Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

Xây dựng và sử dụng bài tập sáng tạo trong dạy học chương “ động lực học chất điểm” vật lý 10 THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (498.08 KB, 58 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA VẬT LÝ

PHẠM THỊ THOA

XÂY DỰNG VÀ SỬ DỤNG BÀI TẬP SÁNG TẠO
TRONG DẠY HỌC CHƯƠNG “ ĐỘNG LỰC HỌC
CHẤT ĐIỂM” VẬT LÝ 10 THPT
(CHƯƠNG TRÌNH NÂNG CAO)
Chuyên ngành: Lí luận và phương pháp dạy học bộ môn Vật lí

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học

PGS. TS. TẠ TRI PHƢƠNG

HÀ NỘI, 2018


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA VẬT LÝ

PHẠM THỊ THOA

XÂY DỰNG VÀ SỬ DỤNG BÀI TẬP SÁNG TẠO
TRONG DẠY HỌC CHƯƠNG “ ĐỘNG LỰC HỌC
CHẤT ĐIỂM” VẬT LÝ 10 THPT
(CHƯƠNG TRÌNH NÂNG CAO)
Chuyên ngành: Lí luận và phương pháp dạy học bộ môn Vật lí

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC


Người hướng dẫn khoa học

PGS. TS. TẠ TRI PHƯƠNG

HÀ NỘI, 2018


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận này, tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn sâu sắc
tới PGS.TS Tạ Tri Phương, người đã hướng dẫn tôi trong suốt thời gian thực
hiện khóa luận này . Mặc dù công việc giảng dạy và nghiên cứu của thầy rất bận
rộn nhưng thầy vẫn dành cho tôi những khoảng thời gian quý giá của thầy để chỉ
bảo tận tình, giúp tôi hoàn thành khóa luận. Đối với tôi, thầy là tấm gương sáng
của sự cống hiến không mệt mỏi cho khoa học và thế hệ trẻ hiện nay.
Tôi xin cám ơn các thầy, cô trong khoa vật lý- Trường đại học sư phạm
Hà Nội 2 đã tận tình giảng dạy trang bị cho tôi vốn kiến thức quý báu để tôi có
thể thực hiện khóa luận, cũng như làm giàu thêm cho hành trang kiến thức để tôi
tiếp tục sự nghiệp trồng người sau này.
Do thời gian và hiểu biết còn hạn chế nên bài khóa luận này không tránh
khỏi những thiếu sót. Vì vậy, rất mong nhận được sự đóng góp từ quý thầy cô và
các bạn đề đề tài được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cám ơn .
Hà Nội, tháng 5 năm 2018
Sinh viên

Phạm Thị Thoa


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan khóa luận này là do sự nỗ lực của bản thân cùng sự giúp
đỡ tận tình của thầy PGS.TS Tạ Tri Phương.
Bản khóa luận này không trùng kết quả của các tác giả khác. Nếu trùng tôi
xin chịu trách nhiệm.
Hà Nội, tháng 5 năm 2018
Sinh viên

Phạm Thị Thoa


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT

Chữ viết tắt

Chữ viết đủ

1

THPT

Trung học phổ thông

2

NLST

Năng lực sáng tạo

3


HS

Học sinh

4

GV

Giáo viên

5

BTVL

Bài tập vật lý

6

DHST

Dạy học sáng tạo

7

BTST

Bài tập sáng tạo

8


TDST

Tư duy sáng tạo

9

SGK

Sách giáo khoa

10

SBT

Sách bài tập


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................... 1
1.Lý do nghiên cứu đề tài.......................................................................................... 1
2. Mục đích nghiên cứu............................................................................................. 2
3. Gỉa thuyết khoa học............................................................................................... 2
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu...................................................... 2
5. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................................ 2
6. Phương pháp nghiên cứu....................................................................................... 3
7. Đóng góp của đề tài............................................................................................... 3
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC RÈN LUYỆN
NĂNG LỰC SÁNG TẠO CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC VẬT LÍ............ 4
1.1. Sáng tạo và NLST .............................................................................................. 4

1.1.1. Khái niệm sáng tạo.......................................................................................... 4
1.1.2.Khái niệm về năng lực sáng tạo ....................................................................... 5
1.1.3. Tư duy sáng tạo ............................................................................................... 5
1.2. Dạy học sáng tạo ................................................................................................ 7
1.2.1. Sự tương đồng và khác biệt giữa sáng tạo của nhà nghiên cứu và sáng tạo
của học sinh ............................................................................................................... 8
1.2.2. Các biện pháp hình thành và phát triển NLST cho học sinh .......................... 9
1.2.3. Những biểu hiện NLST của HS trong học tập .............................................. 11
1.3. Vai trò của bài tập trong dạy học sáng tạo ....................................................... 12
1.3.1. Bài tập vật lý ................................................................................................. 12
1.3.2. Tác dụng của BTVL trong dạy học............................................................... 13
1.3.3. Phương pháp giải bài tập vật lí...................................................................... 14
1.3.4. Nguyên tắc xây dựng hệ thống bài tập vật lí cho mỗi đề tài, chương, phần
của giáo trình Vật lí phổ thông................................................................................ 15


