Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

Luận văn nâng cao lao động kinh tế ở hà nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (642.72 KB, 98 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
LĐKT là một bộ phận cấu thành quan trọng của lực lượng lao động. Trong thời gian
qua chúng ta đã quan tâm đến việc phát triển bộ phận lao động này cả về số lượng và
chất lượng, nhưng trên thực tế sự mất cân đối nghiêm trọng trong cơ cấu lao động vẫn
diễn ra, tình trạng thừa thầy thiếu thợ vẫn mang tính chất phổ biến trong nền kinh tế,
chất lượng của lực lượng LĐKT chưa thực sự cao, chưa đáp ứng được nhu cầu phát
triển của KH - KT nói riêng và nền kinh tế nói chung. Do đó, để tạo điều kiện phát triển
nền kinh tế trong giai đoạn hiện nay chúng ta cần phải coi việc nâng cao chất lượng của
đội ngũ LĐKT là một trong những ưu tiên hàng đầu trong quá trình nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực để đáp ứng được yêu cầu của quá trình CNH – HĐH hiện nay.
LĐKT có vai trị rất quan trọng trong việc tăng NSLĐ xã hội và tăng trưởng kinh
tế, và nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế đất nước trong bối cảnh tồn cầu
hố, hội nhập kinh tế. Những yêu cầu cơ bản của đào tạo LĐKT cho nền kinh tế quốc
dân, đáp ứng yêu cầu CNH - HĐH, đó là mở rộng quy mơ, nâng cao chất lượng đào tạo;
góp phần đổi mới cơ cấu lao động phù hợp với cơ cấu kinh tế trong từng thời kỳ phát
triển và đào tạo phải gắn với sử dụng, gắn với những đòi hỏi của thị trường lao động;
chuyển đào tạo từ hướng cung sang hướng cầu của thị trường lao động, nhất là thị
trường lao động chất lượng cao.
Lịch sử phát triển kinh tế thế giới đã chứng minh, để đạt được sự tăng trưởng kinh
tế cao và ổn định phải thông qua việc nâng cao chất lượng đội ngũ LĐKT, nghĩa là nâng
cao chất lượng giáo dục – đào tạo. Chất lượng nguồn nhân lực được nâng lên (học vấn,
kỹ năng nghề nghiệp, sức khoẻ) là tiền đề thành công của các nước công nghiệp mới ở
Châu Á như Hàn Quốc, Singapore, Hồng Kông, Trung Quốc, Nhật Bản… Trong bối
cảnh tồn cầu hố, việc tiếp cận được các tiến bộ về KH - CN phụ thuộc chủ yếu vào
đội ngũ LĐKT, đội ngũ trí thức.
Việt Nam có nguồn lao động dồi dào, nhưng chúng ta cũng đang phải đối mặt với
với vấn đề làm thế nào để có một đội ngũ LĐKT có trình độ để đáp ứng nhu cầu của
thời đại. Với xu thế tồn cầu hố, hội nhập kinh tế quốc tế thì số lượng lao động trẻ của

1




Việt Nam khơng đáp ứng được địi hỏi của thế giới do trình độ lao động thấp; lợi thế về
nguồn nhân lực dồi dào, giá nhân công rẻ đang dần khơng cịn phù hợp nữa mà thay vào
đó là sự thiếu hụt đội ngũ lao động giỏi về chuyên môn, trình độ, năng động, sáng tạo,
áp dụng KH - KT thành thạo, có sức khoẻ tốt. Có được đội ngũ LĐKT lành nghề sẽ là
tâm điểm giúp phát triển các DN trong nước và thu hút đầu tư nước ngoài, đem lại thu
nhập cao cho người lao động, thu ngoại tệ và phát triển đất nước, tạo mối quan hệ hữu
nghị với các nước trong khu vực và trên thế giới, khẳng định được tầm quan trọng và sự
đi lên của đất nước. Do đó, hiện nay nâng cao chất lượng lao động nói chung, LĐKT nói
riêng là vấn đề mà không chỉ các nhà lãnh đạo, các nhà hoạch định chính sách, mà cịn
cả các nhà đầu tư, cách DN quan tâm.
Hà Nam sau ngày tái lập tỉnh (01/01/1997), việc mở rộng và phát triển kinh tế được
đẩy mạnh nhằm góp phần thực hiện thành cơng sự nghiệp CNH - HĐH. Trong thời gian
vừa qua, các ngành và các lĩnh vực kinh tế của Hà Nam đã không ngừng được mở rộng,
xuất hiện nhiều ngành nghề mới, các khu cơng nghiệp cũng từng bước hình thành và
phát triển. Do đó, nhu cầu về lao động có chất lượng cao, đặc biệt là LĐKT ngày càng
cao. Tuy nhiên, trên thực tế, Hà Nam vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng về
lực lượng LĐKT lành nghề cho nhu cầu mở rộng và phát triển kinh tế của mình; điều đó
đã gây ra khơng ít khó khăn và cản trở quá trình đầu tư, phát triển kinh tế cho các nhà
đầu tư khi tiến hành đầu tư trên địa bàn tỉnh.
Với những lý do trên, tôi chọn đề tài “Nâng cao chất lượng LĐKT ở Hà Nam” làm
đề tài nghiên cứu khoa học năm 2019 của mình
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề về nguồn nhân lực trong những năm gần đây đã một số nhà nghiên cứu quan
tâm như:
- TS.Mạc Văn Tiến (Chủ nhiệm đề tài), TS.Phan Tùng Mậu, Th.S Bùi Tơn Hiến.
CN. Hồng Kim Ngọc (2002), Hồn thiện hệ thống cơ sở dạy nghề đáp ứng yêu vầu
phát triển nguồn LĐKT, Đề tài nhánh của đề tài cấp Nhà nước “Phát triển LĐKT ở Việt
Nam giai đoạn 2001 – 2010”, Hà Nội.


