Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự việt nam tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (524.63 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
--------

TRẦN THỊ NGỌC HIẾU

CHỦ THỂ CỦA TỘI PHẠM THEO PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM

Ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự
Mã số

: 9 38 01 04

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, 2019


Công trình đã được hoàn thành tại:
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. HỒ SỸ SƠN

Phản biện 1: PGS.TS. Trần Văn Độ
Phản biện 2: PGS.TS. Cao Thị Oanh
Phản biện 3: TS. Nguyễn Văn Hiển

Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án tiến sĩ, họp tại Học viện
Khoa học xã hội


Vào lúc phút, ngày tháng

Có thể tìm hiểu luận án tại:
Thư viện Quốc gia
Thư viện Học viện Khoa học xã hội.

năm 2019


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Một trong những vấn đề quan trọng của luật hình sự là chủ thể của
tội phạm. Tầm quan trọng của vấn đề về chủ thể của tội phạm không chỉ thể
hiện ở chỗ chủ thể của tội phạm là một trong bốn yếu tố cấu thành tội phạm
mà còn thể hiện ở chỗ chủ thể của tội phạm còn là yếu tố giữ vai trò “chi
phối” các yếu tố khác của cấu thành tội phạm. Vấn đề là ở chỗ, nói đến tội
phạm là nói đến hành vi phạm tội mà hành vi phạm tội đến lượt mình là sự
thể hiện ý chí của chủ thể (cá nhân hoặc pháp nhân thương mại) ra thế giới
bên ngoài dưới hình thức hành động hoặc không hành động phạm tội. Như
vậy, nếu không có chủ thể của tội phạm (con người với tư cách là chủ thể
của hành vi phạm tội, pháp nhân thương mại với tư cách là chủ thể của hoạt
động phạm tội) thì không có hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm các
quan hệ xã hội mà Bộ luật hình sự ghi nhận và bảo vệ.
Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 lần
đầu tiên trong lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam bổ sung những quy định
đối với pháp nhân thương mại phạm tội. Bên cạnh những ưu điểm của
những quy định về pháp nhân thương mại phạm tội thì việc bổ sung các quy
định đối với pháp nhân tương mại phạm tội cũng làm cho vấn đề chủ thể
của tội phạm càng trở nên phức tạp hơn cả về mặt lý luận, cả về mặt thể chế

hóa pháp luật cả về mặt áp dụng pháp luật hình sự trong thực tiễn khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Do đó, nghiên cứu một cách
sâu sắc và toàn diện các khía cạnh của lý luận cũng như của thực trạng quy
định và áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam về chủ thể của tội phạm để đề
xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự về
chủ thể của tội phạm, rõ ràng là việc làm có tính cấp thiết, có ý nghĩa quan
trọng về mặt lý luận và thực tiễn.


2
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích làm rõ những vấn đề lý luận, thực trạng quy định
và áp dụng pháp luật hình sự Việt nam về chủ thể của tội phạm, Luận án đề
xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình
sự Việt Nam về chủ thể của tội phạm.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục tiêu trên, tác giả xác định một số nhiệm vụ
nghiên cứu chủ yếu sau đây: Phân tích khái niệm, các dấu hiệu, sự phân loại,
mối quan hệ của chủ thể của tội phạm; Phân tích sự điều chỉnh của pháp luật
đối với vấn đề về chủ thể của tội phạm; Khái quát quá trình phát triển quy
định của pháp luật hình sự Việt Nam về chủ thể của tội phạm đến trước khi
ban hành Bộ luật hình sự năm 2015; Phân tích, đánh giá quy định và thực
tiễn áp dụng của Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành về chủ thể của tội
phạm; Phân tích làm rõ yêu cầu và các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy
định của Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành về chủ thể của tội phạm.
3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài luận án được nghiên cứu dưới góc độ luật hình sự và tố tụng
hình sự. Luận án chủ yếu tập trung phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng

pháp luật hình sự của Tòa án nhân dân ở nước ta về chủ thể của tội phạm
trong giai đoạn Bộ luật hình sự năm 1999 có hiệu lực pháp luật (từ năm
2009 đến năm 2018).
Đối tượng nghiên cứu của đề tài:
Luận án lấy các quan điểm khoa học về chủ thể của tội phạm đã được
nêu ra trong khoa học luật hình sự Việt Nam và khoa học luật hình sự nước
ngoài, các quy định pháp luật hình sự Việt Nam (là chủ yếu) và của một số
nước ngoài về chủ thể của tội phạm, thực tiễn áp dụng quy định pháp luật