1.4. Khái niệm bài tập sáng tạo ............................................................................... 16
1.5. Thực trạng việc xây dựng và sử dụng BTST ................................................... 18
1.5.1. Nhận thức của GV về BTST và việc sử dụng BTST trong DHVL............... 18
1.5.2. Nguyên nhân thực trạng ................................................................................ 19
1.5.3. Kết luận ......................................................................................................... 19
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1........................................................................................ 20
Chương 2: XÂY DỤNG VÀ DẠY GIẢI MỘT SỐ BÀI TẬP CÓ ĐẶC TRƯNG
SÁNG TẠO CHƯƠNG “ĐỘNG LỰC HỌC CHẤT ĐIỂM “ VẬT LÝ 10 THPT
NÂNG CAO” .......................................................................................................... 21
2.1 Cấu trúc chương “ Động lực học chất điểm” vật lý 10 THPT ( nâng cao)....... 21
2.1.1: Phân tích nội dung chương “Động lực học chất điểm” trong sách giáo
khoa vật lý 10 (nâng cao) ........................................................................................ 21
2.1.2 Cấu trúc chương “ Động lực học chất điểm” vật lý 10 (nâng cao)................ 28
2.2 Xây dựng hệ thống bài tập mang đặc trưng sáng tạo trong chương “ Động

lực học chất điểm” vật lý 10 ( nâng cao) ................................................................ 29
2.2.1. Nguyên tắc biên soạn .................................................................................... 29
2.2.2. Một số bài tập có đặc trưng sáng tạo............................................................. 30
2.2.3 Hướng dẫn giải các bài tập có đặc trưng sáng tạo ......................................... 31
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2........................................................................................ 37
Chương 3 : DỰ KIẾN THỰC NGHIỆM ................................................................ 38
3.1. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng của thực nghiệm sư phạm.............................. 38
3.1.1. Mục đích của thực nghiệm sư phạm ............................................................. 38
3.1.2. Nhiệm vụ ....................................................................................................... 38
3.1.3. Đối tượng của thực nghiệm sư phạm............................................................ 38
3.2. Phương pháp thực nghiệm sư phạm................................................................. 38
3.2.1. Chọn mẫu ...................................................................................................... 38
3.2.2. Phương pháp tiến hành.................................................................................. 39


KẾT LUẬN CHƯƠNG 3........................................................................................ 41
KẾT LUẬN CHUNG.............................................................................................. 42
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................... 43
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu đề tài
Thế kỷ 21 là thế kỷ bùng nổ về khoa học – công nghệ, là thế kỷ
mà ”người ta coi yếu tố sáng tạo là yếu tố đặc trưng cho con người” .Trong thế
kỷ 21, để Việt Nam trở thành một quốc gia giàu mạnh, có một xã hội phồn vinh
thịnh vượng, không bị tụi hậu so với thế giới thì chúng ta phải không ngừng cải
tổ, đổi mới , không ngừng tư duy sáng tạo để sánh vai với các cường quốc năm
châu. Để làm được điều đó chúng ta phải đổi mới, hoàn thiện nền giáo dục. Nền
giáo dục của chúng ta phải được đổi mới mạnh mẽ, sâu sắc toàn diện để có thể

đào tạo cho đất nước những người lao động sáng tạo biết áp dụng khoa học kỹ
thuật vào sản xuất, đạt hiệu quả cao trong lao động, đáp ứng được yêu cầu mà xã
hội đặt ra .
Sự phát triển như vũ bão của khoa học – công nghệ đã đòi hỏi Đảng và
Nhà nước ta phải tiến hành đổi mới hoàn thiện nền giáo dục. Ở đây, nền giáo
dục không những được đổi mới, hoàn thiện về nội dung mà còn phải đổi mới
hoàn thiện về phương pháp giáo dục và đào tạo con người . Điều này đã được
khẳng định trong nghị quyết trung ương II, khóa VIII của Đảng cộng sản Việt
nam đã chỉ rõ: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục và đào tạo, khắc phục
lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo cho người học”…
Trong thời kỳ đổi mới hiện nay, trước những thời cơ và thách thức to lớn,
để tránh được nguy cơ tụi hậu, việc rèn luyện năng lực sáng tạo cho thế hệ trẻ lại
càng cấp thiết và cấp bách hơn bao giờ hết. Trước hết, việc rèn luyện năng lực
sáng tạo cho học sinh có thể được tiến hành ngay khi các em còn ngồi trên ghế
nhà trường được thông qua việc thực hiện các quá trình sư phạm , việc dạy học
đối với các môn học khác nhau trong đó có môn vật lý theo nội dung và phương
pháp dạy học được đổi mới và phù hợp với thời đại. Tuy nhiên , việc dạy và học

1


môn vật lý ở trường phổ thông còn khá khó khăn , vì nó đòi hỏi „‟người đạo
diễn” là giáo viện phải liên tục tìm tòi , liên tục đổi mới trong chính bài giảng ,
trong từng bài tập hướng dẫn cho học sinh thì kêt quả mới đạt được như mong
muốn.
Chương “ Động lực học chất điểm” nghiên cứu những kiến thức quan
trọng, là hạt nhân của học thuyết vĩ học cổ điển. Những lý thuyết quan trọng,
những vận dụng rộng rãi của lý thuyết vào thực tiễn, vào kỹ thuật là cơ sở thuận
lợi để bồi dưỡng năng lực sáng tạo cho học sinh. Xuất phát từ những lý do trên,
tôi chọn đề tài: “Xây dựng và sử dụng bài tập sáng tạo trong dạy học chương

“ Động lực học chất điểm” vật lý 10 THPT ( chương trình nâng cao )” để
nghiên cứu
2. Mục đích nghiên cứu
Biên soạn và sử dụng một số bài tập có đặc trưng sáng tạo trong chương
“ Động lực học chất điểm” vật lý 10 THPT ( chương trình nâng cao) nhằm mục
đích rèn luyện năng lực sáng tạo cho học sinh, góp phần nâng cao chất lượng
dạy và học ở trường phổ thông
3. Giả thuyết khoa học
Nếu biên soạn được các bài tập có đặc trưng sáng tạo và sử dụng chúng
phù hợp thì có thể rèn luyện được năng lực sáng tạo cho học sinh trong quá trình
dạy và học vật lý
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Bằng quá trình dạy học đề tài “Động lực học chất điểm “ vật
lý 10 THPT
- Phạm vi : là sự thu gọn lại của đối tượng nghiên cứu
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc rèn luyện năng lực sáng tạo cho học
sinh THPT

