Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

Tiểu luận Triết học: về vấn đề Nho giáo và ảnh hưởng VN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.51 KB, 38 trang )

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
VỀ VẤN ĐỀ NHO GIÁO

NHO GIÁO VÀ VIỆT NAM


Tiểu luận triết học

GVHD`: TS. Bùi Văn Mưa

LỜI DẪN:
Nho giáo, còn gọi là đạo Nho hay đạo Khổng là một hệ thống đạo đức, triết học xã
hội, triết lý giáo dục và triết học chính trị do Khổng Tử đề xướng và được các môn đồ
của ông phát triển với mục đích xây dựng một xã hội hài hòa[1], thái bình, thịnh vượng
Nho giáo rất có ảnh hưởng tại ở các nước châu Á là Trung Quốc, Đài Loan, Nhật
Bản, Triều Tiên, Hàn Quốc và Việt Nam. Những người thực hành theo các tín điều của
Nho giáo được gọi là các nhà Nho, Nho sĩ hay Nho sinh.

Nho giáo được xem là hệ tư tưởng có ảnh hưởng sâu rộng và lâu dài đến xã hội Việt
Nam, là nền tảng đạo đức xã hội, đóng góp to lớn vào việc tổ chức nhà nước, duy trì trật
tự xã hội, phát triển kinh tế, sáng tác văn học trong các triều đại quân chủ như Nhà
Lý, Nhà Trần, Nhà Lê, Nhà Nguyễn, trong suốt chiều dài lịch sử[1]. Nho giáo có nguồn
gốc Trung Quốc nhưng phù hợp và dung hòa với đời sống người Việt [2]. Nho giáo từng
bước giúp hình thành nên lối sống, sinh hoạt, đạo đức, cách đối nhân xử thế trong xã hội
Việt Nam[1]. Ảnh hưởng của Nho giáo đối với Việt Nam sâu sắc, là nền tảng của nền văn
minh tại Việt Nam khiến Việt Nam được xếp vào các nước chịu ảnh hưởng của nền Văn
minh Trung Hoa gọi là Vùng văn hóa Đông Á.
Lịch sử Nho giáo
Thời Bắc Thuộc
Đã có một số bằng chứng cho thấy Nho giáo được truyền vào thế kỷ 1 TCN khi ở
Trung Quốc nhà Tây Hán đã đánh bại tập đoàn phong kiến họ Triệu và giành lấy


quyền thống trị và cho lập 3 quận tại Bắc Bộ, tuy nhiên tầm ảnh hưởng Nho giáo còn
rất hạn chế. Việc phổ biến Nho giáo được nhà Tây Hán xem là hành động giáo hóa,
khai minh cho các bộ tộc man rợ bị chinh phục. Nho giáo được du nhập vào Việt
Nam song song với chữ Hán dần Hán hóa ngôn ngữ của người Việt làm nền tảng cho
việc tiếp thu những tri thức về xã hội và tự nhiên, văn học, sử học, triết học, thiên văn
học và y học từ người Trung Hoa cổ đại

Học viên thực hiện: Đinh Văn Bình- Lớp Đêm 1 – Khoá 19 2


Tiểu luận triết học

GVHD`: TS. Bùi Văn Mưa

Thời quân chủ
Đến thế kỷ X, sau chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Quyền, khi người Việt bước sang kỷ
nguyên độc lập, tự chủ và bắt đầu xây dựng nền văn minh Đại Việt trong khuôn khổ của
một nhà nước quân chủ tập quyền, thì xã hội Việt Nam lúc này mới đặt ra những yêu cầu
đối với sự tồn tại và phát triển của Nho giáo ở Việt Nam, đầu tiên phải kể đến là muốn
xây dựng nhà nước quân chủ tập quyền thì phải truyền bá Nho giáo đến người dân, nhằm
củng cố quyền lực trung ương, duy trì trật tự xã hội. Tuy nhiên, ở các triều đại quân chủ
đầu tiên sau khi Việt Nam giành độc lập, Nho giáo vẫn chưa có vai trò đáng kể trong đời
sống chính trị, tinh thần của xã hội Việt Nam. [5] Trước thế kỷ XI (thành lập Văn Miếu,
Quốc Tử Giám) và có lẽ còn muộn hơn đến thế kỷ XIV, ảnh hưởng của Nho giáo còn mờ
nhạt. Từ thời Nhà Hậu Lê, Nho giáo bắt đầu có ảnh hưởng lớn tại Việt Nam. Nho giáo
được du nhập vào Việt Nam khiến nhà nước được tổ chức theo tinh thần Nho giáo. Quan
hệ vua tôi được chi phối bởi triết lý Nho giáo. Xã hội cũng chịu ảnh hưởng của Nho giáo
như gia đình, dòng họ theo mô hình cửu tộc, tang tế theo lễ của Nho giáo, quan hệ làng
xã và nhà nước, tôn ti trật tự trong xã hội, chế độ quân điền được thực hiện. Ngoài việc tế
Trời, thờ cúng thần linh, thờ tổ tiên, người Việt còn thờ Khổng Tử và các bậc tiên hiền

của Nho giáo. Đáng chú ý là có những tín ngưỡng có từ trước nhưng do ảnh hưởng của
Nho giáo đã biến đổi như thờ Trời bằng tế Nam Giao ; tế cha mẹ tổ tiên theo thứ bậc và lễ
tiết, nghi thức để tang và cúng dỗ, thần linh được sắp xếp, phá bỏ dâm từ phong sắc cho
thần linh... Tín ngưỡng địa phương vẫn tồn tại dưới dạng nguyên thủy hoặc biến đổi
trong sự dung hòa với các tôn giáo du nhập từ bên ngoài. Nho giáo là học thuyết rất thực
tế, rất cận nhân tình. Nho giáo không bàn luận đến quỷ thần và cuộc sống sau khi chết.
Tuy Nho giáo nguyên thủy có khái niệm Thiên mệnh nhưng nó không nói đến Thượng
đế, không bàn luận đến các vấn đề siêu hình học cũng như không có quan niệm về ngày
tận thế. Nho giáo tác động đến xã hội trong việc tổ chức nhà nước, xã hội; chỉ đạo giáo
dục, khoa cử; từ đó củng cố luân lý, duy trì trật tự xã hội, làm chỗ dựa cho thể chế và tạo
ra hệ thống triết học làm nền tảng cho nền học thuật. Nho giáo ảnh hưởng sâu trong tầng
lớp trí thức, giúp tạo ra một tâm lý xem trọng việc học, trọng văn hoá, một tinh thần hiếu
học, dầu nghèo khổ cũng đi học, cũng lo cho con cái đi học. Nho giáo giáo dục con người
nhân ái, trọng nghĩa, biết tự kìm chế, giữ gìn đạo đức. Nho giáo tạo ra một giới tinh hoa
có nền tảng học vấn và đạo đức tốt, nắm vững nghệ thuật cai trị quốc gia. Nói tóm lại
Nho giáo giúp tạo ra một xã hội văn minh, trật tự, ổn định.[6]
Tuy nhiên người Việt không tiếp thu Nho giáo đến nơi đến chốn. Về mặt học thuật không
có sự phát triển của kinh học, của cái học nghĩa lý. [6] Họ cũng không lĩnh hội được chiều
sâu của Nho giáo. Nho giáo Việt Nam là sự giản lược hóa Nho giáo Trung hoa. Nó mang
tính giáo điều, rập khuôn và thiếu sáng tạo. Đặng Thai Mai nhận xét về điều này "Trong
phạm vi học thuật, các nhà Nho nước ta chưa hề gây dựng được những tác phẩm vĩ đại,
hoặc góp được công phu độc đáo vào trong tư tưởng thế giới. Vì rằng chỉ suy nghĩ bằng
khuôn sáo tư tưởng văn chương nước ngoài thì làm thế nào mà sáng tác được cho văn
học quốc gia. Các cụ già cụ non vẫn tán dương Khổng học, Hán học và Nho học, mà

