tố quan trọng nhất quyết định thành công của văn bản, là hoạt động
chính trong giao tiếp giữa tác giả với độc giả. Để đạt được mục đích, tác giả cần
đưa ra hàng loạt lí lẽ, dẫn chứng để chứng minh, thuyết phục người đọc tin hoặc
thực hiện theo.
Như vậy, lập luận là hiện tượng diễn ra hàng ngày trong tất cả các cuộc giao
tiếp, là quan hệ xuyên suốt một diễn ngôn, một văn bản. Lập luận có mặt ở khắp
nơi, trong bất cứ diễn ngôn nào, đặc biệt là trong các diễn ngôn đời thường.
Quan hệ lập luận (argument relationship) có thể được biểu diễn theo mô hình sau:
P, Q  R
Mô hình kí hiệu về lập luận ở trên được hiểu như sau: P, Q và R đều là các
thành phần của lập luận. Trong đó: P, Q là các lí lẽ; R là kết luận; giữa P, Q, R có
quan hệ lập luận và tổ hợp P, Q… R được gọi là một lập luận. Trong quan hệ lập
luận, lí lẽ được gọi là luận cứ (LC). Vậy có thể nói quan hệ lập luận là quan hệ
giữa (một hoặc một số) luận cứ với kết luận. Tuy nhiên, do có những lập luận có
nhiều lí lẽ (luận cứ) nên chúng tôi kí hiệu các luận cứ là P và được đánh số thứ tự
để tiện theo dõi. Do đó, kí hiệu Q sẽ không được sử dụng trong đề tài này.

6


Lập luận thường vận động trong diễn ngôn, tức khi nói hoặc viết bản thân
mỗi phát ngôn đã tồn tại lập luận hoặc tiềm ẩn có lập luận. Tuy nhiên, không phải
lúc nào người nói cũng nhận thức được rằng mình đang lập luận, tức nói mà không
có chủ ý (vô thức). Vận động lập luận là một chiến lược hội thoại nhằm dẫn dắt
người nghe, người đọc nắm bắt được kết luận mà người lập luận muốn hướng tới.
Nói như vậy không có nghĩa cứ lập luận là thuyết phục được người nghe, người

đọc. Trong thực tiễn giao tiếp, nhiều khi lập luận được xác lập dựa trên những lí lẽ
và những bằng chứng xác đáng nhưng vẫn không thuyết phục được người tiếp nhận.
Để lập luận thành công, ngoài các luận cứ xác đáng còn phải hội tụ các yếu tố
khác. Theo Aristot, đó là các yếu tố: cơ hội, tính biểu cảm của lời nói và thái độ
của người nghe v.v…
Nói tóm lại, lập luận là trình bày những lí lẽ của mình để thuyết phục người
khác tin và theo mình, là hoạt động hướng tới đích thuyết phục.
Mục đích của lập luận là giải quyết hai vấn đề sau:
Về lí thuyết: Lập luận đi tới một cái đích về giá trị chân lí, thường thấy
trong các lập luận mang tính khoa học, hàn lâm.
Về thực tiễn: Lập luận để đi tới một cái đích về tính hiệu quả, thường thấy
trong các lập luận phi hình thức, những kiểu nói năng thông thường hàng ngày.
Để giải quyết được các nội dung nghiên cứu, bài viết chủ yếu dựa vào cơ
sở lí thuyết mà Diệp Quang Ban đã đưa ra trong “Giao tiếp, diễn ngôn và cấu
tạo của văn bản” [2].
1.2.2. Cấu trúc của lập luận
1.2.2.1. Tác tử và kết tử lập luận
Như chúng tôi đã trình bày ở trên, trong các lập luận thường có sự hiện diện
của các biểu thức ngôn ngữ mang tính định hướng, gọi là các tác tử, kết tử lập luận.
* Tác tử lập luận
“Tác tử lập luận là yếu tố ngôn ngữ mang tính xúc tác khi ta đưa vào một nội
dung miêu tả nào đó nó sẽ làm nảy sinh giá trị lập luận, là yếu tố dùng để liên kết lí
lẽ với lí lẽ hoặc lí lẽ với kết luận.”
Ví dụ: “10 giờ”
“Mới 10 giờ thôi”  Còn sớm
“Đã 10 giờ rồi”  Đã muộn

