Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Đề cương sáng kiến 3 năm 2018 2019 copy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.79 KB, 20 trang )

I- PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Chúng ta đang sống trong một thời đại mới, thời đại phát triển rực rỡ
của công nghệ thông tin (CNTT). CNTT đã ở một bước phát triển cao đó
là số hóa tất cả mọi dữ liệu thông tin, luân chuyển mạnh mẽ và kết nối tất
cả chúng ta lại với nhau.
Cùng với sự phát triển của thời kì CNH - HĐH đất nước. CNTT
cũng có bước tiến mạnh mẽ. Không có lĩnh vực nào, không có nơi nào là
không có mặt của CNTT. CNTT là một trong những động lực quan trọng
để phát triển đất nước.
Trong lĩnh vực giáo dục, cũng có sự đổi mới toàn diện và sâu sắc. Đó
chính là việc đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy học (PPDH). Những
PPDH theo cách tiếp cận kiến tạo, phương pháp dạy học dự án, dạy học
phát triển và giải quyết vấn đề càng có điều kiện để ứng dụng rộng rãi.
Các hình thức dạy học như: dạy học theo lớp, dạy học theo nhóm, dạy học
theo cá nhân cũng có những đổi mới trong môi trường CNTT.
Xuất phát từ các văn bản chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, nhất là chỉ
thị 58/CT/TW của Bộ Chính Trị ngày 17/10/2000 về việc đẩy mạnh ứng
dụng CNTT phục vụ sự nghiệp CNH - HĐH đã chĩ rõ: “Công nghệ thông
tin nhân lên sức mạnh tinh thần, vật chất, trí tuệ của toàn dân tộc, là động
lực mạnh mẽ thúc đẩy đổi mới và phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh
của nền kinh tế…”. Chính vì vậy Đảng và Nhà nước đã nêu rõ nhiệm vụ
trọng tâm của ngành Giáo dục là đào tạo nguồn nhân lực về CNTT và đẩy
mạnh ứng dụng CNTT trong công tác giáo dục và đào tạo”.
Nghị quyết 40/2000/NQ-QH10 và chỉ thị 14/2001/CT-TTg ngày
09/12/2000 về việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông: Nội dung
chương trình là tích cực áp dụng một cách sáng tạo các phương pháp tiên
tiến cả hiện đại, ứng dụng CNTT vào dạy và học.
Nếu trước kia người ta áp dụng phương pháp dạy học sao cho học sinh
(HS) nhớ lâu, dễ hiểu, thì nay phải đặt trọng tâm là hình thành, phát triển
cho HS các phương pháp học chủ động. Nếu trước kia người ta thường


quan tâm nhiều đến khả năng ghi nhớ kiến thức và thực hành kỹ năng vận
dụng, thì nay chú trọng đặc biệt đến phát triển năng lực sáng tạo của HS.


Như vậy, việc chuyển từ “lấy GV làm trung tâm” sang “lấy người học làm
trung tâm” sẽ trở nên dễ dàng hơn.
HS Tiểu học còn nhỏ, nên quá trình nhận thức thường gắn với những
hình ảnh, hoạt động cụ thể. Bởi vậy, phương tiện trực quan rất cần thiết
trong quá trình giảng dạy. Đặc biệt là các phương tiện trực quan sinh
động, rõ nét sẽ thu hút được sự chú ý của HS. Trong tiết học có đồ dùng
trực quan đẹp sẽ thu hút sự chú ý của HS đến bài giảng hơn và kết quả
học tập của HS sẽ tốt hơn.
Công nghệ phần mềm có nhiều bước tiến đáng kể, trong đó các phần
mềm giáo dục như: Bộ Office, Cabri, E-learning, MS PowerPoint đã đạt
được rất nhiều thành tựu.
Môn Tự nhiên - Xã hội (TNXH) là một trong số những môn học mà
HS có hứng thú và đam mê nhất khi học môn này, vì đây là môn học có
rất nhiều hình ảnh sống động, lôi cuốn sự chú ý của HS. Những hình ảnh
về hoạt động của con người, loài vật được đưa lên màn hình với những
hiệu ứng khác nhau sẽ rất có hiệu quả mà không tốn nhiều thời gian so với
phương pháp truyền thống. Chỉ cần bấm chuột, sau vài giây trên màn hình
sẽ hiện ra nội dung mà chúng ta cần truyền thụ cho HS. Chính vì vậy, việc
ứng dụng CNTT vào dạy học môn TNXH ở Tiểu học là rất cần thiết.
Chúng ta có thể thấy tầm quan trọng của CNTT trong công tác dạy
học: Nâng cao một bước cơ bản chất lượng học tập của HS, tạo ra một
môi trường giáo dục mang tính tương tác cao chứ không phải đơn thuần
chỉ là “thầy giảng-trò nghe” như kiểu truyền thống, HS được khuyến
khích và tạo điều kiện để chủ động tìm kiếm kiến thức, sắp xếp hợp lý quá
trình tự học tập, tự rèn luyện của bản thân mình. Do đó, việc ứng dụng
CNTT vào dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của