2


- PGS.TS.Đỗ Văn Cương, TS.Mạc Văn Tiến (Chủ biên), Nguyễn Hữu Dũng (2004),
Phát triển LĐKT ở Việt Nam – Lý luận và thực tiễn, Nxb Lao động – Xã hội, Hà Nội.
- Đông Thị Hồng (2005), Đào tạo CNKT theo yêu cầu CNH - HĐH, Luận văn thạc
sĩ, ĐH Quốc gia Hà Nội.
- TS. Nguyễn Trần Dương (chủ nhiệm), TS. Trần Trí Luân, GS.TSKH. Lê Minh
Triết, PGS.TS.Đặng Văn Phan, PGS.TS. Phạm Văn Biên, TSKH. Trần Trọng Khuê, TS.
Trần Đình Thêm, KS.Vũ Qang Hải, TS. Vũ Huy Thuận, KS. Nguyễn Xích Hồng,
(2006), Báo cáo về Hiện trạng cung - cầu nguồn LĐKT thành phố Hồ Chí Minh và định
hướng giải pháp đào tạo, sử dụng cho giai đoạn tới 2010.
- TS.Mạc Văn Tiến (2006), Phát triển LĐKT ở Việt Nam trong bối cảnh tồn cầu
hố, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế (340), Tr 16 – 21.
- Đỗ Văn Đạo, Phát triển LĐKT trong nông nghiệp khi Việt Nam gia nhập WTO,
Tạp chí Lao động và Xã hội, số 303, 1/2007, tr.33-34.
- Triều Hải Quỳnh (2007), Một số vấn đề về công tác đào tạo nguồn nhân lực kỹ
thuật cao hiện nay, Tạp chí Lý luận chính trị, số 16 (136) năm 2007.
Nhưng gần như chưa có đề tài nào đi sâu nghiên cứu về vấn đề nâng cao chất lượng
lao động lỹ thuật của Hà Nam. Vì vậy, cho đến nay đề tài “ Nâng cao chất lượng LĐKT
ở Hà Nam” vẫn cịn là mới mẻ, cần thiết và có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
a. Mục đích.
Đánh giá thực trạng chất lượng LĐKT ở Hà Nam hiện nay. Từ đó đề xuất phương
hướng, quan điểm và các giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng LĐKT ở Hà Nam trong
giai đoạn tới.
b. Nhiệm vụ:
Để thực hiện mục tiêu trên, đề tài có nhiệm vụ:
- Hệ thống hố những vấn đề lý luận cơ bản về chất lượng và nâng cao chất lượng

LĐKT;

3


- Phân tích thực trạng nâng cao chất lượng LĐKT trong quá trình CNH - HĐH ở Hà
Nam trong những năm gần đây: đánh giá về chất lượng, tình hình đào tạo và sử dụng
LĐKT.
- Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng và sử dụng có hiệu quả
lực lượng LĐKT ở Hà Nam trong giai đoạn tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là nâng cao chất lượng LĐKT ở Hà Nam.
- Phạm vi nghiên cứu là chất lượng LĐKT ở Hà Nam trong giai đoạn 2005 – 2019
5. Phương pháp nghiên cứu
- Xuất phát từ những nguyên lý chung dưới góc độ kinh tế chính trị, đề tài sử dụng
phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Ngồi ra, luận văn cịn sử
dụng một số phương pháp khác như: Phân tích, tổng hợp, thống kế, so sánh … để
nghiên cứu và giải quyết các vấn đề đặt ra.
6. Những đóng góp mới
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về nâng cao chất lượng LĐKT.
- Làm rõ thực trạng chất lượng LĐKT ở Hà Nam, trên cơ sở đó đề xuất phương
hướng và giải pháp nâng cao chất lượng LĐKT cho đất nước.
- Cung cấp cứ liệu khoa học để các cấp lãnh đạo tham khảo, hoạch định chính sách
để nâng cao chất lượng LĐKT phục vụ cho quá trình CNH - HĐH đất nước.
7. Bố cục
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về nâng cao chất lượng LĐKT.
Chương 2: Thực trạng nâng cao chất lượng LĐKT ở Hà Nam hiện nay
Chương 3: Định hướng và các giải pháp tiếp tục nâng cao chất lượng LĐKT ở Hà
Nam.