3
hình sự về chủ thể của tội phạm trong thực tiễn xét xử ở nước ta để nghiên
cứu các vấn đề thuộc nội dung nghiên cứu của đề tài.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Dựa trên cơ sở phương pháp luận là phương pháp duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử, luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây:
Phương pháp tổng hợp và thống kê; điều tra án hình sự điển hình; tổng kết
thực tiễn; ngoài ra, luận án sử dụng một số phương pháp cụ thể bao gồm
phân tích, tổng hợp, phương pháp lịch sử…
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án có những đóng góp mới chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, Luận án góp phần xây dựng khung lý luận về chủ thể của
tội phạm.
Thứ hai, luận án góp phần khẳng định vị trí, vai trò và giá trị của cách
tiếp cận đa ngành, liên ngành khoa học xã hội nói chung và đa ngành, liên
ngành luật học nói riêng trong nghiên cứu chủ thể của tội phạm.
Thứ ba, luận án góp phần vào việc xây dựng các cơ sở cho việc hoàn
thiện quy định của pháp luật hình sự về chủ thể của tội phạm, xây dựng các
giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định pháp luật hình sự về chủ thể của
tội phạm trong thời gian tới.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Ý nghĩa lý luận, Luận án sẽ bổ sung và góp phần làm giàu thêm lý
luận về chủ thể của tội phạm, thiết lập định hướng nghiên cứu mới về chủ
thể của tội phạm.
Ý nghĩa thực tiễn, kết quả nghiên cứu của luận án giá trị nghiên cứu,
tham khảo cho các cơ quan xây dựng pháp luật, các cơ quan áp dụng pháp
luật và các cơ sở đào tạo.
7. Cơ cấu của luận án
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu


4
Chương 2. Những vấn đề lý luận và lịch sử hình thành, phát triển các
quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về chủ thể của tội phạm
Chương 3. Quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành về chủ
thể của tội phạm và thực tiễn áp dụng
Chương 4. Yêu cầu và các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định
của Bộ luật hình sự về chủ thể của tội phạm


5
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án
Tiếp cận theo cách thức mới, theo các lĩnh vực của đề tài khoa học
cấp bộ, cấp cơ sở, các luận án, luận văn, bài viết theo nhóm: Các công trình
nghiên cứu liên quan đến những vấn đề lý luận của chủ thể của tội phạm;
Các công trình nghiên cứu liên quan đến thực tiễn áp dụng quy định của Bộ
luật hình sự về chủ thể của tội phạm và các công trình nghiên cứu về giải
pháp hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự về chủ thể của tội phạm

1.2. Đánh giá chung tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
Có điểm chung: đã nghiên cứu những khía cạnh riêng lẻ liên quan
đến chủ thể của tội phạm bằng cách tiếp cận luật hình sự thực định.
1.3. Những vấn đề luận án sẽ làm rõ
Thứ nhất, sử dụng cả cách tiếp cận đa ngành, liên ngành khoa học xã
hội và đa ngành, liên ngành luật học tiếp tục nghiên cứu các vấn đề liên
quan đến chủ thể của tội phạm. Đặc biệt, bổ sung nghiên cứu nội dung về
sự điều chỉnh của pháp luật đối với vấn đề chủ thể của tội phạm. Thứ hai,
phân tích thực tiễn quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành về chủ thể
của tội phạm và thực tiễn áp dụng quy định đó trong thực tiễn xét xử ở nước ta.
Thứ ba, phân tích yêu cầu áp dụng đúng quy định của Bộ luật hình sự về
chủ thể của tội phạm và đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy
định về chủ thể của tội phạm, đặc biệt là giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp
luật hình sự.
1.4. Cơ sở lý thuyết và hướng tiếp cận của luận án
Lý thuyết chung và lý thuyết đặc thù, cách tiếp cận và nội dung của
đề tài; khung phân tích để làm rõ lý thuyết; tiếp cận theo hệ thống, tiếp cận
đa ngành, liên ngành, tiếp cận lịch sử, logic…vv.
Kết luận chương 1


6
Việc tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước về vấn đề
chủ thể của tội phạm không có mục đích tự thân mà là hướng đến mục đích
nhận diện thực trạng nghiên cứu, những vấn đề gì đã được nghiên cứu, đã
được nghiên cứu đến đâu; những vấn đề gì chưa được nghiên cứu, cần được
tiếp tục nghiên cứu sâu hơn, đầy đủ hơn hay cần nghiên cứu mới để đạt
được mục đích nghiên cứu đã đặt ra.
Trên cơ sở đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận
án, tác giả đưa ra những nhận xét, đánh giá và khẳng định: Các công trình

nghiên cứu trong và ngoài nước về chủ thể của tội phạm là nguồn tài liệu
tham khảo có giá trị không chỉ ở phương diện lý luận mà còn có giá trị thực
tiễn cao, phục vụ cho công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Tuy nhiên,
hiện nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu nào đi sâu vào phân tích
các vấn đề, dấu hiệu liên quan đến chủ thể của tội phạm một cách toàn diện,
đầy đủ mà chỉ mang tính riêng lẻ từng vấn đề. Do đó, việc nghiên cứu một
cách toàn diện, đầy đủ nhất về tất cả các vấn đề liên quan đến chủ thể của
tội phạm là nhiệm vụ cần thiết mà luận án cần giải quyết.


