Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Phân tích và đánh giá một số điểm mới của Luật Phá sản năm 2014 so với Luật phá sản năm 2004 (tối thiểu là năm điểm mới)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.79 KB, 12 trang )

MỤC LỤC
Trang


MỞ ĐẦU
Trong bất cứ nền kinh tế nào đều luôn tồn tại một bộ phận quan hệ kinh tế quan
trọng và tương ứng với nó có một bộ phận quy phạm pháp luật điều chỉnh Thành lập –
Phá sản. Đó là quy luật tất yếu của nền kinh tế, đặc biệt là nền kinh tế thị trường cạnh
tranh gay gắt như hiện nay, loại bỏ dần các doanh nghiệp yếu kém và không có chiến
lược đúng đắn trong quá trình sản xuất trao đổi sản phẩm, hàng hoá.
Với mong muốn tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này, em xin lựa chọn đề tài số 11 với
nội dung: "Phân tích và đánh giá một số điểm mới của Luật Phá sản năm 2014 so
với Luật phá sản năm 2004 (tối thiểu là năm điểm mới)" làm nội dung bài tập học kì
của mình.
NỘI DUNG
1. Khái quát chung về phá sản và pháp luật phá sản
1.1. Khái niệm phá sản
Phá sản là tình trạng của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán (là
doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong thời hạn
03 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán) và bị Tòa án nhân dân ra quyết định tuyên bố
phá sản.
Cần lưu ý là doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản và doanh nghiệp bị phá sản
có nhiều điểm khác nhau, cụ thể là:
- Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là doanh nghiệp đang rơi vào tình
trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn và có thể bị Tòa án tuyên bố phá sản, tuy
nhiên nó cũng có cơ hội được phục hồi; trong khi đó doanh nghiệp bị phá sản là doanh
nghiệp đã bị Tòa án ra quyết định tuyên bố phá sản (phù hợp với các quy định của
pháp luật), nó sẽ không còn cơ hội được phục hồi và phải xóa đăng ký kinh doanh sau
khi đã hoàn tất thủ tục thanh toán.
- Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản chỉ mới bị hạn chế một số quyền nhất
định đối với tài sản và một số quyền và lợi ích khác (ví dụ: quyền định đoạt tài sản,


quyền ký kết các hợp đồng…); còn doanh nghiệp bị phá sản là doanh nghiệp đã bị
tước bỏ toàn bộ quyền hành trên các lĩnh vực hoạt động và tài sản bị thanh toán bắt
buộc cho các chủ nợ theo pháp luật.1

Khái quát chung về phá sản, ngày truy cập 20/4/2019.
2
2
1


1.2. Phân loại phá sản
Trên cơ sở nguyên nhân gây ra phá sản có phá sản trung thực và phá sản gian
trá:
- Phá sản trung thực là hậu quả của việc mất khả năng thanh toán do những
nguyên nhân khách quan hay những rủi ro bất khả kháng gây ra. Phá sản trung thực
cũng có thể từ những nguyên nhân chủ quan nhưng không phải do sự chủ ý nhằm
chiếm đoạt tài sản của người khác. Ví dụ như sự yếu kém về năng lực tổ chức, quản lý
hoạt động; sự thiếu khả năng thích ứng với những biến động trên thương trường...
- Phá sản gian trá là hậu quả của những thủ đoạn gian trá, có sắp đặt trước nhằm
chiếm đoạt tài sản của người khác. Ví dụ: có hành vi gian lận trong khi ký hợp đồng,
tẩu tán tài sản, cố tình báo cáo sai... để qua đó tạo ra lý do phá sản không đúng sự thật.
Trên cơ sở phát sinh quan hệ pháp lý có phá sản tự nguyện và phá sản bắt
buộc: Cụ thể là dựa trên căn cứ ai là người làm đơn yêu cầu phá sản.
- Phá sản tự nguyện là do phía doanh nghiệp mắc nợ tự làm đơn yêu cầu phá sản
khi thấy mình mất khả năng thanh toán, không có điều kiện thực hiện nghĩa vụ trả nợ
đối với chủ nợ.
- Phá sản bắt buộc là do phía các chủ nợ làm đơn yêu cầu phá sản doanh nghiệp
mắc nợ nhằm thu hồi các khoản nợ từ doanh nghiệp mắc nợ.
Dựa vào đối tượng bị giải quyết phá sản
Gồm phá sản cá nhân và phá sản pháp nhân. Tuỳ theo pháp luật ở mỗi nước mà