2


- Nghiên cứu mục tiêu, nhiệm vụ dạy học môn vật lí ở trường THPT
Nghiên cứu nội dung chương “Động lực học chất điểm” vật lí lớp 10 nâng
cao THPT cùng với việc giảng dạy các kiến thức chương này nhằm rèn luyện
năng lực sáng tạo cho học sinh
- Nghiên cứu thực tiễn dạy học: Tìm hiểu thực tế dạy học liên quan đến
rèn luyện năng lực sáng tạo cho học sinh thông qua việc dạy giải một số bài tập
chương “ Động lực học chất điểm” vật lý 10 nâng cao THPT
- Xây dựng hệ thống bài tập có đặc trưng sáng tạo chương “ Động lực học

chất điểm “
- Soạn thảo tiến trình hướng dẫn học sinh giải bài tập chương “Động lực
học chất điểm” theo hướng rèn luyện năng lực sáng tạo cho học sinh
6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết : nghiên cứu các văn kiện, tài liệu liên
quan đến giáo dục nói chung, đến dạy học vật lý ở trường phổ thông, và đặc biệt
đến vấn đề” dạy học sáng tạo”
- Phương pháp điều tra : bằng tham khảo ý kiến của giáo viên cố vấn, điều
tra về thực trạng vấn đề” Bồi dưỡng năng lực sáng tạo cho học sinh trong dạy
học vật lý”
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm: dạy bài tập có tính sáng tạo
- Phương pháp thống kê toán học : để sử lý các kết quả thu được trong quá
trình thực nghiệm sư phạm
7. Đóng góp của đề tài
- Giúp cho bản thân người nghiên cứu nắm vững và bồi dưỡng các lý
thuyết về “ dạy học sáng tạo” nói chung năng lực sáng tạo thông qua hệ thống
bài tập
- Giúp cho giáo viên và học sinh trung học phổ thông có tài liệu tham khảo
để nâng cao chất lượng dạy và học vật lý ở trường trung học phổ thông

3


CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC RÈN LUYỆN
NĂNG LỰC SÁNG TẠO CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC VẬT LÍ
1.1. Sáng tạo và NLST
1.1.1. Khái niệm sáng tạo
“Sáng tạo là một loại hoạt động mà kết quả của nó là một sản phẩm tình
thần hay vật chất có tính cách tân, có ý nghĩa xã hội, có giá trị giúp giải quyết
một khó khăn, bế tắc nhất định”

Trong từ điển Tiếng Việt [Tr.847], thì “sáng tạo là tìm ra cái mới, cách giải
quyết mới, không bị gò bó, phụ thuộc vào cái đã có”
Theo từ điển triết học, “Sáng tạo là quá trình hoạt động của con người tạo
ra những giá trị vật chất, tinh thần mới về chất. Các loại hình sáng tạo được xác
định bởi đặc trưng nghề nghiệp như khoa học kỹ thuật, tổ chức quân sự. Có thể
nói sáng tạo có mặt trong mội lĩnh vực của thế giới vật chất và tinh thần.
Sáng tạo thường được hiểu là đề ra những ý tưởng độc đáo, hữu ích phù
hợp với hoàn cảnh. Có người xem sáng tạo là năng lực độc đáo riêng ở giới văn
nghệ sĩ và các nhà khoa học. Thực ra trong mọi lĩnh vực hoạt động đều có thể và
cần có sự sáng tạo, nếu không thì mọi hoạt động đều không thể thành công. Về
thực chất sáng tạo không chỉ là một đặc trưng cho sự khác biệt giữa người với
sinh vật mà còn là một đặc trưng chỉ sự khác nhau về sự đóng góp cho tiến bộ xã
hội, giữa người này và người khác. Quá trình sáng tạo của con người thường bắt
đầu từ một ý tưởng mới, bắt đầu từ tư duy sáng tạo cả mỗi con người.
Sáng tạo là tiềm năng vốn có trong mỗi con người, khi có dịp là bộc lộ, vì
vậy cần phải tạo cho học sinh những cơ hội đó. Mỗi người có thể luyện tập để
phát triển tư duy sáng tạo trong lĩnh vực hoạt động của mình. Tính sáng tạo
thường liên quan đến tính tự giác, chủ động, độc lập, tự tin. Sự sáng tạo là hình
thức cao nhất của tính tích cực, độc lập của con người. Người có tư duy sáng tạo
không chịu nghĩ theo lề lối chung, không bị ràng buộc bởi những quy tắc, hành

4


động cứng nhắc đã học, và ít chịu ảnh hưởng của người khác.
1.1.2. Khái niệm về năng lực sáng tạo
Khái niệm NLST được định nghĩa là “Khả năng tạo ra những giá trị mới về
vật chất, tinh thần, tìm ra kiến thức mới, giải pháp mới, công cụ mới, vận dụng
thành công những hiểu biết đã có vào hoàn cảnh mới”.
Khái niệm NLST được định nghĩa là khả năng tạo ra những giá trị mới về

