Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Tiểu luận khiếu tố tiếp công dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.24 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU.......................................................................................................1
B. NỘI DUNG....................................................................................................2
1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TIẾP CÔNG DÂN..............2
1.1. Khái niệm, mục đích của hoạt động tiếp công dân.............................2
1.2. Ý nghĩa của hoạt động tiếp công dân...................................................2
1.3. Nguyên tắc trong công tác tiếp công dân.............................................3
2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ TIẾP CÔNG DÂN...........................3
3. HOẠT ĐỘNG TIẾP CÔNG DÂN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN.
........................................................................................................................6
3.1. Một số yêu cầu cụ thể đối với hoạt động tiếp công dân......................6
3.1.1.

Yêu cầu về địa điểm...........................................................................6

3.1.2.

Yêu cầu về phương tiện, thiết bị........................................................7

3.1.3.

Yêu cầu chung đối với cán bộ............................................................7

3.2. Kỹ năng tiếp công dân trong ngành Kiểm sát nhân dân....................8
3.2.1.

Thực hiện đúng quy trình tiếp công dân............................................8

3.2.2.

Phối hợp giữa các đơn vị của Ngành trong quá trình tiếp công dân. .


.........................................................................................................12

3.3. Một số vấn đề cần lưu ý khi tiếp công dân.........................................13
4. THỰC TRẠNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TRONG
HOẠT ĐỘNG TIẾP CÔNG DÂN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN...13
4.1. Thực trạng công tác tiếp công dân trong ngành Kiểm sát nhân dân. .
................................................................................................................13
4.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của hoạt động tiếp
công dân trong ngành Kiểm sát nhân dân...................................................15
C.

KẾT LUẬN..............................................................................................16

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................17


A. MỞ ĐẦU
Hiện nay, hoạt động tiếp công dân và tiếp nhận, xử lý đơn khiếu nại, tố cáo
đang là một trong những vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với công
cuộc đổi mới của đất nước. Đảng và Nhà nước ta coi công tác tiếp công dân
chính là việc thực hiện quan điểm “Dân là gốc”; tiếp công dân là tạo điều kiện
để nhân dân trực tiếp tham gia quản lý Nhà nước “Dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra”. Qua đó, tạo điều kiện để nhân dân thực hiện quyền dân chủ, đấu
tranh với các hiện tượng tiêu cực, vi phạm pháp luật, bảo vệ lợi ích hợp pháp,
chính đáng của Nhà nước, của tập thể và của cá nhân.
Công tác tiếp công dân cũng là bước đầu của giải quyết khiếu nại, tố cáo,
kiến nghị, phản ánh. Trong khi đó, Hiến pháp năm 2013 khẳng định rằng khiếu
nại, tố cáo là một trong các quyền cơ bản của công dân, quyền này được sử
dụng không hạn chế ở bất cứ lĩnh vực nào. Như vậy, có thể thấy rằng việc thực
hiện tốt công tác này là điều kiện cần thiết cho hoạt động giải quyết khiếu nại,

tố cáo, kiến nghị, phản ánh được thực hiện có hiệu quả.
Pháp luật quy định cho Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ, quyền hạn
trong việc tổ chức tiếp công dân, thể hiện ở Luật Tiếp công dân năm 2013, Luật
Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Luật Khiếu nại năm 2010, Luật Tố
cáo năm 2010 và các văn bản pháp luật có liên quan. Trên cơ sở đó, Viện kiểm
sát nhân dân xác định hoạt động tiếp công dân là một trong những hoạt động
quan trọng của Ngành. Bài tiểu luận sau đây xin phân tích về “Những vấn đề
chung về hoạt động tiếp công dân của Viện kiểm sát nhân dân” để qua đó làm
rõ về những quy định pháp luật về công tác tiếp công dân của Viện kiểm sát, kỹ
năng tiếp công dân trong ngành Kiểm sát nhân dân, thực trạng tiếp công dân của
Ngành và từ đó đề ra những giải pháp giúp nâng cao chất lượng, hiệu quả của
hoạt động này.

1


B. NỘI DUNG
1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TIẾP CÔNG DÂN
1.1. Khái niệm, mục đích của hoạt động tiếp công dân
Trước khi có Luật Tiếp công dân năm 2013, các văn bản pháp luật của
nước ta chưa có văn bản nào quy định thế nào là “tiếp công dân” mà chỉ có các
khái niệm về trụ sở tiếp công dân, địa điểm tiếp công dân, trách nhiệm của cán
bộ tiếp công dân,… được quy định tại Chương 5 (từ Điều 59 đến Điều 62) Luật
Khiếu nại năm 2011; tại Chương 5 (từ Điều 21 đến Điều 31) Nghị định số
75/2012/NĐ-CP ngày 03/10/2012 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều
của Luật Khiếu nại; Thông tư số 07/2011/TT-TTCP ngày 28/7/2011 của Thanh
tra Chính phủ hướng dẫn quy trình tiếp công dân.
Luật Tiếp công dân năm 2013 ra đời quy định về khái niệm tiếp công dân
tại khoản 1 Điều 2 như sau: “Tiếp công dân là việc cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá
nhân quy định tại Điều 4 của Luật này tiếp đón để lắng nghe, tiếp nhận khiếu

nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân; giải thích, hướng dẫn cho công
dân về việc thực hiện khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh theo đúng quy định
của pháp luật. Tiếp công dân bao gồm tiếp công dân thường xuyên, tiếp công
dân định kỳ và tiếp công dân đột xuất”.
Việc tiếp công dân nhằm mục đích tiếp nhận khiếu nại, tố cáo của cơ quan,
tổ chức, cá nhân đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền để xem xét, ra quyết định
giải quyết khiếu nại, kết luận việc giải quyết tố cáo, quyết định xử lý tố cáo và
trả lời cho công dân biết theo đúng thời gian pháp luật quy định; đồng thời,
hướng dẫn công dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh theo
quy định của pháp luật, góp phần tuyên truyền pháp luật về khiếu nại, tố cáo,
kiến nghị, phản ánh cho công dân.
1.2. Ý nghĩa của hoạt động tiếp công dân
Thứ nhất, việc tổ chức tiếp công dân tốt sẽ tạo điều kiện để nhân dân trực
tiếp tham gia quản lý Nhà nước, quản lý xã hội, thể hiện cụ thể quan điểm “dân
2


là gốc” của Đảng và Nhà nước ta. Thông qua công tác tiếp công dân, mối quan
hệ máu thịt giữa dân với Đảng, Nhà nước càng gắn bó hơn, hiểu nhau hơn.
Thứ hai, thông qua việc tiếp dân, các cơ quan Nhà nước nắm được tâm tư,
nguyện vọng của nhân dân đối với các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp
luật của Nhà nước để kịp thời chấn chỉnh, bổ sung, sửa đổi hoặc huỷ bỏ các nội
dung không còn phù hợp. Đồng thời Đảng và Nhà nước nắm được tình hình cụ
thể ở các địa phương để nâng cao, hoàn thiện công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều
hành, quản lý trong tổ chức Đảng và cơ quan Nhà nước.
Thứ ba, tiếp công dân là một khâu quan trọng đầu tiên trong quá trình giải
quyết khiếu nại, tố cáo. Thực hiện tốt hoạt động này góp phần nâng cao chất
lượng, hiệu quả của công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân, xử lý vi phạm và người phạm tội một cách kịp thời,
đảm bảo pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh.

1.3. Nguyên tắc trong công tác tiếp công dân
Nguyên tắc tiếp công dân được quy định tại Điều 3 Luật Tiếp công dân
năm 2013, cụ thể như sau:
Một là, việc tiếp công dân phải được tiến hành tại nơi tiếp công dân của cơ
quan, tổ chức, đơn vị.
Hai là, việc tiếp công dân phải bảo đảm công khai, dân chủ, kịp thời; thủ
tục đơn giản, thuận tiện; giữ bí mật và bảo đảm an toàn cho người tố cáo theo
quy định của pháp luật; bảo đảm khách quan, bình đẳng, không phân biệt đối xử
trong khi tiếp công dân.
Ba là, tôn trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho công dân thực hiện việc khiếu
nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh theo quy định của pháp luật.
2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ TIẾP CÔNG DÂN
Công tác tiếp công dân được quy định chung tại Luật Tiếp công dân năm
2013 và các văn bản pháp luật có liên quan. Riêng đối với ngành Kiểm sát nhân
3


dân, hoạt động này còn được thực hiện theo Quy chế tiếp công dân ban hành
kèm theo Quyết định số 51/QĐ-VKSTC-V12 ngày 02/02/2016 của Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành Quy chế tiếp công dân, giải quyết
khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư
pháp (gọi tắt là Quy chế 51).
Luật Tiếp công dân được Quốc hội khoá XIII thông qua ngày 25/11/2013,
tại kỳ họp thứ 6, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2014, gồm 9 chương và 36
điều. Theo quy định tại Điều 1, phạm vi điều chỉnh của Luật tiếp công dân bao
gồm các nội dung: Trách nhiệm tiếp công dân; quyền và nghĩa vụ của người đến
khiếu nại, tố cáo; việc tổ chức hoạt động tiếp công dân của cơ quan, tổ chức,
đơn vị và các điều kiện đảm bảo cho hoạt động tiếp công dân.
Về trách nhiệm tiếp công dân, Luật Tiếp công dân năm 2013 quy định
trách nhiệm tiếp công dân của các cơ quan nhà nước (Điều 4), trách nhiệm của

người tiếp công dân (Điều 8) và trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan trong
việc tiếp công dân (Điều 18).
- Về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, đơn vị: Do từng cơ quan nhà nước
có đặc điểm, chức năng, nhiệm vụ khác nhau nên việc tiếp công dân được thực
hiện bởi nhiều chủ thể khác nhau. Riêng việc tổ chức tiếp công dân tại Viện
kiểm sát nhân dân được quy định tại Điều 17, theo đó Viện kiểm sát các cấp có
trách nhiệm tổ chức việc tiếp công dân và bố trí địa điểm tiếp công dân của cơ
quan mình để tiếp nhận khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân;
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định cụ thể việc tổ chức tiếp
công dân của cơ quan mình và của Viện kiểm sát các cấp.
- Về trách nhiệm của người tiếp công dân: Điều 8 Luật tiếp công dân và
Điều 3 Quy chế 51 quy định, khi tiếp công dân, người tiếp công dân phải bảo
đảm trang phục chỉnh tề, đúng quy định; có thái độ đúng mực, tôn trọng công
dân, lắng nghe, tiếp nhận đơn khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh hoặc ghi
chép đầy đủ, chính xác nội dung mà người đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị,
phản ánh trình bày. Không hứa hẹn hoặc thông báo cho công dân nội dung hoặc
kết quả giải quyết khi chưa được kết luận chính thức bằng văn bản. Người tiếp
4