7
Chương 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT
TRIỂN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
VỀ CHỦ THỂ CỦA TỘI PHẠM
2.1. Khái niệm và các dấu hiệu của chủ thể của tội phạm
2.1.1. Khái niệm chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm là cá nhân đủ tuổi, có năng lực trách nhiệm
hình sự, (trong một số trường hợp thỏa mãn các dấu hiệu đặc biệt khác) hoặc
là pháp nhân thỏa mãn các dấu hiệu về hình thức tổ chức, phạm vi và điều
kiện trách nhiệm hình sự của pháp nhân, đã cố ý hoặc vô ý thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự xâm phạm đến các
quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và theo quy định của Bộ luật hình sự
phải bị xử lý hình sự.
2.1.2. Dấu hiệu chủ thể của tội phạm
2.1.2.1. Đối với cá nhân



Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự


Tuổi chịu TNHS là độ tuổi được quy định trong Bộ luật hình sự nhằm
xác định tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội người đó có khả năng nhận
thức đầy đủ tính chất thực tế và tính chất pháp lý của hành vi do mình thực
hiện cũng như khả năng điều khiển có ý thức hành vi ấy, từ đó, họ sẽ phải
chịu trách nhiệm hình sự về hành vi nguy hiểm mà mình đã thực hiện.



Năng lực trách nhiệm hình sự

Năng lực trách nhiệm hình sự là khả năng của chủ thể ở thời điểm thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhận thức được tính nguy hiểm cho xã
hội của hành vi do mình thực hiện và điều khiển có ý thức hành vi đó, đồng
thời có khả năng chịu trách nhiệm hình sự khi đã thực hiện hành vi đó.



Dấu hiệu đặc biệt của chủ thể đặc biệt của tội phạm


8
Chủ thể đặc biệt của tội phạm là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội trong khi thỏa mãn các dấu hiệu về độ tuổi chịu TNHS và có năng lực TNHS
họ còn phải thỏa mãn thêm một hoặc một số dấu hiệu bắt buộc khác đối với cấu
thành tội phạm đó.
2.1.2.2. Đối với pháp nhân




Hình thức tổ chức của pháp nhân

Không phải bất kỳ tổ chức nào cũng có tư cách pháp nhân mà một tổ
chức phải thỏa mãn đầy đủ các điều kiện sau đây mới được xem là pháp
nhân. Bao gồm:

- Được thành lập theo quy định của Bộ luật dân sự và luật khác có
liên quan;

- Có cơ cấu tổ chức theo quy định của Bộ luật dân sự hoặc luật khác;
- Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách
nhiệm bằng tài sản của mình;

- Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập.


Phạm vi trách nhiệm hình sự của pháp nhân

Pháp luật của một số nước coi bất kỳ tổ chức nào cũng có thể là chủ
thể của tội phạm, không phân biệt hình thức tổ chức, tính chất hay địa vị
pháp lý của tổ chức đó, một số nước khác lại giới hạn quy định pháp nhân
mới có thể là chủ thể của tội phạm. Theo đó, pháp nhân được pháp luật hình
sự của các quốc gia quy định tương đối rộng, bao gồm pháp nhân theo luật
tư và cả các pháp nhân theo luật công.
Bên cạnh đó, việc xem xét quy định về phạm vi các tội phạm mà pháp
nhân phải chịu TNHS cũng được quy định tương đối khác nhau trong pháp
luật hình sự của các quốc gia.


9




Điều kiện trách nhiệm hình sự của pháp nhân
Nghiên cứu các học thuyết cơ bản về TNHS của pháp nhân cho thấy,

mặc dù mỗi học thuyết đều có cách lý giải khác nhau về TNHS của pháp
nhân nhưng các học thuyết đó đều có điểm chung thống nhất đó là: Giữa
pháp nhân và cá nhân bao giờ cũng tồn tại mối quan hệ ràng buộc nhất
định. Pháp nhân bao giờ cũng phải chịu TNHS thông qua hành vi phạm tội
của một cá nhân khi cá nhân đó thực hiện hành vi nhân danh pháp nhân,
thay mặt pháp nhân hoặc chịu sự giám sát và vì lợi ích của pháp nhân. Đồng
thời, cá nhân đó thực hiện hành vi trong phạm vi chức năng, thẩm quyền và
nhiệm vụ được pháp nhân giao cho.
2.2. Phân loại chủ thể của tội phạm
Căn cứ vào dấu hiệu của chủ thể của tội phạm, chủ thể của tội phạm
được chia thành hai loại: Chủ thể thường và Chủ thể đặc biệt
Căn cứ vào số lượng người thực hiện hành vi phạm tội và lỗi của họ,
chủ thể của tội phạm được chia thành hai loại: Chủ thể của tội phạm trong
trường hợp phạm tội độc lập và Chủ thể của tội phạm trong trường hợp đồng
phạm.
Căn cứ theo quy định của pháp luật hình sự về hình phạt, các biện
pháp tư pháp và về quyết định hình phạt và đặc biệt là theo cách sắp xếp
của BLHS trong cách quy định có thể chia chủ thể của tội phạm thành 2
loại: Chủ thể của tội phạm là cá nhân và chủ thể của tội phạm là pháp
nhân.
2.3. Mối quan hệ giữa chủ thể của tội phạm với một số phạm trù khác
2.3.1. Mối quan hệ giữa chủ thể của tội phạm với chủ thể của quan hệ
pháp luật hình sự
Đây là hai khái niệm khác nhau nhưng có mối liên hệ chặt chẽ với

nhau. Chủ thể của tội phạm là một bộ phận cấu thành trong quan hệ pháp
luật hình sự và là một yếu tố độc lập trong quan hệ đó.