vật chất và tinh thần, tìm ra cái mới, giải pháp mới, công cụ mới, vận dụng thành
công những hiểu biết đã có vào hoàn cảnh mới. Đối với HS, NLST trong học tập
chính là năng lực biết giải quyết vấn đề học tập để tìm ra cái mới ở một mức độ
nào đó thể hiện được khuynh hướng, năng lực, kinh nghiệm của cá nhân HS.
Sáng tạo đối với HS là sáng tạo lại cái mà nhân loại đã biết (nhưng học sinh
chưa biết), do đó thật ra là tập sáng tạo, còn GV đã biết và biết cách làm.
Năng lực nói chung và năng lực sáng tạo nói riêng không phải là bẩm sinh
mà được hình thành, phát triển trong quá trình hoạt động của chủ thể. Bởi vậy,
muốn hình thành năng lực hoạt động sáng tạo phải chuẩn bị cho HS những điều
cần thiết để họ có thể thực hiện thành công với một số kết quả mới mẻ nhất định
trong hoạt động đó. Đó là tổ chức hoạt động cho học sinh càng nhiều càng tốt.
1.1.3. Tư duy sáng tạo
Tư duy sáng tạo là tư duy tạo ra cái mới, vậy tạo ra cái mới như thế nào?
Bằng cách nào? Có một số quan niệm về vấn đề này như sau:
 Dựa theo lí thuyết hoạt động của A.N.Leonchiev, có tác giả cho rằng “Tư
duy sáng tạo cần được xem như một hoạt động giải quyết vấn đề mới gồm các
thành tố động cơ, hành động logic và hành động trực giác.
 Theo tác giả Phan Dũng, tư duy sáng tạo là quá trình tư duy đưa người
giải:
- Từ không biết cách đạt đến mục đích đến biết cách đạt đến mục đích.
- Từ không biết cách tối ưu đến biết cách tối ưu đạt đến mục đích, trong

5


một số cách đã biết và ông cho rằng:
Tư duy sáng tạo và quá trình suy nghĩ giải quyết vấn đề và ra quyết định
được coi là tương đương về nghĩa.
 Nhiều nhà tâm lí học, điển hình là J.C Guiford coi tư duy phân kì (tư duy
theo chiều ngang) là tư duy sáng tạo. Tư duy phân kì là khả năng đưa ra những ý

tưởng độc đáo với nhiều phương án giải quyết vấn đề.
 Theo ý kiến của Poăng – ca – rê thì “logic là chứng minh, còn trực giác
mời là sáng tạo”.
Để có thể có một định nghĩa đầy đủ về tư duy sáng tạo cũng cần bàn về tư
duy logic và tư duy trực giác.
- Tư duy logic (tư duy biện giải): Ở tư duy này, tri thức đạt đến bằng cách lí
luận liên tục, liên tiếp, trong đó mỗi tư tưởng tiếp theo đều xuất phát một cách
logic từ cái có trước và là tiền đề của cái tiếp theo. Tri thức đạt đến là hiển
nhiên, chắc chắn, không bắt bẻ được. (Luận ba đoạn trong logic học thể hiện
kiểu tư duy này).
- Với tư duy trực giác thì tri thức nhận được một cách nhảy vọt, đột biến,
các giai đoạn của nó không thể hiện một cách minh bạch, con đường đó vẫn còn
chưa được sáng tỏ ngay cả đối với chủ thể sáng tạo. Tư duy trực giác thể hiện
như một quy trình ngắn gọn, chớp nhoáng mà ta không thể nhận biết được sự
diễn biến. Tuy nhiên nhiều tác giả cho rằng hai kiểu tư duy này (mới nhìn có vẻ
đối chọi nhau) lại có liên quan đến nhau. Họ cho rằng khi một ai đó càng tích
cực, chăm chỉ hoạt động tư duy logic thì khả năng trực giác lại càng nhạy bén,
càng có khả năng phát triển mạnh.
Trên cơ sở phân tích các quan điển khác nhau về tư duy sáng tạo, chúng tôi
đưa ra một số nội hàm dưới đây về khái niệm tư duy sáng tạo:
+ Tư duy sáng tạo là tư duy dựa trên nền tảng của tư duy logic và không
dừng ở đó mà còn tiến theo con đường phi logic (trực giác).


+ Đặc trưng của tư duy sáng tạo là tính độc đáo, tính mềm dẻo, tính linh
hoạt, tính nhạy cảm trong tư duy.
- Tính độc đáo của tư duy là phát hiện ra những mối liên hệ mới lạ, chưa có
đối với sự vật, hiện tượng thực tiễn.
- Tính mềm dẻo của tư duy là một khả năng thay đổi dễ dàng, nhanh chóng
về cách nhìn sự vật, hiện tượng; sử dụng phương pháp tư duy; có nhiều cách tiếp

cận khác nhau khi giải quyết vấn đề cũng như cách đánh giá các ý tưởng.
- Tính linh hoạt của tư duy thể hiện ở tính cách không thích làm theo khuôn
mẫu, bắt chước những cái có trước.
- Tính nhạy cảm của tư duy thể hiện ở sự tinh tế của các giác quan, cảm
xúc, tình cảm trong khi tư duy.
Bốn đặc trưng nói trên có mối quan hệ hữu cơ, bổ sung cho nhau, hỗ trợ
cho nhau tạo nên tư duy sáng tạo.
1.2. Dạy học sáng tạo
Vào thế kỉ thứ III, nhà toán học người Hy Lạp là Pappus ở thành phố
Alexandia đặt nền móng khởi đầu cho khoa học về tư duy sáng tạo và gọi khóa
học này là ơ-ris-tic (Heuristics). (Lấy từ gốc “Ơ-rê-ca” – tìm thấy rồi).
Tuy nhiên vấn đền “dạy học sáng tạo” đã xuất hiện từ trước đó.
Ở Trung Hoa cổ đại, Khổng Tử (479-355 TCN) đã đặt vấn đề phải kích
thích suy nghĩ của người học “… vật có 4 góc, bảo cho biết mọi góc (tức là dạy)
mà không suy ra 3 góc thì không dạy nữa”.
Ở phương Tây cổ đại Socrate (469-390 TCN) lại đòi hỏi ở người học phát
hiện “chân lí” bằng cách đặt câu hỏi để người học tự tìm ra kết luận, ông gọi là
“phép bà đỡ” giúp người học “phải tự biết lấy”.
Ngày nay, các nhà khoa học ở cả lĩnh vực khoa học tự nhiên, tâm lí học,
giáo dục học đã có những nghiên cứu về mối quan hệ của hai vấn đề này, các
nghiên cứu khẳng định:


- Học tập và sáng tạo không phải là hai mặt tách biệt mà là hai mặt của
một quá trình gắn bó chặt chẽ với nhau. Học không chỉ là “tiếp thu” kinh
nghiệm đã có của nhân loại mà là “sáng tạo lại” cho bản thân mình.
- Khi nói tới các hoạt động sáng tạo trong dạy học là muốn nói tới các
hoạt động mang đậm bản chất của phương pháp sáng tạo trong nghiên cứu khoa
học. (Nhà vật lí học nổi tiếng người Nga là Kapitxa đã từng nói là trong từng
đứa trẻ đã có sẵn một Niuton, Faraday. Dạy học phải tìm cách để cho các nhà

bác học đó sống dậy trong các em). Để dạy học sáng tạo đạt hiệu quả, cần thiết
phải phân tích những sự tương đồng cũng như những sự khác biệt của nhà
nghiên cứu và của học sinh.
1.2.1. Sự tương đồng và khác biệt giữa sáng tạo của nhà nghiên cứu và sáng
tạo của học sinh
1.Sự tương đồng điển hình
- Cả hai đều tiến tới mục tiêu là tìm ra cái mới cho bản thân mình, thỏa mãn
nhu cầu nhận thức.
- Cả hai cùng đi theo một con đường mà các giai đoạn cơ bản là: Đứng
trước một vấn đề→ Hình thành ý tưởng→Giải quyết vấn đề→Kết quả (thành
công hoặc thất bại).
- Hạnh phúc khi thành công (Ơ-rê-ca).
2. Sự khác biệt cơ bản
 Đối với nhà nghiên cứu
Là người đã trưởng thành về mặt sáng tạo, có khả năng độc lập, tự chủ
hoàn toàn trong nghiên cứu (một mình hoặc trong nhóm nghiên cứu).
Sản phẩm sáng tạo của họ không những thỏa mãn nhu cầu nhận thức của
họ mà đều trở thành sản phẩm trí tuệ có giá trị, thúc đẩy sự phát triển của nhân
loại.
- Đối với nhà nghiên cứu thì sản phẩm cuối cùng của sự sáng tạo mới là


quan trọng, họ không quan trọng hóa vấn đề làm thế nào để có sản phẩm đó
(trong lịch sử ngành vật lí học, có nhiều phát hiện mang tính chất tình cờ, vô
tình)
 Đối với học sinh
- Là người chưa trưởng thành cả về thể chất, tâm lí. Sự sáng tạo của họ chỉ
mang tính tập dượt sáng tạo, sáng tạo lại; họ được dạy để sáng tạo.
- Sản phẩm sáng tạo của họ chỉ là “mới” đối với bản thân họ (người khác,
thầy giáo đã biết), do đó chỉ có giá trị với chình họ và bạn bè chưa biết.

- Vì vậy, sản phẩm sáng tạo không có giá trị bằng con đường, cách thức
tìm ra sản phẩm đó (trong cuộc đời học sinh, họ có thể đưa ra rất nhiều sản
phẩm và cũng nhanh chóng quên đi, nhưng con đường, cách thức tìm ra các kết
quả đó sẽ đọng lại, dần dần sẽ hình thành nên cái mà chúng ta quan tâm – năng
lực sáng tạo. Đây là điều mà giáo viên cần quan tâm và đây cũng là bản chất sâu
sắc nhất của dạy học sáng tạo: Dạy học sáng tạo đồng nghĩa với việc khơi dậy,
kích thích tiềm năng sáng tạo ở mỗi học sinh.
1.2.2. Các biện pháp hình thành và phát triển NLST cho học sinh
1.2.2.1. Tổ chức hoạt động sáng tạo gắn liền với quá trình xây dựng kiến thức
mới.
Kiến thức vật lý trong trường phổ thông là những kiến thức đã được loài
người khẳng định. Tuy vậy, chúng luôn luôn mới mẻ đối với học sinh. Việc
nghiên cứu kiến thức mới sẽ thường xuyên tạo ra những tình huống đòi hỏi học
sinh phải đưa ra những ý kiến mới, giải pháp mới đối với chính bản thân họ.
Tổ chức quá trình nhận thức vật lý theo chu trình sáng tạo sẽ giúp cho học
sinh đi trên con đường hoạt động nhận thức được: chỗ nào có thể suy nghĩ dựa
trên những hiểu biết đã có, chỗ nào phải đưa ra kiến thức mới, giải pháp mới.
Việc tập trung sức lực vào chỗ mới đó sẽ giúp cho hoạt động sáng tạo có hiệu
quả, rèn luyện cho tư duy trực giác biện chứng nhạy bén, phong phú. Trong


nhiều trường hợp, giáo viên có thể giới thiệu cho học sinh kinh nghiệm sáng tạo
của các nhà bác học.
Theo quan điểm hoạt động, quá trình vật lý được xây dựng đề từ dễ đến
khó, phù hợp với trình độ học sinh, tận dụng những kinh nghiệm sống hàng
ngày của họ, tạo điều kiện cho họ có cơ hội để xuất ra được những ý kiến mới
mẻ có ý nghĩa, làm cho học sinh cảm nhận được hoạt động sáng tạo là hoạt động
thường xuyên có thể được thực hiện với sự cố gắng nhất định.
1.2.2.2. Luyện tập phỏng đoán dự đoán
Như ta đã biết, dự đoán có vai trò rất quan trọng trên con đường sáng tạo