7



Trong ví dụ trên, “mới” và “đã” là những tác tử lập luận được thêm vào làm cho
phát ngôn có nghĩa.
Như vậy tác tử lập luận có chức năng định hướng, hay báo hiệu một tiềm
năng về hướng đến tiếp theo cho phát ngôn. Các tác tử lập luận thường được sử
dụng là các từ định hướng như: tuy, nhưng, những, và, vả lại, hơn thế, trái lại, mặt
khác, bao nhiêu, bấy nhiêu, hễ, vậy mà.v.v.
* Kết tử lập luận
“Kết tử lập luận là những yếu tố phối hợp hai (hoặc hơn hai) phát ngôn thành
một lập luận duy nhất. Để đạt được đích thuyết phục và tránh lan man, kết tử lập
luận làm nhiệm vụ kết nối và đồng thời cũng là dấu hiệu để nhận biết định hướng
của lập luận. Kết tử lập luận được phân thành hai loại: kết tử đồng hướng và kết tử
nghịch hướng.”
Theo Đỗ Hữu Châu, kết tử đồng hướng có các kết tử sau: và, hơn nữa, thêm
vào đó, vả lại, lại, còn, đã … lại, chẳng những … mà còn, huống hồ…, huống
chi…, quả vậy, thật vậy, nữa là…
Ta có mô hình:
P (X) Q → R
Trong đó, P và Q là các luận cứ, X là kết tử đồng hướng, R là kết luận.
Ví dụ: „„Chiếc xe này chẳng những đẹp (P) mà còn hợp với túi tiền (Q) nên
mua (R)”. Trong đó, “Đã…lại” là kết tử đồng hướng thực hiện chức năng dẫn nhập
luận cứ, nối luận cứ với kết luận.
Kết tử nghịch hướng là những kết tử như: nhưng, thế mà, thực ra, tuy nhiên,
tuy vậy, tuy… nhưng…Khác với kết tử đồng hướng, kết tử nghịch hướng được sử
dụng nhằm mục đích liên kết các lí lẽ hay luận cứ nghịch hướng với nhau. Ta cũng
có mô hình sau:
P (Y) Q  R
Trong đó, P và Q là những luận cứ nghịch hướng nhau, Y là kết tử nghịch hướng,
còn R là kết luận.
Ví dụ: “Chiếc xe này đẹp (P1) nhưng đắt (Q) không mua (R)”. “Nhưng” là
kết tử nghịch hướng thể hiện sự nghịch hướng lập luận.

1.2.2.2. Các quan hệ lập luận
Lập luận có vai trò rất quan trọng trong đời sống. Lập luận giúp con người
trình bày, triển khai vấn đề, đưa ra những lí lẽ, dẫn chứng để thuyết phục người
8


