Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Bài thu hoạch lớp đào tạo Đề án 1956 mưới nhất, hay nhất hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.49 KB, 18 trang )

- Họ và Tên:
- Sinh năm:
- Đơn vị công tác:
- Lớp:

ĐHN
1977
Ủy ban Nhân dân ………………………………..
Đào tạo, bồi dưỡng Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND, Chủ
tịch, Phó Chủ tịch UBND xã.

BÀI THU HOẠCH
LỚP ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CHỦ TỊCH, PHÓ CHỦ TỊCH HĐND,
CHỦ TỊCH, PHÓ CHỦ TỊCH UBND XÃ
(Sóc Trăng, ngày …………..)
----------CHUYÊN ĐỀ:

ĐỒNG CHÍ HÃY CHO BIẾT VAI TRÒ CỦA HỆ THỐNG

CHÍNH TRỊ TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN. Ở ĐỊA PHƯƠNG CỦA ĐỒNG CHÍ VAI TRÒ
CỦA TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ NÀO QUAN TRỌNG NHẤT TRONG SỰ
NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG
THÔN. VÌ SAO?
Hệ thống chính trị có vị trí vô cùng quan trọng, là nòng cốt trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) nông nghiệp và nông thôn.
I- Vai trò của hệ thống chính trị ở xã bao gồm:
1- Vai trò của Đảng ủy cơ sở xã và các tổ chức chính trị - xã hội của xã
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
1.1 Vai trò của Đảng ủy cớ sở xã trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn


Tổ chức cơ sở Đảng ở xã là nền tảng của Đảng ở xã. Với vị trí là hạt nhân lãnh
đạo hệ thống chính ở xã, trong những năm qua, tổ chức cơ sở Đảng ở xã luôn khẳng
định được vai trò quan trọng của mình trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
(CNH, HĐH) nông nghiệp, nông thôn. Tại Nghị quyết số 17-NQ/TW ngày
18/3/2002 của Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 5 khóa IX về “Đổi mới
và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở ở xã, phường, thị trấn” (sau đây gọi


2

tắt là Nghị quyết số 17) đã đưa ra phương hướng về tiếp tục tăng cường hệ thống
chính trị ở nông thôn, trên cơ sở xác định rõ, rành mạch về chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn giữa các bộ phận trong hệ thống chính trị trên địa bàn nông thôn, đồng
thời xây dựng mối quan hệ đoàn kết, phối hợp giữa các tổ chức dưới sự lãnh đạo của
đảng bộ, chi bộ tập trung cho nhiệm vụ phát triển toàn diện nông nghiệp, nông thôn
theo hướng CNH, HĐH. Theo tinh thần của Nghị quyết số 17, vai trò của tổ chức cơ
sở Đảng ở xã thể hiện cụ thể :
- Đảng bộ, chi bộ cơ sở là hạt nhân lãnh đạo toàn diện các mặt công tác ở cơ
sở, cần nắm vững nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then
chốt, chăm lo xây dựng chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân, bảo đảm sự
phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị hướng vào phục vụ nhân
dân, đưa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước đến
mọi người dân và tổ chức thực hiện tốt ở cơ sở, phản ánh và giải đáp mọi tâm tư
nguyện vọng của nhân dân, khơi dậy trí tuệ và nguồn lực của dân, không ngừng nâng
cao trình độ dân sinh, dân trí, dân chủ ở cơ sở.
- Công tác phát triển đảng viên mới nhằm vào những người có lý tưởng cách
mạng, lao động giỏi (nhất là nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi), có đạo đức, lối
sống lành mạnh, có uy tín trong quần chúng và tích cực hoạt động trong hệ thống
chính trị, có vai trò nòng cốt trong các đoàn thể nhân dân ở cơ sở. Đối với những
đảng viên không chịu khó làm việc, lười học tập, đã được tập thể giúp đỡ mà không

tiến bộ thì vận động họ ra khỏi Đảng. Từng Đảng bộ, Chi bộ cơ sở phải phấn đấu
không còn đảng viên yếu kém.
- Đổi mới việc ra nghị quyết của Đảng bộ, Chi bộ, của cấp uỷ Đảng: Đối với
những vấn đề lớn, quan hệ tới cuộc sống và quyền lợi của đông đảo nhân dân địa
phương, đòi hỏi sự phối hợp của cả hệ thống chính trị ở cơ sở, Đảng bộ, Chi bộ và
Cấp uỷ Đảng đề ra chủ trương và các giải pháp có tính định hướng và phân công,
giao trách nhiệm cho các tổ chức trong hệ thống chính trị đề ra biện pháp và tổ chức
thực hiện theo quyền hạn, trách nhiệm của từng tổ chức. Những chủ trương công tác


