Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Kinh tế du lịch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.05 KB, 29 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Đắc Lắc là một tỉnh nằm ở trung tâm Tây Nguyên, Việt Nam. Đắk Lắk được xem là
một trong những cái nôi nuôi dưỡng không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên,
được UNESCO công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và phi vật nhân loại thế giới công
nhận.
Đăk Lăk có địa hình hướng thấp dần từ đông nam sang tây bắc. Vì nằm trong vùng
khí hậu cận xích đạo nên chia thành hai mùa rõ rệt là mùa khô và mùa mưa. Chính
điều kiện khí hậu và địa hình, đã làm cho Đăk Lăk có những địa danh tham quan ấn
tượng khi du lịch. Cộng với văn hóa lâu đời của vùng dân tộc thiểu số đã khiến cho du
lịch Đăk Lăk trở thành nguồn khám phá bất tận đối với du khách. Đắk Lắk là một
trong những tỉnh giàu tiềm năng về du lịch của Việt Nam vì Đắk Lắk có nhiều di tích,
thắng cảnh và có truyền thống văn hóa đa dạng đặc biệt, Đắk Lắk có Bản Đôn là một
địa danh đã được đưa vào bản đồ du lịch thế giới vì truyền thống săn bắt, thuần dưỡng
voi rừng và Buôn Ma Thuột được xem như là một trong những "thủ phủ cà phê".
Đắk Lắk có bản sắc văn hoá đa dạng như các trường ca truyền miệng lâu đời Đam
San, Xinh Nhã dài hàng nghìn câu; như các ngôn ngữ của người Ê Đê, người
M'Nông...; như các đàn đá, đàn T'rưng, đàn k'lông pút... Đắk Lắk cũng là một phần
của không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên, được UNESCO công nhận là di
sản văn hóa phi vật thể của nhân loại, tài nguyên du lịch nhân văn của tỉnh có giá trị
cao gắn liền với sự đa dạng của sắc tộc với những giá trị độc đáo về kiến trúc, mỹ
thuật, âm nhạc, văn hóa, lễ hội. Ngoài ra, Đắk Lắk còn có các ngôi nhà dài truyền
thống của người bản địa mà theo huyền thoại có thể "dài như tiếng chiêng ngân" hoặc
các bến nước tại các buôn làng của đồng bào dân tộc Ê đê, M'nông... thể hiện đời
sống, sinh hoạt văn hóa và phong tục tập quán của các cộng đồng dân cư bản địa, tạo
nên những điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch cộng đồng. Ở Daklak vẫn còn lưu
giữ các lễ hội đáng chú ý gồm có Lễ mừng lúa mới, Lễ bỏ mả, Lễ hội đâm trâu, Lễ
cúng Bến nước, Lễ hội đua voi, Lễ hội Cồng chiêng và Lễ hội cà phê… được tổ chức
đều đặn hàng năm như một truyền thống.
Đắk Lắk có đến 44 dân tộc anh em đang sinh sống nên ẩm thực ở đây rất thực đa
dạng, có đủ các món ăn của cả 3 miền Bắc, Trung, Nam. Nhiều người còn đánh giá là
hàng quán ở Đắk Lắk nấu ăn ngon, hợp khẩu vị của đa số. Đáng chú ý là các món ăn


dân dã Tây nguyên như Gà nướng Bản Đôn, các món nấu với lá giang, cà đắng, các
món chế biến từ cá sông…Và ở Đắk Lắk nổi tiếng có rượu cần với nhiều nhãn hiệu
nhưng đặc biệt nhất thì lại phải nói đến rượu Ama Kông. Ở các buôn làng ở Đắk Lắk
còn có những sản phẩm gia dụng như bàn, ghế và kể cả thuyền độc mộc đẽo từ những
cây rừng lớn nguyên vẹn... tạo nên những điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch sinh
thái, cộng đồng.


Trước đây, Daklak đã xây dựng một số nhà máy thủy điện như nhà máy thủy điện Đa
Nhim trên sông Đa Nhim, Đrây H’ling trên sông Xrepok, thủy điện Yaly trên sông
Xeran, sau đó đã xây thêm Xeran 3A, Xeran 4, Playkrong. Trên sông Xrepok có các
nhà máy thủy điện Buôn kuop, Xrepok 4,… Trên hệ thống sông Đồng Nai có các
công trình thủy điện Đại Ninh, Đồng Nai 3, Đồng Nai 4 đang được xây dựng. Rõ ràng
đây là điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế, xã hội của vùng. Các hồ thủy
điện còn đem lại nguồn nước tưới quan trọng trong mùa khô và có thể khai thác phục
vụ du lịch và nuôi trồng thủy sản. Do cơ sở hạ tầng còn thiếu, nhất là về giao thông
vận tải còn kém phát triển nên vấn đề phát triển du lịch chưa thực sự được nhiều du
khách quan tâm tìm hiểu và trải nghiệm.
Nhận thức được tầm quan trọng về tài nguyên du lịch của tỉnh Daklak và mong muốn
phát triển mô hình du lịch cộng đồng tại Daklak một phần nào giúp người dân bản địa
nâng cao đời sống kinh tế cho người dân bản địa nên nhóm 3 đã chọn chủ đề “tăng
cường du lịch làm giảm đói nghèo cho tỉnh Đaklak”.
Lý do chọn đề tài:
Đắk Lắk cũng là một phần của không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên, được
UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại, tài nguyên du lịch
nhân văn của tỉnh có giá trị cao gắn liền với sự đa dạng của sắc tộc với những giá trị
độc đáo về kiến trúc, mỹ thuật, âm nhạc, văn hóa, lễ hội. Ngoài ra, Đắk Lắk còn có
các ngôi nhà dài truyền thống của người bản địa mà theo huyền thoại có thể "dài như
tiếng chiêng ngân" hoặc các bến nước tại các buôn làng của đồng bào dân tộc Ê đê,
M'nông... thể hiện đời sống, sinh hoạt văn hóa và phong tục tập quán của các cộng

đồng dân cư bản địa, tạo nên những điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch cộng
đồng. Ở Daklak vẫn còn lưu giữ các lễ hội đáng chú ý gồm có Lễ mừng lúa mới, Lễ
bỏ mả, Lễ hội đâm trâu, Lễ cúng Bến nước, Lễ hội đua voi, Lễ hội Cồng chiêng và Lễ
hội cà phê… được tổ chức đều đặn hàng năm như một truyền thống. Do Đắk Lắk có
đến 44 dân tộc anh em đang sinh sống nên ẩm thực ở đây rất thực đa dạng, có đủ các
món ăn của cả 3 miền Bắc, Trung, Nam. Nhiều người còn đánh giá là hàng quán ở
Đắk Lắk nấu ăn ngon, hợp khẩu vị của đa số. Đáng chú ý là các món ăn dân dã Tây
nguyên như Gà nướng Bản Đôn, các món nấu với lá giang, cà đắng, các món chế biến
từ cá sông…Về rượu, ở Đắk Lắk tuy phổ biến rượu cần với nhiều nhãn hiệu nhưng
đặc biệt nhất thì lại phải nói đến rượu Ama Kông. Ở các buôn làng ở Đắk Lắk còn có
những sản phẩm gia dụng như bàn, ghế và kể cả thuyền độc mộc đẽo từ những cây
rừng lớn nguyên vẹn... tạo nên những điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch cộng
đồng.
Nhận thức được tầm quan trọng về tài nguyên du lịch của tỉnh Daklak và mong muốn
phát triển mô hình du lịch cộng đồng tại Daklak một phần nào giúp người dân bản địa
nâng cao đời sống kinh tế cho người dân bản địa nên nhóm 3 đã chọn chủ đề “tăng
cường du lịch làm giảm đói nghèo cho tỉnh Đaklak” để muốn gửi đến Thầy và các bạn
một vài ý tưởng nhằm đẩy mạnh việc quảng bá và tạo ra nhiều sản phẩm du lịch cộng


đồng – một hình thức của du lịch làm giảm đói nghèo để hình ảnh của du lịch Daklak
là một điểm sáng, điểm tham quan hấp dẫn trong lòng du khách tương lai.

CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ TỈNH DAKLAK
1 Khái quát về tỉnh Đăklak:
1.1 Tài nguyên tự nhiên.
1.1.1. Vị trí địa lý:
Tỉnh Đắk Lắk có diện tích 13.125,37 km2. Đắk Lắk nằm ở trung tâm vùng Tây
Nguyên, đầu nguồn của hệ thống sông Sêrêpôk và một phần của sông Ba, có độ cao

trung bình 400 – 800 mét so với mặt nước biển, tỉnh lị Buôn Ma Thuột nằm cách Hà
Nội 1.410 km và cách Thành phố Hồ Chí Minh 350 km. Phía Bắc giáp tỉnh Gia Lai,
phía Đông giáp Phú Yên và Khánh Hoà, phía Nam giáp Lâm Đồng và Đắk Nông,
phía Tây giáp Campuchia.
Tỉnh Đắk Lắk có 15 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm 01 thành phố, 01 thị xã và 13
huyện. Trong đó có 184 đơn vị hành chính cấp xã, gồm có 152 xã, 20 phường và 12
thị trấn.
1.1.2. Khí hậu:
Khí hậu toàn tỉnh được chia thành hai tiểu vùng. Vùng phía Tây Bắc có khí hậu nắng
nóng, khô hanh về mùa khô; vùng phía Đông và phía Nam có khí hậu mát mẻ, ôn hoà.
Khí hậu sinh thái nông nghiệp của tỉnh được chia ra thành 6 tiểu vùng là tiểu vùng
bình nguyên Ea Súp chiếm 28,43% diện tích tự nhiên, tiểu vùng cao nguyên Buôn Mê
Thuột – Ea H’Leo chiếm 16,17% diện tích tự nhiên, tiểu vùng đồi núi và cao nguyên
M’Đrắk chiếm 15,82% diện tích tự nhiên, tiểu vùng đất ven sông Krông Ana –
Sêrêpôk chiếm 14,51% diện tích tự nhiên, tiểu vùng núi cao Chư Yang Sin chiếm
3,98% diện tích tự nhiên, tiểu vùng núi Rlang Dja chiếm 3,88% diện tích tự nhiên.
Nhìn chung khí hậu khác nhau giữa các dạng địa hình và giảm dần theo độ cao: vùng
dưới 300 m quanh năm nắng nóng, từ 400 – 800 m khí hậu nóng ẩm và trên 800 m khí
hậu mát. Tuy nhiên, chế độ mưa theo mùa là một hạn chế đối với phát triển sản xuất
nông sản hàng hoá.
Khí hậu có 02 mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến
hết tháng 10, tập trung 90% lượng mưa hàng năm.Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4
năm sau, lượng mưa không đáng kể.
1.1.3. Địa hình và Thổ nhưỡng:


Địa hình của tỉnh rất đa dạng: nằm ở phía Tây và cuối dãy Trường Sơn, là một cao
nguyên rộng lớn, địa hình dốc thoải, lượn sóng, khá bằng phẳng xen kẽ với các đồng
bằng thấp ven theo các sông chính. Địa hình của tỉnh có hướng thấp dần từ Đông Nam
sang Tây Bắc. Thổ nhưỡng tỉnh Đăklăk phần lớn là đất đỏ Bazan màu mỡ, một phần

là đất pheralit.
Một trong những tài nguyên lớn được thiên nhiên ưu đãi cho Đắk Lắk đó là tài
nguyên đất. Toàn tỉnh có diện tích tự nhiên là 13.085 km2, trong đó chủ yếu là nhóm
đất xám, đất đỏ bazan và một số nhóm khác như: đất phù sa, đất gley, đất đen. Các đất
hình thành từ đá bazan có độ phì khá cao (pH/H2O từ trung tính đến chua, đạm và lân
tổng số khá). Sự đồng nhất cao giữa độ phì nhiêu tự nhiên và độ phì nhiêu thực tế của
các nhóm đất và loại đất, được phân bố trên cao nguyên Buôn Ma Thuột trải dài
khoảng 90 km theo hướng đông bắc - tây nam và rộng khoảng 70 km. Phía bắc cao
nguyên này (Ea H’Leo) cao gần 800 m, phía nam cao 400 m, càng về phía tây chỉ còn
300 m, bề mặt cao nguyên rất bằng phẳng chỉ còn điểm một vài đồi núi.
Nhóm đất phù sa (Fuvisols): Được hình thành và phân bố tập trung ven các sông suối
trong tỉnh. Tính chất của loại đất này phụ thuộc vào sản phẩm phong hoá của mẫu
chất..
Nhóm đất Gley (Gleysols): Phân bố tập trung ở các khu vực thấp trũng thuộc các
huyện Lắk, Krông Ana và Krông Bông.
Nhóm đất xám (Acrisols): Là nhóm lớn nhất trong số các nhóm đất có mặt tại Đắk
Lắk, phân bố ở hầu hết các huyện.
Nhóm đất đỏ (Ferrasol, trong đó chủ yếu là đất đỏ bazan).Là nhóm đất chiếm diện
tích lớn thứ hai (sau đất xám) chiếm tới 55,6% diện tích đất đỏ bazan toàn Tây
Nguyên. Đất đỏ bazan còn có tính chất cơ lý tốt, kết cấu viên cục độ xốp bình quân 62
65%, khả năng giữ nước và hấp thu dinh dưỡng cao... rất thích hợp với các loại cây
công nghiệp có giá trị kinh tế như cà phê, cao su, chè, hồ tiêu... và nhiều loại cây ăn
quả, cây công nghiệp ngắn ngày khác. Đây là một lợi thế rất quan trọng về điều kiện
phát triển nông nghiệp của tỉnh Đắk Lắk.
1.1.4. Sông ngòi:
Với những đặc điểm về khí hậu-thủy văn và với 3 hệ thống sông ngòi phân bố tương
đối đều trên lãnh thổ (hệ thống sông Srepok; hệ thống sông Ba, hệ thống sông Đồng
Nai) cùng với hàng trăm hồ chứa và 833 con suối có độ dài trên 10 km, đã tạo cho
Đắk Lắk một mạng lưới sông hồ khá dày đặc.
1.1.5. Nguồn nước ngầm:

Tập trung chủ yếu trong các thành tạo Bazan & Trầm tích Neogen đệ tứ, tồn tại chủ
yếu dưới 2 dạng: Nước lỗ hổng và nước khe nứt. Chất lượng nước thuộc loại nước
siêu nhạt, độ khoáng hoá M= 0,1 - 0,5, pH = 7-9. Loại hình hoá học thường là
Bicacbonat Clorua - Magie, Can xi hay Natri.


1.1.6. Động, thực vật:
Sau khi chia tách tỉnh, diện tích đất có rừng của Đắk Lắk là 608.886,2 ha, trong đó
rừng tự nhiên là 594.488,9 ha, rừng trồng là 14.397,3 ha. Rừng Đắk Lắk được phân
bố đều khắp ở các huyện trong tỉnh, đặc biệt là hành lang biên giới của tỉnh giáp
Campuchia. Rừng Đắk Lắk phong phú và đa dạng, thường có kết cấu 3 tầng: cây gỗ,
có tác dụng phòng hộ cao; có nhiều loại cây đặc sản vừa có giá trị kinh tế, vừa có giá
trị khoa học; phân bố trong điều kiện lập địa thuận lợi, nên rừng tái sinh có mật độ
khá lớn. Do đó rừng có vai trò quan trọng trong phòng chống xói mòn đất, điều tiết
nguồn nước và hạn chế thiên tai. Rừng Đắk Lắk có nhiều loại động vật quý hiếm phân
bổ chủ yếu ở vườn Quốc gia Yok Đôn và các khu bảo tồn Nam Kar, Chư Yangsin... có
nhiều loại động vật quý hiếm ghi trong sách đỏ nước ta và có loại được ghi trong sách
đỏ thế giới.Rừng và đất lâm nghiệp có vị trí quan trọng trong quá trình phát triển KTXH của tỉnh. Trong rừng có nhiều loại động vật hoang dã như: voi, hổ, tê tê, nai, bò
tót…
1.2 . Tài nguyên nhân văn.
1.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển:
Dân tộc: dân số toàn tỉnh tính đến năm 2012 đạt 1.796.666 người, mật độ dân số đạt
hơn 137 người/km². Trong đó, dân số sống tại thành thị đạt 432.458 người, dân số
sống tại nông thôn đạt 1.364.208 người.Dân số nam đạt 906.619 người, dân số nữ đạt
890.047 người.Cộng đồng dân cư Đắk Lắk gồm 47 dân tộc.Trong đó, người Kinh
chiếm trên 70%; các dân tộc thiểu số như Ê Đê, M'nông, Thái, Tày, Nùng... chiếm gần
30% dân số toàn tỉnh.
Dân số tỉnh phân bố không đều trên địa bàn các huyện, tập trung chủ yếu ở thành phố
Buôn Ma Thuột, thị trấn, huyện lỵ, ven các trục Quốc lộ 14, 26, 27 chạy qua như
Krông Búk, Krông Pắk, Ea Kar, Krông Ana. Các huyện có mật độ dân số thấp chủ yếu

là các huyện đặc biệt khó khăn như Ea Súp, Buôn Đôn, Lắk, Krông Bông, M’Đrắk,
Ea Hleo v.v…
Trên địa bàn tỉnh, ngoài các dân tộc thiểu số tại chỗ còn có số đông khác dân di cư từ
các tỉnh phía Bắc và miền Trung đến Đắk Lắk sinh cơ lập nghiệp.Trong những năm
gần đây, dân số của Đắk Lắk có biến động do tăng cơ học, chủ yếu là di dân tự do,
điều này đã gây nên sức ép lớn cho tỉnh về giải quyết đất ở, đất sản xuất và các vấn đề
đời sống xã hội, an ninh trật tự và môi trường sinh thái.
Đắk Lắk là tỉnh có nhiều dân tộc cùng chung sống, mỗi dân tộc có những nét đẹp văn
hoá riêng. Đặc biệt là văn hoá truyền thống của các dân tộc Ê Đê, M'Nông, Gia Rai…
với những lễ hội cồng chiêng, đâm trâu, đua voi mùa xuân; kiến trúc nhà sàn, nhà
rông; các nhạc cụ lâu đời nổi tiếng như các bộ cồng chiêng, đàn đá, đàn T'rưng; các
bản trường ca Tây Nguyên... là những sản phẩm văn hoá vật thể và phi vật thể quý


giá, trong đó “Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên” đã được tổ chức
UNESCO công nhận là kiệt tác truyền khẩu và di sản văn hóa phi vật thể của nhân
loại. Tất cả các truyền thống văn hóa tốt đẹp của các dân tộc tạo nên sự đa dạng,
phong phú về văn hóa của Đắk Lắk.
Dân tộc Ê Đê thuộc ngữ hệ Malayô - Pôlinêdiêng, địa bàn cư trú chủ yếu là các huyện
phía Bắc và phía Nam: từ Ea Hleo, Buôn Hồ xuống M’Đrắk và kéo dài lên Buôn Ma
Thuột. Dân tộc M'nông thuộc ngữ hệ Môn-Khơme, địa bàn cư trú chủ yếu là các
huyện phía Nam và dọc biên giới Tây Nam.
2 Khái quát tiềm năng du lịch tỉnh Đaklak:
2.1 Tài nguyên du lịch tự nhiên:
Đắk Lắk là tỉnh trung tâm của vùng Tây Nguyên, có vị trí chiến lược quan trọng trong
phát triển KT-XH, trong đó hoạt động du lịch có đủ tiềm năng để đưa du lịch thành
một ngành kinh tế mũi nhọn. Đắk Lắk được nhiều khách du lịch trong và ngoài nước
biết đến như một điểm du lịch hấp dẫn với nhiều địa danh cho phép khai thác theo
hướng kết hợp cảnh quan, sinh thái, môi trường và truyền thống văn hoá của nhiều
dân tộc trong tỉnh như hồ Lắk, cụm thác Gia Long – Dray Sap, cụm du lịch Buôn