đối tượng bị giải quyết phá sản có quy định khác nhau. Ở nước ta áp dụng cho doanh
nghiệp và HTX. Trung Quốc: áp dụng với thành phần kinh tế quốc doanh. Úc : áp
dụng với cả cá nhân.
- Phá sản cá nhân: theo quy định này cá nhân bị phá sản phải chịu trách nhiệm vô
hạn đối với các khoản nợ.
- Phá sản pháp nhân: đó là phá sản một tổ chức, tổ chức này phải gánh chịu hậu
quả của việc phá sản. việc trả nợ cho chủ nợ của pháp nhân dựa trên tài sản của pháp
nhân.
1.3. Khái niệm pháp luật phá sản
Pháp luật phá sản là tổng hợp các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành để
điều chỉnh những quan hệ phát sinh trong quá trình giải quyết yêu cầu phá sản doanh
nghiệp, hợp tác xã. Pháp luật phá sản là một bộ phận cấu thành nhóm các chế định
pháp luật về giải quyết hậu quả của khung pháp lý kinh tế trong nền kinh tế thị trường.
Trong hoạt động kinh tế, thương mại pháp luật về phá sản là một chế định đặc
thù, tính đặc thù được biểu hiện ở chỗ trong chế định này vừa chứa đựng các quy
phạm pháp luật nội dung vừa chứa đựng các quy phạm pháp luật hình thức.
3
3


Pháp luật về phá sản cũng là một chế định không thể thiếu được trong kinh tế thị
trường bởi trong nền kinh tế đó (tức kinh tế thị trường) luôn luôn có sự cạnh tranh giữa
các chủ thể kinh doanh, do vậy mà có những chủ thể không đứng vững được trong
cuộc cạnh tranh khốc liệt đó nên bị phá sản. Do đó, phải có Luật phá sản để giải quyết
việc phá sản đó. Trong pháp luật về phá sản thì Luật phá sản là văn bản pháp luật quan
trọng nhất. Nó quy định những vấn đề cơ bản trong việc giải quyết phá sản như: lý do
phá sản, trình tự thủ tục phá sản, quyền hạn và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân;
thủ tục phục hồi, thanh lý tài sản và việc phân chia tài sản của doanh nghiệp bị tuyên
bố phá sản
2. Phân tích các điểm mới của Luật Phá sản năm 2014 so với Luật phá sản

năm 2004
2.1. Phạm vi áp dụng của luật phá sản
Luật Phá sản năm 2014 thu hẹp phạm vi áp dụng phá sản chỉ đối với “doanh
nghiệp, hợp tác xã được thành lập trên lãnh thổ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Quy định này rõ ràng mang tính thực tế và khả năng áp dụng cao hơn so với quy
định cũ. Bởi lẽ hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam, bao gồm cả các doanh nghiệp Việt
Nam và doanh nghiệp nước ngoài có hoặc không có trụ sở đặt tại Việt Nam. Vì vậy,
đối với các doanh nghiệp nước ngoài mà không có trụ sở, không có tài sản mà chỉ có
một số hoạt động tại Việt Nam, khi mất khả năng thanh toán thì không thể áp dụng
Luật Phá sản của Việt Nam để giải quyết.
2.2. Tiêu chí xác định doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản
Nếu như Luật Phá sản năm 2004 chỉ quy định chung chung “doanh nghiệp, hợp
tác xã không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu
coi là lâm vào tình trạng phá sản”, thì Luật Phá sản 2014 đã có những thay đổi theo
hướng rõ ràng và cụ thể hơn. Theo đó, doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh
toán là doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong
thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán.
Như vậy, Luật Phá sản 2014 không còn dùng khái niệm “lâm vào tình trạng phá
sản”, hay “không có khả năng thanh toán được” như trước mà dùng khái niệm “mất
khả năng thanh toán” và “không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ” cho thấy,
Luật Phá sản 2014 không yêu cầu việc xác định hay phải có căn cứ chứng minh doanh
nghiệp, hợp tác xã không có khả năng thanh toán bằng bảng cân đối tài chính... Như
vậy, chỉ cần xác định là có khoản nợ và đến thời điểm tòa án quyết định việc mở thủ
4
4