nghe. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp không phải lúc nào lập luận cũng bao gồm
các yếu tố đồng hướng để đưa đến một kết luận mà còn bao hàm các yếu tố nghịch
hướng đưa đến một kết luận khác. Vì vậy, quan hệ của lập luận là quan hệ giữa các
luận cứ với kết luận.
Người ta chia chia quan hệ lập luận thành 2 loại : Lập luận đồng hướng và
lập luận nghịch hướng.
* Lập luận đồng hướng
Lập luận đồng hướng là lập luận bao gồm các luận cứ đồng hướng, hỗ trợ, bổ
sung cho nhau để cùng đưa đến một kết luận chung, mang tính cụ thể, rõ ràng.
Ví dụ : „„Chiếc váy này đẹp (P), lại hợp thời trang (Q), mua nó đi (R)‟‟.
Trong đó, P và Q là hai luận cứ đồng hướng nhau vì cùng đưa đến kết luận là „„mua
nó đi.‟‟
* Lập luận nghịch hướng
Lập luận nghịch hướng là lập luận bao gồm các luận cứ nghịch hướng nhau,
không cùng hướng đến một kết luận chung.
Ví dụ : „„ Chiếc váy này đẹp (P), nhưng đắt (Q), đừng mua (R) ‟‟.
Trong đó, P và Q là hai luận cứ nghịch hướng, luận cứ P hướng đến kết luận là mua
nhưng luận cứ Q lại hướng đến kết luận là không nên mua.
Trong một lập luận có thể có nhiều luận cứ nhưng chỉ có duy nhất một kết
luận. Vì vậy, khi lập luận phải biết cách sắp xếp sao cho hợp lí, luận cứ đứng trước
bổ sung cho luận cứ đứng sau, luận cứ đứng sau có tác dụng lập luận mạnh hơn và
là cơ sở để dẫn đến kết luận. Giữa chúng có mối quan hệ khăng khít không thể tách
dời.
1.2.3. Các kiểu lập luận

Theo Diệp Quang Ban: “có hai kiểu lập luận khái quát khác nhau về độ phức
tạp là lập luận phức tạp (tam đoạn luận) và lập luận đơn giản (đời thường). Lập luận
phức tạp thường được dùng trong lĩnh vực khoa học còn lập luận đơn giản được
dùng trong đời sống hàng ngày” [2; tr.322-327]. Hai kiểu lập luận này còn có thể
gọi là: lập luận theo diễn từ chuẩn mực và lập luận trong ngôn ngữ.
1.2.3.1. Lập luận theo diễn từ chuẩn mực
Lập luận theo diễn từ chuẩn mực là kiểu lập luận do ít nhất hai phát ngôn có
quan hệ suy diễn logic tạo thành. Từ phát ngôn này sẽ suy ra phát ngôn kia theo

9


những quy luật logic xác định. Dựa trên các sự kiện và các quy tắc suy diễn logic,
một lập luận sẽ được thực hiện và sẽ không có vấn đề gì phải bàn cãi nữa.
Nguyễn Đức Dân cho rằng “ Một lập luận có 3 thành tố logic là: tiền đề
(LC), kết đề (KL) và lí lẽ” [7; tr.196]. Tiền đề (premise) là dữ kiện xuất phát làm
căn cứ cho lập luận. Kết đề là một khẳng định đích hay mục tiêu. Lí lẽ là những yếu
tố mà nhờ nó từ tiền đề chúng ta suy ra kết đề. Những yếu tố này có thể là những
nguyên lí, quy luật tự nhiên, những định lí, định luật, quy tắc trong các ngành
khoa học tự nhiên, kĩ thuật và cũng có thể là những lí lẽ trong logic đời thường.
Trần Thế Hùng cho rằng: “Trong cùng một phát ngôn, ta có thể trình bày
luận cứ của lập luận này nhưng lại là kết luận của lập luận khác và ngược lại.”
Như vậy, lập luận theo diễn từ chuẩn mực phải đảm bảo được tính logic theo
những quan hệ logic xác định.
Ví dụ: Lập luận trong khoa học
Đại tiền đề (ĐTĐ): Tam giác vuông là tam giác có một góc vuông (ĐTĐ định lí đã được các nhà toán học chứng minh, có giá trị chung đối với mọi tam
giác vuông).
Tiểu tiền đề (TTĐ): Tam giác ABC có một góc vuông (TTĐ – điều này được
người làm toán chứng minh, có giá trị đối với tam giác ABC).
Kết luận (KL): Tam giác ABC là tam giác vuông (KL – có giá trị riêng với