Đôn, thác Krông Kma, Diệu Thanh, Tiên Nữ… bên cạnh các vườn quốc gia, khu bảo
tồn thiên nhiên Chư Yang Sin, Easo…
2.2 Tài nguyên du lịch nhân văn:
Với đặc điểm địa lý của một vùng đất cao nguyên quy tụ 47 dân tộc và tài nguyên du
lịch đa dạng, toàn tỉnh có 23 di tích lịch sử cách mạng, 02 di tích lịch sử văn hoá, 13
di tích kiến trúc nghệ thuật, 8 di tích khảo cổ, 71 di tích thắng cảnh, 25 danh lam
thắng cảnh. Có 9 di tích được Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch công nhận di tích quốc
gia, Bảo tàng Đắk Lắk có hơn 8.000 hiện vật văn hoá lịch sử.
Đến Đắk Lắk là đến với vùng đất có nhiều rừng núi, sông hồ và những thác nước
hùng vĩ, hòa cùng không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên – một “Kiệt tác
truyền khẩu và di sản văn hóa phi vật thể” của nhân loại. Cùng với nét độc đáo trong
văn hóa, Đắk Lắk còn là vùng đất của những lễ hội khá đặc trưng đã được du khách
trong và ngoài nước biết đến với rất nhiều lễ hội đặc sắc mang đậm nét các dân tộc
sinh sống trên mảnh đất này. Đặc biệt gần đây Lễ hội cà phê Buôn Ma Thuột đã được
Chính phủ công nhận là Lễ hội cấp Quốc gia được tổ chức hai năm một lần vào tháng
ba.
Một số lễ hội tiêu biểu của Đaklak như Lễ hội cà phê Buôn Ma Thuột và Liên hoan
văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên, Lễ mừng lúa mới “Kin lẩu khẩu mẩu” đây là Lễ
hội độc đáo của người Thái, Lễ cúng sức khỏe cho voi của đồng bào Tây Nguyên, Lễ
hội đua Voi, Lễ cúng bến nước, Lễ bỏ mả.


Di tích lịch sử: Tỉnh Đaklak là một địa phương có bề dày lịch sử hình thành và phát
triển, là một địa phương có truyền thống cách mạng, nơi bắt đầu mở màn cho chiến
dịch Hồ Chí Minh lịch sử nên có nhiều di tích lịch sử như: Biệt điện Bảo Đại, Hang
đá Dak Tuar, Nhà đày Buôn Ma Thuột, Bảo tàng văn hóa các dân tộc tỉnh Đắk Lắk,
Bia Lạc Giao, chùa sắc tứ Khải Đoan, mộ vua saưn voi Khujunop…
CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN - THỰC TRẠNG XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO
CHO DÂN TỘC VÙNG DU LỊCH ĐĂK LĂK

1. Thực trạng vùng du lịch Đăk Lăk
Một số chỉ số hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh Đắk Lắkgiai đoạn 2004- 2011
Chỉ số
1.Số khách (ngàn người)

2004
165,1

2005
203,1

2007
240,6

2009
449,8

2010
460,3

2011
499,1

+ Nội địa

154,2

188,6

221,7


422,0

431,8

468,1

+ Quốc tế
2. Doanh thu (tỉ đồng)
3. Cơ sở lưu trú

10,9
73,7

14,5
90,7

18,9
125,2

27,8
167,7

28,5
199,3

31,0
235,0

+ Tổng số:


32

50

80

107

115

120

+ Số phòng:

753

1069

1748

2149

2336

2400

Doanh thu du lịch trên địa bàn tỉnh không ngừng tăng lên, từ 73,7 tỉ đổng
năm 2004 lên 199,3 tỉ đồng năm 2010 và 235 tỉ đồng năm 2011 (tăng gấp
3,2 lần) và đạt tốc độ tăng trưởng bình quân trong giai đoạn 2004 - 2011 là

20%/năm.
Hệ thống cơ sở lưu trú, nhà hàng, khu vui chơi giải trí ngày càng nhiều, đáp
ứng nhu cầu khách du lịch.
Để khai thác hết lợi thế về tài nguyên du lịch, tỉnh đang tập trung vào các
sản phẩm du lịch sinh thái và du lịch văn hóa, du lịch thể thao, khám phá,
du lịch Festival cà phê, cồng chiêng, du lịch cưỡi voi…để ngành có nhiều
đóng góp vào TTKT, tạo thêm việc làm, cải thiện đời sống nhân dân trên
toàn địa bàn. Tỉnh cũng cố gắng kết nối giữa địa phương với các tỉnh trong


vùng Tây Nguyên, Duyên hải miền Trung và Đông Nam Bộ tạo tour du lịch
liên kết nhằm thu hút đông đảo du khách (đặc biệt với du khách nước
ngoài).
Sự phát triển của các hình thức TCLTDL, đặc biệt là các điểm du lịch, cụm du lịch và
tuyến du lịch đã thúc đẩy du lịch tăng trưởng nhanh, góp phần khai thác có hiệu quả
tài nguyên du lịch, làm thay đổi bộ mặt KT – XH, CSVC kỹ thuật của ngành ngày
càng được hoàn thiện;
Tuy nhiên, mới chỉ có số ít địa điểm được khai thác; hoạt động du lịch tập trung ở
thành phồ Buôn Ma Thuột, Buôn Đôn và huyện Lắk; các cụm khác hầu như tồn tại ở
dạng tiềm năng; tính thời vụ trong sự phát triển du lịch còn cao; sự liên kết, phối hợp
giữa các hình thức TCLTDL còn lỏng lẻo, chưa tạo nên được sản phẩm du lịch hấp
dẫn để kéo dài thời gian lưu trú và tăng mức chi tiêu của khách; mức độ đóng góp
GDP của du lịch trong tổng GDP toàn tỉnh còn thấp, chưa tương xứng với tiềm năng
to lớn.
Vì vậy trong những năm tiếp theo, tỉnh cần phải có những định hướng và giải pháp
phát triển mang tính khả thi để phát triển ngành du lịch; để ngành có vai trò to lớn hơn
trong việc thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch CCKT của tỉnh và thực hiện việc xóa
đói giảm nghèo cho người dân.
Cơ cấu kinh tế năm 2011: công nghiệp xây dựng chiếm 26,66%; nông lâm thủy sản
50,21% và dịch vụ 23,13%.

Cơ cấu kinh tế của Đắk Lắk, vùng TN và cả nước năm 2004- 2011 (%)
Đắk Lắk
Tây Nguyên
Cả nước
2004
2011
2004
2011
2004
2011
Nông - lâm - thủy sản
56,5
54,3
52,9
48,1
21,8
22,0
Công nghiệp – XD
17,0
15,0
17,9
23,1
40,2
40,2
Dịch vụ
26,5
30,7
29,2
28,8
38,0

37,8
Dịch vụ du lịch phát triển nhanh, có nhiều tuyến, điểm, cụm du lịch với hệ thống
Các ngành

CSVC phục vụ ngày càng được phát triển, góp phần vào sự tăng trưởng và chuyển
dịch CCKT của tỉnh trong những năm qua.


Bảng 1.1. Vốn đầu tư trên địa bàn tỉnh Đắk Lắkgiai đoạn 2004- 2011
Nguồn vốn
2004
2007
2009
2010
Tổng số (tỉ đồng, giá hh)
2.007,8
3.833,8
8.275,8 9.026,0
1. Phân theo nguồn vốn (%)
100,0
100,0
100,0
100,0
- Vốn nhà nước
45,1
36,3
34,3
32,7
- Vốn ngoài nhà nước
52,7

61,8
65,7
67,3
- Vốn FDI
- Vốn khác
1,9
2. Phân theo ngành kinh tế
(%)
2,2
- Nông- lâm- thủy sản
43,5
34,4
34,4
34,0
- CN - XD
16,8
25,1
25,1
28,7
- Dịch vụ
39,7
40,5
40,5
37,3
Là điều kiện để phát triển sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, nhất là

2011
10.365,4
100,0
35,6

60,5
3,9
-

34,5
26,3
39,2
các dân tộc

thiểu số ở vùng sâu, vùng xa. Vốn đầu tư thông qua các chương trình dự án đầu tư cho
PTKT, góp phần từng bước chuyển dịch CCKT và có vai trò quan trọng xây dựng
tuyến phòng thủ biên giới quốc gia.
Là tỉnh giàu tiềm năng về du lịch, cả về phong cảnh tự nhiên và văn hóa nhân văn,
cùng nhiều khu bảo tồn thiên nhiên, vùng rừng nguyên sinh khác. Có nền văn hóa đa
dạng đặc trưng với những lễ hội độc đáo như cồng chiêng Tây Nguyên, Lễ hội đua
voi, đâm trâu.
Nhiều vấn đề xã hội bất cập chưa được giải quyết như áp lực về tăng dân số, tỷ lệ hộ nghèo
tuy giảm nhanh nhưng vẫn còn cao và thiếu bền vững; tỷ lệ hộ nghèo trong đồng bào dân tộc
thiểu số vẫn còn cao. Giải quyết đất ở cho đồng bào dân tộc thiểu số còn chậm và lúng túng.
Khoa học, công nghệ, giáo dục - đào tạo, y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân chưa đáp ứng
được yêu cầu; môi trường sinh thái bị tác động mạnh bởi chất lượng rừng ngày càng suy
giảm,…
Kể từ khi tách tỉnh năm 2004 đến nay, việc thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nhằm đem lại công ăn việc làm cho người dân, xóa đói giảm nghèo, tăng GDP cho địa
phươngthì nền kinh tế, Đắk Lắk đã đạt được những thành tựu đáng kể. Tốc độ TTKT


nhanh, CCKT có sự chuyển dịch theo hướng tích cực, bước đầu đã phát huy được các lợi
thế để phát triển.
Bảng 3.1. Vị trí của Đắk Lắk trong vùng Tây Nguyên năm 2011