HS là tất yếu trong giai đoạn hiện nay.
Hiện nay, việc sử dụng CNTT ở nước ta đã trở nên phổ cập và mang
tính thường nhật.
Đó chính là lý do tôi chọn sáng kiến : “Ứng dụng CNTT trong việc
giảng dạy môn TNXH lớp 3”.
2. Mục đích nghiên cứu:
TNXH là môn học cung cấp cho HS những kiến thức cơ bản ban đầu
về các sự vật hiện tượng trong tự nhiên và xã hội và các mối quan hệ của


con người xảy ra xung quanh các em. Trang bị cho các em những kiến
thức cơ bản của bậc học góp phần bồi dưỡng nhân cách cho thế hệ trẻ.
Tuy nhiên, trên thực tế nhiều phụ huynh HS thậm chí là GV vẫn cho
rằng môn học này là phụ không nên chuyên tâm để ý đến, môn TNXH
thường bị cắt giảm thời lượng để giành cho các môn học chính như
Toán,Tiếng Việt. Chính vì vậy, khi dạy học GV thường không sử dụng các
PPDH linh hoạt, phù hợp với môn học, chưa áp dụng CNTT vào dạy học
để mang lại hiệu quả. Qua đó, các em HS chưa hứng thú với việc học môn
TNXH.
Vì vậy, thực hiện sáng kiến này. Tôi mong đề xuất một số bài giáo án
điện tử cùng một số biện pháp để đổi mới PPDH ứng dụng CNTT vào dạy
học môn TNXH lớp 3 nhằm góp phần nâng cao hiệu quả dạy học.
3. Thời gian và địa điểm :
- Thời gian: Từ tháng 9/2018 đến tháng 3/2019, cụ thể như sau:
Thời gian
Nội dung
Tháng 9/ 2018
- Nghiên cứu tài liệu

Tháng 10/ 2018 đến 3 / 2019


- Tìm hiểu thực trạng
Thực nghiệm theo các biện pháp đề ra
Hoàn chỉnh đề cương

Tháng 3 / 2019
Hoàn thành sáng kiến
- Địa điểm: Lớp 3C3 Trường Tiểu học Lý Tự Trọng
4. Đóng góp mới về mặt thực tiễn
- Các chuyên đề cấp tổ, cấp trường đã được thực hiện và có kết quả cao.
- Nếu ứng dụng tốt Công nghệ thông tin vào dạy học môn Tự nhiên xã hội
lớp 3 sẽ phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.Từ đó
nâng cao chất lượng dạy học.
II- PHẦN NỘI DUNG
Chương 1 :TỔNG QUAN
1. Cơ sở lý luận của đề tài:
1.1 Định hướng đổi mới phương pháp dạy học
Hiện nay, một trong những hướng đổi mới được nhiều nước chú ý là
tích cực hóa, cá thể hóa, coi con người là trung tâm của quá trình dạy học.
Tư tưởng coi HS là trung tâm không phải là đề cao hứng thú hay sở
thích cá nhân của HS, biến giờ học thành những cuộc thao diễn hay chạy


theo hứng thú của HS mà là khuynh hướng tiến bộ, lành mạnh nhằm giải
phóng năng lực sáng tạo của cá nhân HS.
Việc đổi mới PPDH thiết thực sẽ góp phần thực hiện mục tiêu giáo
dục, tạo điều kiện để cá thể hóa dạy học và khuyến khích dạy học, phát
hiện những kiến thức của bài học. Làm như thế sẽ phát triển được năng
lực và sở trường của từng HS, rèn luyện HS trở thành những người sáng
tạo.

Các PPDH truyền thống luôn là những phương pháp quan trọng
trong dạy học. Đổi mới không có nghĩa là loại bỏ các phương pháp truyền
thống mà cần bắt đầu bằng việc cải tiến để nâng cao hiệu quả và hạn chế
nhược điểm của chúng.
Đổi mới PPDH đòi hỏi người GV cần kết hợp đa dạng các PPDH và
phải thực hiện đồng bộ với quá trình đổi mới mục tiêu và nội dung giáo
dục, đổi mới đào tạo và bồi dưỡng GV, cơ sở vật chất. Đó là một quá trình
lâu dài, phải kiên trì, tránh nôn nóng, phải biết kế thừa và phát huy các
mặt tích cực của các PPDH truyền thống và tận dụng hợp lý các PPDH
mới.
1.2 Môn Tự nhiên và Xã hội và vai trò của môn TNXH trong quá trình
dạy học
a, Môn Tự nhiên xã hội:
TNXH là môn học nhằm giúp các em có được những kiến thức cơ
bản ban đầu về
- Con người và sức khỏe ( cơ thể người, cách giữ vệ sinh cơ thể và
phòng tránh bệnh tật, tai nạn.
- Một số sự vật, hiện tượng đơn giản trong tự nhiên và xã hội.
Bước đầu hình thành và phát triển những kĩ năng:
- Tự chăm sóc sức khỏe bản thân; ứng xử hợp lí trong đời sống
để phòng chống một số bệnh tật và tai nạn.
- Quan sát, nhận xét, nêu thắc mắc, đặt câu hỏi, biết cách diễn đạt
những hiểu biết của mình về các sự vật và hiện tượng đơn giản trong tự
nhiên và xã hội.
Hình thành và phát triển những thái độ và hành vi:
- Có ý thức thực hiện các quy tắc giữ vệ sinh, an toàn cho bản
thân, gia đình và cộng đồng.
- Yêu thiên nhiên, gia đình, trường học, quê hương.