Học viên thực hiện: Đinh Văn Bình- Lớp Đêm 1 – Khoá 19 3


Tiểu luận triết học


GVHD`: TS. Bùi Văn Mưa

không biết gì là Nho là Khổng là Hán cả. Một nhà Nho nước ta đã phê bình: những
người vì từ chương mà nổi tiếng thì gọi là danh Nho, nhưng tìm cho được người hiểu biết
cái thực học Nho giáo thì không có[7]". Nho giáo cũng chỉ mới gây được ảnh hưởng trong
chính quyền, trong tầng lớp sĩ phu ở một số vùng văn minh nhất. Hiện tượng này bắt
nguồn từ trình độ phát triển của Việt Nam kém hơn Trung Quốc rất nhiều và khả năng
học hỏi hạn chế của người Việt. [6] Ngoài ra còn phải kể đến phương pháp giáo dục từ
chương của giới Nho sĩ Việt Nam hoàn toàn trái triết lý giáo dục mà Khổng Tử đề
xướng. Đào Duy Anh nói về điều này "Phương pháp giáo dục ở ta cẩu thả thô sơ. Xong
mấy quyển sách sơ học thì thày đem ngay các sách Bắc sử và Ngũ kinh Tứ thư đại toàn
ra dạy. Thày nhắm mắt mà giảng chữ nào nghĩa ấy, chỉ sợ sai mất nghĩa của Tống Nho;
trò cũng nhắm mắt học thuộc lòng để đến khi hành văn nhớ lại mà đặt để. Phương pháp
giáo huấn vụng về chật hẹp như thế là do một nguyên nhân khác là chế độ khoa cử. Chế
độ ấy cốt xô đẩy sĩ tử trong nước vào đường cử nghiệp hư văn... Học trò chỉ chăm học
thuộc lòng một ít sách vở, và lo lựa lời cho khéo, gọt câu cho chỉnh, miễn là lời văn bóng
bảy thì ý tứ là bã cặn của Tống Nho cũng không can gì. Cái thói trọng từ chương, ưa hư
văn đã thành thiên tính của dân tộc ta. Với cách giáo dục ấy thì dù người thiên tư lỗi lạc
cũng phải nhụt đi, huống gì người tư chất tầm thường, thực là một thứ giáo dục giết chết
nhân cách[8]". Sự rập khuôn, giáo điều, hiểu biết không đến nơi đến chốn của giới Nho sĩ
thời quân chủ sẽ được truyền sang thời cộng hòa tạo ra những chính trị gia, những nhà lý
luận chính trị, những người hoạt động học thuật đầy óc giáo điều, thiếu sáng tạo do
không hiểu biết tường tận, không tiêu hóa nổi những thứ họ học được. Nguyễn Trọng
Thuật nói về cái hại của việc học không đến nơi đến chốn như sau "Vô luận Tây học hay
Nho học, hễ theo học nó mà không thâm đắc được chỗ tinh thần, không suy diễn làm ra
của riêng mình, không truyền thụ được cho đất nước, thì đều là hủ bại cả. Mà cái hủ bại
ấy mới là hủ bại tày đình, hủ bại cho cả nòi giống[9]".
Nhà Lý
Năm 1070, nhà Lý cho xây dựng Văn Miếu. Năm 1075 mở khoa thi Nho học đầu tiên với
tên gọi “Thi minh kinh bác học” và “Nho học tam trường”, chính thức khai sinh cho lịch

sử thi cử Nho giáo lâu dài ở Việt Nam. Năm 1076, nhà Lý cho lập Quốc tử giám ngay
giữa kinh thành và “chọn quan viên văn chức, người nào biết chữ cho vào Quốc tử giám”.
Từ đây, con em quý tộc họ Lý chính thức được đào tạo chủ yếu theo Nho giáo. Cũng từ
đây, nền đại học Việt Nam được khai sinh. Năm 1156, nhà Lý cho lập miếu riêng thờ
Khổng Tử (trước đó, Văn Miếu thờ chung cả Chu Công và Khổng Tử). Điều đó thể hiện
“khuynh hướng muốn dựng Nho giáo thành một giáo lý độc tôn, đem Khổng Tử từ bậc tử
(thầy) như các Chư Tử lên bậc Thánh Khổng vậy”. Với việc tổ chức khoa cử, nhà Lý đã
mở đầu cho lịch sử khoa cử Việt Nam kéo dài hơn 800 năm, qua đây tuyển chọn những
nhân tài cho bộ máy nhà nước, nêu cao vị trí Nho học, thúc đẩy việc truyền bá và phát
triển Nho học. Tuy vậy, ở thời Lý, việc học tập và thi cử chưa được tổ chức thường xuyên
và chưa có quy chế rõ ràng.[5]

Học viên thực hiện: Đinh Văn Bình- Lớp Đêm 1 – Khoá 19 4


Tiểu luận triết học

GVHD`: TS. Bùi Văn Mưa

Kể từ thời Lý trở đi, sự phát triển tri thức khoa học và sáng tạo nghệ thuật của người Việt
đã có một bước tiến rõ rệt, biểu hiện trên các lĩnh vực lý luận chính trị và pháp quyền,
văn học và sử học. Nho giáo với tư cách một học thuyết chính trị - đạo đức từng bước
thâm nhập vào lĩnh vực tư tưởng văn hóa trong đời sống xã hội, tạo ra những tiền đề cần
thiết để tiếp tục phát triển mạnh mẽ dưới thời Trần và các thế kỷ sau. Các văn bản còn lưu
giữ được từ thời này cho thấy các bậc vua quan và nho sĩ dưới thời Lý sử dụng các điển
tích và khuôn mẫu theo quan niệm của Nho giáo, coi đó như là những bài học kinh
nghiệm, những mực thước trong việc trị nước, yên dân để xây dựng một xã hội thái bình,
thịnh trị. Các phạm trù đạo đức của Nho giáo, như trung, hiếu, nhân, nghĩa... đã được vận
dụng vào lĩnh vực chính trị và ngày càng trở thành chuẩn mực đạo đức cho hành vi của
con người trong xã hội.[5]

Nhà Trần
Đến thời Trần, do yêu cầu cai trị quốc gia, yêu cầu tuyển lựa nhân tài để bổ dụng cho bộ
máy nhà nước, giáo dục Nho học được đẩy mạnh, số người tiến thân bằng con đường cử
nghiệp ngày càng nhiều hơn, giới Nho sĩ đông đảo hơn trước. Từ giữa thế kỷ XIII, kết
cấu giai cấp lãnh đạo trong xã hội đã có sự thay đổi. Nếu trước đây tầng lớp quản lý nhà
nước bao gồm quý tộc, công thần, quan liêu, cao tăng thì từ đây, kết cấu tầng lớp quản lý
nhà nước bao gồm hai bộ phận rõ rệt: thành phần quý tộc nắm giữ những chức vụ cao
nhất trong triều và thành phần Nho sĩ đông đảo không phải là quý tộc đóng vai trò thừa
hành trong bộ máy quản lý nhà nước. Thời Trần, Phật giáo phát triển khá thịnh, được nhà
nước suy tôn, chọn làm quốc giáo nhưng Phật giáo không phải là học thuyết chính trị.
Dưới thời Trần, Phật giáo mang tính nhập thế, tích cực, nhưng toàn bộ hệ thống giáo lý
của nó không có sự giải đáp thích đáng nào về các vấn đề có liên quan đến việc cai trị
quốc gia và duy trì trật tự xã hội. [5] Vì quyền lực của nhà nước lúc đó nằm trong tay nhà
vua, nên chữ "trung" của Nho giáo cần được tiếp thu để củng cố quyền lực của nhà vua.
[4]
Nho giáo là một học thuyết chính trị - đạo đức chủ trương xây dựng mối quan hệ hài
hòa giữa người cai trị và dân chúng. Đồng thời, nó còn đưa ra những chuẩn mực đạo đức
cho hành vi ứng xử của con người, những yêu cầu đối với các mối quan hệ vua – tôi, cha
– con, chồng – vợ, đối với việc tu thân,... có tác dụng to lớn trong việc giúp các triều đại
củng cố nền cai trị, tập trung quyền lực vào chính quyền trung ương, ổn định trật tự xã
hội mà Phật giáo và Đạo giáo không thể sánh kịp. Về cơ bản, nhà Trần vẫn tôn chuộng
đạo Phật nhưng để duy trì quyền lực, tổ chức quản lý xã hội, các triều đại này đã lựa chọn
Nho giáo.
Khuynh hướng dung hoà tam giáo mà trước hết, là sự kết hợp giữa Phật và Nho đã được
biểu hiện khá rõ nét trong văn học Phật giáo thời Trần. Chẳng hạn, trong bài tựa sách
Thiền tông chỉ nam, Trần Thái Tông đã trình bày rõ mục đích của Phật và Thánh: “Đạo
Phật không chia Nam Bắc đều có thể tu mà tìm, tính người có trí ngu, cũng nhờ giác ngộ
mà thành đạt. Vì vậy phương tiện dẫn dụ đám người mê muội, con đường tắt sáng tỏ lẽ
tử sinh ấy là đại giáo của đức Phật. Đặt mực thước cho hậu thế, làm khuôn mẫu cho