10
2.3.2. Mối quan hệ giữa chủ thể của tội phạm với người thực hiện hành
vi được loại trừ trách nhiệm hình sự
Chủ thể của tội phạm và người thực hiện hành vi được loại trừ TNHS là
hai phạm trù khác nhau. Mặc dù giữa chúng có những điểm khá tương đồng
như: đều là người thực hiện hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại
cho xã hội, có năng lực TNHS, đủ tuổi chịu TNHS nhưng được coi là chủ thể
của tội phạm thì người đó phải chịu TNHS về hành vi nguy hiểm vì hành vi
đó thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội phạm, còn đối với người thực hiện hành
vi được loại trừ TNHS thì họ sẽ không phải chịu TNHS vì trong hành vi đã
được loại trừ tính chất lỗi hoặc đó là hành vi hợp pháp, được Nhà nước cho
phép thực hiện.
2.3.3. Mối quan hệ giữa chủ thể của tội phạm với nhân thân người phạm
tội
Khái niệm chủ thể của tội phạm có quan hệ chặt chẽ với khái niệm
nhân thân người phạm tội nhưng không đồng nghĩa với nhau.
2.4. Sự điều chỉnh của pháp luật đối với vấn đề về chủ thể của tội phạm
Điều chỉnh pháp luật chính là sự tác động đặc thù của pháp luật với tính
cách là yếu tố có tính bắt buộc chung lên các quan hệ xã hội. Đối với sự điều
chỉnh của pháp luật hình sự đối với vấn đề chủ thể của tội phạm, điều đó cũng
không phải là ngoại lệ. Sự điều chỉnh pháp luật hình sự đối với vấn đề chủ thể
của tội phạm có nội hàm rộng lớn hơn nhiều so với quy định của pháp luật
hình sự về chủ thể của tội phạm. Trong khuôn khổ của luận án tiến sĩ luật
học, nghiên cứu sinh chỉ tập trung phân tích một số cơ sở như sau:
2.4.1. Cơ sở lý luận của sự điều chỉnh pháp luật đối với vấn đề chủ thể của
tội phạm

2.4.2. Cơ sở thực tiễn của sự điều chỉnh pháp luật đối với vấn đề chủ thể của
tội phạm


11
2.5. Khái quát lịch sử hình thành, phát triển các quy định của pháp luật
hình sự Việt Nam về chủ thể của tội phạm đến trước khi ban hành Bộ luật
hình sự năm 2015
2.5.1. Giai đoạn trước khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985
Pháp luật hình sự Việt Nam thời kỳ này không ghi nhận định nghĩa
pháp lý của khái niệm về tội phạm cũng như khái niệm về chủ thể của tội
phạm. Tuy nhiên, vấn đề về tuổi chịu TNHS trong quy định pháp luật hình
Việt Nam giai đoạn này cũng đã được ghi nhận chính thức trong một văn
bản luật hình sự mà được hướng dẫn xác định trong một văn bản hướng dẫn
xét xử của TANDTC. Các nội dung hướng dẫn này đã tạo nền móng cho
các quy định sau này về tuổi chịu TNHS trong BLHS năm 1985.
2.5.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 đến
trước Bộ luật hình sự năm 1999
BLHS 1985 ra đời là một bước ngoặt pháp lý quan trọng trong công
tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Khi BLHS này có hiệu lực thi hành thì
cũng là lúc sự nghiệp đổi mới bắt đầu. Sự thay đổi các mặt của đời sống xã
hội, trong đó đổi mới về kinh tế giữ vai trò quan trọng không chỉ là cơ sở
mà còn là đòi hỏi cấp bách đối với sự thay đổi của pháp luật nói chung cũng
như của luật hình sự nói riêng. BLHS năm 1985 với ý nghĩa là nguồn duy
nhất trong đó quy định tội phạm và hình phạt được xây dựng trên cơ sở
kinh tế xã hội của nền kinh tế bao cấp và trên cơ sở thực tiễn của tình hình
tội phạm của thời kì đó.
2.5.3. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 đến
trước Bộ luật hình sự năm 2015
Việc ban hành BLHS năm 1999 là một tất yếu khách quan, có cơ sở

khoa học và thực tiễn, đáp ứng kịp thời nhu cầu đấu tranh phòng, chống tội
phạm ở nước ta giai đoạn đó. BLHS năm 1999 được ban hành đánh dấu
một giai đoạn phát triển mới của pháp luật hình sự nước ta, làm cho lịch sử