tục phá sản mà doanh nghiệp, hợp tác xã vẫn không thanh toán là tòa án có thể ra
quyết định mở thủ tục phá sản.
Việc bỏ từ “các” trong cụm từ “các khoản nợ” để thể hiện rõ tiêu chí mất khả

năng thanh toán không phụ thuộc vào số lượng khoản nợ mà chỉ cần một khoản nợ.
Bên cạnh đó, Luật Phá sản 2014 cũng không quy định giới hạn các khoản nợ.
Điều này có thể hiểu là bất kỳ khoản nợ nào dù là nợ lương, nợ thuế, nợ bảo hiểm xã
hội, khoản nợ phát sinh từ hợp đồng... thì chủ nợ là cá nhân, cơ quan, tổ chức đều có
quyền yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.
2.3. Về các chủ thể có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
So với luật cũ, Luật Phá sản năm 2014 quy định theo hướng mở rộng phạm vi và
tạo điều kiện cho các chủ thể thực hiện quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản để
đảm bảo quyền lợi của mình
Trước đây trong Luật Phá sản 2004, người lao động phải nộp đơn thông qua đại
diện, thì trong luật mới, người lao động có quyền tự mình nộp đơn mà không cần phải
thông qua đại diện.
Đối với công ty cổ phần, Luật Phá sản năm 2014 quy định cổ đông hoặc nhóm cổ
đông sở hữu trên 20% số cổ phần phổ thông trong thời gian liên tục ít nhất 6 tháng có
quyền nộp đơn, trong Luật Phá sản mới vẫn giữ nguyên quy định này, đồng thời cũng
cho phép cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu dưới 20% số cổ phần phổ thông trong
thời gian liên tục ít nhất 6 tháng có quyền nộp đơn nếu điều lệ công ty có quy định.
2.4. Về thẩm quyền của Tòa án
Luật Phá sản năm 2014, quy định thẩm quyền của Tòa án theo cấp, theo lãnh thổ
khác với quy định tại luật cũ, quy định theo hướng doanh nghiệp, hợp tác xã do cơ
quan cấp nào cấp đăng ký kinh doanh thì do Tòa án cấp ấy có thẩm quyền giải quyết,
do đó, Tòa án cấp huyện chỉ có quyền giải quyết thủ tục phá sản đối với hợp tác xã do
cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện cấp, còn doanh nghiệp, hợp tác xã do cơ quan
đăng ký kinh doanh cấp tỉnh cấp thì do Tòa án cấp tỉnh xử lý. Do đó, thực tế đa phần
Tòa án cấp tỉnh giải quyết thủ tục phá sản đối với tất cả doanh nghiệp, liên hiệp hợp
tác xã thành lập trên địa bàn, còn Tòa án cấp huyện chỉ giải quyết thủ tục phá sản đối
với Hợp tác xã. Việc căn cứ vào thẩm quyền đăng ký kinh doanh để quy định thẩm
quyền giải quyết của Tòa án là hoàn toàn không phù hợp với các nguyên tắc pháp lý.
Khắc phục những khiếm khuyết đó, Luật Phá sản năm 2014 quy định theo hướng
loại trừ, tức là trừ những vụ việc phá sản có tình tiết đặc biệt (có yếu tố nước ngoài, có

địa điểm ở nhiều quận huyện khác nhau, hoặc tòa cấp tỉnh lấy lên giải quyết) thì còn
5
5