b, Vai trò của môn TNXH trong quá trình dạy học
Trong chương trình giáo dục hiện nay, môn TNXH cùng với các môn
học khác có vai trò quan trọng trong việc phát triển toàn diện cho HS.
Đây là môn học có một vị trí rất quan trọng, nó là một môn học gần
gũi với các em HS. Cung cấp một số kiến thức cơ bản, ban đầu và thiết
thực về cơ thể người: HS biết cách giữ gìn vệ sinh cơ thể và phòng tránh
một số bệnh tật thông thường, biết một số sự vật, hiện tượng đơn giản
trong tự nhiên xã hội xung quanh.
Môn TNXH là môn học tích hợp kiến thức của khoa học tự nhiên và
khoa học xã hội. Tỉ trọng kiến thức khoa học tự nhiên nhiều hơn so với
kiến thức khoa học xã hội.Vì vậy, môn TNXH là môn học có tầm quan
trọng trong sự đổi mới giáo dục ở mỗi nước nói chung và ở Việt Nam nói
riêng đó là việc coi trọng thực hành và vận dụng kiến thức, quan tâm đến
năng lực tự học, tự khám phá kiến thức của HS.
Môn TNXH là môn học về môi trường tự nhiên và xã hội gần gũi,
bao quanh HS. Vì vậy có rất nhiều nguồn cung cấp kiến thức cho các em.
Do đó, không chỉ GV cung cấp tri thức cho các em lĩnh vực này mà các
em có thể thu nhận kiến thức từ nhiều nguồn khác nhau. (Lê Văn
Trưởng,“Tự nhiên xã hội và phương pháp dạy học Tự nhiên - xã hội”
Tập1. Tài liệu đào tạo giáo viên tiểu học trình độ Cao đẳng và Đại học
sư phạm. Bộ giáo dục và đào tạo - Dự án phát triển giáo viên Tiểu học
(2007) NXB GD.
1.3 Khái niệm về giáo án điện tử
Từ lâu đã có nhiều người gọi bản trình chiếu bằng Power Point là
giáo án điện tử, thực ra cách hiểu này không đúng. Giáo án theo lý thuyết
dạy học là bản thiết kế bao gồm mục tiêu, nội dung, phương pháp,
phương tiện để thực hiện một bài học. Bản trình chiếu bằng Power Point
chỉ đóng vai trò là phương tiện và trong một số PPDH thì nó cũng chứa
đựng nội dung bài học.
- Mục tiêu: xác định dựa theo phân phối chương trình, khung

chương trình của trường.
- Phương pháp: là cách thức hoạt động của thầy, của trò trong toàn bộ
bài
học.


- Phương tiện: là các thiết bị để chuyển tải các nội dung, cũng có thể
người học, người dạy tác động vào nó để lĩnh hội hoặc hình thành kiến
thức mới ở người học.
- Bản trình chiếu là bản phương tiện hiện đại có thể thay đổi cho loại
phương tiện truyền thống là phấn bảng. Trong PPDH thuyết giảng thì nội
dung của toàn bộ bài giảng có thể chứa trong nội dung chương trình
chiếu.
Vậy thế nào là giáo án điện tử? Trong thời đại CNTT hiện nay, chúng
ta được biết đến tên gọi như thương mại điện tử, thư điện tử, chính phủ
điện tử. Và trong giáo dục, nhiều người cũng bắt chước theo cách gọi đó
để gọi “giáo án điện tử”, ngoài cái tên quen thuộc là giáo án. Vậy, cách
gọi tên như thế nào cho đúng? Trước hết, chúng ta cần tìm hiểu sơ lược
khái niệm sau:
- “Giáo án”: Có thể hiểu là bản thiết kế cho tiến trình một tiết dạy
học, là bản kế hoạch mà người GV dự định sẽ thực hiện giảng dạy trên
lớp cho HS cụ thể.
- “Giáo án điện tử”: Có thể hiểu là bản thiết kế cụ thể toàn bộ kế
hoạch hoạt động dạy học của GV trên giờ lên lớp, toàn bộ hoạt động dạy
học đó đã được đa phương tiện hóa một cách chi tiết, có cấu trúc chặt chẽ
và logic được quy định bởi cấu trúc của bài học. Giáo án điện tử là một
sản phẩm của hoạt động thiết kế bài dạy được thể hiện bằng vật chất trước
khi bài dạy học được
tiến hành. Giáo án điện tử chính là bản thiết kế của bài giảng điện tử,
chính vì

vậy, xây dựng giáo án điện tử là cách gọi khác nhau cho một
hoạt động cụ thể để có được bài giảng điện tử. Trong quá trình giảng dạy của
GV nảy sinh một số vấn đề:
- Vấn đề thứ nhất hiện nay là: nhiều người dùng thuật ngữ “giáo án
điện tử” để chỉ các bài trình chiếu Powerpoint. Đó là sai lầm về thuật ngữ
và cách hiểu vì đây chỉ là tập hợp các Slide để trình bày về vấn đề GV
muốn truyền đạt, còn hệ thống câu hỏi, những gợi ý, dẫn dắt… thường
không thể hiện ra ở các slide. Thực tế, các bài giảng kiểu này có thể soạn
trên Powerpoint, Violet, Flash, được giảng dạy qua máy tính và được coi
như là một thiết bị dạy học điện tử.