3

thuộc thẩm quyền quyết định của chính quyền và đoàn thể thì chính quyền và đoàn
thể chủ động đề xuất, cấp uỷ đảng bàn và có ý kiến về những nội dung quan trọng.
- Xây dựng và thực hiện quy chế làm việc giữa Bí thư cấp uỷ với Chủ tịch Hội
đồng nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và
những người đứng đầu các đoàn thể nhân dân để bàn và giải quyết kịp thời những
công việc quan trọng và bức xúc trên địa bàn, bảo đảm cho cấp uỷ đảng quán xuyến
được các mặt công tác ở xã.
- Đảng bộ, Chi bộ và Cấp uỷ đảng chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ gồm
nhiều thế hệ bổ sung, kế tiếp nhau thông qua việc rèn luyện đội ngũ đảng viên, đồng
thời phát hiện và bồi dưỡng những người có tài, có đức trong dân để đảm đương các
vị trí công tác trong hệ thống chính trị. Dựa vào dân và thông qua hoạt động thực
tiễn ở cơ sở để phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, kiểm tra cán bộ.
- Tăng cường công tác kiểm tra việc chấp hành nghị quyết của Đảng bộ, Đảng
uỷ; kiểm tra công tác, đồng thời kiểm tra tư cách đảng viên. Chú trọng tìm hiểu, lắng
nghe ý kiến nhận xét, đánh giá của quần chúng đối với đảng viên và tổ chức Đảng
thông qua việc thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở cơ sở. Hàng năm, Bí thư cấp uỷ, Chủ
tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tự phê bình trước đại diện của
nhân dân.

Theo tinh thần trên, Ban Bí thư ban hành quy chế và hướng dẫn cho các tổ
chức Đảng ở xã thực hiện phù hợp với điều kiện thực tế.
- Củng cố, nâng cao vai trò của hệ thống chính trị cơ sở, nâng cao trình độ mọi
mặt cho đảng viên, cán bộ, công chức cơ sở, tổ chức cơ sở đảng ở nông thôn, đi đôi
với đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của chi bộ, đảng bộ và chính quyền
cơ sở, Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân ở nông thôn hướng vào phục vụ
dân, sát với dân, được dân tin cậy, thực sự là hạt nhân lãnh đạo và toàn diện trên địa
bàn nông thôn. Tập trung chỉ đạo thực hiện các mặt công việc chính như:
+ Làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, khơi dậy quyết tâm vượt qua
khó khăn vươn lên xây dựng cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn ở mỗi địa phương.


4

+ Cụ thể hóa các chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước trong lĩnh
vực nông nghiệp, nông thôn và thể hiện thành kế hoạch, chương trình hoạt động cụ
thể của từng cấp ủy, chính quyền cơ sở.
Qua khảo sát tại các địa bàn dân tộc miền núi, đa số những người được hỏi của các
dân tộc thiểu số đều chưa biết nhiều về các chủ trương, chính sách quan trọng của Đảng và
Nhà nước đối với phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội mà hằng ngày liên quan đến gia đình
và bản thân họ. Một trong những nguyên nhân quan trọng của thực trạng này là cách thức
tuyên truyền, phổ biến chủ trương, chính sách của địa phương còn chưa hiệu quả. Vì vậy,
vai trò của tổ chức cơ sở Đảng trong việc tuyên truyền, giáo dục và triển khai chủ trương,
chính sách càng đặc biệt quan trọng:
+ Tổ chức xây dựng và thực hiện có chất lượng quy hoạch, phát triển cơ sở hạ
tầng, dịch vụ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn.
+ Tổ chức công tác quản lý nhà nước về các hoạt động sản xuất nông nghiệp,
phát triển nông thôn, quản lý lao động, dân cư, thực hiện xóa đói giảm nghèo, nâng
cao thu nhập và đời sống của nhân dân.
+ Tổ chức phát triển y tế, giáo dục, văn hóa, xây dựng nếp sống mới, phòng

chống tệ nạn và gìn giữ trật tự xã hội.
+ Bảo đảm ổn định chính trị trên địa bàn nông thôn.
1.2 Vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
Phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn là chiến lược lâu dài. Để đạt được
các mục tiêu đã được đề ra nhằm tạo sự thay đổi mạnh mẽ ở khu vực này là nhiệm
vụ rất lớn, tác động đến hầu hết các lĩnh vực kinh tế - văn hóa xã hội của đất nước.
Do vậy cần có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị. Các đoàn thể chính trị cần bám
sát chương trình hành động thực hiện đề án của cấp ủy các cấp để xây dựng chương
trình công tác phù hợp.
a) Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã


5

Ủy ban Mặt trận tổ quốc xã có vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống chính
trị ở cơ sở, có vai trò đoàn kết nhân dân, chăm lo lợi ích của các thành viên, thực
hiện dân chủ và đổi mới xã hội, thực thi quyền và nghĩa vụ của công dân, thắt chặt
mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Với những yêu cầu, nhiệm vụ của quá trình CNH, HĐH, ý thức được vai trò
của mình, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã đã có những nội dung hoạt động phù hợp,
phát động được những phong trào tích cực sản xuất, xóa đói giảm nghèo, xây dựng
nông thôn. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã có vai trò quan trọng trong việc phối hợp với
các tổ chức Đảng và chính quyền cơ sở tham gia tích cực thực hiện các nhiệm vụ về
phát triển nông nghiệp, nông thôn; giải quyết những vấn đề cụ thể để phát triển kinh
tế - xã hội như chuyển đổi cơ cấu kinh tế, vấn đề vay vốn, giống và áp dụng khoa
học, kỹ thuật, bảo vệ môi trường, tiêu thụ sản phẩm; tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận
động “Toàn dân xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” đáp ứng với những yêu
cầu mới của thực tiễn. Bên cạnh đó, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã cùng với chính
quyền cơ sở phát động một cuộc vận động mới về kinh tế: “Toàn dân thi đua làm