12
hình thành và phát triển của pháp luật hình sự trở nên phong phú hơn. Bộ
luật hình sự năm 1999 được ban hành đã thể chế hóa chính sách của Đảng
và Nhà nước ta trong giai đoạn này bao gồm nhiều nội dung mới, cơ bản
được thể hiện cả ở phần chung và phần các tội phạm, trong đó có cả những
nội dung liên quan đến chủ thể của tội phạm.
Kết luận chương 2
Bằng cách tiếp cận lý luận luật hình sự, tiếp cận đa ngành, liên ngành,
kết hợp với so sánh lịch sử, so sánh luật hình sự tác giả đã hệ thống hóa
những vấn đề lý luận về chủ thể của tội phạm, qua đó, tác giả đã tiến hành
nghiên cứu, kiến giải làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về vấn đề này, theo
đó:
Thứ nhất, tiếp cận vấn đề chủ thể của tội phạm trên cơ sở lý luận và thực
tiễn, đưa ra khái niệm cơ bản nhất về chủ thể của tội phạm, từ đó xác định, phân
tích, luận giải những dấu hiệu của chủ thể của tội phạm.
Thứ hai, trên cơ cở xác định căn cứ để phân loại chủ thể của tội phạm
nhằm đáp ứng nhu cầu khách quan và sự cần thiết tác động, điều chỉnh pháp
luật. Phân biệt chủ thể của tội phạm với một số phạm trù có liên quan làm
cơ sở, tiền đề cho sự nhận thức, ban hành các quy định pháp luật phù hợp
và áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình sự về chủ thể của tội
phạm.
Thứ ba, tác giả nghiên cứu, luận giải những cơ sở lý luận và cơ sở thực
tiễn để làm rõ nhu cầu phải điều chỉnh bằng pháp luật hình sự về vấn đề chủ
thể của tội phạm
Thứ tư, trên cơ sở phân tích lịch sử quy định pháp luật hình sự về chủ

thể của tội phạm cho thấy sự thay đổi rất lớn cả trong nhận thức và trong
quy định, trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về chủ thể của tội phạm
qua các thời kỳ lịch sử.


13
Chương 3
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ
CHỦ THỂ CỦA TỘI PHẠM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
3.1. Thực tiễn quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về chủ thể của
tội phạm
3.1.1. Chủ thể của tội phạm là cá nhân
3.1.1.1. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự
Bộ luật hình sự năm 2015 gồm có 26 chương với 426 điều luật, được
thiết kế thành 03 phần. Phần thứ nhất: Những quy định chung (gồm 12
chương, từ Điều 1 đến Điều 107); Phần thứ hai: Các tội phạm (gồm 14
chương, từ Điều 108 đến Điều 425); Phần thứ ba: Điều khoản thi hành (có
01 Điều - Điều 426). Trong đó, ở phần các tội phạm cụ thể với 14 Chương
và 318 Điều luật với 315 điều luật quy định về các tội phạm cụ thể và 03
điều luật khác (Điều 122, Điều 352 và Điều 392). Trong đó, độ tuổi chịu
TNHS được quy định tại Điều 12.
Tuổi chịu TNHS được quy định trong pháp luật hình sự các quốc gia
nhưng cách quy định thường không giống nhau vì việc quy định tùy thuộc
vào nhiều yếu tố như thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm, sự phát
triển về sinh học của con người ở mỗi quốc gia... độ tuổi chịu TNHS giữa
các quốc gia có sự dao động từ 10 đến 16 tuổi.
3.1.1.2. Năng lực trách nhiệm hình sự
Luật hình sự Việt Nam, tình trạng không có năng lực TNHS được dùng
để chỉ tình trạng mất năng lực nhận thức hoặc mất năng lực điều khiển hành
vi do mắc bệnh.

Theo Điều 13 BLHS năm 2015 thì năng lực nhận thức và năng lực điều
khiển hành vi của người trong tình trạng say do dùng rượu, bia hoặc chất
kích thích mạnh khác có thể bị hạn chế hoặc tạm thời mất đi trong một
khoảng thời gian nhất định tùy vào mức độ sử dụng khác nhau, nhưng


14
người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong trường hợp này phải
chịu TNHS.
Vấn đề năng lực TNHS của chủ thể của tội phạm ở các quốc gia cũng
có cách quy định khác nhau. Tuy nhiên, có một điểm chung trong quy định
của hầu hết các quốc gia đều xác định tình trạng năng lực TNHS thông qua
cách định nghĩa khái niệm tình trạng không có năng lực TNHS với hai tiêu
chí về y học (mắc bệnh tâm thần) và về tâm lý (mất khả năng nhận thức
hoặc mất khả năng điều khiển hành vi).
3.1.1.3. Chủ thể đặc biệt của tội phạm
Chủ thể đặc biệt của tội phạm không được quy định cụ thể ở phần
chung của BLHS Việt Nam nhưng được quy định cụ thể trong một số các
tội phạm cụ thể ở phần các tội phạm. Trong tổng số 315 Điều luật quy định
về các tội phạm cụ thể thì có 124 điều luật quy định về chủ thể đặc biệt. Có
thể căn cứ vào các dấu hiệu của chủ thể đặc biệt để xem xét như sau:
- Dấu hiệu về chức vụ, quyền hạn
- Dấu hiệu về nghề nghiệp, tính chất công việc
- Dấu hiệu về nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
- Dấu hiệu về tuổi, giới tính, quan hệ giữa người phạm tội và nạn nhân
- Dấu hiệu về nghĩa vụ, trách nhiệm phải thực hiện
- Dấu hiệu về xâm phạm hoạt động tư pháp
- Dấu hiệu về nhân thân xấu của người phạm tội
3.1.2. Chủ thể của tội phạm là pháp nhân thương mại
3.1.2.1. Hình thức tổ chức của pháp nhân thương mại theo pháp luật hình

sự Việt Nam
Theo quy định của BLHS hiện hành, Nhà nước không thừa nhận tư
cách chủ thể của tội phạm đối với mọi cơ quan, tổ chức mà chỉ thừa nhận tư
cách chủ thể của tội phạm đối với pháp nhân thương mại. Tuy nhiên, trong
BLHS năm 2015 lại không có quy định nào định nghĩa về pháp nhân