- Vấn đề thứ hai: nhiều người lẫn lộn khái niệm giáo án (lesson plan)
với bài giảng điện tử hoặc coi bản trình chiếu Powerpoint là giáo án. Cần
thống nhất rằng, khi dùng bài giảng điện tử, GV phải có giáo án (kịch
bản) chi tiết kèm theo, nêu rõ phần nội dung bài giảng nào cần dùng thiết
bị dạy học điện tử này, dùng như thế nào...
- Vấn đề thứ ba: khi sử dụng bài giảng điện tử và trình chiếu trên
lớp, nhiều GV không viết bảng. Cần nhấn mạnh rằng bài giảng điện tử
không phải là một công cụ thay thế “bảng đen phấn trắng” mà là cái đóng
vai trò định hướng trong tất cả các hoạt động trên lớp, minh họa cho bài
giảng của mình.
Xét về mặt hình thức, giáo án điện tử có thể là trang văn bản hay một
file với các đường liên kết trực tuyến. Giáo án điện tử không thay thế
hoàn toàn cho phương pháp giảng dạy truyền thống, nhưng yếu tố trực
quan có khả năng hỗ trợ cho những bài giảng được mở rộng và trở nên
sinh động, hấp dẫn hơn.
1.3.1 Vai trò của giáo án điện tử trong quá trình dạy học
- Tạo không khí hứng khởi cho học sinh.
- Tiết kiệm thời gian, công sức cho giáo viên.

- Kích thích khả năng sáng tạo của người soạn, giảng.
- Giúp giáo viên trình bày được mạch lạc, đầy đủ chỉ bằng một cái
nhấp chuột.
1.3.2 Hạn chế của giáo án điện tử
- Những quan niệm sai lệch về giáo án điện tử
- Những hạn chế của giáo án điện tử
1.3.3 Nguyên tắc khi sử dụng giáo án điện tử
1.3.3.1 Sử dụng màu sắc trong các trang trình chiếu
1.3.3.2 Chữ viết trong trang (slide) trình chiếu
1.3.3.4 Việc sử dụng các hiệu ứng (Effect) trên trang trình chiếu
1.3.3.5 Thao tác của giáo viên khi sử dụng đèn chiếu
1.3.3.6 Trò chơi trong giáo án điện tử
1.3.3.7 Màn hình
1.3.4 Những tiện ích khi sử dụng giáo án điện tử


1.3.5 Lưu ý cần thiết khi thiết kế giáo án điện tử
1.4. Phần mềm thiết kế giáo án điện tử phục vụ quá trình dạy học
1.4.1

Microsoft Word

1.4.2

Microsoft Power Point

1.4.3. Phần mềm Violet:
1.5. Vai trò của ứng dụng CNTT trong dạy học
1.6. Vai trò của ứng dụng CNTT trong dạy học TNXH ở Tiểu học
2. Cơ sở thực tiễn của việc ứng dụng CNTT vào dạy học môn TNXH

2.1. Đặc điểm của HS khi học môn TNXH
HS tiểu học có trí thông minh, nhanh nhạy, có óc tưởng tượng phong
phú. Đó là tiền đề cho việc đổi mới PPDH ở tiểu học nói chung và bộ môn
TNXH nói riêng.
HS tiểu học ưa hiểu biết, khám phá những cái mới, tự nhiên, xã hội,
con người xung quanh.
HS tiểu học tư duy cụ thể còn chiếm ưu thế, các PPDH truyền thống
làm cho HS dễ mệt mỏi, chán nản. Giờ học diễn ra căng thẳng, ảnh hưởng
đến việc tiếp thu bài của HS.
Do vậy, muốn có giờ học sôi nổi, hiệu quả thì GV phải thay đổi hình
thức dạy học, lựa chọn kết hợp các PPDH truyền thống và hiện đại để
nâng cao chất lượng giờ dạy. Có như vậy HS mới có hứng thú học tập và
giờ học mới đạt hiệu quả cao.
2.2. Thực trạng vấn đề dạy học môn TNXH hiện nay
Môn TNXH là môn học tích hợp nhận thức của khoa học tự nhiên
và khoa học xã hội. Vì vậy, PPDH phải thể hiện được các phương pháp
đặc trưng của các môn khoa học thực nghiệm.
Song thực tế, người GV chưa coi trọng môn học này. Đặc biệt là
thiếu đồ dùng dạy học của môn học trầm trọng. Tình trạng dạy “chay”còn
phổ biến, một số GV chưa ý thức được rằng dạy học theo hướng tích cực
là tăng cường hoạt động học tập của cá nhân, kích thích động cơ bên trong
của người học, làm cho người học tích cực chủ động, tự tin tìm kiếm khả