công dân phải thông báo kết quả xử lý khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh
cho công dân, điều này cho thấy phải có sự phối hợp giữa người tiếp công dân
với người xử lý, giải quyết đơn, nhất là những đơn thuộc thẩm quyền, trách
nhiệm kiểm sát của Viện kiểm sát.
- Về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan: Luật Tiếp công dân tại
Điều 18 quy định lãnh đạo phải bố trí địa điểm tiếp công dân ở vị trí thuận tiện,
đảm bảo các điều kiện vật chất phục vụ việc tiếp công dân; phân công cán bộ,
công chức làm công tác tiếp công dân thường xuyên; phối hợp chặt chẽ với cơ
quan, tổ chức, đơn vị có liên quan tiếp công dân và xử lý vụ việc nhiều người
cùng khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh về một nội dung; kiểm tra, đôn đốc

cơ quan, tổ chức, đơn vị, người có trách nhiệm thuộc quyền quản lý của mình
thực hiện các quy định của pháp luật trong việc tiếp công dân; có trách nhiệm
bảo đảm an toàn, trật tự cho hoạt động tiếp công dân; báo cáo tình hình, kết quả
công tác tiếp công dân với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền; Thủ trưởng cơ quan
phải trực tiếp tiếp công dân theo định kỳ và trong những trường hợp đột xuất,
khi tiếp phải có ý kiến trả lời về việc giải quyết hoặc chỉ đạo đơn vị thuộc quyền
xem xét giải quyết và thông báo thời gian trả lời cho công dân.
Ngoài ra, Luật Tiếp công dân còn quy định về những hành vi bị cấm đối
với cơ quan nhà nước, người đứng đầu cơ quan và người tiếp công dân như sau:
Gây phiền hà, sách nhiễu hoặc cản trở người đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị,
phản ánh; thiếu trách nhiệm trong việc tiếp công dân; làm mất hoặc làm sai lệch
thông tin, tài liệu do người khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh cung cấp;
Phân biệt đối xử trong khi tiếp công dân; vi phạm các quy định khác trong nội
quy, quy chế tiếp công dân (khoản 1, 2, 3, 8 Điều 6).
Về quyền và nghĩa vụ của người đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản
ánh: Điều 7 Luật tiếp công dân quy định về quyền và nghĩa vụ của người đến
khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh một cách rõ ràng, đầy đủ hơn trước đây.
Bên cạnh đó, tại Điều 6 (khoản 4, 5, 6, 7) của Luật cũng quy định những hành
5


vi bị nghiêm cấm bao gồm: lợi dụng các quyền này để gây rối trật tự công cộng;
xuyên tạc, vu khống gây thiệt hại cho cơ quan, tổ chức, cá nhân; đe dọa, xúc
phạm cơ quan, tổ chức, đơn vị, người tiếp công dân, người thi hành công vụ;
kích động, cưỡng ép, dụ dỗ, lôi kéo mua chuộc người khác tập trung đông
người tại nơi tiếp công dân; vi phạm các quy định khác trong nội quy, quy chế
tiếp công dân.
Bên cạnh đó, Luật Tiếp công dân năm 2013 còn quy định nhiều vấn đề cụ
thể như việc tổ chức hoạt động tiếp công dân của cơ quan, tổ chức, đơn vị ; các
điều kiện đảm bảo cho hoạt động tiếp công dân; việc tiếp nhận, xử lý đơn khiếu

nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh.
Để triển khai thực hiện Luật tiếp công dân, ngày 26/6/2014, Chính phủ
ban hành Nghị định số 64/2014/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều
của Luật tiếp công dân. Tiếp đó, ngày 31/10/2014, Thanh tra Chính phủ cũng
ban hành Thông tư số 06/2014/TT-TTCP quy định về quy trình tiếp công dân.
Đối với Viện kiểm sát nhân dân, công tác tiếp công dân từ nhiều năm nay
được xác định là một trong những công tác trọng tâm của Ngành, là nhiệm vụ
thường xuyên được tập trung chỉ đạo. Ngày 04/8/2014, Ban cán sự đảng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao đã ban hành Kế hoạch số 09-KH/BCSĐ về việc triển
khai thực hiện Chỉ thị số 35-CT/TW của Bộ Chính trị, trong đó tập trung đẩy
mạnh công tác tiếp công dân và tiếp nhận, xử lý đơn khiếu nại, tố cáo, kiến
nghị, phản ánh. Tiếp đó, ngày 02/02/2016, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
ban hành Quyết định số 51/QĐ-VKSTC-V12 ngày 02/02/2016 của Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành Quy chế tiếp công dân, giải quyết
khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư
pháp (gọi tắt là Quy chế 51).
Nhìn chung, có thể thấy hiện nay các quy định của pháp luật, của ngành
Kiểm sát nhân dân về công tác tiếp công dân đã cơ bản được hoàn thiện. Đây là
cơ sở quan trọng để công tác tiếp công dân được tiến hành một cách thuận lợi
và hiệu quả hơn.
3. HOẠT ĐỘNG TIẾP CÔNG DÂN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
6