kinh tế giỏi, từng nhà làm giàu cho mình, cho cộng đồng cơ sở và cho đất nước”.
Cuộc vận động rộng lớn về kinh tế này liên kết và phát huy các cuộc vận động của
từng đoàn thể đang tiến hành về tổ chức làm ăn, cải thiện đời sống.
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã có vai trò chỉ đạo hoạt động của Ban Thanh tra
nhân dân, giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật, việc sử dụng đất đai, nhà
cửa, nguồn vốn... góp phần tăng cường công tác quản lý. Một số nơi, Ủy ban Mặt
trận Tổ quốc ở xã đã tham gia có kết quả vào việc giám sát thực hiện các chính sách
xã hội, các chương trình, kế hoạch, dự án về đầu tư và phát triển kinh tế xã hội, nhất
là những dự án, chương trình, kế hoạch ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của
nhân dân. Gần đây Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã đã tổ chức việc lấy phiếu tín nhiệm
đối với một số chức danh cán bộ chủ chốt ở xã (Chủ tịch HĐND và UBND, Trưởng
thôn) và công bố công khai kết quả bỏ phiếu tín nhiệm, kiến nghị miễn nhiệm những


6

người không đủ 50% số phiếu tín nhiệm, đã có tác dụng tốt đối với việc phát huy dân
chủ, xây dựng chính quyền cơ sở.
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã đã phối hợp với chính quyền cải tiến nội dung và
quy trình tiếp dân, xử lý đơn, thư khiếu nại, tố cáo và bước đầu phối hợp với chính
quyền triển khai xây dựng và thực hiện Pháp lệnh dân chủ xã, phường và thị trấn
nhằm thực hiện quyền dân chủ trực tiếp của dân, góp phần giữ vững ổn định chính
trị - xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội của đất nước.
b) Hội Nông dân
Hội Nông dân là tổ chức chính trị - xã hội rộng rãi của giai cấp nông dân của
cả nước, được tổ chức từ Trung ương đến địa phương. Hội Nông dân Việt Nam đã
được Đảng, Nhà nước quan tâm lãnh đạo và tạo điều kiện để không ngừng lớn mạnh
cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đặc biệt từ khi có chỉ thị số 59-CT/TW ngày 15
tháng 2 năm 2000 của Bộ Chính trị về ”Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với

Hội Nông dân Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn” và Chỉ thị số 26-CT/TTg ngày 9/10/2001 của Thủ tướng Chính phủ về ”
Tạo điều kiện để Hội Nông dân các cấp tham gia giải quyết khiếu nại, tố cáo của Hội
Nông dân”, phong trào của Hội ở xã đã phát triển mạnh mẽ và có ý nghĩa thiết thực.
Trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, Hội Nông dân ở xã đã kịp thời
có những hình thức tổ chức và hoạt động phù hợp, thể hiện là lực lượng hùng hậu
không chỉ trong đấu tranh giải phóng dân tộc mà cả trong đấu tranh chống đói,
nghèo, lạc hậu. Hội đã thực sự trở thành “chỗ dựa” của bà con nông dân và chính
quyền cơ sở, đã làm tốt chức năng đại diện hợp pháp của nông dân. Hội Nông dân đã
phối hợp với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tín chấp cho nông dân
vay vốn phát triển kinh tế; vận động nông dân đoàn kết, tương trợ giúp nhau sản xuất
kinh doanh; tham gia phong trào thi đua xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn và đã
đạt được kết quả to lớn. Hội đã phối hợp với các cơ quan nhà nước mở cơ sở đào tạo,
bồi dưỡng giúp nông dân học nghề với nhiều phương thức khác nhau, dạy nghề tập


7

trung tại địa phương, làng, xã... cho nông dân, nhất là đối với Hội Nông dân ở vùng
sâu vùng xa dân tộc thiểu số để họ có thể phát triển mở mang sản xuất nông nghiệp,
tham gia các hoạt động kinh tế, thương mại, hòa nhập vào thị trường. Hội Nông dân
ở xã đã tích cực phối hợp cùng với các cấp chính quyền, các ngành chức năng phổ
biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; tham gia
thực hiện hiệp thương dân chủ, giới thiệu nhân sự ứng cử vào Hội đồng nhân dân ở
xã. Ngoài ra, Hội nông dân ở xã còn đóng vai trò quan trọng trong công tác hoà giải ở
cơ sở. Khi có mâu thuẫn phát sinh, từng chi, tổ Hội đã chủ động nắm tình hình, sớm
phát hiện, nắm chắc được nguyên nhân, bản chất của mâu thuẫn, nắm được tâm tư
nguyện vọng và yêu cầu của các bên trong tranh chấp từ đó vận động hội viên, nông
dân tự hoà giải ngay tại chi, tổ Hội, vừa có lý vừa có tình. Hội chủ động phối hợp với
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã, các đoàn thể, chính quyền tổ chức phổ biến giáo dục