tam giác ABC).
ĐTĐ là định lí, TTĐ đúng  KL đúng và ngược lại.
1.2.3.2. Lập luận trong ngôn ngữ
Khác với kiểu lập luận theo diễn từ chuẩn mực, lập luận trong ngôn ngữ tuân
thủ những quy tắc ngôn từ trong lập luận. “Trong hoạt động ngôn từ có những biểu
thức ngôn ngữ mang tính định hướng cho một kết luận nào đó. Mỗi phát ngôn
ngoài nghĩa văn bản còn có tiềm năng ngữ nghĩa tạo ra chuỗi liên kết với các phát
ngôn khác. Nghĩa là cần nhìn nhận chức năng ngữ dụng của một phát ngôn trong
một chuỗi các phát ngôn đi với nó.”
Ví dụ: Chiếc xe này rẻ  Mua đi
Chiếc xe này rẻ thế  Đừng mua
Hai lập luận này trái ngược nhau (đưa đến kết luận trái ngược nhau) vì lập
luận thứ nhất dựa trên lập trường của người tiêu dùng là thích mua đồ rẻ còn lập
luận thứ hai lại dựa vào lí lẽ của rẻ là của ôi không nên mua.
10


1.2.4. Lẽ thường trong lập luận
Lẽ thường trong tiếng Anh là topo, tiếng Pháp là topos, gốc tiếng Hi Lạp là
Topicos có nghĩa là lí lẽ dùng chung. Theo O.Ducrot: “Lẽ thường là những chân lí
thông thường có tính chất kinh nghiệm, không có tính tất yếu, bắt buộc như các tiền
đề logic, mang đặc thù địa phương hay dân tộc, có tính khái quát, làm cơ sở để lập
nên các lập luận riêng.” [5, tr.191]
Tất cả các phát ngôn của chúng ta bị chi phối bởi một (hoặc một số) phát
ngôn có lẽ thường. Đó là những câu thức xã hội có khi vô hình, có khi vô thức
nhưng lại quyết định chặt chẽ lời nói và cách cư xử của con người trong đời sống
xã hội. Việc phát hiện ra lẽ thường là phát hiện ra chiều sâu ngôn ngữ và văn hóa
đạo đức của con người. Lẽ thường được sử dụng phổ biến trong các hiện tượng nói
năng của con người nhằm đạt được sự phù hợp với mục đích và tình thế hội thoại.
Chúng tôi xét ví dụ sau: “Bao giờ trạch đẻ ngọn đa, sáo đẻ dưới nước thì ta

lấy mình”. Câu ca dao trên đã dùng nghịch ngữ, tức đã nói ra điều mà trái với lẽ
thường, Theo lẽ thường thì trạch là một loài cá sống trong môi trường nước, không
thể sống thiếu nước, nếu tách ra khỏi nước thì trạch sẽ chết. Còn sáo là một loài
chim sống và làm tổ trên cây nên sáo không thể đẻ trứng dưới nước. Do đó, cô gái
trong lời ca dao đã dùng lí lẽ nghịch ngữ (luận cứ) để đi đến kết luận việc lấy
“mình” sẽ không bao giờ xảy ra. Vì việc “ta” lấy “mình” cũng giống như trạch đẻ
ngọn cây và sáo đẻ dưới nước, sẽ là điều nực cười và không tưởng.
1.2.5. Tiền giả định và hàm ý
Cũng giống như lẽ thường, tiền giả định (presupposition) là những hiểu biết
chung mà các bên tham gia giao tiếp đều đã có sẵn, mà các nhân vật giao tiếp mặc
nhiên thừa nhận. Tiền giả định là cơ sở để tạo ra nghĩa tường minh. Trong một phát
ngôn có nhiều tiền giả định và tiền giả định thì bị ràng buộc bởi quy chuẩn đúng –
sai. Câu P có tiền giả định Q, việc xác định nội dung tiền giả định tuân theo quy
tắc chân thực:
P