khoa học. Dự đoán dựa chủ yếu vào trực giác, kết hợp với kinh nghiệm phong
phú và kiến thức sâu sắc về mọi lĩnh vực, các nhà khoa học nói rằng: việc xây
dựng giả thuyết dựa trên sự khái quát hóa những sự kiện thực nghiệm, những
kinh nghiệm cảm tính.
Tuy nhiên, sự khái quát hóa đó không phải là một phép quy nạp đơn giản,
hình thức mà chứa đựng nhiều yếu tố mới, không có sẵn trong các sự kiện dùng
làm cơ sở, dự đoán khoa học không phải là tùy tiện mà luôn luôn phải có một cơ
sở nào đó, tuy chưa thật chắc chắn. Có thể kể ra một số cách dự đoán trong giai
đoạn nhận thức vật lý của học sinh:
- Dựa vào liên tưởng tới một kinh nghiệm đã có.
- Dựa trên sự tương tự dựa trên sự xuất hiện đồng thời giữa hai hiện tượng
mà dự đoán giữa chúng có mối quan hệ nhân quả.
- Dựa trên sự thuận nghịch thường thấy của nhiều quá trình.
- Dự đoán về mối quan hệ định lượng.
1.2.2.3. Luyện tập đề xuất phương án thí nghiệm kiểm tra dự đoán
Trong nghiên cứu vật lí, một dự đoán, một giả thuyết thường là một sự khái
quát hóa các sự kiện thực nghiệm, nên nó có tính trừu tượng, tính chất chung,
không thể kiểm tra được. Muốn kiểm tra xem dự đoán, giải quyết có phù hợp


với thực tế không, ta phải xem điều dự đoán đó biểu hiện trong thực tế như thế
nào, có dấu hiệu nào để quan sát được. Điều đó có nghĩa là từ một dự đoán, giả
thuyết ta phải đưa ra được một hệ quả có thể quan sát được trong thực tế, sau đó
tiến hành thí nghiệm để xem hệ quả rút bằng suy luận đó có phù hợp với kết quả
thí nghiệm không.
Hệ quả suy ra được phải khác với những sự kiện ban đầu dùng làm cơ sở
cho dự đoán thì mới có ý nghĩa. Số hệ quả phù hợp với thực tế càng nhiều thì dự
đoán càng trở nên chắc chắn sát với chân lý hơn.
Quá trình rút ra hệ quả thường áp dụng suy luận logic hay suy luận toán
học. Sự suy luận này phải đảm bảo đúng quy tắc, đúng quy luật, không phạm sai

lầm. Những quy tắc, quy luật đó đều đã biết cho nên, về nguyên tắc, sự suy luận
đó không đòi hỏi sự sáng tạo và thực tế có thể kiểm soát được.
1.2.2.4. Sử dụng các bài tập sáng tạo
Ở trên, ta đã xem xét việc rèn luyện năng lực sáng tạo cho học sinh trong
quá trình xây dựng đơn vị kiến thức mới. Ngoài ra, trong dạy học vật lý, người
ta còn xây dựng những loại bài tập riêng vì mục đích này và được gọi là BTST.
Trong loại BTST này, ngoài việc phải vận dụng một số kiến thức đã học, học
sinh bắt buộc phải có những kiến thức độc lập mới mẻ, không thể suy ra một
cách logic từ những kiến thức đã học.
Theo Razumopxki, BTST được chia làm hai loại: Bài tập nghiên cứu và bài
tập thiết kế đòi hỏi học sinh phải đề xuất một thiết bị (vẽ bộ phận chính và sắp
xếp chúng) để thỏa mãn yêu cầu tạo ra một hiện tượng vật lý nào đó. Trong bài
tập nghiên cứu yêu cầu học sinh nghiên cứu để giải thích một hiện tượng mới
gặp nào đó.
1.2.3. Những biểu hiện NLST của HS trong học tập
Theo chúng tôi có thể nêu ra các biểu hiện NLST của HS trong học tập như
sau:
 Năng lực nhận thấy vấn đề mới trong điều kiện quen biết(tự đặt câu hỏi


cho mình và mọi người về bản chất các điều kiện, tình huống, sự vật), nhận thấy
chức năng mới của đối tượng quen biết.
 Năng lực tự chuyển tải tri thức và kỹ năng từ lĩnh vực quen biết sang
tình huống mới, vận dụng kiến thức đã học trong điều kiện hoàn cảnh mới.
 Năng lực nhìn thấy cấu trúc của đối tượng đang nghiên cứu. Thực ra là
bao quát nhanh chóng, đôi khi ngay tức khắc các bộ phận, các yếu tố của đối
tượng trong mối tương quan giữa chúng với nhau.
 Năng lực biết đề xuất các giải pháp khác nhau khi xử lí một tình huống.
Khả năng huy động các kiến thức cần thiết để đưa ra giả thuyết hay dự đoán
khác nhau khi phải giải thích một hiện tượng.