năng suy lí, óc phê phán ra kiến thức mới. Do vậy, HS rơi vào thế thụ
động nhận thức.
2.3. Hoạt động thực tế của giáo viên về việc “Ứng dụng CNTT vào
dạy học môn TNXH lớp 3”
Để hiểu vấn đề này, tôi đã tiến hành dự giờ và tham khảo giáo án của
GV dạy môn Tự nhiên Xã hội lớp 3.

Qua tìm hiểu tôi thấy rằng, GV tiểu học đã có nhiều cố gắng trong
việc ứng dụng CNTT vào quá trình giảng dạy của mình. Song vẫn còn gặp
nhiều khó khăn và hạn chế. Cụ thể:
- Nhiều tiết dạy còn lạm dụng hiệu ứng CNTT. Một số giáo viên có
sử dụng CNTT nhưng giờ giảng cũng chỉ là dạy theo hướng truyền thụ
một chiều, áp đặt kiến thức theo hình thức đọc chép, ít tính gợi mở cho
học sinh.
- Việc ứng dụng CNTT trong kiểm tra đánh giá xếp loại học sinh còn
hết sức khiêm tốn. “Kết quả khảo sát cho thấy đa số giáo viên đều tâm
huyết, mong muốn ứng dụng CNTT để đổi mới, nhưng lại lúng túng
không biết nên ứng dụng cái gì, ứng dụng như thế nào và bắt đầu từ đâu”.
- Thực tế cho thấy, các giáo viên lớn tuổi chỉ mới tiếp cận sử dụng
CNTT, tự nghiên cứu học tập sử dụng máy vi tính chứ chưa được đào tạo
khi còn học ở trường sư phạm. Giáo viên trẻ sử dụng thành thạo thiết bị
CNTT nhưng do thiếu kinh nghiệm giảng dạy nên chưa tạo được sự đổi
mới phương pháp dạy-học.
- Việc ứng dụng CNTT vào dạy học đòi hỏi GV phải linh hoạt, uyển
chuyển, làm chủ thời gian giảng dạy để tránh tình trạng cháy giáo án.
Từ kết quả trên, tôi đưa ra một số nhận xét:
- GV tiểu học đã có sự quan tâm đến ứng dụng CNTT trong quá
trình dạy học.
- GV bước đầu đã có những kiến thức, kĩ năng trong việc ứng dụng
CNTT vào hoạt động giảng dạy. Tuy nhiên vẫn gặp một số khó khăn, hạn
chế.
Chương 2: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU


1. Thực trạng của vấn đề:
1.1 Thuận lợi
- Môi trường đa phượng tiện kết hợp với những hình ảnh, video,

camera… với âm thanh, văn bản, biểu đồ.. được trình bày qua máy tính theo
kịch bản vạch sẵn nhằm đạt hiệu quả tối đa qua một quá trình học đa giác quan
- Kĩ thuật đồ hoạ nâng cao có thể mô phỏng nhiều quá trình, hiện tượng
trong tự nhiên, xã hội, con người.
- Công nghệ tri thức nối tiếp trí thông minh của con người, thực hiện
những công việc mang tính trí tuệ cao của các chuyên gia lành nghề trên
những lĩnh vực khác nhau.
- Những ngân hàng dữ liệu khổng lồ và đa dạng được kết nối với nhau và
với người sử dụng qua những mạng máy tính kể cả Internet … có thể được
khai thác để tạo nên những điều kiện cực kì thuận lợi và nhiều khi không thể
thiếu để học sinh học tập trong hoạt động và bằng hoạt động tự giác, tích cực
và sáng tạo, được thực hiện độc lập hoặc trong giao lưu.
- Những thí nghiệm, tài liệu được cung cấp bằng nhiều kênh: kênh hình,
kênh chữ, âm thanh sống động làm cho học sinh dễ thấy, dễ tiếp thu và bằng
suy luận có lý, học sinh có thể có những dự đoán về các tính chất, những quy
luật mới. Đây là một công dụng lớn của công nghệ thông tin và truyền thông
trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học. Có thể khẳng định rằng, môi
trường công nghệ thông tin và truyền thông chắc chắn sẽ có tác động tích cực
tới sự phát triển trí tuệ của học sinh và điều này làm nảy sinh những lý thuyết
học tập mới. (thuviengiaoan.vn)
1.2. Khó khăn, thách thức
Theo nhận định của một số chuyên gia, thì việc đưa công nghệ thông
tin và truyền thông ứng dụng vào lĩnh vực giáo dục và đào tạo bước đầu
đã đạt được những kết quả khả quan. Tuy nhiên, những gì đã đạt được vẫn
còn hết sức khiêm tốn. Khó khăn, vướng mắc và những thách thức vẫn
còn ở phía trước bởi những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn. Chẳng hạn:
- Điều kiện cơ sở vật chất để phục vụ cho việc giảng dạy bằng giáo
án điện tử còn hạn chế. Bộ Giáo dục phát động chương trình ứng dụng
công nghệ thông tin vào hoạt động giáo dục, giảng dạy nhưng hiện nay
điều kiện vật lực chưa cho phép chủ thể giáo dục tự do lựa chọn giảng