Vùng
Chỉ tiêu

Tây

% so với toàn vùng
Đắk
Kon
Gia

Đắk

Lâm

Lắk

Tum

Lai

Nông

Đồng

24,0

17,7

28,4


12,0

17,9

1. Diện tích tự nhiên (km2)

Nguyên
54.641,1

2. Dân số (nghìn người)

5.280,2

33,6

8,5

25,0

9,8

23,1

3. GDP (tỉ đồng, giá hh)

120.680,0

33,0

7,0


23,6

10,5

25,9

4. GDP/người (triệu đồng)

22,8

99,0

82,0

95,0

106,0

113,0

5. Tốc độ tăng trưởng (%)

12,5

80,0

112,0

100,0


103,0

115,0

137.960,7

33,8

5,1

21,1

13,3

26,7

28.797,3

31,4

7,2

29,6

9,9

21,9

1.876,6


41,0

5,7

18,5

21,3

13,5

6. GTSX (tỉ đồng, giá hh)
+ N-L-TS:
+ CN:
7. Giá trị XK (triệu USD)

So với 5 tỉnh trong vùng Tây Nguyên, tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2004- 2011 thấp
nhất, luôn ở dưới mức 10%, trong khi 4 tỉnh còn lại luôn duy trì ở mức hai con số.
GDP/người đứng thứ 3/5 tỉnh (sau Lâm Đồng và Đắk Nông) do quy mô dân số đông.
CCKT chủ yếu là nông, lâm nghiệp và chuyển dịch vừa chậm vừa không ổn định. Tỉ
trọng khu vực N-L-TS của Đắk Lắk đến năm 2011 cao thứ 2/5 tỉnh vùng Tây Nguyên
(sau Đắk Nông: 59,1%). Trong vòng 8 năm tỉ trọng khu vực 1 luôn chiếm trên 50%
GDP, năm cao nhất chiếm 57,2% (2005) và năm thấp nhất cũng là 50,2% (2010).
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ giai đoạn 2004-2011
Tổng số

2004
4.565,5

2005

5.321,9

2007
8.394,8

94,0

91,3

91,7

2009
19.115,8

2010
26.134,9

2011
27.831,0

(tỉ đồng, giá HH)
Trong đó, chia ra
(%):
1. Thương mại

91,8

92,9

92,9



2.Du lịch

0,05

0,1

0,1

0,1

0,1

0,1

3.Khách sạn, nhà

5,95

8,6

8,2

8,1

7,0

7,0


hàng
2. Định hướng làm giảm đói nghèo cho vùng du lịch Đăk Lăk
2.1. Lựa chọn thị trường
2.1.1. Tính thời vụ
Tại Daklak có những địa điểm và những đồng bào anh em dân tộc khác nhau cùng
sinh sống ít nhiều sẽ phù hợp với các mức độ phát triển du lịch khác nhau.
Vì thuộc vùng khí hậu Tây Nguyên, nên Đăk Lăk có hai mùa rõ rệt đó là mùa khô và
mùa mưa. Do vậy khi muốn đi du lịch Đăk Lăk du khách thường bị phụ thuộc nhiều
vào tính thời vụ du lịch. Mùa khô là những tháng đầu năm lúc này thời tiết khá dịu
mát chưa quá nóng, nên lời khuyên cho du lịch Đăk Lăk vào mùa khô là lựa chọn hợp
lý. Còn mùa mưa từ giữa năm đến cuối năm. Nếu du khách đi vào mùa mưa thì sẽ gặp
khó khăn khi di chuyển trên đường đất. Vì vậy khi đi du lịch Đăk Lăk nên tránh mùa
mưa. Nhưng nếu du khách muốn thưởng thức cảnh đẹp của Daklak thì nên đi du lịch
từ tháng 12 đến tháng 4 vì tháng 12 ở Tây Nguyên là mùa dã quỳ nở vàng rực đất trời
Tây Nguyên và từ cuối tháng 2 đến đầu tháng 3 dương lịch là mùa hoa cafe nở trắng
trời.
Do tính thời vụ du lịch nên nhu cầu đi du lịch của du khách cũng sẽ thay đổi mức độ
nhu cầu theo từng giai đoạn trong năm và các hoạt động du lịch tại các điểm du lịch
cũng bị ảnh hưởng theo.
Chiến lược du lịch cần xác định những thị trường ưu tiên. Việc xác định này có ảnh
hưởng đến các chính sách về loại hình sản phẩm được ưa chuộng và chiến lược tiếp
thị.
Khi lựa chọn thị trường mục tiêu, cần phải cân nhắc đến yếu tố mùa vụ trong du lịch
vì đây là nhân tố chính để thực hiện phát triển du lịch giảm đói nghèo cho Daklak.
Và cần chú trọng khai thác các điểm mạnh để phát triển du lịch sao cho có hiệu quả
kinh tế cao với người dân bản địa. Chính vì lẽ này mà phần lớn các điểm du lịch đều


hướng vào việc tiếp cận những thị trường mà mình hiểu rõ để đạt hiệu quả kinh tế cao
trong tương lai.

2.1.2 Tiềm năng phát triển
Đắk Lắk có nhiều tiềm năng để phát triển du lịch. Đây là vùng đất còn đậm nét hoang
sơ và bí ẩn đối với du khách trên nền tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn rất
phong phú, đa dạng. Ít có nơi nào được thiên nhiên ban cho nhiều cảnh quan đẹp như
ở đây.
Các đối tượng tự nhiên có khả năng thu hút khách du lịch trước hết là VQG Yok Đôn,
VQG Chư Yang Sin, Khu bảo tồn thiên nhiên Ea Sô,thác Đrây Nur, thác Krông Kmar,
hang đá Đắk Tuor với các sản phẩm du lịch đặc trưng là du lịch sinh thái. Những cảnh đẹp
khác còn có bãi đá sông Krông Bông với hình thù như đàn voi khổng lồ đang vượt
suối, hồ Lắk rộng 500 ha, thông với sông Krông Ana uốn khúc như dải lụa ôm lấy thị
trấn Liên Sơn. Đắk Lắk nổi tiếng với địa danh Bản Đôn, quê hương của những người
thợ săn bắt và thuần dưỡng voi với nhiều huyền thoại.
Mặt khác, nét độc đáo của Đắk Lắk là sự phong phú, đa dạng của phong tục tập quán
và sinh hoạt văn hoá, là nơi hội tụ của 44 dân tộc anh em cùng chung sống. Tuy nhiên,
cũng cần phải chú ý về thời gian diễn ra các lễ hội.
2.1.2.1. Lễ hội cồng chiêng Tây Nguyên
Thời gian diễn ra lễ hội: Hiện nay vẫn chưa có thời gian diễn ra lễ hội cồng chiêng
Tây Nguyên cụ thể mà mỗi năm tổ chức vào một thời điểm khác nhau.Địa điểm diễn
ra lễ hội cồng chiêng Tây Nguyên: Luân phiên trong 5 tỉnh Tây Nguyên đó là Đăk
Lăk, Lâm Đồng, Kontum, Đăk Nông và Gia Lai.
Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên có thể nói là một lễ hội lớn và hấp dẫn
nhất ở Tây Nguyên mà ai cũng muốn một lần được tham dự. Nhờ vào những truyền
thống quý báu còn lưu giữ và sự tinh tế trong nét văn hóa của người dân Tây Nguyên
mà lễ hội này đã trở thành một di sản truyền khẩu và phi vật thể nhân loại được tổ
chức UNESCO công nhận. Trong mùa lễ hội, du khách sẽ được hòa mình vào những
giai điệu hào hùng hay nhẹ nhàng được phát ra từ những chiếc cồng chiêng do người


dân Tây Nguyên tự tay làm ra, được cùng những chàng trai, cô gái Tây Nguyên ca
múa bên đống lửa bập bùng và thưởng thức đặc sản Tây Nguyên để hiểu rõ hơn về

cuộc sống văn hóa của người dân nơi đây.
2.1.2.2. Lễ hội đua voi ở Bản Đôn
Thời gian diễn ra lễ hội: Tháng 3 hàng năm là thời điểm lễ hội đua voi ở Buôn Đôn.
Địa điểm diễn ra lễ hội: Buôn Đôn, xã Krông na, huyện Buôn Đôn, tỉnh Đăk Lăk.
Diễn ra từ ngày 12/3 đến ngày 14/3, lễ hội đua voi Buôn Đôn được tổ chức với mục
đích khẳng định tinh thần thượng võ và phô diễn tài nghệ của những người thuần
dưỡng voi Tây Nguyên.
2.1.2.3. Lễ hội cà phê Buôn Mê Thuột
Cà phê là cây trồng chủ đạo của nền nông nghiệp Tây Nguyên nói chung và tỉnh Đắk
Lắk nói riêng vì vậy không có gì lạ khi ở đây tổ chức hội cà phê nằm tôn vinh loại cây
trồng đã giúp đời sống của bà con Đắk Lắk trở nên khấm khá hơn.
Đây là lễ hội mang tầm vóc quốc gia được tổ chức 2 năm một lần tại thành phố
Buôn Mê Thuật - trung tâm văn hóa chính trị của tỉnh Đắk Lắk. Lễ hội chỉ mới bắt đầu
vào năm 2005 nhưng đã trở thành nét đẹp văn hóa không thể thiếu của người dân Tây
Nguyên.
Ngoài quảng bá, tôn vinh cà phê và các sản phẩm làm từ nó, lễ hội còn thu hút khách du
lịch bởi những hoạt động thú vị mang đậm bản sắc văn hóa Tây Nguyên như: tổ chức
diễn tấu cồng chiêng, đi cà kheo, lễ diễu hành của voi và những hoạt động thể thao
khác,...
2.1.2.4. Lễ cúng bến nước
Là một lễ hội văn hóa quan trọng của người Ê Đê ở Tây Nguyên, lễ cúng bến nước
được tổ chức hàng năm sau thu hoạch để cầu cho mưa thuận, gió hòa. Lễ cúng bến
nước được bắt đầu với một hồi chiêng ngân dài khi mà bà con trong vùng thắp hương
cúng ông bà tổ tiên để báo cáo rằng con cháu đã về đông đủ. Đợi đến hồi chiêng thứ 2
thầy cúng sẽ thực hiện nghi thức cúng Yàng (cúng Trời) để cầu mưa. Kết thúc lễ cầu
mưa, các cô gái dân tộc trong trang phục truyền thống lưng đeo gùi theo thầy đến bến


nước đầu buôn. Mỗi hoạt động này lại cách nhau một tiếng chiêng. Cuối cùng thầy
cúng đọc lời khấn cầu mong Thần nước mang nước, nguồn sức sống quan trọng nhất