Q

đúng 

đúng

đúng 

sai



sai


Ø

Xét ví dụ sau: “Nó lại thi trượt đại học rồi”
P(1)  Q: Nó đã thi đại học > 1 lần
11


P(2)  Q: Lần nào thi cũng trượt
P(Ø)  Q: Lần này lại thi trượt tiếp
Trong giao tiếp hàng ngày, ta hay dùng tiền giả định bách khoa (còn gọi là
tiền giả định giao tiếp) là một trong những loại tiền giả định cùng với hàm ý hợp
thành nghĩa hàm ẩn.
Theo Đỗ Hữu Châu “Tiền giả định bách khoa bao gồm tất cả những hiểu
biết về hiện thực bên trong và bên ngoài tinh thần của con người mà các nhân vật
giao tiếp có chung trên nền tảng đó mà nội dung giao tiếp được hình thành và diễn
tiến” [5 ; tr.395].
Ví dụ: “Bây giờ là 11 giờ đêm rồi”. Đây là một phát ngôn có nghĩa hàm ẩn là
đã muộn nên cần đi ngủ ngay.
Theo Nguyễn Đăng Khánh [18], người Việt thường có lối nói vòng vo có
hàm ý, và hay sử dụng các biện pháp tu từ. Bởi lẽ, những lối nói như thế sẽ tạo nên
sự phong phú và sức lôi cuốn của câu chuyện. Chúng ta giả định, nếu tất cả các
phát ngôn đều hiển ngôn, tường minh; hay nói cách khác, nếu tách những lối nói
có hàm ý ra khỏi đời sống giao tiếp, thì bức tranh ngôn ngữ sẽ đơn điệu và khô
khan tới mức nào?
1.2.6. Lập luận và hành động ngôn ngữ
Trong cuộc sống hằng ngày, con người thực hiện rất nhiều hành động khác
nhau từ các hành động cơ thể đến hành động tư duy…Trong đó có một loại hành
động đặc biệt là hành động ngôn ngữ (speech act). Hành động ngôn ngữ được thực
hiện nhờ phương tiện ngôn ngữ. Theo C. Austin cho rằng có ba loại hành động
ngôn ngữ lớn: hành động tạo lời (locutionary act), hành động mượn lời

(perlocutionary act) và hành động ở lời (illocutionary act). Tuy nhiên, đề tài này chỉ
nghiên cứu lập luận trong các hành động ở lời.
Hành động ở lời là một hành động được thực hiện ngay khi nói năng, gồm hai
loại: hành động ở lời trực tiếp và hành động ở lời gián tiếp.
1.2.6.1. Lập luận và hành động ở lời trực tiếp
Hành động ở lời trực tiếp là hành động được sử dụng một cách trực tiếp
nhằm đạt hiệu lực ở lời đúng hành động ngôn ngữ ấy. Lập luận trong hành động ở
lời trực tiếp thường dễ nhận thấy (tường minh).
Ví dụ: “Tôi sẽ đi lên gác”. Hành động ở lời trực tiếp ở đây là chủ thể “tôi”
trực tiếp thực hiện một hành động là “đi lên gác”.
12