3.1. Một số yêu cầu cụ thể đối với hoạt động tiếp công dân
3.1.1. Yêu cầu về địa điểm
Tại Điều 19 Luật Tiếp công dân quy định địa điểm tiếp công dân phải
được bố trí tại vị trí thuận tiện để công dân đến trình bày khiếu nại, tố cáo, kiến
nghị, phản ánh. Viện kiểm sát các cấp tuỳ tình hình địa phương mình để chọn
địa điểm sao cho phù hợp để tiếp công dân. Nơi tiếp công dân cần phải khang

trang, sạch sẽ, thoáng mát, nhằm gây ấn tượng tốt đẹp đối với công dân khi đến
cơ quan nhà nước. Cần chú ý tránh hai khuynh hướng: địa điểm tiếp công dân là
nơi quá đơn giản, tuỳ tiện vì sẽ gây ấn tượng không tốt với công dân; hoặc địa
điểm tiếp công dân là nơi quá cầu kỳ, hình thức, gây lãng phí. Viện kiểm sát cần
phải bố trí phòng chờ tiếp công dân và phòng tiếp công dân riêng biệt để thuận
tiện cho việc trao đổi của công dân với cán bộ.
3.1.2. Yêu cầu về phương tiện, thiết bị
Viện kiểm sát các địa phương cần chuẩn bị đầy đủ những phương tiện,
thiết bị cần thiết để phục vụ việc tiếp công dân và việc thực hiện nhiệm vụ của
cán bộ tiếp dân. Những trang thiết bị đó có thể là: bàn ghế, sổ sách, bút, ấm
chén, đèn, quạt,… Nếu có điều kiện, có thể chuẩn bị máy ghi âm, máy ghi hình
để cán bộ tiếp dân kịp thời chụp ảnh, ghi âm những tài liệu, chứng cứ quan
trọng phục vụ cho công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh.
Phòng tiếp công dân bắt buộc phải có nội quy tiếp công dân của Viện kiểm
sát, hướng dẫn về quy trình tiếp công dân, quy trình giải quyết khiếu nại, tố cáo
(Điều 19 Luật Tiếp công dân), lịch tiếp công dân trong đó ghi rõ thời gian, tên
và chức vụ của người tiếp công dân, trách nhiệm của cán bộ tiếp dân, quyền và
nghĩa vụ của công dân đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh. Viện kiểm sát
cần sắp xếp, bố trí các phương tiện, thiết bị, đồ dùng sao cho ngăn nắp, khoa
học để thuận lợi cho quá trình tiếp công dân và đảm bảo mỹ quan tại nơi làm
việc.
3.1.3. Yêu cầu chung đối với cán bộ
Để hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, người tiếp dân phải thành thạo về
chuyên môn nghiệp vụ, có kiến thức tương đối sâu sắc và toàn diện về nhiều
7


lĩnh vực từ chính sách pháp luật, công tác quản lý cho đến văn hóa ứng xử, nghệ
thuật giao tiếp. Đôi lúc, cán bộ tiếp dân cần phải có tính kiên trì, chịu đựng.
Lãnh đạo Viện kiểm sát cần phải bố trí những cán bộ có phẩm chất tốt, có ý

thức trách nhiệm cao để thực hiện công tác này.
Việc tiếp công dân đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh tại Viện kiểm
sát là một công việc phức tạp, đòi hỏi phải tuân thủ một cách chặt chẽ các quy
định của pháp luật. Mặt khác, công việc này luôn đặt ra yêu cầu sáng tạo, linh
hoạt về phương pháp, nghiệp vụ. Về mặt pháp lý, Luật tiếp công dân, Quy chế
51 và Nội quy tiếp công dân, ban hành kèm theo Quyết định số 251/QĐVKSTC-V12 ngày 17/5/2016 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao
đã quy định rõ những yêu cầu và nguyên tắc của hoạt động tiếp công dân. Tuy
vậy, việc tiếp công dân không có một khuôn mẫu cứng nhắc và cố định cho mọi
trường hợp. Do đó, tùy điều kiện, hoàn cảnh, đối tượng cụ thể mà người tiếp
công dân cần có phương thức tiếp thích hợp.
Việc tiếp công dân phải dựa trên các nguyên tắc nhất định và đạt được
mục đích mà pháp luật đề ra. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi trình độ dân
trí đã được nâng cao, hệ thống các văn bản pháp luật luôn được sửa đổi, bổ sung
thì đòi hỏi người tiếp công dân phải không ngừng nâng cao trình độ, thường
xuyên tìm hiểu, nghiên cứu pháp luật mới đáp ứng được yêu cầu công tác.
3.2. Kỹ năng tiếp công dân trong ngành Kiểm sát nhân dân
3.2.1. Thực hiện đúng quy trình tiếp công dân
Để làm tốt điều này đòi hỏi Kiểm sát viên, cán bộ tiếp công dân phải nắm
vững những giai đoạn và nhiệm vụ cơ bản sau:
* Giai đoạn chuẩn bị
Cán bộ tiếp dân phải chuẩn bị tâm lý vững vàng, bình tĩnh, chủ động để
ứng phó với các tình huống cụ thể. Bởi lẽ công dân đến Viện kiểm sát thường là
để khiếu nại, tố cáo và họ mang tâm lý bức xúc, oan ức nên dễ kích động, căng
thẳng, thiếu kiểm soát trong lời nói và hành động, thậm chí gay gắt, xúc phạm
và đe dọa cả cán bộ. Bên cạnh đó, để có cơ sở phục vụ cho buổi tiếp công dân,
cán bộ phải chuẩn bị các văn bản quy phạm pháp luật càng nhiều càng tốt.
8