đến cho buôn làng. Buổi lễ kết thúc, người dân làng sẽ quây quần bên nhau, cùng
uống rượu cần, kể chuyện về mùa màng hay ăn những món ăn truyền thống của dân
tộc.
2.1.2.5. Lễ bỏ mả
Là lễ hội của người Đắk Lắk diễn ra để người còn sống có thể thực hiện hết bổn phận
của mình với người đã khuất, sau lễ này người ta có thể yên tâm và chắc chắn rằng
người đã khuất sẽ được đầu thai. Thế nên dù mặc tang phục nhưng với người dân Đắk
Lắk đây vẫn được coi là một lễ hội vui nhất trong năm.
2.1.2.6.

Lễ mừng lúa mới
Lễ mừng lúa mới của các tộc người J'rai và Bahnar thường diễn ra trong khoảng thời
gian từ tháng 11 dương lịch năm trước cho đến tháng 1 năm sau trong khắp các tỉnh
của Tây Nguyên, đặc biệt là ở Đắk Lắk. Thời gian này, người dân ở đây rảnh rỗi bởi
vụ mùa đã kết thúc và họ để cho đất "nghỉ ngơi" theo đúng tập quán. Đầu tiên, lễ hội
diễn ra trong cả buôn làng rồi từng nhà lại tổ chức riêng theo điều kiện của gia đình.
Nhà nào khá giá thì thịt lợn, mời thầy cúng rồi chia thịt cho cả buôn làng, nhà nào khó
khăn thì mua miếng thịt về cúng thần Pôm. Trong những ngày này cả buôn làng rộn
ràng tiếng cồng chiêng và nô đùa của người dân.

2.1.2.7.

Lễ hội đâm trâu

Đây là một trong những lễ hội truyền thống của người Tây Nguyên nói chung và tỉnh
Đắk Lắk nói riêng, lễ hội nhằm mục đích tế thần linh hoặc những người đã có công
chủ trì thành lập buôn làng, ăn mừng chiến thắng, ăn mừng mùa màng bội thu hay ăn
mừng các sự kiện quan trọng khác. Con trâu sẽ là vật hiến tế để cầu thần phù hộ cho
buôn làng được khỏe mạnh, ấm no, để mừng ngày mùa hay để mừng chiến thắng. Tùy
mỗi dân tộc mà lễ hội này được diễn ra vào một khoảng thời gian, không gian khác

nhau. Tuy nhiên nghi thức cơ bản đều giống nhau.
Bởi vậy, Đắk Lắk có tiềm năng lớn về phát triển du lịch song hoạt động này trong
những năm qua phát triển chưa xứng với tiềm năng. Mặc dù vậy ngành du lịch từng


bước phát triển tương đối khá. Lượng khách trong nước và quốc tế đến với Đắk Lắk
ngày càng nhiều, từ 165,1 nghìn khách (trong đó khách quốc tế là 10,9 nghìn người)
năm 2004 đã tăng lên 499,1 nghìn người (khách quốc tế 31,0 nghìn người) năm 2011.
Bước vào giai đoạn mới, tỉnh Đắk Lắk xác định du lịch là một trong các hướng đột
phá để chuyển dịch CCKT
2.1.3 Khả năng tiếp cận - Khoảng cách đi lại
Hệ thống mạng lưới đường bộ của tỉnh phân bố khá đồng đều và hợp lý
trên địa bàn tỉnh, tạo được sự liên kết giữa trung tâm tỉnh lị Buôn Ma
Thuột với các huyện và với mạng lưới giao thông quốc gia và các tỉnh lân
cận. Hiện nay, toàn tỉnh đã có 184/184 xã có đường ô tô đến trung tâm xã.
GTSX và cơ cấu GTSX vận tải Đắk Lắk, giá hiện hành, giai đoạn 2004- 2011
2004

2005

2007

2009

2010

2011

229,0
100,0


278,6
100,0

567,4
100,0

665,9
100,0

993,3
100,0

1328,5
100,0

- Đường ô tô

99,9

99,9

99,7

99,4

99,5

99,0


- Đường sông

0,1

0,1

0,3

0,6

0,5

1,0

Toàn tỉnh (tỉ đồng)
Trong đó (%):

Giá trị hoạt động GTVT trên địa bàn không ngừng tăng, chỉ trong vòng 8
năm (2004- 2011) GTSX của ngành đã tăng 5,8 lần; trong sự phát triển của
tỉnh, ngành vận tải đã có những đóng góp không nhỏ trong việc thực hiện
nhiệm vụ vận chuyển hành khách cũng nh ư thực hiện chức năng vận chuyển
hàng hóa, tạo được sự liên kết kinh tế giữa các địa phương trong tỉnh, trong
vùng TN cũng như với các tỉnh khác trong cả nước.

Tình hình vận tải Đắk Lắk giai đoạn 2004- 2011


Tiêu chí

Đơn


vị

2004

2005

2007

2010

2011

14,7

tính
1. Vận tải hành khách
+ Số lượt vận

Triệu lượt

6,6

7,9

8,7

14,9

Tr


751,7

840,0

918,8

1573,0

2034

2378,0

3728,6

6925,0

8885,2

245,6

273,3

539,6

760,5

852,4

chuyển

+ Số lượt luân
chuyển

1698,2

lượt.km

2. Vận tải hàng hóa
+ Khối lượng vận
chuyển

Nghìn tấn
Tr tấn. km

+ Khối lượng luân
chuyển

Tuy nhiên, với một tỉnh miền núi không tiếp giáp với biển, hệ thống sông suối chảy
trên địa hình dốc, sông lắm thác nhiều ghềnh…vì vậy trong cơ cấu GTSX mà ngành
vận tải tạo ra, thì loại hình chiếm ưu thế là đường ô tô (năm 2011 chiếm 99,0%).
2.1.3.1. Khả năng tiếp cận:
Với sự đa dạng về tài nguyên du lịch tự nhiên cũng như nhân văn, nhiều điểm
du lịch ở Đắk Lắk được đánh giá có độ hấp dẫn cao, nhưng phần nhiều vẫn ở
dạng tiềm năng, việc tiếp cận và khai thác du lịch chưa thực sự hiệu quả hoặc
đầu tư xây dựng CSHT, CSVC kỹ thuật chưa xứng tầm. Các điểm du lịch ở Đắk
Lắk rất phong phú, gồm các điểm du lịch có ý nghĩa quốc gia:
Buôn Đôn: cách Buôn Ma Thuột khoảng 40 km, được đánh giá có nhiều thuận lợi để
khai thác cả hai loại hình du lịch là du lịch sinh thái và du lịch văn hóa. Điểm du lịch
Buôn Đôn có vị trí rất quan trọng trong ngành du lịch của Đắk Lắk.
VQG Yok Đôn: thuộc địa phận huyện Buôn Đôn và một phần Ea Súp, là một trong

những khu bảo tồn thiên nhiên lớn nhất nước ta với tổng diện tích khoảng hơn 115
nghìn ha. Có giá trị về mặt nghiên cứu khoa học và đa dạng sinh học; du lịch sinh
thái, tham quan thám hiểm rừng nguyên sinh.


Hồ Lắk, VQG Chư Yang Sin cũng là điểm du lịch có ý nghĩa quốc gia.
2.1.3.2. Khoảng cách đi lại:
Hiện nay, do chưa có khả năng đầu tư CSHT phục vụ mục đích phát triển cho riêng
ngành; vì vậy các tuyến du lịch đã và đang khai thác có mối liên hệ chặt chẽ với sự phân
bố và phát triển của hệ thống CSHT do Nhà nước đầu tư xây dựng , trong đó quan trọng
là các tuyến giao thông. TP Buôn Ma Thuột là đầu mối giao thông quan trọng nhất
của tỉnh Đắk Lắk cũng như toàn vùng Tây Nguyên, chính vì thế các tuyến du lịch Đắk
Lắk đều xuất phát từ cụm du lịch với trung tâm là TP Buôn Ma Thuột. Gồm:
Tuyến du lịch quốc gia:
TP Buôn Ma Thuột – Gia Lai – Đà Nẵng- Duyên hải miền Trung: Tuyến này khởi đầu từ
thành phố Buôn Ma Thuột, theo quốc lộ 14 về phía Bắc qua Gia Lai sẽ đến trung tâm
kinh tế Đà Nẵng, cố đô Huế và khu công nghiệp Dung Quất, khu kinh tế mở Chu Lai
(Quảng Ngãi, Quảng Nam).
Tuyến TP Buôn Ma Thuột – Khánh Hòa: Qua quốc lộ 26, tuyến này nối cụm du lịch
trung tâm Đắk Lắk với Nha Trang, là trung tâm du lịch lớn của vùng Duyên hải miền
Trung và cả nước, đồng thời có cảng biển giao thương hàng hóa với nước ngoài. Tuyến
có chiều dài 183 km.
Tuyến TP Buôn Ma Thuột – các tỉnh phía Nam: Qua quốc lộ 14 phía nam Đắk Lắk là
các tỉnh Đắk Nông, Bình Phước, Bình Dương và thành phố Hồ Chí Minh. Tuyến có
chiều dài 352 km, nối Đắk Lắk với một trong hai trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa
lớn nhất cả nước.
Tuyến TP Buôn Ma Thuột – Lâm Đồng: Theo quốc lộ 27, nối Đắk Lắk với trung tâm du
lịch nghỉ dưỡng Đà Lạt nổi tiếng trong nước và quốc tế. Tuyến có chiều dài 200 km.
Tuyến du lịch địa phương:
Tuyến TP Buôn Ma Thuột – Buôn Đôn – Ea Súp: đây là tuyến du lịch hấp dẫn và được