1.2.6.2. Lập luận và hành động ở lời gián tiếp
Hành động ngôn ngữ gián tiếp là hành động có hình thức diễn đạt và mục
đích diễn đạt không phù hợp nhau. Nói cách khác, đây là kiểu hành động ngôn ngữ
mà khi nói người ta sử dụng hành động ngôn ngữ này nhưng lại nhằm đạt hiệu quả
ở lời của một hành động ngôn ngữ khác.
Ví dụ: “Giá ai bê hộ chậu cây này lên gác nhỉ!”
Hành động ở lời trực tiếp: bộc lộ mong muốn, hành động ở lời gián tiếp: đề
nghị anh bê hộ. Ở ví dụ này, hành động đề nghị có thể đạt được hiệu quả tại lời
trong một ngữ cảnh nhất định: người nói là một cô gái, người nghe là một nam
giới khỏe mạnh.
Trong giao tiếp, hành động ngôn ngữ gián tiếp có vai trò hết sức quan trọng.
Để diễn đạt một điều gì đó không phải lúc nào cũng có thể nói ra một cách tường
minh, trực tiếp mà có những trường hợp phải dùng lối nói gián tiếp mới đem lại
hiệu quả như ý muốn. Vì vậy, hành động ngôn ngữ gián tiếp chính là một trong
những cơ chế tạo ra ý nghĩa hàm ẩn cho lời nói. Sử dụng hành động ngôn ngữ gián
tiếp hợp lí sẽ góp phần tạo nên hiệu quả cao trong giao tiếp.
1.3. Khái quát về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Nam Cao

1.3.1. Vài nét về cuộc đời tác giả Nam Cao
Nam Cao tên thật là Trần Hữu Tri (1917 – 1951), trong một gia đình trung
nông nghèo tại làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, Phù Nhân, tỉnh Hà
Nam (nay thuộc xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam).
Trước Cách mạng tháng Tám, Nam Cao sống bằng ngòi bút và nghề dạy học.
Tác giả sử dụng nhiều bút danh trong thời kỳ đầu vào nghề như Thúy Rư, Nhiêu
Kha, Xuân Du và ổn định hẳn với bút danh Nam Cao qua tác phẩm “Đôi lứa xứng
đôi” (1941), bút danh này do ghép hai chữ đầu tên tổng và huyện mà thành.
Năm 1943, Nam Cao tham gia tổ chức Văn hóa Cứu quốc. Thời kỳ Cách
mạng tháng Tám, ông tham gia phong trào cách mạng ở địa phương, cướp chính
quyền ở phủ Lý Nhân và làm chủ tịch xã một thời gian ngắn. Sau đó, ông lên công
tác ở Hội Văn hóa Cứu quốc Trung ương, là thư ký tòa soạn tạp chí “Tiên phong”
của Hội, có mặt trong đoàn quân Nam tiến. Những năm đầu kháng chiến chống
Pháp, Nam Cao làm báo Cứu quốc trung ương và ông được kết nạp vào Đảng Cộng
sản Việt Nam năm 1947. Từ năm 1940, Nam Cao công tác ở hội Văn nghệ, là ủy

13


viên Tiểu ban văn nghệ Trung ương. Ông tham gia chiến dịch biên giới (1950) và
năm sau đi công tác vào vùng sâu địch hậu (Khu III) ở Ninh Bình và hy sinh ở đây.
1.3.2. Khái quát về các sáng tác của Nam Cao
Có thể kể ra một số tác phẩm tiêu biểu đã làm nên tên tuổi của nhà văn Nam
Cao như sau:
- Đôi lứa xứng đôi (1941) – tập truyện
- Nửa đêm (1944)
- Sống mòn (tiểu thuyết, viết 1944 và in năm 1956)
- Nhiều truyện ngắn in đều kỳ trên báo Tiểu thuyết thứ bảy, Truyện người
hàng xóm đăng ở nhiều kỳ trên Trung Bắc chủ nhật năm 1944, tập truyện Cười
(1946), Truyện biên giới (1951), tập truyện Đôi mắt (1954).