 Năng lực kiểm tra các giả thuyết bằng lí thuyết hoặc thực hành (hoặc phủ
nhận nó). Năng lực biết đề xuất các phương án thí nghiệm hoặc thiết kế các sơ
đồ thí nghiệm để kiểm tra giả thuyết hay hệ quả suy ra từ giả thuyết, hoặc để đo
một đại lượng vật lí nào đó với hiệu quả cao nhất có thể có được trong những
điều kiện đã cho.
 Năng lực nhìn nhận một vấn đề dưới những góc độ khác nhau, xem xét
đối tượng ở những khía cạnh khác nhau, đôi khi mâu thuẩn nhau. Năng lực tìm
ra các giải pháp lạ. Năng lực biết kết hợp nhiều phương pháp giải bài tập để tìm
ra một phương pháp giải mới độc đáo.
1.3. Vai trò của bài tập trong dạy học sáng tạo
1.3.1. Bài tập vật lý
Bài tập vật lí được hiểu là một vấn đề được đặt ra đòi hỏi phải giải quyết
bằng những suy luận logic, phép toán và thí nghiệm trên cơ sở các khái niệm,
các thuyết, các định luật vật lí.
Bài tập vật lí được hiểu là vấn đề xuất hiện do nghiên cứu tài liệu giáo khoa
đó chính là bài tập đối với học sinh được hiểu theo nghĩa rộng.
Theo quan niệm của X.E.Camenhetxki và V.P.Orrekhov thì bài tập vật lý là


vấn đề không lớn mà trong trường hợp tổng quát được giải quyết nhờ những suy
luận lôgic, những phép tính toán thực nghiệm trên cơ sở các định luật và phương
pháp vật lí. Sự tư duy định hướng tích cực luôn luôn là việc giải quyết bài tập
hay một vấn đề mới xuất hiện do nghiên cứu tài liệu giáo khoa trong mỗi tiết
học vật lí chính là một bài tập vật lí đối với học sinh.
Theo SGK, bài tập vật lí là những bài luyện tập được lựa chọn phù hợp với
mục đích chủ yếu là nghiên cứu các hiện tượng vật lí, hình thành các khái niệm,
phát triển tư duy vật lí của HS và rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức của HS
và thực tiễn […]
Với quan niệm trên, theo chúng tôi, BTVL có hai chức năng chủ yếu là
hình thành kiến thức mới và bài tập vận dụng kiến thức cũ.

1.3.2. Tác dụng của BTVL trong dạy học
Bài tập vật lí là một trong các phương pháp dạy học nhằm thực hiện tất
cả các nhiệm vụ dạy học vật lí ở trường phổ thông, cụ thể là:
- Bài tập vật lí giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn các quy luật vật lí, biết phân
tích và ứng dụng chúng vào thực tiễn, vào việc tính toán kỹ thuật.
- Bài tập vật lí nó là một trong những phương tiện hình thành kiến thức
mới đảm bảo cho học sinh nắm được những kiến thức một cách sâu sắc, vững
chắc.
- Bài tập vật lí là một phương tiện để phát triển tư duy, trí tưởng tượng.
Bởi trong quá tình giải quyết tình huống cụ thể do bài tập đề ra, học sinh phải
vận dụng các thao tác tư duy để tự lực giải quyết vấn đề, do đó hình thành ở học
sinh tính độc lập trong suy luận, kiên trì trong việc khắc phục khó khăn.
- Bài tập vật lí là phương pháp ôn tập, củng cố kiến thức đã học. Thông
thường khi giải bài tập, học sinh không chỉ đơn thuần vận dụng các kiến thức
của bài vừa học mà phải nhớ lại các kiến thức cũ đã học có liên quan, có khi
phải vận dụng tổng hợp các kiến thức đã học trong một chương, một phần. Khi


đó học sinh sẽ nắm được mối liên hệ các kiến thức cơ bản với nhau, nhờ đó ghi
nhớ sâu sắc hơn các kiến thức đã học.
- Bài tập vật lí là một trong những phương tiện kiểm tra, đánh giá mức độ
nắm vững kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo và thói quen của học sinh một cách chính
xác. Khi vận dụng kiến thức để giải bài tập, học sinh không những phải hiểu
kiến thức có liên quan mà còn phải biết vận dụng sáng tạo vào tình huống cụ thể
để tìm ra lời giải. Vì vậy sẽ giúp phát triển được trình độ trí tuệ, làm bộc lộ
những khó khăn, sai lầm của học sinh trong học tập, đồng thời góp phần giúp
học sinh vượt qua khó khăn và khắc phục những sai lầm ấy.
- Bài tập vật lí có tác dụng giáo dục tư tưởng, đạo đức, kỹ thuật tổng hợp
và hướng nghiệp cho học sinh.
1.3.3. Phương pháp giải bài tập vật lí

Trong dạy học, có rất nhiều phương pháp giải bài tập vật lí. Tuy nhiên, ta
có thể dùng sơ đồ định hướng khái quát chung bao gồm bốn bước dưới đây áp
dụng cho đa số các bài tập vật lí nói chung.
Bước 1: Nghiên cứu đề bài
- Đọc kĩ đề bài.
- Tìm hiểu những thuật ngữ mới quan trọng có trong đề bài.
- Mã hóa đề bài bằng các ký hiệu quen dùng.
- Đổi đơn vị của các đại lượng trong cùng một hệ thống thống nhất
(thường là trong hệ SI).
- Vẽ hình hay sơ đồ.
Bước 2: Phân tích hiện tượng, quá trình vật lí và lập kế hoạch giải
- Mô tả hiện tượng, quá trình vật lí xảy ra trong tình huống nêu lên trong
bài.
- Vạch ra các quy tắc, định luật chi phối hiện tượng vật lí ấy.
- Dự kiến những lập luận, biến đổi toán học cần thực hiện nhằm xác định


mối quan hệ giữa cái đã cho và cái phải đi tìm.
Bước 3: Trình bày lời giải
- Viết phương trình của các định luật và giải những phương trình có được
để tìm hệ số dưới dạng tổng quát, biểu diễn các đại lượng cần tìm qua các đại
lượng đã biết.
- Thay các giá trị đã cho bằng số để tìm ẩn số, thực hiện các phép tính dưới
độ chính xác cho phép.
Bước 4: Kiểm tra và biện luận kết quả
- Kiểm tra kết quả nhằm khẳng định kết quả đó có thể chấp nhận được hay
không.
- Từ kết quả, biện luận cho từng trường hợp khác nhau.
1.3.4. Nguyên tắc xây dựng hệ thống bài tập vật lí cho mỗi đề tài, chương,
phần của giáo trình Vật lí phổ thông