pháp luật, trợ giúp pháp lý, xây dựng câu lạc bộ pháp luật, mạng lưới cộng tác viên
hoà giải tại thôn, ấp, bản, làng nhằm nâng cao nhận thức pháp luật của nông dân, hạn
chế khiếu kiện sai, khiếu kiện vượt cấp; huy động sức mạnh của hội viên, nông dân
cùng tham gia giải quyết; đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước của Hội gắn với
xây dựng gia đình nông dân văn hoá, thôn, ấp, bản, làng văn hoá. Hội kiên trì vận
động, thuyết phục bằng nhiều hình thức hoà giải linh hoạt như: dựa trên tình làng
nghĩa xóm, anh em, thân tộc; qua đối thoại trực tiếp, qua sinh hoạt chi, tổ Hội; qua
người có uy tín với đối tượng và phối hợp với chính quyền, các đoàn thể. Từ đó nhiều
điểm khiếu kiện phức tạp, kéo dài nhiều năm, liên quan đến vấn đề dân tộc, tôn giáo,
thu hồi đất, giải toả, đền bù dần dần được giải quyết dứt điểm, góp phần ổn định tình
hình an ninh, chính trị, trật tự xã hội ở nông thôn.
Trong mục tiêu xóa đói giảm nghèo, CNH, HĐH nông thôn hiện nay, cần phải
thực hiện những biện pháp sau:
- Đổi mới hoạt động của Hội theo hướng tiếp tục làm tốt vai trò vận động,
nâng cao trình độ giác ngộ chính trị của giai cấp nông dân. Tiếp tục sắp xếp tổ chức


8

bộ máy, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ để làm tốt các hoạt động hướng dẫn, tư vấn, hỗ
trợ và dịch vụ cho nông dân.
- Tăng cường sự liên kết giữa các doanh nghiệp, đội ngũ trí thức với nông dân
trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi.
- Tăng cường công tác đào tạo, tạo điều kiện cho bộ phận lớn nông dân nhất là
thanh niên chuyển sang làm công nghiệp, dịch vụ; những người ở lại làm nông
nghiệp có hiểu biết về khoa học - kỹ thuật và quản lý đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh
tế quốc tế.
- Chính phủ cần có thể chế để Hội Nông dân Việt Nam có cơ sở pháp lý tham
gia nhiệm vụ phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn, trực tiếp thực hiện các
chương trình, dự án, tổ chức các hoạt động khuyến nông. Khuyến nông, dạy nghề và

hỗ trợ việc làm, chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật, tư vấn và hỗ trợ pháp lý,
thông tin thị trường, tổ chức các dịch vụ về vốn, giống vật tư nông nghiệp, tiêu thụ
nông sản, tham gia công tác hòa giải, giải quyết khiếu nại, tố cáo... giúp nông dân
phát triển sản xuất kinh doanh, cải thiện đời sống, góp phần thực hiện thắng lợi công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
c) Hội Phụ nữ
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam là tổ chức lớn mạnh nhất của phụ nữ Việt
Nam với mục đích hoạt động vì sự bình đẳng và phát triển của phụ nữ, chăm lo, bảo
vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của phụ nữ. Hội được tổ chức thành bốn
cấp: cấp xã; cấp huyện, cấp tỉnh; cấp trung ương. Hội phụ nữ ở cấp xã được tổ chức
theo hai mô hình: Ban chấp hành - Chi hội phụ nữ - Tổ phụ nữ (mô hình này phù hợp
với mô hình tổ chức của Đảng và các đoàn thể ở cấp cơ sở) và Ban chấp hành - Tổ
phụ nữ (mô hình này phù hợp với địa bàn hẹp, ít hội viên).
Trong quá trình CNH. HĐH nông nghiệp, nông thôn, Ban chấp hành - Chi hội
phụ nữ ở xã đóng vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn các tổ chức, địa phương
thực hiện Luật bình đẳng giới, lồng ghép các yêu cầu bình đẳng giới trong mọi kế
hoạch phát triển kinh tế, xã hội; tăng cường sự tham gia và hưởng lợi của phụ nữ


9

trong quá trình bàn bạc, quyết định, thực hiện và giám sát các kế hoạch phát triển
cộng đồng, địa phương. Đảng ủy chính quyền các cấp phải khởi nguồn và hậu thuẫn
vững chắc cho các đoàn thể thực hiện các đề án của họ, tham gia giải quyết các vấn
đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
Bên cạnh đó, vai trò của Ban chấp hành - Chi hội phụ nữ ở xã còn thể hiện
trong việc vận động và phát huy các quan hệ truyền thống xây dựng cộng đồng nông
thôn đoàn kết, gắn bó. Tăng cường và phát huy các mối quan hệ, mối liên kết mang
tính gia đình, dòng họ, làng xã vốn có truyền thống lâu đời.
d) Hội Cựu chiến binh