Học viên thực hiện: Đinh Văn Bình- Lớp Đêm 1 – Khoá 19 5


Tiểu luận triết học

GVHD`: TS. Bùi Văn Mưa

tương lai, ấy là trách nhiệm của Tiên Thánh vậy”. Chính vì thế, dưới thời Trần, nhà cầm
quyền tuy theo Phật giáo, nhưng Nho giáo cũng ngày càng được trọng dụng và có điều
kiện để mở rộng tầm ảnh hưởng. Càng về sau, Phật giáo mất dần ảnh hưởng còn Nho
giáo, với ưu thế trong việc củng cố nhà nước quân chủ tập quyền và trật tự của xã hội
phong kiến đã dần vươn lên, phát triển khá mạnh mẽ. Sự phát triển đó tuy chậm chạp,
nhưng chắc chắn vì cùng với yêu cầu về tổ chức quản lý xã hội và tổ chức bộ máy hành
chính nhà nước, sự phát triển của Nho giáo còn gắn liền với nhu cầu phát triển văn hoá,
giáo dục.[5]
Một năm sau khi nắm chính quyền, tức năm 1227, nhà Trần mở khoa thi Tam giáo. Từ
đó, các khoa thi được tổ chức đều đặn và thường xuyên hơn. Năm 1232, nhà Trần mở
khoa thi Thái học sinh (sau đổi thành Tiến sĩ). Từ năm 1246 về sau, tổ chức thi cử quy củ,
cứ 7 năm một kỳ. Năm 1304, thi kẻ sĩ trong nước, có tất cả 44 người đỗ Thái học sinh và
lần đầu tiên, triều đình tôn vinh cả về mặt học vấn lẫn danh dự cho những thí sinh trúng
tuyển bằng việc cho "dẫn ba người đỗ đầu ra cửa Long Môn của Phượng Thành đi du
ngoạn đường phố ba ngày". Hệ thống giáo dục cũng phát triển, ngoài các trường do nhà
nước quản lý, như Quốc tử viện, Quốc học viện, Thái học, Nhất toát trai, Tư thiện
đường... còn có các trường dân lập, như trường của Trần Ích Tắc, trường của Chu Văn
An. Các loại trường này ngày càng mở rộng và thu hút được nhiều đối tượng từ các nơi
đến học. Năm 1236, nhà Trần đặt chức Thượng thư tri Quốc tử viện, đưa con em văn thần
và tụng thần (chức quan tư pháp) vào học. Đến 1397, việc nhà vua xuống chiếu đặt học
quan, tổ chức việc học tập ở cấp châu huyện để hàng năm tiến cử những người ưu tú cho
triều đình cho thấy sự phát triển về quy mô đào tạo của nền giáo dục Nho học thời Trần.
Tuy vào đầu Trần, ảnh hưởng của Phật giáo vẫn chi phối mọi mặt sinh hoạt của xã hội,

trong đó có giáo dục, thi cử, nhưng càng về cuối Trần, Nho giáo càng nâng cao vị thế của
mình thông qua con đường học tập, khoa cử. Nhà Trần còn cho lập Quốc học viện, đắp
tượng Khổng Tử, Chu Công và Mạnh Tử, vẽ tranh 72 người hiền để thờ, và còn "xuống
chiếu vời nho sĩ trong nước đến Quốc tử viện giảng tứ thư lục kinh” năm 1253, hay việc
vua Trần Thánh Tông "xuống chiếu tìm người tài giỏi, đạo đức, thông hiểu kinh sách làm
tư nghiệp Quốc tử giám, tìm người có thể giảng bàn ý nghĩa của Tứ thư ngũ kinh sung
vào hầu nơi vua đọc sách” vào năm 1272. Đặc biệt, vào năm 1304, nhà Trần còn quy định
nội dung thi Thái học sinh: "Về phép thi: trước thi ám tả thiên Y quốc và truyện Mục
thiên tử để loại bớt. Thứ đến kinh nghi, kinh nghĩa, đề thơ (tức thể cổ thi ngũ ngôn trường
thiên) hỏi về "vương độ khoan mãnh ", theo luật "tài nan xạ trĩ ", về phú thì dùng thể 8
vần "đế đức hiếu sinh, hiệp vụ dân tâm ". Kỳ thứ ba thi chế, chiếu, biểu. Kỳ thứ tư thi đối
sách”. Cuối Trần, khi Hồ Quý Ly lên nắm quyền bính, đã chú trọng phát triển giáo dục
Nho học. Ông đã sửa đổi về thi cử cho phù hợp yêu cầu thực tế, như đưa môn tính và viết
vào thi Hương, khuyến khích việc dùng chữ Nôm, cho dịch kinh Thư ra chữ Nôm để dễ
học tập. Có thể thấy, đến thời Trần, Nho học đã thực sự phát triển, chi phối giáo dục,
khoa cử, tạo nên đội ngũ trí thức Nho sĩ đông đảo, thúc đẩy sự phát triển của học vấn
nước nhà, tạo ra nền văn hóa mang dấu ấn Nho giáo.[5]

Học viên thực hiện: Đinh Văn Bình- Lớp Đêm 1 – Khoá 19 6


Tiểu luận triết học

GVHD`: TS. Bùi Văn Mưa

Cuối thế kỷ XIV, Nho giáo phát triển mạnh, chiếm ưu thế trong cung đình và đi sâu vào
sinh hoạt tinh thần của Đại Việt trên nhiều mặt. Giáo dục Nho học giữ vị trí chủ đạo trong
nền giáo dục đất nước. Tầng lớp Nho sĩ trở nên đông đảo và tích cực tham gia các công
việc chính trị của đất nước, phấn đấu cho lý tưởng của Nho giáo, phát triển những quan
điểm về các mặt chính trị, xã hội, đạo đức, làm cho sinh hoạt tư tưởng và văn hóa nước

nhà khá náo nhiệt. Bên cạnh đó, vào cuối đời Trần, xã hội Việt Nam bước vào khủng
hoảng, sự phát triển quá mức của đạo Phật đã gây ra những hậu quả xã hội nặng nề, như
tầng lớp quý tộc lợi dụng danh nghĩa tôn giáo ra sức xây chùa, đúc tượng; nhà chùa
chiếm hữu nhiều ruộng đất, tiêu phí nhiều tiền của, tăng ni ngày một đông đến mức
chiếm quá nửa dân số. Khi đó đã xuất hiện khuynh hướng công kích Phật giáo từ phía các
Nho sĩ và ngày một trở nên mạnh mẽ, rầm rộ, phản ánh những mâu thuẫn vốn có trong xã
hội giữa một bên là giới quý tộc (thân tộc của nhà vua) có thế lực, có sản nghiệp, có
khuynh hướng ủng hộ Phật giáo với một bên là ngoại tộc đi lên bằng tài năng trí tuệ. Lê
Văn Hưu đã đứng trên lập trường của nhà Nho để lên án việc tiêu phí tiền của, sức lực
của nhân dân vào việc xây dựng chùa chiền, tháp và cho đó là "khơi vét máu mỡ của
dân". Trương Hán Siêu thì tố cáo các nhà sư chiếm đoạt ruộng vườn, nhà cửa, ham mê
cảnh đẹp, coi sự phát triển quá mức của đạo Phật là nguyên nhân đã gây ra tác hại cho
sản xuất; rằng, “những nơi u nhã thanh kỳ trong nước, chùa chiền đã chiếm mất một nửa.
Bọn áo thâm, áo vàng đang tụ tập ở đấy, không cày mà ăn, không dệt mà mặc, những
người thất phu, thất phụ thường bỏ cửa nhà, bỏ làng xóm lũ lượt quy theo”. Không chỉ
phê phán những tệ nạn và những hậu quả tiêu cực do sự phát triển rầm rộ của Phật giáo,
một số nhà Nho còn công kích cả giáo lý của nhà Phật. Trong bài văn bia Chùa Thiện
Phúc, Lê Quát đã lên án nhà chùa lấy điều hoạ phúc để mê hoặc lòng người, làm cho
người ta tin theo. Trong bài ký Tháp Linh tế, Trương Hán Siêu đã mạt sát tín đồ đạo Phật
là yêu ma, gian tà, cho giáo lý Phật giáo chỉ mê hoặc chúng sinh. Trong khi công kích,
bài xích Phật giáo, các Nho sĩ nhà Trần cũng đề cao Nho giáo. Trương Hán Siêu cho
rằng, “ngày nay thánh hiền muốn mở mang giáo hóa để sửa đổi phong tục đồi bại. Dị
đoan đáng phải truất bỏ, chính đạo phải được phục hưng. Đã là kẻ sĩ đại phu, không
phải đạo Nghiêu Thuấn không bày tỏ trước vua; không phải đạo Khổng – Mạnh không
trước thuật". Đặc biệt, trong khi phê phán Phật giáo, Lê Văn Hưu còn đề cao Nho giáo
như là cơ sở lý luận cho mọi hoạt động chính trị của triều đình. Vào cuối Trần, giới Nho
sĩ ngày càng có vị trí đáng kể trong xã hội và ngày càng có đủ uy lực để dám công khai
phản đối một số đặc quyền đặc lợi của quý tộc, mà còn công khai phản đối Phật giáo lúc
Phật giáo còn là tôn giáo của nhà vua.[5]
Cuộc đấu tranh công kích Phật giáo vừa nhằm khẳng định địa vị cho Nho giáo trong đời

sống văn hóa - tư tưởng, vừa được coi là cuộc đấu tranh triệt để để chuẩn bị về mặt lực lượng xã hội và tư tưởng cho tầng lớp Nho sĩ bước lên vũ đài chính trị; đồng thời báo hiệu
sự sa sút của Phật giáo không chỉ trong thực tế, mà còn trong lĩnh vực tư tưởng. Từ đây,
Phật giáo không còn giữ vị trí quan trọng trong lĩnh vực chính trị, tư tưởng như trước
nữa, mà Nho giáo dần tiến đến nắm giữ vị trí chủ đạo trong sinh hoạt tư tưởng tại Việt
Nam.[5]