dạy: thiếu máy Projector, màn hình, phòng học…Thậm chí bảng đen cũng


xuống cấp. Và vô hình chung đây cũng là một hạn chế khiến giáo viên
không tích cực học hỏi và sử dụng giáo án điện tử.
- Một số giáo viên lạm dụng giáo án điện tử trong toàn bộ chương trình
giảng dạy là không nên. Vì không phải bài học nào cũng sử dụng được
giáo án điện tử. Mà vai trò của phấn trắng, bảng đen rất quan trọng trong
việc thể hiện ý tưởng.
- Bên cạnh đó, kiến thức, kỹ năng về công nghệ thông tin ở một số
giáo viên vẫn còn hạn chế, chưa đủ vượt ngưỡng để đam mê và sáng tạo,
thậm chí còn né tránh. Mặc khác, phương pháp dạy học cũ vẫn còn như
một lối mòn khó thay đổi, sự uy quyền, áp đặt vẫn chưa thể xoá được
trong một thời gian tới. Việc dạy học tương tác giữa người - máy, dạy theo
nhóm, dạy phương pháp tư duy sáng tạo cho học sinh, cũng như dạy học
sinh cách biết, cách làm, cách chung sống và cách tự khẳng định mình vẫn
còn mới mẻ đối với giáo viên và đòi hỏi giáo viên phải kết hợp hài hòa
các phương pháp dạy. Điều đó làm cho CNTT, dù đã được đưa vào quá
trình dạy học, vẫn chưa thể phát huy tính trọn vẹn tích cực và tính hiệu
quả của nó.
- Việc đánh giá một tiết dạy có ứng dụng công nghệ thông tin còn
lúng túng, chưa xác định hướng ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy
học. Chính sách, cơ chế quản lý còn nhiều bất cập, chưa tạo được sự đồng
bộ trong thực hiện.
- Việc ứng dụng CNTT để đổi mới phương pháp dạy học chưa được
nghiên cứu kỹ, dẫn đến việc ứng dụng nó không đúng chỗ, không đúng
lúc, nhiều khi lạm dụng nó. Nhiều giáo viên vẫn còn quá lạm dụng máy
chiếu để thay cho tấm bảng đen, biến “đọc- chép” thành “chiếu-chép”.
Thời gian qua, nhiều giáo viên vẫn còn quan niệm đồng nhất giữa “ứng
dụng công nghệ thông tin vào dạy học” với giáo án điện tử. Do đó, khi

soạn một bài giảng bằng Powerpoint, giáo viên đưa tất cả những công
việc của mình (ổn định lớp, kiểm tra bài cũ, câu hỏi kiểm tra bài cũ, dặn
dò…) và toàn bộ nội dung bài giảng lên các Slide để “chiếu cho học sinh
chép”. Điều đó ảnh hưởng rất nhiều đến việc học tập của HS vì công nghệ
thông tin không phải là một giáo án, nó chỉ đóng vai trò hỗ trợ cho quá
trình giảng dạy và giúp giáo viên cung cấp cho học sinh nhiều nguồn tư
liệu khác nhau về một sự vật, hiện tượng như: kênh chữ, kênh hình, phim


tư liệu…để cho học sinh tự tìm ra tri thức cho mình. Từ đó, phát huy tính
tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh trong học tập.
Chính vì tính ưu việt khi soạn thảo giáo án điện tử dễ trao đổi, sao chép,
nên làm cho một số giáo viên không tích cực soạn giáo án mà trở thành
người “đạo giáo án” bằng cách copy của đồng nghiệp rồi chỉnh sửa thêm
thắt một cách hời hợt.
- Một số giáo viên đôi khi chủ quan vì tin tưởng vào giáo án mà cá
nhân đã chuẩn bị nên khi xảy ra hiện tượng cúp điện lại không xử lý được
tình huống, thậm chí bị động.
2. Các giải pháp
Theo văn bản chỉ đạo của Đảng và nhà nước nhất là chỉ thị 58CT/UW của Bộ Chính Trị ngày 07 tháng 10 năm 2000 về việc đẩy mạnh ứng
dụng CNTT phục vụ sự nghiệp Công nghiệp hóa và Hiện đại hóa. Ban giám
hiệu đã liên tục tổ chức lớp tập huấn để nâng cao trình độ Tin học cho các
đồng chí GV. Chỉ hơn 1 năm thực hiện, tôi đã có thể ứng dụng phần mềm
Powerpoint và Violet vào thiết kế giáo án điện tử.
Ứng dụng CNTT vào giảng dạy nhằm đổi mới phương pháp dạy học
môn TNXH, tạo điều kiện thuận lợi cho GV trong các giờ giảng dạy ở trên lớp
cũng như chuẩn bị bài ở nhà. Với những hình ảnh, âm thanh sinh động, HS là
chủ thể của giờ học.Các hình thức hoạt động đơn giản như bấm phím, di
chuyển và kích chuột... để lựa chọn và ra các lệnh theo chủ định, HS sẽ rất
hứng thú khi thấy yêu cầu của mình đề ra được thực hiện liền ngay tức thời,