4


Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
LAO ĐỘNG KỸ THUẬT
1.1. Lao động và LĐKT.
1.1.1. Khái niệm lao dộng và LĐKT
a) Khái niệm lao động.
Lao động trong kinh tế học, được hiểu là một yếu tố sản xuất do con người tạo ra và
là một dịch vụ hay hàng hoá. Lao động là hoạt động có mục đích, có ý thức của con
người nhằm tạo ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần xã hội. Do đó, lao động là
hoạt động quan trọng nhất của con người, là tiêu thức để phân biệt hoạt động của con
người với hoạt động theo bản năng của con vật.
Như vậy, lao động được hiểu ở hai mặt cơ bản, một mặt tạo ra của cải vật chất cho
xã hội, mặt khác còn cải tạo bản thân con người, phát triển con người cả về thể lực và trí
lực. Các Mác đã khẳng định: “Lao động trước hết là quá trình diễn ra sự tác động giữa
con người với con người và giữa con người với tự nhiên, một q trình trong đó, bằng
sự hoạt động của chính mình, con người làm trung gian điều tiết và kiểm tra sự trao đổi
chất giữa họ và tự nhiên. Trong khi tác động vào tự nhiên ở bên ngồi thơng qua sự vận
động đó và làm thay đổi tự nhiên, con người cũng đồng thời làm thay đổi bản tính của
chính nó”. [26, tr.230]
Cũng trong kinh tế học, những người trong lực lượng lao động là những người cung
cấp lao động. Thông thường, lực lượng lao động bao gồm tất cả những người đang ở
trong độ tuổi lao động (thường là trong khoảng từ 14 đến 16 tuổi) và chưa đến tuổi nghỉ
hưu (thường là trong khoảng từ 60 đến 65 tuổi) đang tham gia lao động. Những người
khơng được tính vào lực lượng lao động là những học sinh - sinh viên, người nghỉ hưu,
những người khơng có ý định tìm việc làm. Một phần trong lực lượng lao động đang tìm
kiếm việc làm nhưng khơng thể tìm được việc làm tạo thành đội quân thất nghiệp.
Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động là tỷ lệ giữa lực lượng lao động và toàn bộ những

người trong độ tuổi lao động. Tỷ lệ tham gia của lực lượng lao động là chìa khố, nhân
tố quan trọng và có tính quyết định cho sự tăng trưởng kinh tế.

5


Tổng hợp thể lực và trí lực của con người gọi là sức lao động. Con người tiêu dùng
sức lao động của mình trong quá trình lao động sản xuất gọi là lao động sản xuất. Như
vậy, sức lao động là khả năng của lao động, còn lao động là sự tiêu dùng sức lao động
đó.
Vậy, lao động là quá trình con người dùng sức lao động tác động vào đối tượng lao
động để tạo ra của cải nuôi sống bản thân và góp phần phát triển xã hội. Lao động là
hoạt động diễn ra thường xuyên và không ngừng từ lúc con người xuất hiện. Trong quá
trình lao động, con người khơng ngừng tích luỹ kinh nghiệm sản xuất, làm giàu tri thức
của mình, hồn thiện thể lực, trí lực. Lao động có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao
là nhân tố quyết định sự tồn tại của xã hội loài người và sự phát triển của mỗi quốc gia.
Với những quan điểm đó, có thể khẳng định rằng, lao động là quyền lợi và nghĩa vụ
của mỗi con người trong mỗi quốc gia, dân tộc; Lao động đóng một vị trí đặc biệt quan
trọng trong tiến trình phát triển và đi lên của đất nước. Một đất nước có nguồn lao động
trẻ dồi dào, có kỹ năng và trình độ sẽ mang lại rất nhiều lợi thế trong quá trình mở cửa
hội nhập trong giai đoạn hiện nay. “Học vấn, kỹ năng, tay nghề là cái kho, lao động là
chìa khố để mở cái kho đó”. Chính vì vậy mà chúng ta cần phải chú trọng hơn nữa tới
lao động, đặc biệt là LĐKT.
b) Khái niệm LĐKT.
Đứng trước yêu cầu phát triển của nền kinh tế hiện nay thì nhu cầu tuyển dụng
người lao động là rất lớn. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay đang tồn tại thực tế là: chúng
ta có lực lượng lao động dồi dào, lao động trẻ và có khả năng thích ứng với nhanh với
những ngành nghề mới nhưng chất lượng lao động còn thấp, chưa đáp ứng được nhu
cầu phát triển của đất nước trong hiện tại và những năm tiếp theo. Trình độ CMKT của
người lao động cịn thấp và cơ cấu các loại trình độ cũng như cơ cấu ngành ngề chưa

hợp lý, có nhiều ngành nghề đào tạo thừa khơng sử dụng hết, song lại có nhiều ngành
nghề quá thiếu, đặc biệt là thiếu hụt đội ngũ CNKT rất cần cho nền kinh tế.
Thuật ngữ “LĐKT”, trên thực tế, được dùng khá phổ biến, với quan niệm rất khác
nhau:

6


Số liệu thống kê lao động - việc làm ở Việt Nam do Nhà xuất bản Lao động – Xã
hội phát hành hàng năm trên cơ sở kết quả điều tra lao động - việc làm sử dụng khái
niệm “Lao động CMKT” để phân chia lao động theo trình độ CMKT, bao gồm khơng có
CMKT, sơ cấp/ học nghề trở lên. Theo khái niệm này, lao động CMKT là lao động được
đào tạo từ sơ cấp trở lên đến ĐH và sau ĐH, cịn lại là lao động khơng có CMKT.
Đề án nghiên cứu tổng thể về giáo dục – đào tạo và phân tích nguồn nhân lực Việt
Nam (VIE/89/022) do UNESCO, UNDP, Bộ Giáo dục và Đào tạo thực hiện đã đưa ra
khái niệm “lao động kỹ thuật” và cho rằng LĐKT là lao động qua đào tạo được cấp
bằng hoặc chứng chỉ của các bậc đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân thống nhất.
Như vậy, theo khái niệm này, người lao động được xếp vào loại LĐKT nến hội tụ đủ hai
điều kiện:
- Được đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân thống nhất.
- Được cấp bằng hoặc chứng chỉ của các bậc đào tạo.
LĐKT theo quan niệm này thực chất đồng nghĩa với khái niệm “Lao động qua đào
tạo” hay khái niệm “Lao động CMKT” được sử dụng trong thống kê nhà nước, nghĩa là
lao động được đào tạo và được cấp bằng hoặc chứng chỉ.
LĐKT theo dự án VIE/89/022 xét về tính chất lao động bao gồm hai loại:
- LĐKT mang tính thực hành.
- Lao động chuyên môn (quản lý, nghiên cứu và chuyên gia) mang tính chất hàn
lâm.
Như vậy, khái niệm LĐKT ở đây được hiểu theo hai cấp độ:
- Theo nghĩa rộng: LĐKT là loại lao động qua đào tạo, được cấp bằng và chứng chỉ

của các bậc đào tạo nói chung.
- Theo nghĩa hẹp: LĐKT là loại lao động được đào tạo, được cấp bằng hoặc chứng
chỉ của hệ thống giáo dục quốc dân, đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động và có kỹ
năng hành nghề để thực hiện các cơng việc có độ phức tạp với các công nghệ khác nhau,
phù hợp với ngành nghề ở các cấp trình độ khác nhau, trực tiếp tạo ra sản phẩm hàng
hoá và dịch vụ phục vụ quốc kế dân sinh.

7


Như vậy, khái niệm LĐKT theo nghĩa hẹp, đó là loại lao động mang tính chất thực
hành. Trong điều kiện giới hạn, luận văn chỉ đề cập đến LĐKT theo nghĩa hẹp này.
Khái niệm LĐKT theo quan niệm mới phù hợp với chiến lược phát triển giáo dục
2001 – 2010 mà Chính phủ phê duyệt (Quyết định số 201/2001/QĐ – TTg ngày
28/12/2001 của Thủ tướng Chính phủ), trong đó chỉ rõ cần hình thành hệ thống đào tạo
kỹ thuật thực hành đáp ứng nhu cầu phát triển KT - XH, trong đó chú trọng đào tạo
CNKT, kỹ thuật viên và nhân viên nghiệp vụ trình độ cao. Đồng thời, cũng phù hợp với
quy hoạch mạng lưới trường dạy nghề giai đoạn 2001 – 2010 mà Chính phủ đã phê
duyệt chuẩn (Quyết định số 48/2002/QĐ-TTg ngày 14/04/2002 của Thủ tướng Chính
phủ) và quy hoạch mạng lưới các trường ĐH và CĐ giai đoạn 2006 - 2020 mà chính phủ
đã duyệt (Quyết định 121/2007/QĐ-TTg ngày 27/7/2007 của Thủ tướng Chính phủ),
trong đó đều xác định, hình thành hệ thống đào tạo kỹ thuật thực hành theo 3 cấp trình
độ (bán lành nghề, lành nghề và trình độ cao), chú trọng đào tạo CNKT, kỹ thuật viên và
nhân viên nghiệp vụ trình độ cao.
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, LĐKT được hiểu là lao động có
kiến thức, có kỹ năng, có trình độ đáp ứng được u cầu của các nhà đầu tư trong quá
trình hội nhập. LĐKT phải được thực hiện trên 3 mặt của chất lượng nhân lực: thể lực,
trí lực và phẩm chất.
1.1.2. Chất lượng LĐKT và các tiêu chí đánh giá chất lượng LĐKT.
a) Chất lượng LĐKT