lại, Tòa án cấp huyện có thẩm quyền giải quyết phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác
xã có trụ sở chính tại huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh đó (Điều 8).
Để đảm đảm bảo tính khách quan, Luật Phá sản mới bổ sung quy định về trường
hợp phải từ chối hoặc thay đổi thẩm phán trong quá trình giải quyết phá sản. Đồng
thời, Luật cũng bỏ quy định “Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi đặt trụ sở chính của doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có thẩm quyền tiến hành thủ tục phá sản
đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đó”. Vì theo quy định hiện hành, tất cả
các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đều bình đẳng và hoạt động trong
khuôn khổ luật doanh nghiệp. Tòa án cấp huyện đương nhiên có thẩm quyền giải quyết
vụ việc phá sản của doanh nghiệp này, trừ khi nó có tài sản ở nước ngoài hoặc người
tham gia thủ tục phá sản ở nước ngoài.
2.5. Hội nghị chủ nợ
Về hội nghị chủ nợ cũng có nhiều điểm mới, theo quy định của Luật Phá sản
2014, điều kiện hợp lệ của hội nghị chủ nợ chỉ căn cứ trên số nợ. Theo đó, số chủ nợ
tham gia hội nghị chủ nợ không phải là điều kiện để coi hội nghị chủ nợ hợp lệ.
Điều này có nghĩa là hội nghị chủ nợ có thể hợp lệ khi chỉ cần một chủ nợ tham
gia mà đại diện cho ít nhất 51% số nợ không có bảo đảm. Mặt khác, việc tham gia có
thể là không trực tiếp. Theo hướng này, điều kiện hợp lệ của hội nghị chủ nợ thông qua
phương án thu hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã cũng quy định
chỉ theo số nợ.
2.6. Quy định về quản tài viên và DN quản lý, thanh lý tài sản
Luật Phá sản 2014 quy định cá nhân, DN được hành nghề quản lý, thanh lý tài
sản trong quá trình giải quyết phá sản, gồm: Quản tài viên và DN quản lý, thanh lý tài
sản. Quản tài viên là luật sư, kiểm toán viên, người có trình độ cử nhân luật, kinh tế, kế
toán, tài chính, ngân hàng và có kinh nghiệm 5 năm trở lên về lĩnh vực được đào tạo

được cấp chứng chỉ hành nghề quản tài viên.
DN quản lý, thanh lý tài sản gồm: Công ty hợp danh có tối thiểu 2 thành viên hợp
danh là quản tài viên, tổng giám đốc hoặc giám đốc của công ty hợp danh là quản tài
viên; DN tư nhân có chủ DN là quản tài viên, đồng thời là giám đốc. Việc xây dựng
chế định chủ thể quản lý, thanh lý tài sản là cá nhân, pháp nhân là một bước thay đổi
cơ bản trong Luật Phá sản 2014. Có thể nói, Luật Phá sản 2014 tạo ra một nghề nghiệp

6
6


mới: nghề quản lý thanh lý tài sản phá sản của quản tài viên và DN quản lý, thanh lý
tài sản.2
Theo quy định tại Điều 85, Điều 86 Luật Phá sản 2004, Tòa án ra quyết định
tuyên bố DN, HTX bị phá sản đồng thời với việc ra quyết định đình chỉ thủ tục thanh
lý tài sản khi DN, HTX không còn tài sản để thực hiện phương án phân chia tài sản;
hoặc phương án phân chia tài sản đã được thực hiện xong.
Luật Phá sản 2014 quy định theo hướng khi Hội nghị chủ nợ không thành hoặc
theo nghị quyết của Hội nghị chủ nợ, Tòa án tuyên bố DN, HTX phá sản. Cơ quan thi
hành án dân sự tiến hành thủ tục thi hành quyết định tuyên bố DN, HTX phá sản.
2.7. Quy định về tiền lãi đối với các khoản nợ
Do Luật Phá sản 2004 chưa có quy định cụ thể về việc xác định khoản lãi đối với
các khoản nợ đến hạn và chưa đến hạn, đặc biệt là các khoản nợ mới phát sinh trong
quá trình giải quyết thủ tục phá sản đã dẫn đến tình trạng áp dụng không thống nhất về
việc tính lãi đối với các khoản nợ, nên không bảo đảm quyền, nghĩa vụ của các bên
trong quá trình giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản.
Để khắc phục tình trạng này, Luật Phá sản 2014 đã bổ sung quy định về xác định
tiền lãi đối với khoản nợ, theo đó, kể từ ngày ra quyết định mở thủ tục phá sản, các
khoản nợ vẫn được tiếp tục tính lãi theo thỏa thuận nhưng được tạm dừng việc trả lãi.
Trường hợp Thẩm phán ra quyết định đình chỉ tiến hành thủ tục phá sản theo quy định

của Điều 86 Luật này, đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh theo quy định
tại Điểm a Khoản 1 Điều 95 của Luật này, thì việc tạm dừng trả lãi chấm dứt, các bên
tiếp tục thực hiện trả lãi theo thỏa thuận; đối với các khoản nợ mới phát sinh sau khi
mở thủ tục phá sản đến thời điểm tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản thì tiền
lãi của các khoản nợ đó được xác định theo thỏa thuận nhưng không trái với quy định
của pháp luật; kể từ ngày ra quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã thì
các khoản nợ không được tiếp tục tính lãi.
2.8. Tuyên bố phá sản theo thủ tục rút gọn
Trường hợp người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản theo quy định tại Khoản
3, Khoản 4, Điều 5 Luật Phá sản 2014 mà DN, HTX mất khả năng thanh toán, không
còn tiền, tài sản khác để nộp lệ phí phá sản, tạm ứng chi phí phá sản thì nộp đơn ghi rõ
yêu cầu Tòa án giải quyết phá sản theo thủ tục rút gọn. Đơn yêu cầu mở thụ tục phá
sản và các tài liệu kèm theo phải đúng quy định tại Điều 28 Luật Phá sản 2014 và có
2 Những điểm mới của Luật Phá sản năm 2014, />
2014122204442122p145c153.news, ngày truy cập 20/4/2019
7
7