Học viên thực hiện: Đinh Văn Bình- Lớp Đêm 1 – Khoá 19 7


Tiểu luận triết học

Học viên thực hiện: Đinh Văn Bình- Lớp Đêm 1 – Khoá 19 8

GVHD`: TS. Bùi Văn Mưa


Tiểu luận triết học

GVHD`: TS. Bùi Văn Mưa

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
..........................................................................................................................2
I.
SỰ
HÌNH
THÀNH
GIÁO…...........................3




1. Sự
hình thành và phát
Quốc ...................................3
2. Sự
hình
thành

phát
Nam ........................................5
2.1 Nho giáo Việt Nam từ
XIV .................................5
2.2 Nho

buổi

PHÁT
triển

TRIỂN
của

triển
đầu

Nho

của
du


nhập

giáo Việt Nam từ thế kỷ thứ XV-

Nho

CỦA

NHO

giáo

Trung

giáo

-

đến

thế

Việt
kỷ

đến thế kỷ thứ

XX.................................8 II. TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA NHO
GIÁO .................................................10

1. Các
tác
phẩm
kinh
giáo ................................................................10

điển

của

Nho

1.1 Tứ
Thư ..................................................................................................................
10
1.2 Ngũ
Kinh ..................................................................................................................
12
2. Nội
dung

bản
giáo..............................................................................13

của

Nho

2.1 Tu
thân ..................................................................................................................

14
2.2 Hành
đạo ..................................................................................................................1
6

III. ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ TINH

Học viên thực hiện: Đinh Văn Bình- Lớp Đêm 1 – Khoá 19 9


Tiểu luận triết học

GVHD`: TS. Bùi Văn Mưa

THẦN
CỦA
VIỆT .......................................................................................17

NGƯỜI

1. Ảnh hưởng của Nho giáo đến xã hội Việt Nam thời kỳ trước cách
mạng..17
1.1. Ảnh
hưởng
cực................................................................................................19

tích

1.2. Ảnh
hưởng

cực................................................................................................21

tiêu

2. Ảnh hưởng của Nho giáo trong thời kỳ cách mạng dân tộc Việt
Nam .......22
3. Ảnh hưởng của Nho
Nam.......................23

giáo

trong

thời

đại

này

nay

ở Việt

KẾT
LUẬN
..................................................................................................................26
TÀI
LIỆU
THAM
KHẢO .........................................................................................27 MỞ ĐẦU

Văn minh Trung Hoa là một trong những nền văn minh xuất hiện sớm
trên thế giới, với nhiều phát minh vĩ đại trong lịch sử trên nhiều lĩnh vực khoa
học.
Có thể nói văn minh Trung Hoa là một trong những cái nôi của văn minh
nhân loại. Bên cạnh những phát minh về khoa học, văn minh Trung Hoa còn
là nơi sản sinh ra nhiều học thuyết triết học, có ảnh hưởng lớn đến nền văn
minh châu Á và thế giới
Trong số các học thuyết triết học đó phải kể đến trường phái triết học
Nho giáo. Nho giáo xuất hiện rất sớm, lúc đầu nó chỉ là những tư tưởng hoặc
trí thức chuyên học văn chương và lục nghệ góp phần trị nước. Đến thời
Khổng Tử đã hệ thống hoá những tư tưởng và tri thức trước đây thành học
thuyết, gọi là Nho học- Nho giáo hay “ Khổng học” – gắn với tên người sáng
lập ra nó.
Kể từ lúc xuất hiện từ vài thế kỷ trước công nguyên cho đến thời nhà Hán

Học viên thực hiện: Đinh Văn Bình- Lớp Đêm 1 – Khoá 19 10


Tiểu luận triết học

GVHD`: TS. Bùi Văn Mưa

(Hán Vũ Đế đã loại bỏ hàng trăm trường phái triết học khác để ủng hộ Khổng
Tử), thực chất là biến nước Trung Hoa thành một nhà nước Khổng giáo, Nho
giáo đã chính thức trở thành hệ tư tưởng độc tôn và luôn giữ vị trí đó cho đến
ngày cuối cùng của chế độ phong kiến. Nho giáo rất phát triển ở các nước
châu Á đó là Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam. Nét đặc thù của
triết học Nho giáo là đi sâu giải quyết những vấn đề thực tiễn chính trị- đạo
đức của xã hội với nội dung bao trùm là vấn đề con người, xây dựng con
người, xã hội lý tưởng và con đường trị nước, thông qua đức trị. Ngay từ khi

Nho giáo xâm nhập vào
Việt Nam, nó đã thích nghi và phát triển mạnh mẽ, nó có ảnh hưởng rất lớn
đến xã hội Việt Nam, đề tài: “Tư tưởng triết học của Nho giáo và sự ảnh
hưởng của nó đến đời sống văn hoá tinh thần của người Việt ”, được thực
hiện nhằm hiểu rõ hơn những ảnh hưởng sâu sắc của nó đến xã hội Việt Nam
xưa và nay.

I. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NHO GIÁO
1. Sự hình thành và phát triển của Nho giáo Trung Quốc
Khổng Tử là người sáng lập học thuyết Nho giáo ở Trung Quốc. Hơn hai
2000 năm qua, tư tưởng Nho giáo ảnh hưởng đối với Trung Quốc không chỉ
về chính trị, văn hoá…mà còn thể hiện trong hành vi và phương thức tư duy
của mỗi người dân Trung Quốc, được xem như tư tưởng tôn giáo của Trung
Quốc, là tư tưởng chính thống trong xã hội phong kiến hơn hai nghìn năm ở
Trung Quốc và có sự ảnh hưởng tới một số nước châu Á (trong đó có Việt
Nam), và đến nay sự ảnh hưởng này đã ra toàn thế giới, vì người Trung Quốc
sống khắp nơi trên thế giới. Hiện nay đã có hơn 40 học viện Khổng Tử trên
toàn thế giới.

Học viên thực hiện: Đinh Văn Bình- Lớp Đêm 1 – Khoá 19 11


Tiểu luận triết học

GVHD`: TS. Bùi Văn Mưa

Khổng Tử sống trong thời xuân thu, thời kỳ này thể chế quốc gia thống
nhất bị phá vỡ, sản sinh ra nhiều nước Chư hầu lớn nhỏ. Khổng Tử sinh sống
trong nước Lỗ là nước có nền văn hóa tương đối phát triển lúc đó. Tại sao
học thuyết của Khổng Tử lại chiếm vị thế thống trị trong thời đại phong kiến

Trung
Quốc? Đây là vấn đề không dễ giải thích trong một vài câu. Nói một cách
đơn giản là tư tưởng đẳng cấp nghiêm ngặt và tư tưởng chính trị của ông phù
hợp với lợi ích của giai cấp thống trị, có lợi cho ổn định xã hội lúc bấy giờ,
xúc tiến xã hội phát triển. Khổng Tử nhấn mạnh qui phạm và trật tự luân lý
nghiêm ngặt, cho rằng nếu làm trái với cấp trên hoặc trái với cha mẹ đều là
tội nghiêm trọng. Theo lý luận này, vương quân phải quản lý tốt đất nước,
thường dân phải trung thành với vương quân. Mỗi người đều có nhiều thân
phận, có thể là con, có thể là cha, có thể là thần...nhưng đều cần phải duy trì
ranh giới nghiêm khắc. Như vậy nhà nước mới thái bình, nhân dân mới có
cuộc sống yên ổn.
Thời Xuân Thu, Khổng Tử đã san định, hiệu đính và giải thích bộ Lục
kinh gồm có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và
Kinh Nhạc. Về sau Kinh Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh thường
được gọi là Ngũ kinh. Sau khi Khổng Tử mất, học trò của ông tập hợp các lời
dạy để soạn ra cuốn Luận ngữ. Học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử là Tăng
Sâm, còn gọi là Tăng Tử, dựa vào lời thầy mà soạn ra sách Đại học. Sau đó,
cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp, còn gọi là Tử Tư viết ra cuốn Trung
Dung. Đến thời Chiến Quốc,
Mạnh Tử đưa ra các tư tưởng mà sau này học trò của ông chép thành sách Mạnh
Tử. Thời kỳ này Nho giáo bị chia thành 8 phái, trong đó có phái của Tuân Tử và
phái của Mạnh Tử là mạnh nhất. Tuân Tử (315- 230 TCN) phát triển Nho giáo
theo xu hướng duy vật, còn Mạnh Tử (372-298 TCN) phát triển Nho giáo theo
hướng duy tâm. Họ bất đồng nhau trong việc lý giải bản tính con người. Tuy
nhiên, Mạnh Tử đã có nhiều đóng góp đáng kể cho sự phát triển của Nho giáo