15
thương mại. Mặc dù pháp nhân thương mại là một thuật ngữ không còn mới
mẻ trong xã hội Việt Nam nhưng khái niệm này chỉ mới được giải quyết
trong BLDS năm 2015.
3.1.2.2. Điều kiện chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại
Pháp nhân thương mại chỉ phải chịu TNHS khi thỏa mãn các điều kiện
sau đây:
(1) Hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại.
(2) Hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của pháp nhân thương
mại.
(3) Hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc
chấp thuận của pháp nhân thương mại.
(4) Chưa hết thời hiệu truy cứu TNHS quy định tại khoản 2 và khoản 3
Điều 27 của BLHS.
Bên cạnh đó, tại khoản 2 Điều 75 quy định nguyên tắc không loại trừ
TNHS của cá nhân khi xử lý TNHS của pháp nhân thương mại.
3.1.2.3. Phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại
BLHS 2015 ghi nhận phạm vi các tội phạm áp dụng đối với pháp nhân
thương mại là nhóm các tội phạm về môi trường và nhóm các tội phạm về
kinh tế. Theo quy định tại Điều 76 BLHS 2015 thì pháp nhân thương mại
phải chịu TNHS về 33 tội phạm.
Về hệ thống chế tài áp dụng đối với pháp nhân thương mại phạm tội
được quy định tại Điều 33 BLHS 2015.

Việc ghi nhận pháp nhân là chủ thể của tội phạm hiện nay chỉ được ghi
nhận trong luật hình sự của một số quốc gia bởi nhiều nguyên nhân trong
đó có sự khác nhau về truyền thống pháp lý, tư duy pháp lý của mỗi quốc
gia, sự khác nhau trong nhận thức về nguyên tắc hành vi trong luật hình sự,
nguyên tắc TNHS cá nhân hay nguyên tắc TNHS theo lỗi…


16
3.2. Thực trạng áp dụng quy định của Bộ luật hình sự về chủ thể của
tội phạm ở nước ta
Nhìn chung, thực trạng áp dụng quy định pháp luật hình sự về chủ thể
của tội phạm trong thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt của các
chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong thời gian qua về cơ bản luôn
bảo đảm thực hiện xét xử đúng người, đúng tội, đúng quy định, thể hiện sự
nghiêm minh, chính xác, phù hợp trong quá trình giải quyết các vụ án hình
sự. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động định tội danh
và quyết định hình phạt của Tòa án trong việc áp dụng quy định pháp luật
hình sự về chủ thể của tội phạm trong những năm qua vẫn không tránh khỏi
những sai lầm, thiếu sót.
3.2.1. Đối với chủ thể của tội phạm là cá nhân
3.2.1.1. Thực trạng áp dụng quy định về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự
Từ khi luật hình sự được pháp điển hóa thành Bộ luật cho đến nay,
cách tính tuổi chịu TNHS đã có sự thống nhất theo quy định của BLHS.
Nghiên cứu quá trình áp dụng pháp luật hình sự cho thấy, nhìn chung, các
chủ thể tiến hành tố tụng đã nhận thức rõ về các quy định về độ tuổi chịu
TNHS trong BLHS và về cơ bản, các quy định này được áp dụng cơ bản
đúng quy định, đúng yêu cầu. Tuy nhiên, trong thực tiễn vận dụng các quy
định khi tính tuổi của người phạm tội có những sai lầm nhất định trong
trường hợp:
- Không tính tuổi “đủ” mà tính tuổi “đến”.

- Về thời điểm tính tuổi người phạm tội.
- Căn cứ xác định độ tuổi chịu TNHS.
3.2.1.2. Thực trạng áp dụng quy định về năng lực trách nhiệm hình sự
Thứ nhất, về việc xác định năng lực TNHS do bị bệnh tâm thần
hoặc bệnh khác.