Hội Cựu chiến binh ở xã có chức năng đại diện cho ý chí, nguyện vọng và
quyền lợi chính đáng của cựu chiến binh ở địa phương. Hội có vai trò tham mưu
giúp cấp ủy Đảng và là lực lượng nòng cốt tập hợp, đoàn kết, vận động cựu chiến
binh thực hiện các nhiệm vụ chính trị - xã hội của cách mạng, của Hội; tham gia
giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ viên chức nhà
nước ở địa phương. Hội có các nhiệm vụ: tập hợp, đoàn kết, bồi dưỡng, động viên
cựu chiến binh; tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, chính quyền, chế độ, thực hiện
Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn... tổ chức chăm lo và giúp đỡ
nhau nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, bảo vệ quyền lợi ích chính đáng và hợp
pháp của cựu chiến binh; góp phần giáo dục thế hệ trẻ; tham gia hoạt động đối ngoại
nhân dân.
Trong công cuộc CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn hiện nay, Hội Cựu
chiến binh ở xã đã chú ý công tác tập huấn nâng cao kiến thức xóa đói, giảm nghèo
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, củng cố an ninh quốc phòng ở địa phương. Bên
cạnh đó, nhiều tổ chức Hội ở địa phương đã tham gia xây dựng cơ sở hạ tầng: làm
đường liên thôn liên xã, tham gia công tác khuyến nông, chuyển dịch cơ cấu cây
trồng, vật nuôi ở cơ sở. Nhiều công trình mang tên cựu chiến binh đã có ý nghĩa kinh
tế, xã hội lớn.


10

Phát huy vai trò của mình, Hội Cựu chiến binh đã tham gia có hiệu quả vào sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Đảng, chính quyền góp phần giữ vững ổn định chính trị xã hội ở cơ sở; chống quan liêu tham nhũng, lãng phí; tuyên truyền vận động nhân
dân xây dựng và thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở cơ sở.
e) Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh là tổ chức chính trị - xã hội của thanh
niên Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh
đạo và rèn luyện. Đoàn Thanh niên ở xã có vai trò đoàn kết, tập hợp thanh niên,
phát huy vai trò xung kích của thanh niên trong sự nghiệp cách mạng. Bằng nhiều

hình thức và biện pháp sáng tạo, Đoàn đã thường xuyên tổ chức việc học tập quán
triệt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; đồng
thời chú trọng cung cấp thông tin về tình hình thời sự, chính trị trong nước và quốc
tế, nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng cho cán bộ Đoàn viên thanh niên. Các hoạt
động giáo dục của Đoàn đã góp phần tích cực vào việc nâng cao nhận thức chính trị
cho Đoàn viên thanh niên, tạo bầu không khí chính trị - xã hội ổn định, thúc đẩy việc
hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chính trị ở địa phương. Ngoài ra, Đoàn thực hiện
nhiệm vụ tham gia xây dựng Đảng thông qua việc tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng
cao nhận thức về Đảng cho Đoàn viên thanh niên; tham gia xây dựng chính quyền
thông qua việc tham mưu, góp ý xây dựng các chương trình, dự án phát triển, các dự
án luật...
Trong công cuộc CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn, Đoàn đã phát động
các chương trình: Thanh niên giúp nhau lập nghiệp, tham gia phát triển kinh tế xã
hội; Thanh niên ứng dụng và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, công nghệ phát triển nông
nghiệp, nông thôn trong thanh niên nông thôn... Các hoạt động xóa đói giảm nghèo,
hỗ trợ vốn, ứng dụng công nghệ vào nông nghiệp đã có nhiều chuyển biến tích cực.
Thông qua các hoạt động này thanh niên gắn bó với quê hương, lập nghiệp và làm
giàu trên mảnh đất của mình, có trách nhiệm hơn với tổ chức Đoàn, Hội, Đội, ý thức
chính trị của Đoàn viên thanh niên được nâng cao.


11

2- Vai trò của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân xã trong quá trình
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn
2.1 Vai trò của Hội đồng nhân dân xã trong quá trình CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn
Hội đồng nhân dân xã là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đồng thời là
cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân ở địa phương.
Hội đồng nhân dân xã quyết định các biện pháp thực hiện kế hoạch phát triển

kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, an toàn xã hội tại địa phương; quyết định các
biện pháp phát triển hoạt động văn hóa, giáo dục, y tế; quyết định các biện pháp
thực hiện chính sách dân tộc và tôn giáo, quyết định biện pháp bảo đảm việc thi hành
pháp luật ở địa phương, quyết định những vấn đề thuộc thẩm quyền của Hội đồng
nhân dân xã trong lĩnh vực xây dựng chính quyền địa phương và quản lý địa giới
hành chính.
Trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, vai trò của Hội đồng
nhân dân được tăng cường đổi mới nhằm đáp ứng điều kiện thực tiễn, thể hiện cụ thể
trong các hoạt động sau:
- Giám sát hoạt động của cơ quan hành chính và những công việc do cấp trên
thực hiện trên địa bàn, nhất là việc sử dụng đất đai, quỹ công, tài sản công, kể cả các
quỹ do dân đóng góp; bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức danh do Hội đồng nhân
dân bầu hoặc phê chuẩn.
- Các đại biểu Hội đồng nhân dân, ngoài việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
trong các kỳ họp, còn được phân công tham gia các hoạt động thường xuyên, gắn bó
với dân như tham gia hoạt động của Ban thanh tra nhân dân, tổ hoà giải, các tổ chức
tự quản khác của dân...
2.2 Vai trò của Ủy ban nhân dân xã trong quá trình CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn
Ủy ban nhân dân xã là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân cùng cấp, là
cơ quan hành chính ở địa phương, có nhiệm vụ thực hiện quản lý nhà nước một cách