Học viên thực hiện: Đinh Văn Bình- Lớp Đêm 1 – Khoá 19 12


Tiểu luận triết học


GVHD`: TS. Bùi Văn Mưa

nguyên thuỷ. Từ Khổng Tử đến Mạnh Tử hình thành nên Nho giáo nguyên thủy,
còn gọi là Nho giáo Tiên Tần (trước đời Tần).
Đến triều Hán Vũ Đế (140 – 87 TCN), Nho giáo được đưa lên ngôi vị
"độc tôn". Nhưng về thực chất, đây không còn là thứ Nho giáo thời Tiên Tần
nữa, mà là một thứ "Nho giáo cải biên" do Đổ ng Trọng Thư (179 – 104
TCN) thiết kế, nhằm lấy đó làm chỗ dựa để thống nhất tư tưởng hiện đang
năm bè bảy phái của người Trung Quốc hồi bấy giờ. Trên đại thể, thứ Nho
giáo mới này bao gồm ba thành tố : "âm dương ngũ hành", "vương quyền
thần thụ" và "tam cương ngũ thường".
Tư tưởng "âm dương ngũ hành" như ta biết, vốn rất thịnh hành vào thời
Hán. Lợi dụng tình hình này, Đổng Trọng Thư đã đem tư tưởng "thiên mệnh",
tư tưởng "thiên nhân cảm ứng", cùng tư tưởng "tông pháp" của Nho giáo
nguyên thuỷ nhào nặn với tư tưỏng "âm dương ngũ hành" để làm nên thuyết
"vương quyền thần thụ". "Vương quyền" (quyền lực nhà vua) ở đây được
Đổng Trọng Thư luận chứng như là do "Trời" (thần) ban cấp. Trời là chủ tể
của muôn loài, mà vua (Hoàng đế) là con của Trời (Thiên tử), người thể hiện
quyền lực và ý chí của Trời, thay mặt Trời để cai trị nhân gian. Quyền lực của
nhà vua do vậy cũng được xem như tối thượng, thiêng liêng, bất khả xâm
phạm.
Mặt khác, Khổng Tử từng nói "quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử".
Đổng Trọng Thư đã đem nguyên tắc ứng xử này lồng ghép với quan niệm
thần học "dương tôn, âm ti " để thành thuyết "tam cương ngũ thường". "Tam
cương" (quân vi thần cương, phụ vi tử cương, phu vi thê cương) là phỏng
theo mối quan hệ giữa trời và đất, âm và dương, trong đó bề tôi, con cái, thê
thiếp đều thuộc
"âm" ; còn vua, cha, chồng đều thuộc "dương" ; "âm" tất yếu phải theo "dương".
"Ngũ thường" (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín) là năm chuẩn mực về đạo đức tương ứng

với "ngũ hành", lấy "tam cương" làm nền tảng. Đổng Trọng Thư coi "tam cương
ngũ thường" là "ý trời" (thiên ý), và cho rằng "Trời không thay đổi, đạo cũng

Học viên thực hiện: Đinh Văn Bình- Lớp Đêm 1 – Khoá 19 13


Tiểu luận triết học

GVHD`: TS. Bùi Văn Mưa

không thay đổi" (Thiên bất biến, đạo diệc bất biến). Từ đó về sau, "tam cương
ngũ thường" đã trở thành gông cùm về mặt tinh thần đối với người dân Trung
Quốc.
Nho giáo thời kỳ này được gọi là Hán Nho. Điểm khác biệt so với Nho
giáo nguyên thủy là Hán Nho đề cao quyền lực của giai cấp thống trị, Thiên
Tử là con trời, dùng "lễ trị" để che đậy "pháp trị".
Thời kỳ, Tống Nho do Chu Đôn Di (1017 – 1073), Thiệu Ung (1011 –
1077), Trình Hiệu (1032 – 1085), Trình Di (1033 – 1107), Trương Tải (1020
– 1077) đều là người Bắc Tống khai sáng, và tiếp đó được Chu Hy (1130 –
1200) người Nam Tống tập đại thành. So với Nho giáo nguyên thuỷ thời Tiên
Tần và
Nho giáo thần hoá thời Lưỡng Hán thì Lý học đời Tống có thể gọi là một thứ
Nho giáo phát triển, mang đậm tính tư biện và triết lý. Khi luận chứng về tính
tất yếu của cương thường danh giáo, các nhà Tống Nho đã vất bỏ lập luận
"vương đạo thông tam" có phần đơn giản và thô thiển của Đổng Trọng Thư.
Thay vào đó, họ đưa ra khái niệm "thiên lý" siêu hình để nói về tính thống
nhất của thế giới tự nhiên và các hiện tượng xã hội. Họ nhấn mạnh thế giới
hiện tượng có một nguyên nhân cuối cùng là "thiên lý". Phạm trù cốt lõi này
là một sáng tạo của Tống Nho, như chính một nhân vật quan trọng trong số
họ đã tự nhận : "Cái học của ta tuy có chỗ tiếp thu từ nơi này nơi khác, nhưng

riêng hai chữ "thiên lý" thì thực do tự ta thể nhận ra" (Trình Hạo ngữ. Nhị
Trình ngoại thư, Q. 12).
Sang đời Minh, Vương Thủ Nhân (1472 – 1529) xuất hiện với tư cách một
nhà triết học "đi ngược lại truyền thống" (phản truyền thống). Khác với Tống
Nho, ông cho rằng cái "lý" của muôn sự muôn vật đều ở trong tâm ta. Và
cũng không giống với các nhà Lý học Trình Chu, ông chủ trương : "hiểu biết
và hành động gắn với nhau làm một". Dù vậy, Vương Thủ Nhân vẫn đứng
trong hàng ngũ những nhà "Lý học" nổi tiếng đương thời, các triết thuyết của

Học viên thực hiện: Đinh Văn Bình- Lớp Đêm 1 – Khoá 19 14


Tiểu luận triết học

GVHD`: TS. Bùi Văn Mưa

ông đã góp phần làm cho Nho giáo thời kỳ Tống Minh trở thành hệ tư tưởng
chính thống của xã hội Trung Quốc kể từ đầu đời Minh cho đến cuối đời
Thanh.
2. Sự hình thành và phát triển của Nho giáo Việt Nam

2.1 Nho giáo Việt Nam từ buổi đầu du nhập- đến hết thế kỷ XIV
Vào cuối thời Tây Hán và đầu thời Đông Hán, cùng với chính sách cai
trị và "Hán hóa" vùng đất nước cổ Việt Nam thời đó gọi là Giao Chỉ, Cửu
Chân, văn hóa Hán bắt đầu được truyền bá vào Việt Nam, với tên tuổi hai
viên quan mà sử sách Việt Nam cũng như sử sách Trung Quốc đều ca ngợi họ
có công lao trong việc "khai hóa" lễ nghĩa, mở mang phong tục mới...là Tích
Quang và Nhâm Diên. Nho giáo là một thành phần của văn hóa Hán, tất
nhiên cũng sớm có mặt tại Việt Nam như là một công cụ Hán hóa nước Việt.
Nhưng sự hiện diện tương đối rõ nét của Nho giáo ở nước ta có lẽ chỉ thật sự

bắt đầu vào cuối đời Đông Hán với vai trò tích cực của Sĩ Nhiếp (187-226
Cn) trong việc làm cho nước ta "thông thi thư, tập lễ nhạc" như sử thần Ngô
Sĩ Liên (thế kỷ XV) từng bình luận trong sách Đại Việt sử ký toàn thư.
Ở Trung Quốc từ sau loạn Vương Mãng (năm 27 tr.Cn) trở đi tới cuối
đời Đông Hán, rất đông sĩ phu nhà Hán liên tục tránh nội nạn chạy sang cư
trú ở Việt Nam. Thí dụ vào thời Sĩ Nhiếp có hàng trăm danh sĩ nhà Hán bỏ
sang Việt Nam nương nhờ Sĩ Nhiếp. Những sĩ phu trí thức này trở thành lực
lượng quan trọng trong quá trình truyền bá Nho giáo ở Việt Nam.
Từ thời Tích Quang-Nhâm Diên rồi Sĩ Nhiếp đến trước đời Đường
(618907Cn), Nho giáo được truyền bá sang Việt Nam là Hán nho.
Từ thời Tùy-Đường thống trị Việt Nam đến khi Ngô Quyền giành lại được
quyền độc lập năm 938, Nho giáo cùng văn hóa Hán vẫn tiếp tục được truyền
bá sang Việt Nam, nhưng trong mấy trăm năm này, diện mạo Nho giáo như thế