17
Thứ hai, về việc xác định năng lực trách nhiệm hình sự trong tình
trạng say do dùng rượu bia hoặc chất kích thích mạnh khác.
3.2.1.3. Thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về chủ thể
đặc biệt của tội phạm



Xác định chủ thể đối với các tội phạm có dấu hiệu về chức vụ,

quyền hạn



Xác định chủ thể đối với các tội phạm có dấu hiệu giới tính, quan

hệ giữa người phạm tội và nạn nhân



Xác định chủ thể đối với các tội phạm có dấu hiệu nhân thân xấu

của người phạm tội

3.3. Đánh giá thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật hình sự về chủ
thể của tội phạm và nguyên nhân
3.3.1. Kết quả áp dụng quy định về chủ thể của tội phạm và nguyên nhân
Thứ nhất, một trong những nội dung quan trọng trong đợt sửa đổi,
bổ sung BLHS là việc ghi nhận pháp nhân thương mại là chủ thể của tội
phạm trong BLHS.
Thứ hai, công tác điều tra, truy tố, xét xử về cơ bản được bảo đảm
nhanh chóng, đúng người, đúng tội.
Thứ ba, pháp luật tố tụng hình sự quy định rất chặt chẽ về quyền
hạn, trách nhiệm và nghĩa vụ của các chủ thể tiến hành tố tụng.
Thứ tư, trong công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật
luôn được chú trọng và đạt được những kết quả nhất định.
3.3.2. Khó khăn, vướng mắc, sai lầm và nguyên nhân
Thứ nhất, thực tiễn vẫn còn những bất cập trong hệ thống pháp luật
hình sự.
Thứ hai, cơ chế xây dựng hệ thống pháp luật hình sự liên quan đến
chủ thể của tội phạm vẫn còn những bất hợp lý.


18
Thứ ba, nội dung của một số quy định pháp luật hình sự liên quan
đến chủ thể của tội phạm khó vận dụng vào thực tiễn.
Thứ tư, về mặt kỹ thuật lập pháp, nhiều quy định của pháp luật hình
sự về chủ thể của tội phạm chưa dự liệu được hết những tình huống có thể
xảy ra trên thực tế để điều chỉnh kịp thời.
Thứ năm, công tác xây dựng pháp luật hình sự về chủ thể của tội
phạm hiện nay vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu đặt ra của công cuộc đổi
mới.
Thứ sáu, trong hoạt động giải quyết các vụ án hình sự, một số
người tiến hành tố tụng chưa nhận thức đầy đủ ý nghĩa của việc xác định

các dấu hiệu của chủ thể của tội phạm.
Thứ bảy, hiện nay vẫn còn một bộ phận người dân lạc hậu, thiếu
hiểu biết về pháp luật.
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến những hạn chế, thiếu sót nêu
trên, trong đó phải kể đến một số nguyên nhân chính sau đây:
- Nguyên nhân khách quan.
- Nguyên nhân chủ quan.
Kết luận chương 3
Nghiên cứu, phân tích thực trạng quy định của pháp luật hình sự Việt
Nam hiện hành về chủ thể của tội phạm và thực tiễn áp dụng đối với các
quy định này có thể đưa ra một số nhận định sau đây:
Theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành, các nội dung
liên quan đến chủ thể của tội phạm như: độ tuổi chịu TNHS, năng lực
TNHS, những dấu hiệu đặc biệt của chủ thể đặc biệt, chủ thể của tội phạm
là pháp nhân thương mại… được quy định một cách đầy đủ, chặt chẽ, rõ
ràng. Tuy nhiên, vẫn còn một số nội dung cần được sửa đổi, bổ sung như:


19
quy định khái niệm chủ thể của tội phạm hay chủ thể đặc biệt của tội, khái
niệm tội phạm, quy định TNHS của pháp nhân thương mại…
Thực tiễn áp dụng các quy định của BLHS về chủ thể của tội phạm cho
thấy, nhìn chúng các chủ thể thực thi pháp luật đã triệt để tuân thủ các quy định
của pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự về chủ thể của tội phạm trong
hoạt động định tội danh, quyết định hình phạt và đã đạt được những kết quả
nhất định trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Tuy nhiên, bên cạnh
những thành tựu đạt được, vẫn còn một số bất cập, tồn tại dẫn đến hậu quả gây
oan, sai trong việc giải quyết vụ án hình sự.



20
Chương 4
YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG QUY
ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VỀ CHỦ THỂ CỦA TỘI PHẠM
4.1. Yêu cầu bảo đảm áp dụng đúng các quy định của Bộ luật hình sự
về chủ thể của tội phạm
Việc áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình sự về chủ thể của tội
phạm phải đảm bảo các yêu cầu sau:
Thứ nhất, cần đảm bảo thực hiện đúng tinh thần của Hiến pháp năm
2013
Thứ hai, các quy định về chủ thể của tội phạm phải được xây dựng và
hoàn thiện theo xu hướng phát triển của chính sách hình sự vốn đã được khẳng
định là nhân đạo hóa, phân hóa và quốc tế hóa.
Thứ ba, xem xét các dấu hiệu đặc biệt của chủ thể của tội phạm trong
các lĩnh vực mang đặc thù ngành nghề.
Thứ tư, việc áp dụng, sửa đổi, bổ sung các quy định của tội phạm về
chủ thể của tội phạm phải trên cơ sở sự thay đổi của thời đại, trong đó, đặc
biệt lưu ý đến việc quy định về độ tuổi chịu TNHS và phạm vi chịu TNHS
của những người dưới 18 tuổi.
Thứ năm, việc quy định và áp dụng đúng các quy định của BLHS năm
2015 đối với pháp nhân thương mại phạm tội phải đảm bảo đúng yêu cầu phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đảm bảo yêu cầu bảo vệ
công lý, công bằng trong xã hội.
Thứ sáu, kỹ thuật lập pháp của BLHS về chủ thể của tội phạm phải bảo
đảm tính hệ thống, đồng bộ của hệ thống pháp luật nói chung và của pháp
luật hình sự nói riêng.