12

toàn diện trên địa bàn xã, tổ chức thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng
cấp.
UBND xã xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa,
xã hội hàng năm tại địa phương mình; thực hiện các biện pháp bảo đảm an ninh quốc
phòng, an ninh trật tự; thực hiện các chính sách về dân tộc, tôn giáo và bảo đảm thi

hành pháp luật ở địa phương.
Vai trò của Uỷ ban nhân dân xã trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn thể hiện trong các nội dung:
- Hướng dẫn việc thực hiện, chương trình, kế hoạch, đề án khuyến khích phát
triển nông, lâm, ngư nghiệp theo quy định của cấp trên. Tổ chức thực hiện các biện
pháp ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ để phát triển sản xuất, hướng dẫn nông
dân chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cây trồng, vật nuôi trong sản xuất theo quy hoạch, kế
hoạch chung. Mỗi xã có một công chức chuyên trách về nông nghiệp và phát triển
nông thôn. Hình thành các Ban Nông nghiệp ở cấp xã có từ 4-6 nhân viên trên các
lĩnh vực: khuyến nông, bảo vệ thực vật, thú y, kiểm lâm.
- Đào tạo nâng cao trình độ đội ngũ công chức xã và thực hiện chế độ bổ nhiệm
có thời hạn. Tiếp tục đổi mới cải cách hành chính, giảm bớt phiền hà cho người dân,
đẩy mạnh phân cấp và tạo điều kiện cho chính quyền cấp xã hoạt động có hiệu quả.
- Tổ chức việc xây dựng các công trình thuỷ lợi nhỏ; thực hiện việc tu bổ, bảo
vệ đê điều, bảo vệ rừng; phòng, chống và khắc phục hậu quả thiên tai, bão lụt; ngăn
chặn kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ đê điều, bảo vệ rừng tại địa
phương; tổ chức, hướng dẫn việc khai thác và phát triển các ngành, nghề truyền thống
ở địa phương và tổ chức ứng dụng tiến bộ về khoa học, công nghệ để phát triển các
ngành, nghề mới.
Bước sang giai đoạn mới nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta có nhiều
thời cơ mới, nhưng cũng phải đối phó với những thách thức cả trong nước và quốc tế. Ở
trong nước, công cuộc CNH, HĐH đang được đẩy mạnh nền kinh tế phát triển năng
động tạo điều kiện thuận lợi về vốn, thị trường, dịch vụ cho nông nghiệp, nông thôn


13

nhưng lại tranh chấp đất đai và nguồn lực khác, tạo ra nguy cơ làm cho nông thôn tụt
hậu. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển khoa học công nghệ, khủng hoảng
lương thực và năng lượng toàn cầu tuy đem lại cơ hội để nông nghiệp nước ta tiếp cận

với thị trường, nguồn vốn, công nghệ mới nhưng cũng làm gia tăng áp lực cạnh tranh,
biến động thị trường.
Thời cơ và thách thức trên đặt ra vấn đề phải giải quyết đồng bộ có hiệu quả
các vấn đề về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, củng cố phát triển hệ thống chính
trị ở nông thôn tạo cơ sở để thúc đẩy quá trình CNH, HĐH nông nghiệp và nông
thôn, thực hiện thành công mục tiêu đưa nước ta cơ bản thành một nước công nghiệp
vào năm 2020.
II- Ở địa phương của tôi. Trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn hiện nay. Vai trò, nhiệm vụ không chỉ riêng của một tổ
chức chính trị nào mà của cả hệ thống chính trị của xã. Bởi vì:
Về mặt tổ chức, hệ thống chính trị ở xã bao gồm ba bộ phận cấu thành là tổ
chức Đảng, chính quyền Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ
quốc, bao gồm Đoàn Thanh niên, Hội phụ nữ, Hội Nông dân và Hội Cựu chiến binh.
1- Tổ chức cơ sở Đảng ở xã
Hiện nay, số lượng tổ chức cơ sở Đảng ở xã chiếm khoảng 20% trong tổng số
các tổ chức cơ sở Đảng, có số lượng lớn nhất so với các loại hình tổ chức cơ sở Đảng
trong cả nước. Gần 50% tổng số đảng viên của toàn Đảng đang sinh hoạt và hoạt động
trong các tổ chức cơ sở Đảng ở xã.
Tổ chức cơ sở Đảng ở xã là nền tảng của Đảng ở xã. Điều 21, Điều lệ Đảng
Cộng sản Việt Nam, được Đại hội X của Đảng thông qua, đã quy định: “Tổ chức cơ sở
đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của Ðảng, là hạt nhân chính trị ở cơ
sở”. Như vậy tổ chức cơ sở Đảng ở xã là nền tảng của Đảng ở xã. Điều này bắt nguồn
trực tiếp từ học thuyết của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò quyết định của quần
chúng nhân dân trong lịch sử, về vai trò của giai cấp công nhân - lực lượng chủ yếu


14

của cách mạng vô sản và là người lãnh đạo xã hội trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã
hội.