Học viên thực hiện: Đinh Văn Bình- Lớp Đêm 1 – Khoá 19 15


Tiểu luận triết học

GVHD`: TS. Bùi Văn Mưa

nào sử sách không ghi chép. Trong khi đó ở Giao Châu (tức là ở Việt Nam) mà
nhà
Đường đổi làm An Nam đô hộ phủ, Phật giáo phát triển mạnh mẽ, kết hợp với
Đạo giáo phù thủy phổ biến tràn lan.
Trong hàng nghìn năm bị lệ thuộc phong kiến phương Bắc, Nho giáo
được đưa vào Việt Nam chủ yếu với tư cách là công cụ phục vụ cho chính
sách cai trị và đồng hóa Việt Nam về văn hóa, nghĩa là người Việt Nam tiếp
nhận Nho giáo vẫn với thái độ thụ động.
Nho giáo chỉ được người Việt Nam chủ động thừa nhận như là một văn

hóa chủ thể và xác lập địa vị cao của nó khi nền độc lập dân tộc được hoàn
toàn ổn định vững chắc và đi vào phục hưng dân tộc ở vương triều Lý bắt đầu
từ năm 1010 – năm triều Lý dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) về Thăng Long
(Hà Nội ngày nay).
Năm 1070, dưới thời Lý Thánh Tông (1054-1072), triều đình cho xây
miếu thờ Khổng Tử, tức Văn miếu, đắp tượng Khổng Tử, phụ thờ Nhan
Uyên, Tăng Tử, Tử Tư, Mạnh Tử là 4 học trò nổi tiếng của Khổng Tử cùng
72 người học trò giỏi khác của Khổng Tử, định ra nghi lễ bốn mùa cúng tế.
Bên cạnh đó là Quốc tử giám, nơi các hoàng thái tử đến học tập.
Năm 1075, dưới thời vua Lý Nhân Tông (1072-1128) triều đình cho mở
khoa thi Minh kinh bác sĩ và thi Nho học tam trường.
Hai sự việc này trở thành cái mốc quan trọng đánh dấu một bước phát
triển có ý nghĩa lịch sử đối với vai trò của Nho giáo trong đời sống văn hóa,
giáo dục ở Việt Nam.
Khổng miếu và Quốc tử giám được xây dựng chính thức mở đầu cho
nền giáo dục và khoa cử Nho học ở Việt Nam, nhưng dưới triều Lý (10101225) và triều Trần (1225-1400), Phật giáo giữ vai trò Quốc giáo. Bộ mặt văn
hóa Việt Nam thời Lý - Trần là văn hóa Phật giáo.

Học viên thực hiện: Đinh Văn Bình- Lớp Đêm 1 – Khoá 19 16


Tiểu luận triết học

GVHD`: TS. Bùi Văn Mưa

Nho giáo ở Việt Nam giai đoạn cuối triều Trần và triều Hồ (1400-1407) là
Tống Nho, song diện mạo tư tưởng chưa thật rõ nét.
Tóm lại, Nho giáo được truyền bá vào Việt Nam trong hàng ngàn năm
Bắc thuộc, chủ yếu là Hán nho. Từ thế kỷ XIII đến đầu thế kỷ XV, Tống Nho
chi phối ảnh hưởng ở Việt Nam. Nhưng nhìn chung, Nho giáo ở Việt Nam

trong suốt thời kỳ dài hơn 1000 năm đó, Hán Nho cũng như Tống Nho, diện
mạo tư tưởng đều chưa được thể hiện rõ nét.
2.2 Nho giáo Việt Nam từ thế kỷ XV- đến đầu thế kỷ XX
Năm 1406, đế quốc Minh đem quân xâm lược Việt Nam. Năm 1407,
cuộc kháng chiến của triều Hồ thất bại. Nhà Minh đổi nước Việt thành quận
Giao Chỉ, rồi chia ra phủ, vệ, thiết lập bộ máy cai trị và tiến hành đồng hóa
mạnh mẽ.
Nhằm Hán hóa Việt Nam về văn hóa, tư tưởng, nhà Minh cho lập Văn miếu
thờ Khổng Tử ở các phủ, châu, huyện trên toàn quốc và bắt các địa phương
xây nhiều đền miếu thờ cúng, cầu đạo theo nghi lễ Trung Quốc. Đạo sĩ thầy
cúng được khuyến khích hành nghề khắp nơi. Để đào tạo ra những người biết
chữ phục vụ bộ máy thống trị của nhà Minh tại Việt Nam, nhà Minh cho mở
trường ở các phủ, châu, huyện. Mở trường dạy học nhưng không có thi cử.
Hàng năm, quan lại đô hộ nhà Minh chỉ lựa chọn lấy một số học sinh đủ tiêu
chuẩn rồi sử dụng.
Nội dung chương trình dạy và học hoàn toàn theo sách giáo khoa của nhà
Minh, gồm có Tứ thư (Luận ngữ, Mạnh tử, Trung dung, Đại học), Ngũ kinh
(Kinh Dịch, Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Xuân Thu) và Tính lý đại
toàn, tức là bộ sách do nhóm Hồ Quảng theo lệnh vua Minh soạn, gồm 70
quyển, thâu thái thuyết Tống Nho bàn về hơn 100 nhà, chia thành môn loại
như lý khí, quỷ thần, tính lý, thánh hiền...

Học viên thực hiện: Đinh Văn Bình- Lớp Đêm 1 – Khoá 19 17


Tiểu luận triết học

GVHD`: TS. Bùi Văn Mưa

Những sách vở này được chở từ Trung Quốc sang Việt Nam cấp phát

cho các thôn, huyện. Giảng dạy tại các trường học ở phủ, châu, huyện, chủ
yếu là thầy cúng, thầy bói, đạo sĩ được nhà Minh tuyển dụng, phong làm
Giáo quan.
Sau khi đánh đuổi hết quân Minh, giải phóng đất nước, vương triều Lê
chính thức được thiết lập (1428) và bắt đầu công việc xây dựng, phát triển
nền văn hóa độc lập dân tộc.
Việc đầu tiên Thái Tổ Lê Lợi (1428-1433) làm là sai quan đi tế các thần
linh ở núi sông, đền miếu ở các xứ trong nước và lăng tẩm của các triều đại
trước. Lê Thái Tổ đặc biệt quan tâm đến việc phong thần, muốn mượn uy danh
thần linh bảo vệ vương triều và đất nước được bình yên.
Năm Đinh Tỵ (1437), Lê Thái Tông (1434-1442) tiến hành gia phong
các thần linh trong nước và tổ chức tế lễ, khấn cáo long trọng. Đến thời Lê
Nhân Tông (1443-1459) năm Kỷ Tỵ (1449), triều Lê cho lập các đàn thờ Đại
thành hoàng ở kinh thành Thăng Long, thờ thần Gió, thần Mây, thần Mưa,
thần Sấm để bảo vệ kinh thành.
Một mặt tôn thờ thần linh, mặt khác để thống nhất tư tưởng xã hội,
thống nhất văn hóa, củng cố đời sống tinh thần, nhà Lê đã chủ động chọn
Nho giáo làm ngọn cờ tư tưởng của vương triều phục vụ cho công cuộc xây
dựng chế độ phong kiến trung ương tập quyền.
Lê Thái Tông lên ngôi năm Giáp Dần (1434). Thái Tông đã họp triều
đình bàn định việc mở khoa thi Tiến sĩ và đưa ra điều lệ thi Hương, thi Hội
cùng phép thi ở các kỳ. Nhưng phải tới tháng 3 năm Nhâm Tuất (1442), thời
Lê Nhân Tông, triều Lê mới chính thức cho thi đối sách ở sân điện để lấy
Tiến sĩ và cũng bắt đầu cho dựng bia khắc văn nói về việc mở khoa thi Tiến
sĩ, khắc tên những người đỗ Tiến sĩ. Khoa thi Tiến sĩ năm Nhâm Tuất là cái
mốc quan trọng xác lập vị trí độc tôn của Nho giáo ở Việt Nam hồi thế kỷ