*) Chất lượng:
Hiện nay, chất lượng là mối quan tâm hàng đầu của mọi tổ chức mà không phải chỉ
của riêng ngành nào. Chất lượng là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của một tổ
chức. Chất lượng là vấn đề rất trừu tượng, không ai nhìn thấy được và cảm nhận được
một cách trực tiếp bằng các giác quan của mình, khơng thể đo lường bằng các công cụ
đo lường thông thường. Tuy nhiên trên thực tế, ai cũng cơng nhận vai trị quan trọng của
chất lượng, nhưng đang có nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau về chất
lượng và quản lý chất lượng đào tạo nhân lực, trong đó có đào tạo LĐKT.

8


Theo từ điển Tiếng Việt phổ thông, chất lượng là tổng thể những tính chất, thuộc
tính cơ bản của sự vật, hiện tượng làm cho sự vật hiện tượng này phân biệt với các sự
vật, hiện tượng khác.
Chất lượng là tiềm năng của một sản phẩm hay dịch vụ nhằm thoả mãn nhu cầu của
người sử dụng (tiêu chuẩn Pháp NFX50-109)
Chất lượng là tập hợp các đặc tính của một thực thể (đối tượng) tạo cho thực thể đó
khả năng thoả mãn những nhu cầu đã nêu ra hoặc những nhu cầu tiềm ẩn (TCVN ISO
8402)
Như vậy có thể thấy, chất lượng là sự thoả mãn của khách hàng. Chất lượng được
đảm bảo và đánh giá theo một quá trình, từ đầu vào - đến quá trình - đầu ra, cùng với sự
cải tiến chất lượng nhằm tối ưu hoá sự thoả mãn của khách hàng.
*) Chất lượng LĐKT
Chất lượng LĐKT là trạng thái nhất định của LĐKT, biểu hiện mối quan hệ giữa
các yếu tố cấu thành nên bản chất bên trong của LĐKT. Nó là tồn bộ khả năng và hiệu
quả làm việc của LĐKT, có thể thoả mãn được nhu cầu của người sử dụng lao động
trong q trình sản xuất. Chất lượng LĐKT khơng những là một trong những chỉ tiêu
phản ánh trình độ phát triển kinh tế, mà cịn là chỉ tiêu phản ánh trình độ phát triển về
mặt đời sống xã hội, bởi lẽ chất lượng LĐKT cao sẽ tạo ra động lực mạnh mẽ hơn với tư

cách không chỉ là nguồn lực của sự phát triển mà còn thể hiện mức độ văn minh của một
xã hội nhất định.
Chất lượng LĐKT hiện nay được thể hiện qua một hệ thống các chỉ tiêu, trong đó có
các chỉ tiêu chủ yếu:
- Trình độ học vấn của người lao động;
- Trình độ tay nghề của người lao động;
- Sức khoẻ của người lao động;
- Trình độ ngoại ngữ của người lao động;
- Các yếu tố thuộc về thái độ, hành vi và đạo đức nghề nghiệp của người lao
động.

9


Như vậy, chất lượng LĐKT cuối cùng thể hiện ở năng lực hành nghề của người lao
động được đào tạo ở cấp trình độ tương ứng. Tức là thể hiện ở sự hiểu biết công việc,
nghề nghiệp, khả năng thực hiện công việc với độ phức tạp nhất định (hoạt động thực
tiễn) và kết quả thực hiện (sản phẩm đầu ra) với năng suất và kết quả đáp ứng các tiêu
chuẩn chất lượng địi hỏi ở từng cấp trình độ tương đương.
b) Các tiêu chí đánh giá chất lượng LĐKT:
- Phát triển và tăng trưởng kinh tế là những mục tiêu quan trọng của chiến lược phát
triển KT - XH, đồng thời cũng là chỉ tiêu chủ yếu đánh giá trình độ phát triển của quốc
gia. Trong quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế, nguồn nhân lực chất lượng cao,
nhất là lực lượng LĐKT là nguồn lực quan trọng, là yếu tố quyết định nhất của lực
lượng sản xuất, của nền KT - XH và sử dụng tiến bộ KH - CN mới vào sản xuất và do
đó là một trong những yếu tố quyết định nhất của tăng trưởng kinh tế nhanh và bền
vững. Ngược lại, sự phát triển và tăng trưởng kinh tế là tiêu chí quan trọng để đánh giá
chất lượng của LĐKT. Chất lượng LĐKT thể hiện trước hết ở tiêu chí định tính, đó là:
+ Trình độ học vấn.
Trình độ học vấn là trình độ văn hố của người lao động, chuẩn mực này nhằm xác