- Các tuyển tập Nam Cao qua nhiều lần tuyển chọn: Nam Cao tác phẩm tập I
(1976), Nam Cao tác phẩm tập II (1977), Tuyển tập Nam Cao tập I (1987), Tuyển
tập Nam Cao tập II (1993) và Nam Cao toàn tập (1999).
Nam Cao được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh (đợt I)
năm 1996.
1.3.3. Đôi nét về Truyện Ngắn “Chí Phèo”
Nam Cao bắt đầu sáng tác từ năm 1936, nhưng đến tác phẩm “Chí Phèo”,
nhà văn mới khẳng định được tài năng của mình. “Chí Phèo” là một kiệt tác trong
văn xuôi Việt Nam hiện đại, một truyện ngắn có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu
sắc, mới mẻ, chứng tỏ trình độ nghệ thuật bậc thầy của một nhà văn lớn.
“Chí Phèo” là một truyện ngắn nổi tiếng của nhà văn Nam Cao viết vào
tháng 2 năm 1941. Đây là một tác phẩm xuất sắc, thể hiện nghệ thuật viết truyện
độc đáo của Nam Cao, đồng thời là một tấn Bi kịch của một người nông dân nghèo
bị tha hóa trong xã hội.
1.3.3.1. Hoàn cảnh sáng tác
Dựa vào những cảnh thật, người thật mà Nam Cao được chứng kiến và nghe
kể về làng Đại Hoàng quê mình, bức xúc trước hiện thực tàn khốc, Nam Cao viết
thành truyện vào tháng 2 năm 1941.
1.3.3.2. Nhan đề của truyện
Truyện ngắn Chí Phèo, nguyên có tên là “Cái lò gạch cũ”; khi in thành sách
lần đầu năm 1941, Nhà Xuất bản Đời mới - Hà Nội tự ý đổi tên là “Đôi lứa xứng

14


đôi”. Đến khi in lại trong tập “Luống cày” (do Hội Văn hóa cứu quốc xuất bản, Hà
Nội, 1946), Nam Cao đặt lại tên là “Chí Phèo”.
Nhan đề đầu tiên: “Cái lò gạch cũ” để nói lên sự ra đời của Chí Phèo mà
không được hưởng bất cứ quyền sống nào của con người, sự luẩn quẩn bế tắc, gắn
với hình ảnh Chí Phèo ở đầu truyện và cuối truyện. "Cái lò gạch cũ" như là biểu

tượng về sự xuất hiện tất yếu của hiện tượng Chí Phèo, gắn liền với tuyến chủ đề
chính của tác phẩm.
Nhan đề hai: "Đôi lứa xứng đôi" do nhà xuất bản Đời mới – Hà Nội, 1941
đặt dựa vào mối tình giữa Chí Phèo - thị Nở, nhan đề này mang tính giật gân, phù
hợp với thị hiếu của một lớp công chúng bấy giờ.
Nhan đề ba: "Chí Phèo" do chính Nam Cao thay đổi khi in truyện ngắn này
vào tập "Luống cày" do Hội Văn hóa cứu quốc xuất bản, Hà Nội, 1946. Ông lấy tên
nhân vật trung tâm đặt tên truyện. Với nhan đề này thì mọi giá trị của tác phẩm đều
hiện hữu một cách sâu sắc bởi tựa đề đã đề cập tới một số phận cụ thể, số phận ấy
mang cả giá trị hiện thực lẫn giá trị nhân đạo.
1.3.3.3. Tóm tắt nội dung của truyện
Chí Phèo là một đứa trẻ bị bỏ rơi trong lò gạch cũ và được nhặt về nuôi. Lớn
lên, Chí đi ở hết nhà này đến nhà khác. Năm 20 tuổi, hắn làm canh điền cho Bá
Kiến. Vì nghi ngờ Chí có gian tình với bà ba nên Bá Kiến cho Chí đi tù.
Ra tù, Chí bị lưu manh hóa. Hắn trở thành tay sai đắc lực của Bá Kiến,
chuyên đâm thuê chém mướn, rạch mặt ăn vạ. Hắn phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập
nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc. Chí trở thành con quỷ dữ
của làng Vũ Đại.
Vào một đêm trăng, Chí Phèo uống rượu say. Khi về hắn định ra sông tắm
thì gặp thị Nở, hắn ăn nằm với thị. Gần sáng Chí bị cảm và được thị Nở cho ăn cháo
hành, hắn ăn năn và muốn làm hòa với mọi người.
Chí sống với thị như vợ chồng được mấy hôm nhưng đến hôm thứ sáu, Chí
bị thị xỉa xói vào mặt và bị cự tuyệt. Chí Phèo ngẩn mặt ra, chạy theo thị Nở và bị
giúi cho một cái ngã lăn xuống đất. Hắn toan đập đầu ăn vạ nhưng hắn chưa thật
say. Và hắn uống rượu, càng uống càng tỉnh, càng nhớ cái cuộc đời mình. Hắn vác
dao đến nhà Bá Kiến để đòi lương thiện. Chém chết Bá Kiến, hắn đâm cổ tự sát.
Thị nhìn nhanh xuống bụng mình, và thoáng chợt thấy một cái lò gạch cũ bỏ
không, xa nhà cửa, và vắng người lại qua…
15