điều này có tác dụng kích thích hứng thú rất mạnh mẽ trong hoạt động tự học
Tôi ứng dụng CNTT vào giảng dạy TNXH ở một số mảng như sau:
2.1. Ứng dụng minh họa.
Trong năm học này, tôi đã không ngừng học tập và phấn đấu để nâng
cao chất lượng dạy và học. Nội dung bài dạy được thiết kế trên nền Powerpoint
sinh động và đẹp mắt, hình ảnh minh họa phù hợp, phong phú kết hợp với
những âm thanh, bài hát. Giờ học của tôi đã thực sự trở lên hiệu quả và thu hút
được sự tập trung chú ý của các em học sinh. Tôi cũng xin đưa vào SKKN này


để minh chứng cho việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy bộ môn TNXH lớp 3
của tôi. Bài Thực vật- SGK/
2.2. Ứng dụng vào phần bài tập.
Theo M.A.Đanilov “Kiến thức sẽ được nắm vững thật sự, nếu học sinh có
thể vận dụng thành thạo chúng hoàn thành vào những bài tập lí thuyết hay
thực hành”. Bài tập nhằm ôn tập những kiến thức đã học, củng cố kiến
thức cơ bản của bài giảng. Một đơn vị kiến thức mới, học sinh chỉ có thể
ghi nhớ khi được luyện tập nhiều lần.
Một điểm mạnh đáng kể của Violet so với các phần mềm thiết kế bài
giảng khác là khả năng tạo ra các bài tập rất phong phú, sinh động và đặc
biệt là rất đơn giản. Ví dụ trong Powerpoint ta phải mất cả buổi mới có
thể tạo ra 1 bài tập trắc nghiệm hoặc bài tập ô chữ thì đối với Violet chỉ
cần vài phút là đã làm xong. Những bài tập này cũng đặc biệt rất thích
hợp trong việc củng cố kiến thức trong môn học TNXH. Chính vì vậy tôi
thường sử dụng phần mềm Violet để thiết kế phần bài tập cho bài giảng
TNXH của mình.
2.3. Ứng dụng vào phần trò chơi.
Bài tập dạng ô chữ cũng được thiết kế trên nền của Violet rất nhanh
chóng và tiện lợi. Tuy nhiên về giao diện thì Powerpoint lại chiếm ưu thế
hơn ở tính thẩm mỹ và độ tương tác. Do đó tôi thường thiết kế bài tập ô

chữ trên nền Powerpoint. Đây là một dạng bài tập thú vị. Nó không những
tổng hợp được những kiến thức trong giờ học mà còn gây hứng thú cho
HS rất nhiều. Tôi không ngần ngại trong việc biến đổi dạng bài tập này


sang hình thức của một trò chơi ô chữ để giờ học thêm sôi nổi, hào hứng.
3. Kết quả
3.1. Đối với giáo viên
3.2. Đối với học sinh
4. Rút ra bài học kinh nghiệm
4.1 Bài học chung
4.2 Bài học riêng
4.3. Bài học thành công
4.4 Bài học chưa thành công
III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ

IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Phương Nga (chủ biên). Lê Thu Dinh - Đoàn Thị My - Nguyễn
Tuyết Nga. “ SGK môn TNXH lớp 3”. NXB GD. (2003).
2. Chu Vĩnh Quyên, “Phương tiện kỹ thuật dạy học và ứng dụng công
nghệ thông tin trong dạy học ở Tiểu học”, NXB Hà Nội. (2007).
3. Lê Văn Trưởng, “Tự nhiên xã hội và phương pháp dạy học Tự nhiên
- xã hội” Tập 1. Tài liệu đào tạo giáo viên tiểu học trình độ Cao đẳng và
Đại học sư phạm. Bộ giáo dục và đào tạo - Dự án phát triển giáo viên Tiểu
học, NXB GD. (2007).
4. “Tự nhiên - xã hội và phương pháp dạy học Tự nhiên - xã hội”.Tập
2: Tài liệu đào tạo giáo viên tiểu học trình độ Cao đẳng và Đại học sư phạm.
Bộ giáo dục và đào tạo - Dự án phát triển giáo viên Tiểu học. NXB GD.
(2007).


5. Trịnh Đình Thắng, “Phương tiện kỹ thuật dạy học và ứng dụng công
nghệ thông tin trong dạy học ở Tiểu học”, NXB Hà Nội. (2007).
6. Các tài liệu tham khảo trên Internet.


V. Nhận xét của BGH nhà trường:
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
........................................