định khả năng tiếp thu những kiến thức cơ bản, thực hiện những công việc đơn giản để
duy trì cuộc sống. Trình độ học vấn được cung cấp qua hệ thống giáo dục chính quy và
khơng chính quy, qua quá trình học tập của mỗi cá nhân. Người lao động có trình độ học
vấn càng cao thì khả năng nhận thức, học hỏi, tiếp thu những kiến thức mới càng tốt; có
ý thức kỷ luật trong cơng việc. Thị trường lao động quốc tế ngày càng đòi hỏi người lao
động nói riêng và LĐKT nói chung phải có trình độ học vấn cao để sử dụng sáng tạo
dây truyền máy móc, thiết bị, cơng nghệ hiện đại cũng như hiểu và thực hiện tốt các yêu
cầu của người sử dụng lao động.
+ Trình độ tay nghề.
Trình độ tay nghề là những kiến thức, kỹ năng hay khả năng thành thạo một nghề,
một lĩnh vực của người lao động. Người có trình độ tay nghề là những người đã tham
gia các khoá đào tạo nghề tại các trường dạy nghề chuyên nghiệp hoặc các trung tâm
dạy nghề dưới các hình thức:

10




Đào tạo nghề ngắn hạn: thời gian đào tạo là dưới 1 năm, chủ yếu là trang bị cho
người lao động những kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp phổ thơng.

• Đào tạo nghề dài hạn: thời gian đào tạo từ 1 đến 3 năm, kết thúc khoá học người lao
động được cấp bằng CNKT hoặc nhân viên nghiệp vụ.
• Đào tạo nghề theo mơđun: giúp người lao động nói chung, LĐKT nói riêng có thể
chủ động tham gia các chương trình đào tạo nghề phù hợp với điều kiện, hồnh cảnh
của mình, có thể vừa học vừa làm. Hình thức này rất phù hợp với các DN có nhu cầu
nâng cao tay nghề cho người lao động hoặc khi DN có sự thay đổi cơng nghệ sản
xuất.
Người lao động có tay nghề tốt, có khả năng thường được trọng dụng và có mức

lương cao hơn so với LĐPT, chưa được đào tạo nghề. Hơn nữa, các DN nhập khẩu lao
động ln muốn tuyển chọn những lao động đã có nghề để giảm bớt chi phí đào tạo, tận
dụng tối đa năng lực sản xuất để thực hiện công việc.
+ Sức khoẻ
Sức khoẻ vừa là mục đích vừa là điều kiện để phát triển mọi mặt của con người. Sức
khoẻ là sự phát triển hài hoà của con người cả về thể chất và tinh thần. Sức khoẻ có thể
là sự cường tráng, là năng lực hoạt động chân tay. Sức khoẻ tinh thần là sự dẻo dai của
hoạt động thần kinh, là khả năng vận động của trí tuệ, biến tư duy thành hành động thực
tiễn. Một số chỉ tiêu cơ bản để đánh giá thực trạng sức khoẻ gồm: chiều cao, cân nặng,
tình hình bệnh tật, thể trạng và trạng thái tinh thần … Sức khoẻ là một trong những nhân
tố căn bản để đánh giá chất lượng nguồn LĐKT. LĐKT có sức khoẻ tốt có thể mang lại
NSLĐ cao nhờ sự bền bỉ, dẻo dai và khả năng tập trung trong khi làm việc. Nếu sức
khoẻ kém sẽ làm giảm NSLĐ và ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm họ làm ra. Lực
lượng lao động nói chung và LĐKT nói riêng của Việt Nam thường bị hạn chế về sức
khoẻ do xuất phát từ những vùng nông thôn nghèo, cuộc sống cịn nhiều thiếu thốn,
khơng được chăm sóc y tế đầy đủ nên thể lực yếu. trong khi đó, u cầu của q trình
sản xuất cơng nghiệp với những dây truyền máy móc, thiết bị hiện đại địi hỏi người lao
động phải có sức chịu đựng dẻo dai, ln tỉnh táo, tinh thần sảng khối để điều khiển

11


các máy móc, thiết bị địi hỏi độ chính xác và đảm bảo an tồn, đáp ứng được q trình
sản xuất liên tục.
+ Trình độ ngoại ngữ:
Trong điều kiện hội nhập toàn cầu và sự phát triển mạnh mẽ của KH-CN như hiện
nay thì khả năng về ngoại ngữ của LĐKT là một tiêu chí quan trọng để đánh giá khả
năng tiếp thu những công nghệ sản xuất mới, hiện đại. Khả năng về ngoại ngữ tốt giúp
cho người lao động có thể nghiên cứu các tài liệu nước ngồi và giao tiếp với các
chuyên gia kỹ thuật của nước ngồi nhờ đó mà tiếp thu tốt hơn các thành tựu mới của