Học viên thực hiện: Đinh Văn Bình- Lớp Đêm 1 – Khoá 19 18



Tiểu luận triết học

GVHD`: TS. Bùi Văn Mưa

XV. Để tỏ rõ lòng tôn sùng Nho giáo, vào tháng 2 mùa xuân năm Ất Mão
(1435), vua Lê Thái Tông cho chọn ngày Thượng đinh, sai Thiếu bảo Lê
Quốc Hưng làm lễ cúng Khổng Tử ở Văn miếu, vị tổ khai sáng ra Nho giáo,
từ đấy về sau định làm thường lệ. Văn miếu thờ Khổng Tử tại các lộ được
Nhà nước cấp phu trông nom quét dọn. Đạo đức Nho giáo như lòng trung với
vua, sự tiết hạnh của phụ nữ được cổ vũ, tuyên dương.
Nho giáo ở thời Lê thế kỷ XV đến triều Thánh Tông Thuần Hoàng đế
(14601497) thì đạt tới đỉnh cao thịnh vượng.
Đến đời Lê Thánh Tông, diện mạo của Nho giáo đã rõ ràng với những
đặc điểm khá cụ thể, dễ nhận biết. Người xưa học Nho giáo có hai phép: học
nghĩa lý và học từ chương. Học từ chương là học kinh nghĩa, thơ phú, văn
sách, cốt để đi thi làm quan. Cũng gọi là học khoa cử. Còn học nghĩa lý là
học chuyên sâu vào huấn hỗ học, lý học, Hán học,...với mục đích dò tới
nguồn gốc của Nho giáo.
Để tôn vinh Nho học, tôn vinh người đỗ đạt và để biểu thị lòng quý
trọng kẻ sĩ chân Nho của triều đình, Lê Thánh Tông cho dựng bia khắc tên họ
những người đỗ Tiến sĩ từ khoa thi năm Nhâm Tuất (1442) đời Thái Tông trở
đi đặt tại nhà Quốc học.
Có thể thấy từ nửa sau thế kỷ XV, dưới sự bảo trợ của triều đình, hệ tư
tưởng Nho giáo ngày càng phát huy tác dụng và trở thành hệ tư tưởng chủ
đạo trong xã hội. Phật giáo, Đạo giáo ... cũng từ đó bị đẩy xuống hàng thứ
yếu. Và được kéo dài mãi ở Việt Nam cho đến tận cuối thế kỷ XIX đầu thế
kỷ XX.
Xét về tính chất, thì Nho giáo Việt Nam từ Lê sơ cho đến cuối Nguyễn chủ
yếu vẫn là "Lý học" đời Tống.
Như vậy Nho giáo truyền nhập vào Việt Nam khoảng 2000 năm, nhưng

có vị trí chi phối và phát triển cao nhất từ thế kỷ thứ 15 đến đầu thế kỷ thứ 20

Học viên thực hiện: Đinh Văn Bình- Lớp Đêm 1 – Khoá 19 19


Tiểu luận triết học

GVHD`: TS. Bùi Văn Mưa

được xem như là quốc giáo ở Việt Nam, đến năm 1919 khoa cử nho học bị
bãi bỏ.
II. TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA NHO GIÁO
1. Các tác phẩm kinh điển của Nho giáo

Các sách kinh điển của Nho giáo đều hình thành từ thời kỳ Nho giáo
nguyên thủy. Sách kinh điển gồm 2 bộ : Ngũ Kinh và Tứ Thư. Hệ thống kinh
điển đó hầu hết viết về xã hội, về những kinh nghiệm lịch sử Trung Hoa, ít
viết về tự nhiên. Điều này cho thấy rõ xu hướng biện luận về xã hội, về chính
trị, về đạo đức là những tư tưởng cốt lõi của Nho giáo
1.1 Tứ Thư
Là bốn quyển sách kinh điển của văn học Trung Hoa được Chu Hy
thời nhà Tống lựa chọn làm nền tảng cho triết học Trung Hoa và Khổng giáo.
Chúng bao gồm : Đại học, Trung Dung, Luận Ngữ, Mạnh Tử.


Đại học: Sách Đại học dùng để dạy cho học trò từ 15 tuổi trở lên, khi bước vào
bậc đại học, dạy cho biết cách xử sự ở đời để lớn lên ra gánh vác việc nước.
Sách Đại Học do Tăng Tử làm ra để diễn giải các lời nói của Khổng Tử.
Mục đích và tôn chỉ của sách này là nói về đạo quân tử, trước hết phải
sửa cái đức của mình cho sáng tỏ để mọi người noi theo, làm sao cho đến chỗ

chí thiện. Muốn được vậy, phải sử dụng Bát điều mục (tám điều): cánh vật, trí
tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Cái gốc của đạo
quân tử là sự “tu thân”. Cho nên trong sách Đại học có câu : “Tự thiên tữ dĩ
chí ư thứ nhân, nhứt thị giai dĩ tu thân vi bổn” (Nghĩa là : “từ vua cho đến
thường dân, ai ai cũng đều lấy sự sửa của mình làm gốc”).



Trung Dung: sách Trung Dung do Tử Tư làm ra. Tử Tư là học trò của Tăng Tử,
cháu nội của Khổng Tử, thọ được cái học tâm truyền của Tăng Tử.
Trong sách Trung Dung, Tử Tư dẫn những lời của Không Tử nói về
đạo “trung dung”, tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở

Học viên thực hiện: Đinh Văn Bình- Lớp Đêm 1 – Khoá 19 20


Tiểu luận triết học

GVHD`: TS. Bùi Văn Mưa

mức trung hòa, không thái quá, không bất cập và phải cố gắng ở đời theo
nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cho thành người quân tử, để cuối cùng thành thánh
nhân.
Cả hai quyển sách Đại Học và Trung Dung trước đây là những thiên
trong Kinh Lễ, sau các Nho gia đời Tống tách riêng ra làm hai quyển để hợp
với sách Luận Ngữ và M ạnh Tử thành bộ Tứ Thư.


Luận Ngữ: là sách sưu tập ghi chép lại những lời dạy của Không Tử và những
lời nói của người đương thời, cách đây hơn 2500 năm, các học trò của nhà tư

tưởng và triết học Khổng Tử đã cố gắng tìm tòi ghi lại từng mảnh rời rạc và
từng câu chuyện rời rạc về cuộc đời và những lời dạy của ông. Những ghi chép
phần lớn dựa trên những bài thuyết giảng, sau này được tổng hợp lại thành sách
“ Luận Ngữ”. Sách Luận Ngữ gồm 20 thiên, mỗi thiên đều lấy chữ đầu mà đặt
tên, và các thiên không có liên hệ với nhau. Đọc sách này, người ta hiểu được
phẩm chất tư cách và tính tình của Khổng Tử, nhất là về giáo dục, ông tỏ ra là
người thấu hiểu tâm lý của từng học trò, khéo đem lời giảng dạy thích hợp với
từng trình độ, từng hoàn cảnh của mỗi người. Như có khi cùng một câu hỏi mà
ông trả lời cho mỗi người một cách.
Luận Ngữ dạy đạo quân tử một cách thực tiễn, miêu tả tính tình đức độ
của Khổng Tử để làm mẫu mực cho người đời sau noi theo.



Mạnh Tử: sách Mạnh Tử là bộ sách làm ra bởi Mạnh Tử và các môn đệ của ông
như: Nhạc Chính Khắc, Công Tôn Sửu, Vạn Chương… ghi chép lại những điều
đối đáp của Mạnh Tử với các vua chư hầu, giữa Mạnh Tử và các học trò cùng
với những lời phê bình của Mạnh Tử về các học thuyết khác như: học thuyết của
Mặc Tử, Dương Chu. Sách Mạnh Tử gồm 7 thiên, chia làm 2 phần: Tâm học và
Chính trị học.

-

Tâm học: Mạnh Tử cho rằng mỗi người đều có tính thiện do Trời phú cho. Sự
giáo dục phải lấy tính thiện đó làm cơ bản, giữ cho nó không mờ tối, trau dồi nó

Học viên thực hiện: Đinh Văn Bình- Lớp Đêm 1 – Khoá 19 21


Tiểu luận triết học


GVHD`: TS. Bùi Văn Mưa

để phát triển thành người lương thiện. Tâm là cái thần minh của Trời ban cho
người. Như vậy, tâm của ta với tâm của Trời đều cùng một thể. Học là để giữ cái
Tâm, nuôi cái Tính, biết rõ lẽ Trời mà theo chính mệnh. Nhân và nghĩa vốn có
sẵn trong lương tâm của người. Chỉ vì ta đắm đuối vào vòng vật dục nên lương
tâm bị mờ tối, thành ra bỏ mất nhân nghĩa. Mạnh Tử đề cập đến khí Hạo nhiên,
cho rằng nó là cái tinh thần của người đã hợp nhất với Trời.
-

Chính trị học: Mạnh Tử chủ trương: Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh.
Đây là một tư tưởng rất mới và rất táo bạo trong thời quân chủ chuyên chế đang
thịnh hành. Mạnh Tử nhìn nhận chế độ quân chủ, nhưng vua không có quyền lấy
dân làm của riêng cho mình. Phải duy dân và vì dân. Muốn vậy, phải có luật
pháp công bằng, dẫu vua quan cũng không được vượt ra ngoài pháp luật đó.
Người trị dân, trị nước phải chăm lo việc dân việc nước, làm cho đời sống của
dân được sung túc, phải lo giáo dục dân để hiểu rõ luật pháp mà tuân theo, lấy
nhân nghĩa làm cơ bản để thi hành. Chủ trương về chính trị của Mạnh Tử vô
cùng mới mẻ và táo bạo, nhưng rất hợp lý, làm cho những người chủ trương
quân chủ thời đó không thể nào bắt bẻ được. Có thể đây là lý thuyết khởi đầu để
hình thành chế độ quân chủ lập hiến sau này.
1.2 Ngũ Kinh



Kinh Thi: sưu tập các bài thơ dân gian có từ trước Khổng Tử, nói nhiều về tình
yêu nam nữ. Khổng Tử san định thành 300 thiên nhằm giáo dục mọi người tình
cảm trong sáng lành mạnh và cách thức diễn đạt rõ ràng và trong sáng. Một lần,
Khổng Tử hỏi con trai "học Kinh Thi chưa?", người con trả lời "chưa". Khổng

Tử nói "Không học Kinh Thi thì không biết nói năng ra sao" (sách Luận Ngữ).