đầy đủ căn cứ chứng minh DN, HTX không còn tiền, tài sản khác để nộp lệ phí phá
sản, tạm ứng chi phí phá sản.
Đối với trường hợp này, thủ tục phá sản được giải quyết nhanh chóng. Trong thời
hạn 30 ngày, kể từ ngày Tòa án thông báo cho người tham gia thủ tục phá sản về việc
Tòa án giải quyết phá sản theo thủ tục rút gọn, Tòa án xem xét, tuyên bố DN, HTX
phá sản hoặc tiếp tục giải quyết theo thủ tục thông thường và thông báo cho người
tham gia thủ tục phá sản biết.
Xem xét đơn đề nghị, kiến nghị theo thủ tục đặc biệt, đây cũng là thủ tục mới mà
Luật Phá sản 2004 không có. Về thủ tục nộp đơn: Người tham gia thủ tục phá sản,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân ra quyết định tuyên bố phá sản. Về
thẩm quyền xem xét đơn: Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Về căn cứ xem xét: Tòa án xem xét đơn đề nghị, kiến nghị theo thủ tục đặc biệt
khi có một trong hai căn cứ sau:
1. Có vi phạm nghiêm trọng pháp luật về phá sản;
2. Phát hiện tình tiết mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung quyết định tuyên
bố phá sản mà Tòa án nhân dân, người tham gia thủ tục phá sản không thể biết được
khi Tòa án nhân dân ra quyết định
3. Đánh giá các điểm mới của Luật Phá sản năm 2014 so với Luật phá sản
năm 2004
3.1. Một số hạn chế, bất cập
- Thời hạn ra quyết định thi hành án: Luật phá sản 2014 và Luật thi hành án dân
sự đều quy định thẩm quyền tổ chức thi hành quyết định tuyên bố phá sản của Tòa án
là của cơ quan thi hành án dân sự. Tại khoản 2 Điều 36 Luật thi hành án dân sự quy
định thời hạn ra quyết định thi hành án đối với quyết định tuyên bố phá sản là 03 ngày
làm việc kể từ ngày nhận được quyết định. Tuy nhiên, tại khoản 1 Điều 120 Luật phá
sản 2014 quy định: “Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định tuyên
bố phá sản, cơ quan thi hành án dân sự có trách nhiệm chủ động ra quyết định thi
hành”. Như vậy, thời hạn để cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định thi hành án đối
với quyết định tuyên bố phá sản của Luật thi hành án dân sự và Luật phá sản 2014 là
không thống nhất với nhau.3
- Thẩm quyền của Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản trong
việc định giá, tại khoản 1 Điều 122 Luật phá sản 2014 quy định: “Trong thời hạn 10
ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định tuyên bố phá sản, Quản tài viên, doanh nghiệp
Pháp luật phá sản ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp hoàn thiện,
ngày truy
cập 21/4/2019.
8
8
3