nhân loại về KH - CN và các dây truyền sản xuất mới.
+ Các yếu tố thuộc về thái độ, hành vi và phẩm chất đạo đức nghề nghiệp.
Ngồi các yếu tố thể lực và trí tuệ, trong q trình lao động địi hỏi người lao động
phải có hàng loạt các phẩm chất như tính kỷ luật, tự giác, tinh thần hợp tác, phong cách
công nghiệp, linh hoạt, tinh thần trách nhiệm cao … Những yếu tố này chịu ảnh hưởng
của phong tục, tập quán, truyền thống văn hoá của địa phương – nơi người lao động sinh
sống. Đồng thời, nó cũng được tạo ra từ q trình giáo dục, q trình cơng nghiệp hố
và phát triển kinh tế thị trường.
Người lao động Việt Nam nói chung và LĐKT nói riêng có đức tính cần cù, chịu
khó, sáng tạo, thơng minh nhưng trong đó khơng ít người có phong cách sống và làm
việc cá nhân, tự do, thiếu tinh thần hợp tác, tác phong sản xuất thủ công, nhỏ lẻ, ít có cơ
hội giao tiếp, tìm hiểu thế giới bên ngồi nên thiếu thơng tin, ý thức chấp hành kỷ luật
và thực hiện hợp đồng lao động của một số lao động còn kém. Họ thường ứng xử theo
cảm tính, khơng có nhận thức về quan hệ chủ thợ, bỏ qua những quy định, luật lệ của
nơi mà họ đang làm việc nên dẫn tới những tranh chấp trong quan hệ lao động. Đây là
những nhược điểm chính của LĐKT Việt Nam trong tiến trình cơng nghiệp hố và hội
nhập kinh tế quốc tế.
Cùng với xu thế hội nhập, phát triển địi hỏi LĐKT Việt Nam phải xố bỏ tác phong
chậm chạp, lề mề, ý thức kỷ luật kém, vô tổ chức để thay bằng tác phong công nghiệp
(khẩn trương, đúng giờ …), ý thức kỷ luật, tự giác cao, có niềm say mê nghề nghiệp,
sáng tạo và năng động trong công việc.

12


- Tiêu chí định lượng về chất lượng LĐKT mặc là rất khó xác định đối với bậc Thạc
sỹ. Tuy nhiên, tác giả luận văn cho rằng có thể lấy số LĐKT được sử dụng trong các
ngành kinh tế và sự đóng góp của họ cho tăng trưởng kinh tế thông qua NSLĐ, thông
qua sự lao động hăng say nhiệt tình làm việc, có nhiều sáng kiến cải tiến kỹ thuật để
giảm chi phí, tăng lợi nhuận … nhất là sự hài lịng của các nhà tuyển dụng LĐKT vì đã

đem lại lợi ích thiết thực cho sự phát triển của đơn vị và của toàn bộ nền kinh tế nói
chung.
1.1.3. Sự cần thiết nâng cao chất lượng LĐKT
Nâng cao chất lượng LĐKT của một quốc gia là cần thiết. sự cần thiết đó là do sự
phát triển mạnh mẽ của KH - CN; của tồn cầu hố và hội nhập kinh tế quốc tế đã và
đang diễn ra quá trình di chuyển mạnh các dịng vốn, KH - CN, nguồn lao động có chất
lượng giữa các nước, nhất là những nước có nền kinh tế đang phát triển. Ở những nước
này, một mặt tiếp nhận nguồn lao động có chất lượng (LĐKT) từ bên ngồi di chuyển
đến, để góp phần đẩy nhanh sự phát triển KT - XH đất nước. Mặt khác, nguồn LĐKT từ
bên ngoài di chuyển đến sẽ đem đến sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường lao động quốc
gia. Sự cạnh tranh này, nếu lao động nội địa không được đào tạo nâng cao chất lượng thì
sẽ bị thua thiêt, mất việc làm, tác động không nhỏ đến KT - XH đất nước. Nền kinh tế
đang phát triển nếu phụ thuộc vào tiền vốn, lao động bên ngồi thì nến kinh tế đó sẽ
khơng phát triển bền vững, sớm muộn nền kinh tế đó khơng cịn tính độc lập tự chủ
trong điều kiện thế giới phẳng. Vì vậy, để thích ứng hội nhập, thích ứng với sự phát triển
của KH - CN thế giới và nhất là để đáp ứng yêu cầu đặt ra của sự nghiệp phát triển kinh
tế đất nước, việc nâng cao chất lượng LĐKT - nguồn lực đóng vai trị hàng đầu của sự
phát triển nên kinh tế bền vững là tất yếu. Tính tất yếu này là do sự chi phối của một số
tác động sau:
a. Sự phát triển của KH – KT đặt ra yêu cầu nâng cao chất lượng LĐKT.
Bước vào thế kỷ XXI, cuộc cách mạng KH - CN tiếp tục phát triển với những bước
tiến nhảy vọt, trở thành động lực của sự phát triển KT - XH, kéo theo những biến đổi
đột biến, mạnh mẽ và sâu sắc đời sống vật chất và tinh thần của xã hội, đã đưa xã hội
loài người chuyển sang một thời đại văn minh mới với nền tảng của nó là phát triển nền
kinh tế tri thức. Cách mạng KH - CN đưa thế giới chuyển từ kỷ nguyên công nghiệp