1.3.3.4. Nhân vật và ý nghĩa tên gọi
Truyện ngắn “Chí Phèo” xoay quanh ba nhân vật Chính là Chí Phèo, Bá
Kiến và Thị Nở. Trong đó nhân vật trung tâm của truyện là Chí Phèo – một anh
nông dân hiền lành, lương thiện nhưng bị đẩy vào con đường bần cùng hóa và bị tha
hóa. Nhân vật Bá Kiến và Thị Nở góp phần khắc họa sâu hơn tấn bi Kịch bị cự
tuyệt quyền làm người của Chí. Ngoài ra truyện còn có hệ thống các nhân vật phụ
góp phần làm nổi bật chủ đề của tác phẩm.
- Nhân vật “Chí Phèo”
Theo từ điển tiếng việt:
“Chí” (danh từ) có nghĩa là: Sự quyết tâm, bền bỉ theo đuổi một việc gì
Ví dụ: Nuôi chí lớn; không nản chí trước khó khăn
“Phèo” (danh từ) có nghĩa là: Ruột non đã luộc
Ví dụ: Phèo lợn
“Ở làng Đại Hoàng (quê hương Nhà văn Nam Cao) hồi ấy có lão Trương
Pháo, chuyên làm nghề giết lợn. Ông này thường bắt phèo (ruột non của con lợn) để
bán, vì món này được rất nhiều người khách trong làng ưa chuộng. Chí (hồi đó làm
thuê cho Trương Pháo); Chí cũng học cách bắt phèo cho chủ bán. Chí bắt cũng
ngon như chủ, làm cho khách ăn ai cũng khen ngon. Từ đó, Chí có tên là Chí Phèo;
và làng Đại Hoàng có một người tên Chí, quê quán ở đâu không rõ, người thì cao,
to, béo khỏe. Khi dân làng có việc, Chí thường giúp nhà này, nhà nọ. Các nhà có
máu mặt thường thuê Chí đi đòi nợ, xong việc, cho Chí vài xu đi mua rượu uống.
Uống say, Chí nằm phèo ở ngay đó ngủ nên người ta thường gọi là Chí Phèo”. Đó
là lý do mà Nhà văn Nam Cao đã đặt tên cho nhân vật của mình là Chí Phèo.
Tuy nhiên, theo chúng tôi, Nam Cao đặt tên cho nhân vật của mình là Chí
Phèo vì có dụng ý riêng. Nhà văn muốn nói đến một loại người trong xã hội nửa
thực dân nửa Phong kiến lúc bấy giờ. Đó là con người mang những đặc trưng chung
của của xã hội về tính cách và số phận. Chí Phèo đại diện cho người nông dân Việt
Nam trước Cách mạng tháng Tám hiền lành, lương thiện, có ước mơ, có hoài bão
nhưng bị xã hội đẩy vào cảnh bần cùng và trượt dài trên con đường tha hóa.

- Nhân vật “ Bá Kiến”
Theo từ điển tiếng việt:
“Bá” (danh từ) có nghĩa là:
Tước sau tước hầu trong bậc thang chức tước phong kiến
16


×