Trong trường hợp cần thiết, cán bộ tiếp dân có thể sử dụng để giải thích, hướng

dẫn cho công dân biết.
Cán bộ tiếp dân có thể dự lường trước tại buổi tiếp công dân sẽ có nhiều ý
kiến bức xúc về lĩnh vực nào đó đang nóng hoặc được dư luận quan tâm nhiều
tại địa phương thì có thể chủ động chuẩn bị sẵn những câu hỏi để xác minh lại
thông tin mà công dân phản ánh, yêu cầu công dân cung cấp tài liệu, chứng cứ
có liên quan,… để làm căn cứ cho việc chuyển đơn hoặc xác minh vụ việc mà
công dân phản ánh.
Ngoài ra, cán bộ tiếp dân cần phải chú ý hình thức bên ngoài. Trang phục
của đại biểu phải trang nhã, lịch sự đúng theo quy định của ngành Kiểm sát
nhân dân, không quá lòe loẹt, cầu kỳ, không quá lôi thôi để tạo sự gần gũi và
thiện cảm đối với công dân.
* Giai đoạn mở đầu tiếp xúc
Đây là giai đoạn tạo dựng ấn tượng, hình ảnh, sự an tâm, thiện cảm của đại
biểu đối với công dân. Giai đoạn này cần lưu ý thể hiện thái độ, lời nói, tác
phong, cử chỉ lịch sự, nhã nhặn, đúng mực, chân tình ngay từ ban đầu. Qua đó,
người dân sẽ cảm thấy yên tâm và xoa dịu tâm lý bức xúc, tạo không khí trao
đổi cởi mở, giúp giảm sự căng thẳng, tạo điều kiện cho sự thành công trong
buổi tiếp công dân.
Khi công dân vào phòng, cán bộ tiếp công dân phải mời họ ngồi, mời nước
để công dân nghỉ ngơi, bình tĩnh. Sau đó, cán bộ giới giới thiệu thành phần buổi
tiếp công dân. Sau đó, cán bộ tiếp công dân phải tiến hành các công việc cụ thể
như sau:
Thứ nhất, cán bộ tiếp công dân phải xác định được điều kiện của người
đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh.
- Yêu cầu công dân xuất trình giấy tờ tùy thân, giấy giới thiệu, giấy ủy
quyền (nếu có) và tiến hành các thủ tục kiểm tra, đối chiếu các giấy tờ để xác
định họ là người tự mình thực hiện việc khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh
hay là người đại diện hoặc người được ủy quyền. Nếu giấy ủy quyền không hợp
lệ và không theo đúng quy định của pháp luật thì cán bộ phải giải thích và
9



hướng dẫn công dân làm lại các thủ tục cần thiết để thực hiện việc khiếu nại, tố
cáo, kiến nghị, phản ánh theo đúng quy định. Sau đó ghi chép vào sổ tiếp công
dân các thông tin cơ bản về nhân thân của công dân.
- Trường hợp công dân hoặc người được ủy quyền, người đại diện theo
quy định của pháp luật cho cá nhân, cơ quan, tổ chức có hành vi vi phạm quy
định tại Điều 9 Luật tiếp công dân như: người trong tình trạng say do dùng chất
kích thích, người có biểu hiện mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất
khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình; người có hành
vi đe dọa, xúc phạm cơ quan, tổ chức, đơn vị, người tiếp công dân, người thi
hành công vụ hoặc có hành vi khác vi phạm nội quy nơi tiếp công dân thì người
tiếp công dân được quyền từ chối tiếp nhưng phải giải thích cho công dân được biết lý
do từ chối tiếp.
- Trường hợp công dân hoặc người được ủy quyền, người đại diện theo
quy định của pháp luật cho cá nhân, cơ quan, tổ chức không vi phạm quy định
Điều 9 Luật tiếp công dân thì người tiếp công dân tiến hành việc tiếp công dân.
Thứ hai, cán bộ tiếp công dân phải tiến hành phổ biến quyền và nghĩa vụ
của người khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh theo quy định tại Điều 7 Luật
Tiếp công dân.
* Giai đoạn trao đổi, lắng nghe và tiếp nhận, xử lý khiếu nại, tố cáo, kiến
nghị phản ánh
Ở giai đoạn này, cán bộ tiếp công dân phải thực hiện các công việc sau:
- Lắng nghe, ghi chép đầy đủ nội dung trình bày của người đến khiếu nại,
tố cáo, kiến nghị, phản ánh. Trong trường hợp có nhiều người đến khiếu nại, tố
cáo về cùng một nội dung (khiếu nại, tố cáo đông người) thì yêu cầu họ cử đại
diện để trình bày. Cần kiên quyết và khéo léo phối hợp với lực lượng bảo vệ để
hạn chế tình trạng tụ tập quá đông, gây mất trật tự ngay tại phòng tiếp công dân,
ảnh hưởng trực tiếp đến công tác tiếp công dân.
- Tiếp nhận đơn để nghiên cứu phân loại, xử lý theo quy định của pháp

luật. Nếu nội dung đơn khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh không rõ ràng,
chưa đầy đủ thì hướng dẫn công dân viết lại đơn hoặc bổ sung những nội dung
10