21
4.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của Bộ luật hình sự

về chủ thể của tội phạm
4.2.1. Hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự về chủ thể của tội phạm
4.2.1.1. Đối với chủ thể của tội phạm là cá nhân



Về tuổi chịu trách nhiệm hình sự



Về năng lực trách nhiệm hình sự



Về chủ thể đặc biệt của tội phạm

- Dấu hiệu về giới tính, quan hệ giữa người phạm tội và nạn nhân
- Đối với dấu hiệu nhân thân xấu của người phạm tội
4.2.1.2. Đối với chủ thể của tội phạm là pháp nhân thương mại
4.2.2. Các giải pháp khác bảo đảm áp dụng đúng quy định của Bộ luật
hình sự về chủ thể của tội phạm
4.2.2.1. Tăng cường hướng dẫn thi hành các quy định của Bộ luật hình sự
năm 2015 về chủ thể của tội phạm
4.2.2.2. Tăng cường công tác tổng kết thực tiễn xét xử hình sự
4.2.2.3. Nâng cao ý thức pháp luật, khả năng và năng lực của đội ngũ chủ
thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng
4.2.2.4. Tăng cường các điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật cho áp dụng pháp luật
hình sự
4.2.2.5. Lựa chọn, xây dựng án lệ liên quan đến chủ thể của tội phạm
4.2.2.6. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng

cao trình độ nhận thức cho nhân dân
Kết luận chương 4
Tội phạm là hành vi nguy hiểm do một chủ thể nhất định thực hiện một
cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm đến các quan hệ xã hội được luật hình sự
bảo vệ. Hành vi này vẫn diễn ra thường xuyên và luôn tồn tại trong xã hội,


22
gây ra những hậu quả nguy hiểm cho xã hội, cản trở sự phát triển của xã
hội. Để đấu tranh một cách có hiệu quả đối với tội phạm cần thực hiện
nhiều giải pháp khác nhau, trong đó hoàn thiện các quy định của pháp luật
hình sự được coi là một giải pháp đặc biệt quan trọng.
Từ thực trạng áp dụng các quy định chủ thể của tội phạm trên cơ sở
thực tiễn phát triển của xã hội, nhu cầu của thời đại mới, so sánh với các
quy định của các nước trong lĩnh vực này cho thấy, để nâng cao hiệu quả
đấu tranh, phòng chống tội phạm, việc hoàn thiện quy định của BLHS về
chủ thể của tội phạm và xây dựng hệ thống các giải pháp nhằm bảo đảm áp
dụng đúng các quy định này là cần thiết và cấp bách.


23
KẾT LUẬN
Chủ thể của tội phạm trong khoa học luật hình sự là một vấn đề lớn và
phức tạp, nó liên quan không chỉ đến khoa học luật hình sự mà còn đến cả
các ngành khoa học khác như tội phạm học, tâm lý học, sinh học, khoa học
luật tố tụng hình sự, khoa học điều tra hình sự… do đó, nghiên cứu chủ thể
của tội phạm có ý nghĩa rất quan trọng trong việc đề ra chính sách hình sự,
quy định TNHS và quyết định hình phạt, góp phần vào công cuộc đấu tranh
phòng ngừa và chống tội phạm của đất nước. Tùy vào góc độ tiếp cận cụ
thể mà có nhiều quan điểm khác nhau về chủ thể của tội phạm. Trên cơ sở

kết hợp hài hòa các yếu tố và bằng việc sử dụng tổng thể các phương pháp
nghiên cứu, luận án đã giải quyết một cách có hệ thống và toàn diện các vấn
đề mà mục tiêu nghiên cứu đã đề ra. Luận án đã nghiên cứu một cách cơ
bản những vấn đề lý luận chung về chủ thể của tội phạm, phân tích, luận
giải những quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về chủ thể
của tội phạm, phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định này từ đó
đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự
Việt Nam về chủ thể của tội phạm, kiến nghị các giải pháp nhằm bảo đảm
áp dụng đúng các quy định này trong hoạt động áp dụng áp luật. Có thể
khái quát kết quả nghiên cứu của luận án ở một số điểm cơ bản sau:
1. Nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản về
chủ thể của tội phạm với việc mở rộng cách tiếp cận, trong đó có cách tiếp
cận luật hình sự so sánh. Với cách tiếp cận về điều kiện xã hội, quan niệm
truyền thống của các quốc gia cho thấy sự khác nhau trong quy định của
pháp luật hình sự các quốc gia về chủ thể của tội phạm.
2. Xây dựng khái niệm chủ thể của tội phạm. Phân tích, luận giải các
dấu hiệu về chủ thể của tội phạm. Phân biệt, làm rõ mối quan hệ giữa chủ
thể của tội phạm với các phạm trù, khái niệm khác như: chủ thể của quan hệ


×