Tổ chức cơ sở Đảng ở xã là hạt nhân lãnh đạo chính trị, lãnh đạo hệ thống chính
trị ở cơ sở. Tổ chức cơ sở Đảng ở xã có vai trò hạt nhân trong lãnh đạo chính trị, lãnh
đạo hệ thống chính trị, bảo đảm cho đường lối, chính sách của Đảng được cụ thể hóa
và được thực hiện thắng lợi ở cơ sở. Tổ chức Đảng ở xã có vai trò lãnh đạo toàn diện
các mặt hoạt động trong xã, lãnh đạo chính quyền và các đoàn thể quần chúng.
Tổ chức cơ sở Đảng ở xã là nơi giáo dục, rèn luyện đảng viên và phát triển
Đảng. Tổ chức cơ sở Đảng là nơi giáo dục lý tưởng cách mạng, rèn luyện ý chí, trau
dồi quan điểm, lập trường cách mạng cho đảng viên ở nông thôn, động viên đảng viên
tham gia các phong trào giữ gìn an ninh, trật tự, phát triển kinh tế - xã hội ở địa
phương; là nơi vận động và bồi dưỡng những người ưu tú, xuất sắc trong phong trào
quần chúng, kết nạp họ vào Đảng nhằm xây dựng, phát triển, tăng cường số lượng và
sức chiến đấu của Đảng.
Tổ chức cơ sở Đảng ở xã là đơn vị chiến đấu cơ bản của Đảng và là chỗ dựa
đáng tin cậy của quần chúng nhân dân ở cơ sở. Bằng việc đưa đường lối, chủ trương
của Đảng vào cuộc sống ở xã, tổ chức quần chúng thực hiện thắng lợi đường lối chủ
trương, chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước; phát triển lực lượng đảng
viên mới trong quần chúng, các tổ chức Đảng ở xã thực sự là “một đơn vị chiến đấu
cơ bản” của Đảng, là hạt nhân lãnh đạo của hệ thống chính trị và là chỗ dựa đáng tin
cậy của nhân dân ở cơ sở.
2- Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân:
Theo Hiến pháp 1992, hệ thống chính quyền nhà nước ta bao gồm bốn cấp từ
Trung ương đến cơ sở, trong đó, chính quyền cấp cơ sở ở xã có vị trí rất quan trọng.
Đây là đơn vị thực hiện, đồng thời cũng là nơi kiểm tra, đánh giá đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước; là nơi trực tiếp và có ưu thế
trong việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân, khai thác tiềm năng tại chỗ ở địa
phương trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, củng cố an ninh quốc phòng, tạo


15


điều kiện cho nhân dân địa phương xây dựng một cuộc sống ổn định. Chính quyền cơ
sở ở xã, bao gồm Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, được bầu ra theo Hiến pháp
và pháp luật.
- Hội đồng nhân dân:
Theo Hiến pháp 1992, Hội đồng nhân dân xã được xác định là cơ quan quyền
lực nhà nước ở địa phương, đồng thời là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng của
nhân dân. Thông qua Hội đồng nhân dân xã, nhân dân ở cơ sở thực hiện quyền làm
chủ của mình. Hội đồng nhân dân chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước cơ
quan cấp trên và trước nhân dân địa phương.
Về mặt tổ chức, Hội đồng nhân dân xã có Chủ tịch, Phó chủ tịch và các đại biểu
Hội đồng nhân dân. Theo Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm
2003, Hội đồng nhân dân xã có Thường trực Hội đồng nhân dân nhưng không có các
ban chuyên môn như Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, huyện. Nhiệm kỳ của Hội đồng
nhân dân là 5 năm. Số lượng đại biểu được quy định tối thiểu là 15 người (xã có 1000
người trở xuống) và tối đa không quá 25 người (xã có từ 3000 người trở lên). Cũng
như Hội đồng nhân dân các cấp, Hội đồng nhân dân xã có hai chức năng cơ bản là
quyết định và giám sát.
Hội đồng nhân dân xã quyết định các biện pháp thực hiện phát triển kinh tế - xã
hội hàng năm nhằm phát huy tiềm năng của địa phương, quyết định trong lĩnh vực văn
hóa, giáo dục, xã hội và đời sống, quyết định trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, trật
tự, an toàn xã hội, quyết định đối với việc thực hiện chính sách dân tộc và tôn giáo,
quyết định trong lĩnh vực thi hành pháp luật, quyết định trong lĩnh vực xây dựng chính
quyền địa phương và quản lý địa giới hành chính.
Trong chức năng giám sát, Hội đồng nhân dân giám sát hoạt động của Thường
trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân ở xã; giám sát việc thực hiện nghị quyết của
Hội đồng nhân dân, việc tuân thủ pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân ở địa
phương.