chưa rõ, còn thiếu. Trường hợp công dân không có đơn thì yêu cầu họ viết đơn.
Nếu công dân không tự viết được đơn thì người tiếp công dân ghi chép đầy đủ,
trung thực, chính xác nội dung khiếu nại do công dân trình bày; nội dung nào
chưa rõ thì đề nghị công dân trình bày thêm, sau đó đọc lại cho công dân nghe
và đề nghị công dân ký tên hoặc điểm chỉ xác nhận vào văn bản. Trường hợp
đơn vừa có nội dung khiếu nại, vừa có nội dung tố cáo hoặc kiến nghị, phản ánh
thì hướng dẫn công dân viết thành từng đơn riêng.
- Khi công dân cung cấp các thông tin, tài liệu, bằng chứng có liên quan
đến việc khiếu nại, tố cáo thì người tiếp công dân phải kiểm tra tính hợp lệ của
các thông tin, tài liệu, bằng chứng đó để quyết định việc tiếp nhận hay không.
Nếu tiếp nhận thì viết giấy biên nhận (theo mẫu), nếu công dân có yêu cầu. Tuy
nhiên cần lưu ý là khi công dân xuất trình bản gốc tài liệu, bằng chứng thì đề
nghị công dân cung cấp bản sao có công chứng của tài liệu, bằng chúng đó, hạn
chế việc tiếp nhận bản gốc.
- Đối với những vụ, việc khiếu nại, tố cáo pháp luật quy định còn trình tự
giải quyết tiếp thì hướng dẫn cho công dân khiếu nại, tố cáo đến cơ quan có
thẩm quyền để xem xét giải quyết. Nếu việc khiếu nại, tố cáo đó đã có văn bản
giải quyết cuối cùng thì hướng dẫn công dân làm đơn đề nghị kiểm tra lại việc
giải quyết gửi đến cơ quan có thẩm quyền xem xét.
- Đối với những khiếu nại, tố cáo đã được giải quyết đúng chính sách,
pháp luật, được cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm tra, rà soát, thông báo
bằng văn bản và đã được tiếp, giải thích, hướng dẫn nhưng công dân vẫn cố tình
khiếu nại, tố cáo kéo dài thì người tiếp công dân ra Thông báo từ chối tiếp công dân.
- Cán bộ tiếp công dân phải xác định được nội dung đơn, thẩm quyền giải
quyết, đủ điều kiện thụ lý thì mới quyết định có tiếp nhận đơn hay không hoặc

yêu cầu bổ sung những tài liệu gì. Nếu khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền giải
quyết của Viện kiểm sát thì thông báo cho đơn vị nghiệp vụ liên quan cử người
tiếp công dân. Nếu khiếu nại, tố cáo không thuộc thẩm quyền giải quyết của
Viện kiểm sát thì người tiếp dân có trách nhiệm hướng dẫn công dân khiếu nại,
tố cáo đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
11


* Giai đoạn kết thúc tiếp công dân
Ở giai đoạn này người tiếp công dân cần làm tốt các việc sau:
- Kiểm tra lại đơn, các tài liệu đã nhận do công dân cung cấp.
- Đọc biên bản bản ghi lời trình bày của người khiếu nại, tố cáo, kiến nghị,
phản ánh (nếu có) và yêu cầu họ ký tên xác nhận.
- Ghi chép đầy đủ các ý kiến bổ sung của người khiếu nại, tố cáo, kiến
nghị, phản ánh vào sổ tiếp công dân.
3.2.2. Phối hợp giữa các đơn vị của Ngành trong quá trình tiếp công dân
Hoạt động tiếp công dân là một trong những nhiệm vụ của Viện kiểm sát,
được pháp luật quy định. Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ chung của Ngành,
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã phân công đơn vị kiểm sát và
giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp (gọi tắt là Đơn vị 12)
đảm nhận việc thường trực tiếp công dân hàng ngày, các đơn vị nghiệp vụ khác
tiếp công dân trong trường hợp công dân đến khiếu nại, tố cáo có liên quan đến
việc thực hiện nhiệm vụ của đơn vị đó. Vì vậy, cần có sự phối hợp thường
xuyên giữa Đơn vị 12 và các đơn vị nghiệp vụ trong việc tiếp công dân nhằm
hạn chế tối đa việc gây phiền hà, bức xúc cho công dân, giúp việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo nhanh chóng và có hiệu quả hơn.
Theo quy định tại Điều 5 và Điều 6 Quy chế số 51, việc phối hợp giữa
Đơn vị 12 và các đơn vị nghiệp vụ được tiến hành trong những trường hợp sau:
Mội là, khi Đơn vị 12 thấy việc khiếu nại, tố cáo của công dân thuộc trách
nhiệm của đơn vị nghiệp vụ nào thì thông báo tới đơn vị nghiệp vụ đó. Sau khi

nhận được thông báo của Đơn vị 12, đơn vị nghiệp vụ phải khẩn trương cử
người để tiếp công dân, trường hợp chưa tiếp công dân được ngay thì cũng phải
thông báo lại cho Đơn vị 12 để trả lời cho công dân biết lý do và hẹn ngày tiếp
công dân.
Hai là, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, nếu xét thấy cần thiết tiếp công
dân thì đơn vị nghiệp vụ có trách nhiệm làm giấy mời công dân và thông báo
ngày, giờ tiếp để Đơn vị 12 chủ động phối hợp bố trí, sắp xếp nơi tiếp công dân.