Việc xây dựng bài tập vật lí, cho bất kì đề tài nào, dù lớn hay nhỏ cũng cần
phải thỏa mãn một số yêu cầu sau:
1. Các bài tập trong hệ thống bài tập phải bao gồm cả bài tập cơ bản, bài
tập phức tạp và phải được sắp xếp từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp và
mối quan hệ giữa các khái niệm, đại lượng vật lí sao cho học sinh hiểu được
kiến thức, nắm được vững chắc kiến thức và có khả năng vận dụng kiến thức đó.
2. Mỗi bài tập phải là một mắt xích trong hệ thống bài tập góp phần hoàn
chỉnh kiến thức của học sinh giúp các em nắm vững kiến thức, rèn luyện kỹ
năng, kỹ xảo, thói quen vận dụng kiến thức đã chiếm lĩnh được và phát triển
năng lực của học sinh trong việc giải quyết những vấn đề học tập và thực tiễn.
3. Hệ thống bài tập phải góp phần khắc phục những khó khăn chủ yếu, sai
lầm phổ biến mà học sinh mắc phải trong quá trình học tập.
4. Những bài tập sau phải đem lại cho học sinh một điều mới lạ nhất định
và là một khó khăn vừa sức. Đồng thời, việc giải bài tập trước là cơ sở của việc


giải bài tập sau.
1.4. Khái niệm bài tập sáng tạo
Theo Razumopxki BTST là bài tập trong đó xuất hiện những yêu cầu mà
việc giải quyết chúng phải dựa trên những kiến thức và quy luật vật lí nhưng lại
thiếu những chỉ dẫn trực tiếp hoặc gián tiếp là dựa vào hiện tượng nào, quy luật
nào.
Với BTST người giải phải vận dụng kiến thức linh hoạt trong những tình
huống mới (chưa biết), phát hiện điều mới (về kiến thức, kỹ năng hoạt động
hoặc thái độ ứng xử mới). BTST là một phương tiện dùng cho việc bồi dưỡng
các phẩm chất của năng lực sáng tạo (tính linh hoạt, mềm dẻo, độc đáo, nhạy
cảm).
Bản chất của BTST là tìm được nguyên tắc giải quyết bài toán và các
nguyên tắc đó thực chất đã chứa đựng trong các điều kiện bài toán (không đánh
đố). Việc tìm kiếm các nguyên tắc giải quyết bài toán quan trọng hơn kết quả

(sản phẩm), do đó vai trò đặc biệt của BTST là đặc trưng luyện tập, rèn luyện
năng lực tư duy, tìm kiếm giải pháp.
Như vậy, để giải BTST, học sinh cần phải có sự nhạy bén trong tư duy, khả
năng tưởng tượng, sự vận dụng kiến thức một cách sáng tạo trong những tình
huống mới, hoàn cảnh mới, học sinh phát hiện ra những điều chưa biết đối với
bản thân họ. Loại bài tập này yêu cầu học sinh có khả năng đề xuất, đánh giá
theo ý kiến riêng của học sinh. Những khía cạnh phân biệt giữa bài tập thông
thường và BTST được chỉ ra như sau:


Bài tập thông thƣờng

Bài tập sáng tạo

- Việc xác định áp dụng kiến - Chƣa có những chỉ dẫn trực tiếp
thức vào hầu nhƣ đã rõ ràng.

hoặc gián tiếp cần sử dụng kiến
thức cụ thể nào.

- Dạng bài tập thƣờng

theo - Dạng bài tập không theo khuôn

khuôn mẫu nhất định, tình huống mẫu, chứa đựng các tình huống
quen thuộc, có tính tái hiện.

mới, có tính phát hiện.

- Có algorit giải


- Nguyên tắc giải là mới mẻ,
chƣa có, không chỉ suy ra logic từ
những kiến thức đã học (tuy
nhiên những nguyên tắc đó lại ẩn
trong các điều kiện của bài toán).

- Không yêu cầu khả năng đề - Yêu cầu đánh giá kết quả.
xuất đánh giá kết quả.
Radumovxki cũng chia BTST thàn hai loại: Bài tập nghiên cứu (trả lời câu
hỏi tại sao) và bài tập thiết kế, chế tạo (làm như thế nào).
Ví dụ:
1- Làm thế nào để biết được trọng lượng của một ô tô mà không dùng cân
chỉ cần nghiên cứu đến lốp của nó (Tại sao?)
2- Làm thế nào để có thể dùng vôn kế làm ôm kế? Vẽ sơ đồ, tính toán và
lựa chọn dụng cụ, xác định độ chia của ôm kế (Làm như thế nào?)
Đã có những luận án tiến sĩ và luận văn thạc sĩ nghiên cức việc xây dựng
và sử dụng BTST trong dạy học vật lí. Tuy nhiên, chưa có công trình nào chỉ ra
vai trò cơ bản của BTST là gì?
Trong những lí luận về BTVL, vai trò của BTVL là để học sinh luyện tập
vận dụng kiến thức đã học vào các tình huống cụ thể mà phần nhiều các tình


×