trông đợi nhất của du khách khi đến với Đắk Lắk; tuyến bao gồm các điểm du lịch
chính: Buôn Đôn, Vườn quốc gia Yok Đôn, thác Bảy Nhánh, hồ Đắk Minh, hồ Ea Súp
Thượng, tháp Chăm Yang Prông,… đến với tuyến này khách du lịch sẽ được thưởng
thức các sản phẩm du lịch như: nghe kể chuyện nghề săn bắt và thuần dưỡng voi rừng;


tham quan các hồ nước, thác nước; thám hiểm rừng nguyên sinh, cưỡi voi dã ngoại trong
rừng; tham quan cầu treo, giao lưu văn hóa cồng chiêng,…
Tuyến TP Buôn Ma Thuột – Hồ Lắk- Nam Kar- Thác Đray Nur: tham quan Buôn Ako
Dhong, bảo tàng dân tộc tỉnh, đi huyện Lắk tham quan buôn Jun, đi thuyền độc mộc
qua hồ Lắk thăm nhà cựu hoàng Bảo Đại, thăm buôn M’Liêng, cưỡi voi đi thăm buôn
làng và rừng sinh thái hồ Lắk, đến dòng Krông Ana xuôi thuyền dọc sông đến thăm
bến đò Buôn Triết,… Thăm quan thác Dray Nur một trong những thác hùng vĩ nhất
trên dòng Sê Rê Pôk,…
Tuyến TP Buôn Ma Thuột – Krông Pắk – Ea Kar – M' Đrăk: tuyến du lịch này còn ở
dạng tiềm năng và hầu như chưa được khai thác có hiệu quả. Các điểm tham quan chính
trên tuyến là Hồ Ea Nhái, khu bảo tồn thiên nhiên Ea Sô, thác Đray K’nao, trang trại
sinh thái nông nghiệp M’Đrăk.
2.1.4 Tạo cơ hội cho người dân
Với kết quả điều tra tiêu chí chuẩn nghèo đa chiều (giai đoạn 2016-2020) cho thấy
toàn vùng Tây Nguyên có 90.599 hộ được xếp vào diện cận nghèo, trong đó Đắk Lắk
chiếm tỷ lệ cao nhất 8,28% với 34.884 hộ.
Lần lượt được xếp tiếp theo là Gia Lai 7,3%, Kon Tum 6,36%, Đắk Nông 6,16% và
Lâm Đồng 5,12%.
Cũng theo kết quả điều tra trên, số hộ nghèo trên địa bàn Tây Nguyên là 225.030 hộ,
chiếm tỷ lệ 17,14% số hộ trên toàn vùng. Số hộ nghèo ở Đắk Lắk xếp thứ 2 (sau Kon
Tum) với 81.592 hộ, chiếm tỷ lệ 19, 37%. Tiếp đến là Đắk Nông 19,26%, Gia Lai
19,17% và Lâm Đồng 5,12%.
Là tỉnh có cơ cấu dân số trẻ nên nguồn lao động của Đắk Lắk tương đối dồi dào và
tăng nhanh, vừa là yếu tố quan trọng cho sự phát triển KT - XH, song cũng tạo sức ép

cho vấn đề giải quyết việc làm và các vấn đề xã hội. Năm 2004, nguồn lao động toàn
tỉnh là 936,4 nghìn người, chiếm 55,4% dân số đến năm 2010, tăng lên 1.145,8 nghìn
người, chiếm 65,3% dân số toàn tỉnh. Trong giai đoạn 2004- 2010, tốc độ gia tăng
nguồn lao động trung bình năm là 3,5%/năm, bởi dòng nhập cư đã giảm hẳn và thậm
chí còn xuất cư khỏi tỉnh.


Lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế tăng liên tục, từ 771,4 nghìn người năm
2004 lên 981,3 nghìn người năm 2011. Trong cơ cấu lao động đã có sự chuyển dịch song
còn rất chậm và tập trung chủ yếu ở khu vực I. Cơ cấu này tuy có thấp hơn vùng TN một
chút nhưng cao gấp gần 1,5 lần cả nước.

Cơ cấu lao động đang làm việc phân theo ngành kinh tế (%)
Năm2011, có 32.252 cơ sở chiếm 64,8% số cơ sở cả tỉnh với 66.155 người (71,3% của
tỉnh) hoạt động trong lĩnh vực này; tập trung nhiều nhất là ở Buôn Ma Thuột có 16.191 cơ
sở và 43.556 người, sau đó là Krông Pắk và Cư Mgar.
Chất lượng nguồn lao động nhìn chung là thấp, tỷ lệ lao động được đào tạo chưa cao,
còn có sự khác biệt về chất lượng nguồn lao động giữa các nhóm dân cư. Năm 2004,
tỷ lệ lao động đang làm việc đã qua đào tạo chỉ có 9,8%, đến năm 2010 lên 11,5% và
năm 2012 là 12,5%. Tuy số lao động đã qua đào tạo còn ít, nhưng trong những năm
gần đây, tỉnh đã chú ý thu hút nhân tài, đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng để đội ngũ lao
động tiếp cận được với điều kiện mới của nền kinh tế thị trường, đóng góp tích cực cho
sự PTKT xã hội của tỉnh trên bước đường CNH, HĐH.
CSHT phục vụ du lịch trong vài năm trở lại đây cũng được hoàn thiện dần. Trong tỉnh
đã hình thành một số tuyến, điểm du lịch để phục vụ khách trong nước và quốc tế.
Nhưng mới có 3 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này với số người hoạt động
vẫn còn ít ỏi (355 người). Các điểm, tuyến có ý nghĩa lớn về du lịch là Buôn Ma
Thuột, Buôn Đôn, Lắk… nhưng CSHT còn lạc hậu. Nếu được đầu tư nhiều hơn nữa



thì sẽ phát huy hiệu quả kinh tế cao. Hiện cả tỉnh có khoảng 8.890 doanh nghiệp kinh
doanh phục vụ trong lĩnh vực khách sạn nhà hàng với số lao động tham gia lên tới
14.971 người. Đây là yếu tố rất quan trọng để các hoạt động dịch vụ khác phát triển,
nhất là du lịch.
Trong giai đoạn 2004 - 2011 quy mô GDP không ngừng tăng lên, từ 6.765,0 tỉ đồng
(giá thực tế) năm 2004 lên 27.965 tỉ đồng năm 2010 và 39.809,0 tỉ đồng năm 2011,
đứng đầu vùng TN với 33,0% GDP toàn vùng và gần 1,6% cả nước.
GDP bình quân đầu người cũng được tăng liên tục. GDP/người giai đoạn 2004 - 2011
tăng gần 5,5 lần, đứng thứ 3 trong vùng (sau Lâm Đồng và Đắk Nông) với mức 22,5
triệu đồng/người năm 201,1 thấp hơn mức trung bình của vùng TN một chút (22,8
triệu đồng) và bằng 78,0% mức trung bình cả nước.
Tốc độ tăng GDP bình quân hàng năm giai đoạn 2004 - 2011 là 9,5%, riêng giai đoạn
2007 - 2011 là 9,9%, cao hơn mức tăng trưởng bình quân của cả nước (7,2% và 6,5%
cùng thời kỳ), và của vùng Tây Nguyên.
Theo các khu vực kinh tế thì dịch vụ có tốc độ tăng cao nhất (21,9% cho toàn giai
đoạn 2004 - 2011; ngành công nghiệp - xây dựng ở vị trí thứ hai với 20,6%, khu vực
nông- lâm- thủy sản tăng thấp nhất với 5,3%. Kết quả này thể hiện sự cố gắng lớn của
tỉnh trong mục tiêu CNH, HĐH nền kinh tế, nhất là trong điều kiện phải đối mặt với
thiên tai dịch bệnh, giá cả các mặt hàng chủ lực có năm sụt giảm mạnh.
2.1.5. Mức chi tiêu bình quân đầu người
Bên cạnh việc thiếu dấu ấn riêng cho từng điểm đến thì nhiều năm qua, du lịch Đắk
Lắk vẫn đang đối mặt với tình trạng nghèo nàn và đơn điệu về sản phẩm quà lưu
niệm...
Mua quà lưu niệm về biếu bạn bè, người thân sau một chuyến du lịch đã trở thành
thói quen và nhu cầu với nhiều du khách. Thế nhưng, đến Đắk Lắk mua gì về làm quà
vẫn là câu hỏi chưa có lời giải thỏa đáng cho nhiều du khách.
Thời gian qua, lượng du khách đến Đắk Lắk tăng đáng kể, nhưng khách tiêu tiền ở
đây còn khá ít. Theo nhiều người làm nghề du lịch, một trong những nguyên nhân của
thực trạng trên là do sản phẩm lưu niệm của địa phương khá nghèo nàn và thiếu đặc
trưng. Dù đã có một số sản phẩm như cà phê, mật ong, túi, ví, quần áo thổ cẩm; đồ thủ