12


Ba là, các đơn vị nghiệp vụ cùng Đơn vị 12 tham gia tiếp dân của lãnh đạo
Viện kiểm sát.
Có thể thấy việc phối hợp ở đây thể hiện trong việc thông tin người đến
khiếu nại, tố cáo, kiến nghị phản ảnh cũng như kết quả giải quyết giữa Đơn vị
12 với các đơn vị nghiệp vụ liên quan đến việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, phối
hợp trong việc tham mưu tiếp công dân của Viện trưởng,…
3.3. Một số vấn đề cần lưu ý khi tiếp công dân
Thứ nhất, công dân đến khiếu nại, tố cáo thường có tâm lý bức xúc, có thể
là oan sai nên dễ có thái độ, lời nói căng thẳng, cung cấp hồ sơ, chứng cứ có lợi
cho họ. Vì vậy, cán bộ tiếp dân cần thể hiện cử chỉ ân cần, thăm hỏi, động viên
công dân nhằm giảm bớt tâm lý căng thẳng rồi mới đi vào nội dung chính.
Thứ hai, đối với người cung cấp hồ sơ không đầy đủ, không xuất trình
những văn bản của cơ quan đã giải quyết trước đó thì người tiếp công dân cần
ứng xử linh hoạt, có cách gợi mở, tạo lòng tin để công dân cung cấp đầy đủ tài
liệu, thông tin sát thực về nội dung cũng như diễn biến của quá trình giải quyết
vụ việc của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền.
Thứ ba, trong trường hợp người đến khiếu nại, tố cáo có thái độ quá khích,
hành động và lời nói không đúng mực, xúc phạm, vi phạm nội quy tiếp công
dân, trước hết người tiếp dân cần phải kiên nhẫn, chịu đựng, thể hiện sự quan

tâm của mình đối với sự việc của công dân trình bày. Tiếp đó, cán bộ giải thích,
hướng dẫn cho họ hiểu và tìm mọi cách để làm giảm bớt những căng thẳng, bức
xúc của công dân, khuyên bảo họ về nội quy tiếp công dân và cho họ biết rằng
họ đang vi phạm. Nếu người đến khiếu nại, tố cáo vẫn cố tình vi phạm nội quy
tiếp công dân thì cán bộ có quyền từ chối tiếp và yêu cầu lực lượng giữ gìn trật
tự làm nhiệm vụ đưa họ ra khỏi trụ sở tiếp công dân.
Thứ tư, trường hợp công dân cố tình không thực hiện sự hướng dẫn của
đại biểu tiếp nhận đơn, thì tùy từng trường hợp cụ thể, cán bộ tiếp công dân có
thể từ chối tiếp nhận đơn của họ.
4. THỰC TRẠNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TRONG
HOẠT ĐỘNG TIẾP CÔNG DÂN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
13


4.1. Thực trạng công tác tiếp công dân trong ngành Kiểm sát nhân dân
Nhìn chung, Viện kiểm sát các cấp trong thời gian qua đã bố trí phòng tiếp
công dân, tạo điều kiện thuận lợi cho công dân đến khiếu nại, tố cáo. Phòng tiếp
dân đã niêm yết đầy đủ nội quy, lịch tiếp công dân của Lãnh đạo Viện. Bên cạnh
đó, Viện kiểm sát các cấp đã dần cải thiện hoạt động tổ chức tiếp công dân theo
hướng tích cực, đảm bảo các trường hợp công dân đến gửi đơn được tiếp nhận
theo đúng quy định. Đặc biệt, Viện trưởng kiểm sát nhân dân ở từng địa phương
đã bố trí cán bộ, Kiểm sát viên chuyên trách hoặc kiêm nhiệm thực hiện công
tác tiếp công dân.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác tiếp công dân của Ngành
vẫn gặp một số hạn chế, thiếu sót sau:
Thứ nhất, nhiều cán bộ, Kiểm sát viên chưa đủ kiến thức, trình độ chuyên
môn, không có nhiều kỹ năng nắm bắt tâm lý của công dân đến khiếu nại, tố
cáo, kiến nghị, phản ánh. Việc này dẫn đến chậm trễ trong quá trình tiếp nhận,
xử lý đơn khiếu nại, tố cáo của công dân, gây mất lòng tin của dân vào Viện
kiểm sát và ngành Kiểm sát nhân dân.

Thứ hai, một số cán bộ được giao nhiệm vụ tiếp công dân có thái độ không
đúng mực, thiếu tôn trọng, quát tháo, hạch sách, cửa quyền với dân. Hơn thế
nữa, có người còn thể hiện những hành động, lời nói xúc phạm công dân khi họ
tỏ ra bức xúc, căng thẳng với nội dung khiếu, tố của mình. Một số người tiếp
công dân tư vấn sai hoặc không tiếp nhận đơn khiếu nại, tố cáo đúng quy định
pháp luật của người khiếu nại, tố cáo, xâm phạm trực tiếp đến quyền và lợi ích
hợp pháp của họ.
Thứ ba, cơ sở hạ tầng, phương tiện, trang thiết bị ở Viện kiểm sát địa
phương (đặc biệt là Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện) còn sơ sài, không đảm
bảo chất lượng và hiệu quả của công tác tiếp công dân. Phòng tiếp công dân có
diện tích quá nhỏ, xập xệ. Nhiều Viện kiểm sát địa phương không bố trí được
trụ sở tiếp công dân riêng biệt với trụ sở làm việc của Viện kiểm sát, do đó xảy
ra những trường hợp công dân đến Viện kiểm sát khiếu nại, tố cáo vì quá bức

14


xúc đã gây ồn ào, mất trật tự, ảnh hưởng đến sự yên lặng và hoạt động của cán
bộ, công chức trong Viện.
Nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót trên là do Viện kiểm sát các cấp
chưa chú trọng đến công tác tiếp công dân. Viện trưởng ở những địa phương
này thường bố trí những cán bộ mới vào nghề, chưa có trình độ chuyên môn
cao, kiến thức về pháp luật còn hạn chế, kỹ năng nắm bắt tâm lý xã hội và đối
thoại còn kém để làm công tác tiếp công dân. Lãnh đạo Viện không quan tâm
đến việc tu sửa phòng tiếp dân, trang bị thêm nhiều thiết bị cần thiết để phục vụ
công tác tiếp công dân sao cho có hiệu quả. Cán bộ, công chức còn có tư tưởng
khó chịu, chán nản, tâm lý “quan với dân” khi tiếp xúc, làm việc với người dân.
Một số cán bộ không có ý thức tự học hỏi, nâng cao trình độ chuyên môn, trau
dồi kiến thức về pháp luật, kỹ năng nắm bắt tâm lý và đối thoại mà chỉ trông
chờ cho hết ngày làm việc.