Kinh Thư: ghi lại các truyền thuyết, biến cố về các đời vua cổ có trước Khổng
Tử. Khổng Tử san định lại để các ông vua đời sau nên theo gương các minh
quân như Nghiêu, Thuấn chứ đừng tàn bạo như Kiệt, Trụ.

Học viên thực hiện: Đinh Văn Bình- Lớp Đêm 1 – Khoá 19 22


Tiểu luận triết học



GVHD`: TS. Bùi Văn Mưa

Kinh Lễ: ghi chép các lễ nghi thời trước. Khổng Tử hiệu đính lại mong dùng
làm phương tiện để duy trì và ổn định trật tự. Khổng Tử nói: "Không học Kinh
Lễ thì không biết đi đứng ở đời" (sách Luận Ngữ).



Kinh Dịch: nói về các tư tưởng triết học của người Trung Hoa cổ đại dựa trên
các khái niệm âm dương, bát quái,... Đời Chu, Chu Văn Vương đặt tên và giải
thích các quẻ của bát quái gọi là Thoán từ. Chu Công Đán giải thích chi tiết
nghĩa của từng hào trong mỗi quẻ gọi là Hào từ. Kinh Dịch thời Chu gọi là Chu
Dịch. Khổng Tử giảng giải rộng thêm Thoán từ và Hào từ cho dễ hiểu hơn và
gọi là
Thoán truyện và Hào truyện.




Kinh Xuân Thu: ghi lại các biến cố xảy ra ở nước Lỗ, quê của Khổng Tử.
Khổng Tử không chỉ ghi chép như một sử gia mà theo đuổi mục đích trị nước
nên ông chọn lọc các sự kiện, ghi kèm các lời bình, sáng tác thêm lời thoại để
giáo dục các bậc vua chúa. Ông nói, "Thiên hạ biết đến ta bởi kinh Xuân Thu,
thiên hạ trách ta cũng sẽ ở kinh Xuân Thu này". Đây là cuốn kinh Khổng Tử tâm
đắc nhất. (Xuân thu có nghĩa là mùa xuân và mùa thu, ý nói những sự việc xảy
ra).



Kinh Nhạc: do Khổng tử hiệu đính nhưng về sau bị thất lạc, chỉ còn lại một ít
làm thành một thiên trong Kinh Lễ gọi là Nhạc ký. Như vậy lục kinh chỉ còn lại
ngũ kinh.
2. Nội dung cơ bản của Nho giáo

Nho giáo là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức xã hội. Để tổ chức
xã hội có hiệu quả, điều quan trọng nhất là phải đào tạo cho được người cai
trị kiểu mẫu - người lý tưởng này gọi là quân tử. Để trở thành người quân tử,
con người ta trước hết phải "tự đào tạo", phải "tu thân". Sau khi tu thân xong,
người quân tử phải có bổn phận phải "hành đạo".
2.1 Tu thân

Học viên thực hiện: Đinh Văn Bình- Lớp Đêm 1 – Khoá 19 23


Tiểu luận triết học


GVHD`: TS. Bùi Văn Mưa

Khổng Tử đặt ra một loạt Tam Cương, Ngũ Thường, Tam Tòng, Tứ
Đức... để làm chuẩn mực cho mọi sinh hoạt chính trị và an sinh xã hội. Tam
Cương và Ngũ Thường là lẽ đạo đức mà nam giới phải theo. Tam Tòng và Tứ
Đức là lẽ đạo đức mà nữ giới phải theo. Khổng Tử cho rằng người trong xã
hội giữ được Tam Cương, Ngũ Thường, Tam Tòng, Tứ Đức thì xã hội được
an bình.
• Tam Cương: Tam là ba; Cương là giềng mối; Tam Cương là ba mối quan hệ:
Quân thần (vua tôi), Phụ tử (cha con), Phu thê (chồng vợ).
 Quân thần: Trong quan hệ vua tôi, vua thưởng phạt công minh, tôi trung thành

một dạ.
 Phụ tử: Trong quan hệ cha con, cha nuôi dạy con cái, con cái hiếu kính vâng

phục cha và khi cha già thì phải phụng dưỡng.
 Phu thê: Trong quan hệ chồng vợ, chồng yêu thương và công bình với vợ, vợ

vâng phục và chung thủy giữ tiết với chồng.
• Ngũ Thường: Ngũ là năm; Thường là hằng có; Ngũ Thường là năm điều phải
hằng có trong khi ở đời, gồm: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
 Nhân: Được coi là nguyên lý đạo đức cơ bản qui định bản tính con người, chi

phối mọi quan hệ giữa người với người trong xã hội. Khổng Tử cho rằng nhân
là lòng thương người (ái nhân); còn Mạnh Tử cho rằng nhân là lòng trắc ẩn.
Nói chung, nhân là cách đối xử của con người với con người, để tạo ra người.
 Nghĩa: Được hiểu là những gì hợp đạo lý mà con người phải làm, bất kể làm

điều đó có đem lại cho người thực hiện nó ích lợi gì hay không.
 Lễ: Được hiểu là luân lý đạo đức, như ý thức, thái độ, hành vi ứng xử, nếp


sống của mỗi con người trong cộng đồng xã hội, trước lễ nghi, trật tự, kỷ
cương.

Học viên thực hiện: Đinh Văn Bình- Lớp Đêm 1 – Khoá 19 24


Tiểu luận triết học

GVHD`: TS. Bùi Văn Mưa

 Trí: Được hiểu là sự sáng suất nhận thức thấu đáo mọi vấn đề, hiểu đạo trời,

đạo người, hiểu cả thiên hạ, biết sống hợp với nhân.
 Tín: Được hiểu là lòng ngay dạ thẳng, lời nói và việc làm nhất trí với nhau.

• Tam Tòng: Tam là ba; Tòng là theo. Tam tòng là ba điều người phụ nữ phải
theo, gồm: "tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử"  Tại gia
tòng phụ: nghĩa là, người phụ nữ khi còn ở nhà phải theo cha.
 Xuất giá tòng phu: lúc lấy chồng phải theo chồng.
 Phu tử tòng tử: nếu chồng qua đời phải theo con.

• Tứ Đức: Tứ là bốn; Đức là tính tốt. Tứ Đức là bốn tính nết tốt người phụ nữ
phải có, là: Công - Dung - Ngôn - Hạnh.
 Công: khéo léo trong việc làm.
 Dung: hòa nhã trong sắc diện.
 Ngôn: mềm mại trong lời nói.
 Hạnh: nhu mì trong tính nết.

Người quân tử phải đạt ba điều trong quá trình tu thân:



Đạt Đạo. Đạo có nghĩa là "con đường", hay "phương cách" ứng xử mà người
quân tử phải thực hiện trong cuộc sống. "Đạt đạo trong thiên hạ có năm điều:
đạo vua tôi, đạo cha con, đạo vợ chồng, đạo anh em, đạo bạn bè" (sách Trung
Dung), tương đương với "quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu". Đó
chính là Ngũ thường, hay Ngũ luân. Trong xã hội cách cư xử tốt nhất là "trung
dung". Tuy nhiên, đến Hán nho ngũ luân được tập chung lại chỉ còn ba mối quan
hệ quan trọng nhất được gọi là Tam thường hay còn gọi là Tam tòng.



Đạt Đức. Quân tử phải đạt được ba đức: "nhân - trí - dũng". Khổng Tử nói:
"Đức của người quân tử có ba mà ta chưa làm được. Người nhân không lo buồn,
người trí không nghi ngại, người dũng không sợ hãi" (sách Luận ngữ). Về sau,
Mạnh Tử thay "dũng" bằng "lễ, nghĩa" nên ba đức trở thành bốn đức: "nhân,
nghĩa, lễ, trí". Hán Nho thêm một đức là "tín" nên có tất cả năm đức là: "nhân,
nghĩa, lễ, trí, tín". Năm đức này còn gọi là Ngũ thường.

Học viên thực hiện: Đinh Văn Bình- Lớp Đêm 1 – Khoá 19 25


×