công mỹ nghệ như móc chìa khóa, chiếc gùi Êđê, quả bầu, tượng voi… khô bò, măng


khô, rượu cần Y Miên, bài thuốc Ama Kông… nhưng sản phẩm quà lưu niệm cho du
lịch Đắk Lắk vẫn chưa đủ sức để tạo được dấu ấn riêng. Cho nên dù rất muốn mua
một món quà nào đó, du khách vẫn phân vân không biết mua gì cho xứng đáng. Để
chọn được món quà làm kỷ niệm cho chuyến đi Tây Nguyên quả không phải là dễ,
bởi tất cả đều na ná nhau. Lên Kon Tum thì thấy rượu cần, túi ví, quần áo thổ cẩm,
móc chìa khóa bằng gỗ, đến Gia Lai cũng không có gì khác hơn, sang Đắk Lắk thì có
thêm bài thuốc Ama Kông, cà phê Buôn Ma Thuột - sản phẩm được coi là đặc trưng
nhất của phố núi…
Trên thực tế, tại mỗi khu, điểm du lịch của tỉnh như Trung tâm du lịch Buôn Đôn, Hồ
Lắk… đều tổ chức các gian hàng bày bán sản phẩm lưu niệm khá bài bản. Người bán
thì niềm nở mời chào, nhưng gian hàng nào cũng chỉ bày bán chừng đó mặt hàng,
quanh đi quẩn lại cũng chỉ là cà phê, đồ thổ cẩm, móc chìa khóa, bài thuốc Ama
Kông, măng khô...Khách đến Đắk Lắk họ rất hào hứng khi đứng trước các gian hàng
đồ lưu niệm, song hầu như họ chỉ tham quan, ngắm nghía chứ không mua gì, bởi
trước đó họ đã mua ở Gia Lai, Kon Tum rồi, có khách còn nhận xét, ở đây bày bán
quá nhiều bộ đồ bà ba vốn không phải là hàng đặc trưng của dân tộc bản địa.
Thông thường, khi đến với một vùng đất mới, du khách thường tìm mua sản phẩm
mang đậm nét văn hóa, con người của địa phương đó; đôi khi chỉ cần nhìn qua sản
phẩm mang về là bạn bè biết mình đã đi đến những tỉnh, thành nào. Thế nhưng với
Đắk Lắk, du khách lại không có nhiều lựa chọn. Đắk Lắk là vùng đất rất giàu bản sắc
văn hóa dân tộc bản địa và đang sở hữu nhiều nghệ nhân tạc tượng khá độc đáo, có
tay nghề cao, tiếc là vẫn chưa có sản phẩm thủ công ấn tượng như điêu khắc bằng tay
hình dáng nhà dài Tây Nguyên hoặc voi một cách công phu, bài bản… khiến nhiều du
khách tìm mãi vẫn không có sản phẩm ưng ý.
Sản phẩm quà lưu niệm mang tính đặc trưng của địa phương không chỉ tạo sự hấp dẫn
cho du khách, kích thích họ tiêu tiền mà còn góp phần quảng bá hình ảnh của địa
phương. Song nhìn vào thực tế, thị trường quà lưu niệm ở Đắk Lắk hiện vẫn còn bỏ

ngỏ, đa số tiểu thương chỉ nghĩ đến việc bán cho được hàng chứ không hề quan tâm
đến việc chọn bán sản phẩm mang đậm bản sắc, đặc trưng của phố núi để thu hút du
khách, vì thế nên họ chỉ nhập những sản phẩm từ nơi khác đến như khỉ nhồi bông, voi
bằng nhựa… với giá rẻ về bán cho du khách.
Thời gian qua, ngành du lịch Đắk Lắk cũng chú tâm xây dựng sản phẩm lưu niệm,
nhưng khó về vốn vẫn là vấn đề gây cản trở nhiều nhất. Thiết nghĩ, về lâu dài, địa
phương cần có kế hoạch đầu tư xây dựng sản phẩm riêng biệt, độc đáo để đáp ứng
nhu cầu của du khách bằng hình thức kêu gọi doanh nghiệp đầu tư xã hội hóa nguồn
vốn. Bên cạnh đó, cũng nên định hướng cho tiểu thương bán hàng đặc trưng (chỉ Đắk
Lắk mới có) để tăng thêm sự hấp dẫn cho du khách, kích thích tiêu dùng khi họ đến
đây.
2.2 Lựa chọn sản phẩm
Có thể hướng vào khoảng trống giữa các sản phẩm chào hàng hay hướng vào các loại
sản phẩm làm nổi bật. Có nhiều sản phẩm du lịch mang tính bền vững. Trong nhiều


trường hợp, tác động phụ thuộc vào tính chất và vị trí của sự phát triển cũng như cách
thức hoạt động. Tuy nhiên, các loại sản phẩm khác nhau đều có những mặt mạnh và
mặt yếu phù hợp với phát triển bền vững. Nhìn chung, những điểm du lịch cần tập
trung vào sự đa dạng của các loại sản phẩm miễn là chúng phù hợp với nhu cầu của
thị trường, được quy hoạch, phát triển tốt và được điều hành nhằm đáp ứng nhu cầu
của cộng đồng địa phương cũng như môi trường.
2.2.2 Tác động tới các doanh nghiệp du lịch
Có nhiều góc độ để việc phát triển du lịch Daklak có ảnh hưởng tới các doanh nghiệp
du lịch như chất lượng và chăm sóc khách hàng chưa thực sự cao vì du lịch Daklak
chưa được khai thác nhiều, việc quản lý nhân lực chưa mạnh, còn nhiều sơ suất và
hạn chế vì sản phẩm du lịch không nhiều, chưa tạo được nhiều cơ hội việc làm cho
người dân bản địa, người dân địa phương, người nghèo, và người gặp hoàn cảnh khó
khăn khác. Muốn làm được điều đó thì các doanh nghiệp phải hợp tác với các nhà
cung ứng là người bản địa, từ đó phát triển kinh tế địa phương, rút ngắn khoảng cách

đi lại, ủng hộ chính sách buôn bán và tuyển lao động đúng quy cách, sống, ủng hộ và
hoà đồng cùng cộng đồng dân cư nghèo, áp dụng các quy trình sản xuất, thân thiện
với môi trường, bảo tồn môi trường địa phương.
2.2.3. Tác động tới du khách
Các doanh nghiệp lữ hành có ảnh hưởng quan trọng tới thái độ của du khách thông
qua việc cung cấp thông tin, giải thích hướng dẫn cho du khách khi tham gia du lịch
tại các điểm du lịch của Daklak. Qua đó, chúng ta phải nâng cao nhận thức của du
khách về các lợi ích khi tham gia hoạt động du lịch thông qua hoạt động tiếp thị, cung
cấp thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng… trong chuyến đi hoặc tại
điểm du lịch.
3 Tăng cường phát triển du lịch để làm giảm đói nghèo cho vùng du lịch Daklak:
Muốn tăng cường phát triển du lịch Daklak thì chúng ta cần tận dụng triệt để các điều
kiện cơ bản để có thể phát triển du lịch như là nguồn tài nguyên, khả năng tiếp cận,
nhu cầu đối với sản phẩm du lịchvà đặc biệt là các điểm du lịch tại Daklak cần được
quy hoạch và đưa vào hệ thống tuyến điểm du lịch của lãnh thổ.


Muốn tăng cường phát triển du lịch Daklak thì chúng ta cần biết rõ tính hấp dẫn của
các điểm du lịch tại Daklak vì đây là điều kiện để thu hút được nhu cầu và mong
muốn của du khách, năng lực tổ chức quản lý, kỹ năng cung cấp các dịch vụ cơ bản,
khả năng tài chính để phát triển sản phẩm du lịch. Để hấp dẫn du khách hơn nữa thì
Daklak cần sự hỗ trợ của cơ quan quản lý nhà nước về du lịch để hỗ trợ về việc thực
hiện quy hoạch, đầu tư nâng cấp hạ tầng du lịch, đào tạo kỹ năng tổ chức quản lý và
cung cấp dịch vụ. Thêm vào đó, Daklak cần có hệ thống cơ chế chính sách hợp lý
trong điều kiện hiện tại để phát triển du lịch, nâng cao đời sống kinh tế cho người dân
bản địa như hỗ trợ hạ tầng du lịch, quảng bá du lịch, đào tạo nguồn nhân lực, giá thuê
đất, thuế kinh doanh, hỗ trợ các doanh nghiệp đưa khách đến các điển du lịch cộng
đồng và cần sự hợp tác nhiệt tình từ các công ty du lịch, công ty lữ hành trong việc
quảng bá và đảm bảo nguồn khách. Đặc biệt là Daklak cần sự hỗ trợ của các tổ chức
quốc tế, các tổ chức phi chính phủ về kinh nghiệm tổ chức du lịch.