4.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của hoạt động tiếp công
dân trong ngành Kiểm sát nhân dân
Một là, Viện kiểm sát các cấp trước tiên cần chú trọng và đẩy mạnh hoạt
động tiếp công dân, xem đó là một trong những nhiệm vụ quan trọng của
Ngành. Viện trưởng Viện kiểm sát các cấp phải bố trí các cán bộ lâu năm, có
kiến thức sâu sắc và toàn diện về các quy định của pháp luật, về kiến thức xã
hội, tâm lý để đảm nhiệm công tác này.
Hai là, lãnh đạo Viện cần chú ý thường xuyên mở các lớp tập huấn về kỹ
năng tiếp công dân và tiếp nhận, xử lý đơn khiếu nại, tố cáo dành cho cán bộ,
Kiểm sát viên của địa phương mình để nâng cao trình độ, chuyên môn cho họ.
Ba là, cần quán triệt tư tưởng “dân là gốc”, đảm bảo quyền khiếu nại, tố
cáo của công dân. Nghiêm cấm và có hình thức kỷ luận hoặc xử lý nghiêm
chỉnh những trường hợp cán bộ, Kiểm sát viên vi phạm trong quá trình tiếp
công dân như: hạch sách, quan liêu, cửa quyền, quát tháo, khó chịu, xúc phạm
công dân,…
Bốn là, Viện kiểm sát địa phương cần chủ động hoặc đề nghị xin kinh phí
từ Viện kiểm sát nhân dân tối cao để tu sửa, sửa chữa phòng tiếp dân, trang bị
15


đầy đủ các thiết bị, phương tiện cần thiết phục vụ cho công tác tiếp dân nhằm
đảm bảo cho hoạt động tiếp công dân được diễn ra một cách thuận tiện, hiệu
quả nhất.

16


C. KẾT LUẬN
Tóm lại, công tác tiếp công dân là một trong những hoạt động quan trọng
của Viện kiểm sát. Qua đó, Viện kiểm sát có thể nắm được những vụ việc khiếu

nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh, hiểu rõ được tâm tư, nguyện vọng, vướng mắc
của công dân để từ đó có hướng giải quyết phù hợp, đúng quy định của pháp
luật, mặt khác có thể khắc phục kịp thời vi phạm pháp luật của các cơ quan, tổ
chức, cá nhân và bảo vệ, khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp cho công dân.
Hơn nữa, thực hiện tốt công tác này, Viện kiểm sát nhân dân sẽ xây dựng được
niềm tin của nhân dân với Viện, với ngành Kiểm sát nhân dân, tạo mối quan hệ
gắn bó, mật thiết giữa nhân dân với Ngành nói riêng và với nhà nước nói chung.
Trong quá trình công tác, do những nguyên nhân khách quan và chủ quan
mà một số Viện kiểm sát nhân dân hiện nay còn chưa thực hiện tốt hoạt động
tiếp công dân của đơn vị mình. Đây là một hoạt động phức tạp, đặc biệt, do đó
cán bộ, Kiểm sát viên được phân công phải chú trọng nâng cao năng lực, trình
độ chuyên môn, thường xuyên trau dồi kỹ năng ứng phó với các tình huống cụ
thể, nắm bắt tâm lý người dân để có những hành vi, thái độ đúng mực, phù hợp
với quy định pháp luật. Qua đó, đảm bảo cho hoạt động tiếp công dân được thực
hiện một cách thuận lợi, hiệu quả, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công dân và
kịp thời phát hiện vi phạm để giải quyết, xử lý theo quy định của pháp luật./.

17


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hiến pháp năm 2013.
2. Luật Khiếu nại năm 2010.
3. Luật Tiếp công dân năm 2013.
4. Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014.
5. Luật Tố cáo năm 2010.
6. Nghị định số 64/2014/NĐ-CP ngày 26/6/2014 của Chính phủ quy định
chi tiết thi hành một số điều của Luật Tiếp công dân.
7. Quyết định số 51/QĐ-VKSTC-V12 ngày 02/02/2016 của Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành Quy chế tiếp công dân, giải quyết

khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư
pháp.
8. Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 26/5/2014 của Bộ Chính trị về Tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố
cáo.
9. Chỉ thị số 04/CT-VKSTC ngày 28/7/2017 của Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao về việc Tăng cường công tác tiếp công dân, giải quyết
khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư
pháp.
10.

Quy chế tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc

giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp (ban hành kèm theo Quyết
định số 51/QĐ-VKSTC-V12 ngày 02/02/2016 của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao).
11.

Các trang thông tin điện tử:

/> /> />language=vi&nv=news&op=print/tintuckhac/Cong-tac-tiep-cong-dan-cuanganh-kiem-sat-Thanh-pho-Da-Nang-6018
18


19



×