VI. Nhận xét của hội đồng chấm sáng kiến kinh nghiệm: ( Xếp loại A,B.C,
không xếp loại ).
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
................................................................
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG
( Ký tên, đóng dấu)

NGƯỜI VIẾT
( Ký ghi rõ họ và


tên )

Trần Thị Bích
Nguyệt




2. Giải pháp ứng dụng CNTT vào dạy học môn TNXH
Xuất phát từ thực trạng trên, chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng muốn
ứng dụng CNTT một cách hiệu quả vào dạy học tích cực, trước tiên người
thầy phải chịu khó tìm hiểu, học hỏi đồng nghiệp để nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ, trình độ tin học, đồng thời phải biết sáng tạo trong
phương pháp giảng dạy nhằm tạo sự hấp dẫn cho học sinh.
2.1 Về phía nhà trường
- Đẩy mạnh tuyên truyền cho GV thấy rõ hiệu quả và yêu cầu mang
tính tất yếu của ứng dụng CNTT trong đổi mới phương pháp giảng dạy
thông qua việc triển khai các văn bản chỉ đạo của Bộ, ngành, thông qua
các buổi sinh hoạt chuyên môn tổ khối, hội thảo chuyên đề và qua việc
triển khai các cuộc thi có ứng dụng CNTT do ngành tổ chức.
- Phát động sâu rộng thành phong trào và đề ra yêu cầu cụ thể về số
tiết ứng dụng CNTT - đặc biệt là đối với đổi mới phương pháp dạy học.
Để mỗi GV qua áp dụng thấy được hiệu quả và sự cần thiết của việc ứng
dụng CNTT trong giảng dạy.
- Tổ chức các lớp bồi dưỡng kỹ năng sử dụng máy tính và các phần
mềm Tin học với giảng viên là giáo viên CNTT và những GV có kỹ năng
tốt về Tin học của trường, theo hình thức trao đổi giúp đỡ lẫn nhau, tập
trung chủ yếu vào những kỹ năng mà GV cần sử dụng trong quá trình
soạn giảng hằng ngày như lấy thông tin, các bước soạn một bài trình

chiếu, các phần mềm thông dụng, cách chuyển đổi các loại phông chữ,
cách sử dụng một số phương tiện như máy chiếu, máy quay phim, chụp
ảnh, cách thiết kế bài kiểm tra,...
-Tổ chức sinh hoạt chuyên môn, chuyên đề để trao đổi về kinh
nghiệm ứng dụng CNTT trong giảng dạy.
- Định hướng cho GV luôn có ý thức sưu tầm tài liệu hướng dẫn
ứng dụng CNTT hiệu quả, bộ phận chuyên môn nghiên cứu chọn lọc
photo phát cho giáo viên như: tài liệu hướng dẫn soạn giáo án powerpoint,
hướng dẫn sử dụng máy chiếu, hướng dẫn thiết kế bài giảng điện tử eLearning,…


- Bố trí phòng Hội đồng, phòng thư viện đều có kết nối Internet để
cán bộ, GV được truy cập Internet thường xuyên.
- Lắp đặt thêm phòng học chức năng để giáo viên dễ dàng trong
việc đăng kí và sử dụng.
1.2.2.2 Đối với giáo viên
- Tự xây dựng ngân hàng tư liệu (phim, ảnh…) phục vụ cho các tiết
dạy ứng dụng CNTT.
- Khi thiết kế bài giảng điện tử cần chuẩn bị trước kịch bản, tư liệu
(Video, hình ảnh), chọn giải pháp cho sử dụng công nghệ, sau đó mới bắt
tay vào soạn giảng.

- Không lạm dụng công nghệ nếu chúng không tác động tích cực
đến quá trình dạy học và sự phát triển của học sinh.
- Tích cực tham gia các cuộc thi ứng dụng CNTT do ngành tổ chức.
Bởi vì, thông qua đó giáo viên sẽ rèn luyện được các kỹ năng, có thêm
nhiều kinh nghiệm từ học hỏi đồng nghiệp.
Ngày nay, CNTT đã len lỏi vào từng góc cạnh của đời sống xã hội.
Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động giảng dạy là cần thiết
và đem lại hiệu quả cao. Song sử dụng nó và làm chủ, kiểm soát được giờ

giảng đòi hỏi người GV phải cố gắng nhiều trong việc trang bị tri thức, kỹ
năng, cùng đó là một tấm lòng yêu nghề mang những suy nghĩ, trăn trở để
mang đến cho học sinh những giờ học hứng thú, hiệu quả nhất, mà ở đó là
việc sử dụng CNTT một cách hiệu quả, hài hòa trong hoạt động giảng
dạy. Tuy nhiên để đạt được những điều đó, không chỉ sự cố gắng của GV
mà cần phải có sự đồng thuận của các cấp lãnh đạo, sẵn sàng đầu tư kinh
phí để ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học. Không thể phủ nhận
vai trò, tính ưu việt của CNTT trong hoạt động giảng dạy nhưng cần phải
kết hợp hài hòa “phấn trắng, bảng đen”. GV cần phải biết lúc nào, nội
dung nào, đối tượng nào cần sử dụng giáo án ứng dụng CNTT.



×