16


- Ủy ban nhân dân:
Theo Nghị định 107/2004/NĐ-CP của Chính phủ ngày 01 tháng 4 năm 2004 (có
sửa đổi bổ sung bởi Nghị định số 27/2009/NĐ-CP của Chính Phủ ngày 19 tháng 3
năm 2009), Uỷ ban nhân dân xã miền núi, hải đảo có dân số từ 5.000 người trở lên; xã
đồng bằng, trung du có dân số từ 8.000 người trở lên và xã biên giới, có 5 thành viên
gồm có 1 Chủ tịch, 2 Phó Chủ tịch, 2 ủy viên. Uỷ ban nhân dân xã không thuộc diện
trên thì có 3 thành viên gồm có 1 Chủ tịch, 1 Phó Chủ tịch và 1 ủy viên. Trong đó Chủ
tịch phụ trách chung, khối nội chính, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
xã. Các Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân phụ trách khối kinh tế - tài chính, xây dựng,
giao thông, nhà đất và tài nguyên - môi trường và phụ trách khối văn hóa - xã hội và
các lĩnh vực xã hội khác. Các ủy viên Uỷ ban nhân dân thì phụ trách công an và phụ
trách quân sự.
3- Các đoàn thể nhân dân ở xã:
“ Các đoàn thể nhân dân ” ở nước ta là một phạm trù rất rộng, có thể bao gồm
cả các tổ chức chính trị - xã hội, thành viên của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức xã hội nghề nghiệp, các tổ chức phi chính phủ, các hiệp hội, giới chức, lợi ích, từ thiện. Phạm
trù “đoàn thể nhân dân” được đề cập ở đây là các tổ chức chính trị - xã hội, thành viên
của Mặt trận Tổ quốc. Ở nông thôn, rất ít nơi có tổ chức công đoàn, vì vậy, nói đến
các đoàn thể nhân dân ở xã thuộc hệ thống chính trị, chủ yếu có năm tổ chức là Mặt
trận Tổ quốc, Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Cựu chiến binh.
Đoàn thể nhân dân có vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống chính trị ở xã. Cụ
thể các đoàn thể nhân dân có vai trò đoàn kết nhân dân, chăm lo lợi ích của thành
viên, thực hiện dân chủ và đổi mới xã hội, thực thi quyền và nghĩa vụ của công dân,
thắt chặt mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Đoàn thể nhân dân là lực
lượng nòng cốt, đi đầu trong các phong trào vận động quần chúng tham gia bảo vệ trật
tự trị an, xây dựng nếp sống văn hóa, bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế - xã hội ở
cơ sở.
=> Mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành hệ thống chính trị xã



17

Như trên đã nói, hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn bao gồm ba bộ phận cấu
thành: Đảng, chính quyền và các đoàn thể nhân dân; mỗi bộ phận tồn tại với vai trò,
chức năng riêng và có quan hệ mật thiết với nhau, tạo thành hệ thống thống nhất.
Tính hệ thống của hệ thống chính trị cơ sở nông thôn hiện nay thể hiện trên các
mặt cụ thể có tính nguyên tắc sau:
- Các tổ chức thành viên của hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn cùng tồn tại
và hoạt động trên cùng một địa bàn lãnh thổ - dân cư, đó là đơn vị hành chính cấp xã.
- Các thành viên của hệ thống chính trị thống nhất đặt dưới sự lãnh đạo của tổ
chức cơ sở Đảng về những nội dung cơ bản như đường lối, chủ trương, phương hướng
phát triển kinh tế - xã hội và công tác tổ chức, cán bộ.
- Các thành viên của hệ thống chính trị thống nhất tiến hành các mặt hoạt động
trong khuôn khổ pháp luật của Nhà nước và sự quản lý, điều hành của chính quyền địa
phương theo các nguyên tắc Đảng lãnh đạo, nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc
tất cả quyền lực thuộc về nhân dân.
- Tuy có chức năng, nhiệm vụ, cách tổ chức và phương thức hoạt động khác
nhau, các thành viên của hệ thống chính trị thống nhất cùng hướng tới các mục tiêu
chung là phát triển kinh tế - xã hội ở cơ sở, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân địa phương, tất cả vì mục tiêu chung của xã hội là thực hiện “dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn minh”.
Trong sự thống nhất của hệ thống chính trị, Đảng là bộ phận hạt nhân, giữ vai
trò lãnh đạo của hệ thống; Chính quyền là lực lượng chủ đạo, giữ vai trò quản lý, điều
hành và các đoàn thể nhân dân là tổ chức đại diện quyền làm chủ của các tầng lớp
nhân dân. Tổ chức Đảng cơ sở vừa là hạt nhân lãnh đạo hệ thống chính trị, lãnh đạo
chính quyền và là cầu nối giữa nhân dân với chính quyền cơ sở. Chính quyền cơ sở là
cơ quan quyền lực nhà nước trực tiếp quản lý, tổ chức đời sống mọi mặt ở địa phương,
phát huy mọi tiềm năng nhân tài, vật lực ở địa phương phục vụ sự phát triển kinh tế xã hội. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân ở địa phương là cầu nối giữa nhân



18

dân với tổ chức Đảng và chính quyền cơ sở, đại biểu cho lợi ích của các tầng lớp nhân
dân, là hậu thuẫn của Đảng và chính quyền ở địa phương.
Vì lẽ trên, khẳng định: Hệ thống chính trị có vai trò, nhiệm vụ vô cùng quan
trọng, là nòng cốt trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và
nông thôn hiện nay của nước ta.



×