Để thực hiện được việc phát triển du lịch làm giảm đói nghèo tại Daklak thì cần sự hỗ
trợ của các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch, các cơ quan/ tổ chức tư vấn phát
triển du lịch, các doanh nghiệp du lịch, các chủ sở hữu/ quản lý tài nguyên du lịch
thiết kế những chương trình du lịch phù hợp với nhu cầu và mong muốn của khách du
lịch, đánh trọng tâm vào điểm khác biệt giữa du lịch Daklak với các kiểu du lịch khác
để khách du lịch quốc tế, khách du lịch nội địa chú ý, quan tâm đến trải nghiệm du
lịch Daklak.
3.1. Phát triển quy trình và cơ cấu tổ chức
Xác định cơ cấu quản lý và tổ chức phù hợp. Cần có sự lựa chọn sắp xếp tổ chức phù
hợp với mục tiêu của du lịch cộng đồng, ví dụ như hình thức liên doanh giữa cộng
đồng và tư nhân.
Lựa chọn đội ngũ quản lý hiệu quả và nguyên tắc. Tất cả các bên liên quan trong cộng
đồng cần nhất trí với cách thức quản lý và vận hành ngay từ đầu. Đội ngũ quản lý có
thể được lựa chọn hoàn toàn từ cộng đồng, hoặc có thể bao gồm các thành viên bên
ngoài như các tổ chức phi chính phủ hoăc các công ty du lịch. Điều quan trọng nhất là
người quản lý cần có kỹ năng quản lý công bằng, chuyên nghiệp và minh bạch. Vai
trò và trách nhiệm của đội ngũ quản lý cần phải được làm rõ ràng ngay từ đầu.
3.2. Phát triển năng lực địa phương
Tiến hành phân tích các kỹ năng hiện có và khoảng thiếu hụt cần cải thiện. Điều quan
trọng là cần xác định nhu cầu, năng lực quản lý và trách nhiệm ở các cấp khác nhau
và với từng người khác nhau.
Triển khai việc xây dựng năng lực. Triển khai bởi các tổ chức có kinh nghiệm (như
công ty lữ hành, công ty tư vấn, …) hoặc các tổ chức tại địa phương (như trường du
lịch, hiệp hội,…), chú trọng chọn lọc các thành viên vượt trội để họ chia sẻ kinh
nghiệm.
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Đắk Lắk đã tổ chức lớp tập huấn nghiệp vụ văn hóa,
thể thao và du lịch cho các cán bộ thuộc các xã đặc biệt khó khăn trên địa bàn tỉnh.
Tại lớp tập huấn, các học viên được trang bị các chuyên đề về lý luận, kinh nghiệm
hoạt động về chuyên môn nghiệp vụ ngành văn hóa, thể thao, du lịch; công tác xây
dựng; tổ chức các hoạt động văn hóa cho đồng bào ở các xã đặc biệt khó khăn; cung



cấp các phương pháp công tác cơ bản; hướng dẫn nghiệp vụ cho cán bộ cơ sở những
kiến thức về quản lý và tổ chức hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch. Đây là dịp
giúp các cán bộ cơ sở vận dụng các kiến thức đã học phục vụ nhiệm vụ chính trị của
địa phương, góp phần vào việc xây dựng nâng cao đời sống văn hóa tinh thần, góp
phần phát triển kinh tế - xã hội vùng có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.
Nhu cầu đào tạo và phát triển năng lực về Du lịch cộng đồng: cung cấp cơ hội phát
triển cho đội ngũ cán bộ chuyên trách, thực hiện chiến lược giữ nhân viên.
3.3. Phát triển và tiếp thị sản phẩm du lịch tại vùng du lịch Daklak
3.3.1. Phát triển sản phẩm.
Cộng đồng địa phương cần thống nhất sản phẩm cần được tập trung thể hiện nét đặc
sắc riêng cho địa phương mình. Hỗ trợ cho công tác thông tin và xúc tiến quảng bá du
lịch bằng nhiều hình thức như tham gia và tổ chức các hội nghị, hội thảo xúc tiến đầu
tư, liên hoan du lịch, hội chợ du lịch trong nước và quốc tế, phát hành các ấn phẩm du
lịch Đắk Lắk, đưa thông tin trên wesbite... để tạo cơ hội hòa nhập vào thị trường quốc
tế. Trong điều kiện các doanh nghiệp của tỉnh chưa đủ mạnh, Nhà nước giữ vai trò
quan trọng trong việc xúc tiến, hỗ trợ cho các doanh nghiệp thâm nhập và nâng cao
hình ảnh của du lịch Đắk Lắk trên thị trường. Sản phẩm du lịch Đắk Lắk bao gồm: Du
lịch trên hồ, sông nước; Du lịch leo núi; Du lịch hang động ; Du lịch dã ngoại, sinh
thái (đi bộ xuyên rừng kết hợp đi voi); Du lịch tham quan bảo tàng cách mạng, bảo
tàng dân tộc, các di tích lịch sử văn hoá ( nhà đày Buôn Ma Thuột, Chùa sắc tứ Khải
Đoan, Đình Lạc Giao, tháp Chăm Yang Prông); Lễ hội văn hoá như hội voi, lễ hội
đâm trâu, hội cồng chiêng, lễ bỏ mã, lễ mừng lúa mới, lễ cúng bến nước, lễ cúng voi,
lễ mừng nhà mới; Du lịch nghiên cứu khoa học ... Ngoài ra, tỉnh còn chủ trương
khuyến khích phát triển thêm các làng nghề truyền thống như dệt thổ cẩm, mộc mỹ
nghệ, điêu khắc tạc tượng nhà mồ ..., trước mắt tập trung ở các buôn làng lân cận
Thành phố Buôn Ma Thuột, các thị tứ, thị trấn. Sau đó sẽ phát triển tới các vùng sâu
vùng xa. Đồng thời sẽ mở rộng về quy mô của các làng nghề hiện có, đặc biệt là nghề
dệt thổ cẩm nhằm khôi phục lại nền văn hóa, bản sắc dân tộc của đồng bào và cung

cấp sản phẩm thủ công mỹ nghệ cho ngành du lịch để bán cho du khách làm quà lưu
niệm.
3.3.2. Xác định thị trường khách hàng mục tiêu.
Ban quản lý Du lịch Daklak cần tập trung cả thị trường khách du lịch trong nước và
quốc tế để khai thác tối đa số lượng khách đến với điểm Du lịch Daklak và giảm thiểu
yếu tố mùa vụ trong du lịch khi chỉ phụ thuộc vào thị trường khách hàng quốc tế.
Cùng với tiềm năng vốn có và cơ chế, chính sách ưu đãi thông thoáng, du lịch Đắk
Lắk có triển vọng phát triển nhanh và vững chắc. Nhà nước ta cần phối hợp với các tổ
chức trong và ngoài nước để đẩy mạnh phát triển du lịch Daklak, để nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần cho người dân bản dịa. Vây nên chúng ta cần chú trọng khai
thác các nhóm khách du lịch đến từ các quốc gia như Hoa Kỳ, Anh Quốc, Đức,
Australia, Pháp, Thuỵ Điển, Hà Lan, Đan Mạch, Nauy, Áo, Canada, New Zealand vì
các du khách đến từ các quốc gia này rất ưa chuộng hình thức du lịch sinh thái, du lịch


mạo hiểm, du lịch nghiên cứu,... Trong số 12 quốc gia này, Hoa Kỳ, Anh Quốc, Đức,
Australia và Pháp chiếm tỷ lệ cao nhất. Vì thế, đây là cơ hội lớn cho du lịch Daklak
xây dựng ngành du lịch dựa vào tự nhiên. Cần chú ý là trên 60% du khách từ 12 nước
này đều có thể nói tiếng Anh, nên nhu cầu về các hướng dẫn viên và các nhà điều
hành tour biết nói tiếng Anh cũng đang được tăng lên. Vậy nên Daklak cũng rất cần
sự hỗ trợ từ các tổ chức quốc tế: tổ chức du lịch thế giới (UNWTO), chương trình
phát triển của Liên hợp quốc (UNDP)và các tổ chức phi chính phủ (NGO): tổ chứ
phát triển Hà Lan (SNV), tổ chức bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN), tổ chức hợp tác
quốc tế Nhật Bản (JICA), quỹ bảo tồn động vật hoang dã (WWF)…
Với việc xác định thị trường mục tiêu rõ rệt như vậy, hy vọng trong những năm tới,
Đắk Lắk sẽ được biết đến như một địa danh du lịch hấp dẫn và lý tưởng, là vùng đất
có tiềm năng thu hút đầu tư và du lịch đầy hứa hẹn đối với du khách và doanh nhân ở
khắp mọi miền đất nước.
3.3.3. Xác định phương thức tiếp thị. Sử dụng các công cụ của marketing hỗn hợp 5P: sản
phẩm (product), chiến lược định vị (positioning), phân phối (place), giá cả (price) và

quảng bá (promotion); Xây dựng trang web quảng bá cho du lịch cộng đồng, quảng bá
tour Du lịch cộng đồng trên các sổ tay hướng dẫn du lịch, xây dựng các tài liệu
marketing: tờ rơi, sách giới thiệu về các điểm du lịch làng nghề, tiếp thị trực tuyến.
Tiếp cận và mở rộng thị trường trên cơ sở xây dựng các chương trình quảng bá du lịch
từ mọi nguồn. Mở rộng quan hệ với các văn phòng đại diện du lịch trong nước để xây
dựng các tour đưa khách đến Đắk Lắk. Hợp tác khai thác, phát triển du lịch trong
khuôn khổ chương trình hợp tác tam giác phát triển Việt Nam - Lào - CamPuChia.

CHƯƠNG III
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Cách làm du lịch để giảm đói nghèo đã được mở rộng và khuyến khích phát triển ở
nhiều địa bàn tỉnh Daklak, nhất là Buôn Mê Thuột đã dần khởi sắc rõ nét. Nhiều nhà
dân đã áp dụng hình thức kinh doanh tại nhà thông qua các dịch vụ cho thuê giường
ngủ, kinh doanh dịch vụ ăn uống, mua sắm các sản phẩm thủ công, tổ chức tham quan
và xem các chương trình văn hóa văn nghệ mang đậm chất dân gian tại Daklak.
Trong định hướng thì Daklak đã có quy hoạch phát triển loại hình du lịch giúp cho
người dân bản địa nâng cao chất lượng cuộc sống nơi bản địa, giảm thiểu số hộ nghèo
nhờ làm du lịch, mang lại hiệu quả đầy triển vọng không chỉ với mục đích có thêm
sản phẩm du lịch mới mà còn tạo cơ hội để người dân tham gia trực tiếp vào hoạt
động phát triển du lịch. Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tỉnh Đắk Lắk đến năm
2020 và định hướng đến năm 2030 cũng đưa ra định hướng về sản phẩm du lịch của


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×