quản lý, thanh lý tài sản phải tổ chức định giá tài sản theo quy định của pháp luật”.
Theo đó thì Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản hoàn toàn chủ động
trong việc định giá tài sản mà không phụ thuộc vào việc cơ quan thi hành án dân sự đã
ra quyết định thi hành án cũng như việc Chấp hành viên có văn bản yêu cầu Quản tài
viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản thực hiện việc thanh lý tài sản.
- Về đối tượng áp dụng của Luật Phá sản: Theo quy định, Luật Phá sản hiện hành
chỉ áp dụng đối với doanh nghiệp, hợp tác xã mà không áp dụng với các chủ thể kinh
doanh khác như cá nhân, hộ gia đình. Do đó, có nhiều Tòa án đề nghị mở rộng đối
tượng áp dụng của Luật Phá sản theo hướng mọi tổ chức, cá nhân có hoạt động sản
xuất kinh doanh và có đăng ký kinh doanh nếu lâm vào tình trạng mất khả năng thanh
toán nợ đến hạn thì đều có thể bị đưa ra Tòa án để giải quyết theo thủ tục phá sản. Các
chủ thể kinh doanh trong đó có cá nhân, hộ gia đình... cần được bình đẳng với các chủ
thể kinh doanh khác (doanh nghiệp) trong việc sử dụng các cơ chế do pháp luật quy
định, trong đó có cơ chế phá sản. Nếu chẳng may thua lỗ thì các chủ thể này cũng
được hưởng một cơ chế xử lý nợ như các tổ chức sản xuất kinh doanh khác để có cơ
hội trở lại hoạt động sản xuất kinh doanh. Các chủ nợ cũng bảo đảm cơ chế đòi nợ
đúng pháp luật, tránh tình trạng bắt xiết nợ, gây mất trật tự an toàn xã hội như một số
trường hợp xảy ra hiện nay. Nhiều hộ gia đình có quy mô kinh doanh lớn, làm ăn với
doanh nhân nước ngoài nên Luật Phá sản cũng cần sửa đổi cho phù hợp với Luật Phá
sản của thế giới, nhất là khi Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức Thương
mại thế giới.4
- Về căn cứ xác định doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản: Tại
Điều 3, Luật Phá sản quy định, doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả năng thanh
toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì coi là lâm vào tình trạng
phá sản. Nhiều ý kiến cho rằng, quy định này chưa cụ thể, dẫn đến việc đánh giá
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, mất khả năng thanh toán có phải do làm ăn
thua lỗ hay không còn gặp nhiều khó khăn. Do đó, cần quy định về tiêu chí xác định rõ
ràng, cụ thể “không có khả năng thanh toán”, “các khoản nợ đến hạn” và “lâm vào tình
trạng phá sản”; về giá trị cụ thể của khoản nợ và thời hạn quá hạn là bao nhiêu để xác
định doanh nghiệp, hợp tác xã có bị coi là lâm vào tình trạng phá sản hay không?


Luật
Phá
sản

Quá
nửa
số
điều
luật
vướng
mắc,
bất
cập,
/>ngày truy cập 20/4/2019.
9
9
4


- Theo quy định tại khoản 2 Điều 5 Luật Phá sản thì: Sau khi có quyết định mở
thủ tục phá sản, căn cứ vào quy định cụ thể của Luật Phá sản, Thẩm phán quyết định
áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh hoặc thủ tục thanh lý tài sản; hoặc
chuyển từ áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh sang áp dụng thủ tục thanh
lý tài sản, các khoản nợ hoặc tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản. Tuy nhiên,
Luật Phá sản không quy định điều kiện chuyển đổi, trình tự, thủ tục chuyển đổi trên
như thế nào, gây khó khăn, vướng mắc cho các Tòa án địa phương trong quá trình áp
dụng quy định này. Do đó, các cơ quan pháp luật kiến nghị bổ sung quy định về điều
kiện, thủ tục, trình tự thực hiện việc chuyển đổi áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động
kinh doanh sang áp dụng thủ tục thanh lý tài sản.

Hơn nữa, trong thực tiễn, việc giải quyết các yêu cầu tuyên bố phá sản thường
kéo dài rất lâu, nhiều thủ tục rườm rà, phức tạp. Do đó, Luật Phá sản sửa đổi cần quy
định bổ sung một loại hình phá sản rút gọn dành cho các doanh nghiệp cần phá sản
ngay, sau khi khẳng định đủ điều kiện phá sản mà không phải trải qua các bước theo
trình tự thủ tục quy định trong Luật Phá sản hiện hành.
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật phá sản ở Việt Nam hiện nay
Một là, để giúp cho việc thi hành các quyết định tuyên bố phá sản của Tòa án
được thuận lợi nhanh chóng, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ thì Tòa án
nhân dân tối cao cần phối hợp với Bộ Tư pháp sớm ban hành Thông tư liên tịch để
hướng dẫn các quy định liên quan đến thủ tục thi hành quyết định tuyên bố phá sản.
Hai là, cần cho phép sử dụng án lệ trong giải quyết phá sản. Việc cho phép áp
dụng án lệ đồng nghĩa với việc thừa nhận sự phát triển của pháp luật bởi thẩm phán và
đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN của Nhân dân, do
Nhân dân và vì Nhân dân, trong đó có yêu cầu bảo đảm sự công bằng, bình đẳng cho
doanh nghiệp, hợp tác xã trước pháp luật và bảo đảm “sự linh hoạt, mềm dẻo” của
pháp luật trước những thay đổi của đời sống kinh tế - xã hội.
Ba là, về tài sản phá sản và tài sản được miễn trừ khỏi tài sản phá sản, pháp luật
phá sản hiện hành đã liệt kê danh mục tài sản phá sản. Tuy nhiên, quy định trên đã bỏ
sót các loại tài sản, quyền tài sản thu được từ các giao dịch vô hiệu, tài sản mới có thể
phát sinh trong quá trình kinh doanh sau khi có quyết định mở thủ tục tuyên bố phá
sản... Tất cả các tài sản trên cần được kê biên để thanh toán cho các chủ nợ. Vì vậy,
cần bổ sung các tài sản này vào danh mục tài sản phá sản theo quy định của Luật phá
sản năm 2014. Điều này là cần thiết nhằm bảo vệ quyền lợi của chủ nợ. Trong điều
10
10


kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta thì Luật phá sản
cần cân nhắc quan điểm nhân đạo này theo hướng quy định việc miễn trừ này đối với
trường hợp doanh nghiệp tư nhân hoặc thành viên hợp danh của công ty hợp danh lâm

vào tình trạng phá sản5
Bốn là, việc giải quyết các vụ việc phá sản có tính chất phức tạp, liên quan đến
nhiều khía cạnh pháp lý khác nhau, nhiều chủ thể khác nhau, do đó để hiểu và áp dụng
đúng, thống nhất pháp luật phá sản thì cần nâng cao năng lực, trình độ của đội ngũ cán
bộ thực thi pháp luật phá sản như: các Thẩm phán, Quản tài viên... Tòa án nhân dân tối
cao cần định kỳ tổ chức các hội thảo chuyên đề, khóa đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao
trình độ nghiệp vụ của Thẩm phán, Thư ký Tòa án trong việc giải quyết yêu cầu tuyên
bố phá sản; cần có kế hoạch đào tạo Thẩm phán chuyên trách về án kinh tế nói chung
và giải quyết các vụ việc phá sản nói riêng. Cần xây dựng chương trình đạo tạo và cấp
chứng chỉ Quản tài viên. Ngoài ra, cần tích cực tuyên truyền phổ biến pháp luật phá
sản rộng rãi đến người dân và doanh nghiệp, hợp tác xã trong cả nước.
KẾT LUẬN
Với sự phát triển lớn mạnh của nền kinh tế thị trường sẽ làm cho số lượng các
DN, HTX mới được hình thành ngày càng nhiều. Những DN, HTX đáp ứng được các
đòi hỏi, yêu cầu của thị trường thì tồn tại, phát triển, còn những DN, HTX không đáp
ứng được sẽ bị đào thải, loại bỏ ra khỏi đường ray kinh tế đó. Vì vậy, số lượng các vụ
yêu câu giải quyết phá sản sẽ ngày càng nhiều. Do đó, việc áp dụng quy định của
pháp luật phá sản cũng cần có những thay đổi để phù hợp với những thay đổi của thực
tiễn cũng như rút ngắn thời gian tiến hành thủ tục phá sản của DN, HTX.

5 Pháp luật của một số nước trên thế giới cũng có quy định về vấn đề này (Ví dụ Luật phá sản của

CHLB Đức)
11
11


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật thương mại tập I, Nxb Công an nhân


dân, Hà Nội, 2017;
2. Luật Phá sản năm 2004, năm 2014;
3. Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;
4. Pháp luật của một số nước trên thế giới cũng có quy định về vấn đề này (Ví dụ Luật
phá sản của CHLB Đức)
5.

Khái quát chung về phá sản, />
6.

doanh-nghiep.html, ngày truy cập 20/4/2019.
Những điểm mới của Luật Phá sản năm 2014, />
7.

san-2014-2014122204442122p145c153.news, ngày truy cập 20/4/2019
Pháp luật phá sản ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp hoàn thiện,
/>
8.

ItemID=302, ngày truy cập 21/4/2019.
Luật Phá sản – Quá nửa số

điều

luật

vướng

mắc,


bất

cập,

/>ItemID=1367, ngày truy cập 20/4/2019.

12
12



×