13


sang kỷ ngun thơng tin; ở đó, các ngành sản xuất và dịch vụ chủ yếu dựa vào tri thức

và công nghệ. Cách mạng KH - CN làm cho nhiều ngành, nghề cũ, truyền thống mất đi
và cũng xuất hiện nhiều ngành nghề mới; cơ cấu ngành nghề và tỉ trong cuả nó trong các
lĩnh vực dịch vụ ngày càng thay đổi nhanh chóng. Trước điều kiện đó, yêu cầu về nguồn
nhân lực ngày càng phải cao, trong đó LĐKT là lực lượng nòng cốt.
Nền kinh tế tri thức là giai đoạn phát triển mới của lực lượng sản xuất loài người, từ
dựa chủ yếu vào nguồn nhân lực vật chất sang nguồn nhân lực trí tuệ (nguồn lực con
người) và làm thay đổi căn bản tính chất lao động. Tỷ trọng lao động trực tiếp giảm
mạnh, lao động gián tiếp và dịch vụ tăng nhanh, xuất hiện và gia tăng nhanh chóng cơng
nhân trí thức. Lúc này, địi hịi người lao động khơng chỉ có kỹ năng nghề nghiệp ở trình
độ cao mà cịn phải có nhiều kỹ năng khác nhau. Vì vậy, đào tạo LĐKT để nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực là nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục nghề nghiệp. Ở Việt
Nam hiện nay, nếu không tập trung vào đào tạo và nâng cao chất lượng LĐKT sẽ dẫn
đến hậu quả nghiêm trọng là không đảm bảo được nhu cầu cung cấp LĐKT cho nền
kinh tế quốc dân.
b. Quá trình hội nhập đặt ra yêu cầu nâng cao chất lượng LĐKT.
Tồn cầu hố và hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế khách quan. Q trình đó đã
tạo ra nhiều cơ hội phát triển cho các quốc gia nhưng cũng khơng ít thách thức. Tồn
cầu hố và hội nhập kinh tế quốc tế sẽ diễn ra sự cạnh tranh kinh tế giữa các quốc gia
ngày càng quyết liệt hơn, đó là q trình vừa hợp tác vừa cạnh tranh. Lúc này, ưu thế
cạnh tranh nghiêng về các nước có nền chính trị, xã hội an tồn và ổn định, mơi trường
thể chế thuận lợi cho đầu tư và có nguồn nhân lực chất lượng cao, đảm bảo tăng NSLĐ,
nâng cao chất lượng hàng hoá và đổi mới cơng nghệ một cách nhanh chóng
Tồn cầu hố có sự phát triển mạnh mẽ của các cơng nghệ tồn cầu như cơng nghệ
thơng tin, viễn thơng, vận tải, hàng không …; là sự mở rộng và phát triển mạnh mẽ của
các loại thị trường, sự phát triển mạnh mẽ của các công ty xuyên quốc gia, các tổ chức
kinh tế khu vực và tồn cầu. Q trình hội nhập đặt ra yêu cầu nâng cao năng lực cạnh
tranh của sản phẩm của DN và của quốc gia; đảm bảo LĐKT, nhất là lao động trình độ
cao, đáp ứng yêu cầu của công nghệ mới.

14



Trong nỗ lực phấn đấu nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm, của DN và của
quốc gia, nguồn nhân lực có vai trị quan trọng, là con đường cơ bản, giải pháp đột phá
trên cơ sở phát triển, nâng cao chất lượng lao động; nhanh chóng đào tạo LĐKT chất
lượng cao theo chuẩn mực quốc gia và quốc tế về trình độ lành nghề, khả năng tiếp thu
nhanh chóng, sáng tạo và làm chủ cơng nghệ, khả năng chuyển đổi nghề linh hoạt, tính
chịu trách nhiệm, khả năng nắm bắt và giao tiếp với khách hàng, khả năng làm việc theo
nhóm, làm việc trong mơi trường văn hố đa dân tộc và tơn giáo.
Việt Nam trong q trình hội nhập có nhiều cơ hội trong việc tạo việc làm mới ở các
khu vực đầu tư nước ngoài với công nghệ cao và khoa học quản lý hiện đại. Ở khu vực
này nhu cầu sử dụng lao động ở các ngành, nghề mới và trình độ cao, nhất là CNKT,
công nhân lành nghề, kỹ thuật viên và nhân viên nghiệp vụ trình độ cao theo tiêu chuẩn
quốc tế ngày càng lớn. Hơn nữa, quá trình CNH - HĐH rút ngắn địi hỏi chúng ta phải
ứng dụng có hiệu quả công nghệ nhập khẩu, đi nhanh vào công nghệ hiện đại ở một số
ngành và lĩnh vực then chốt, mũi nhọn của nền kinh tế để tạo ra sự nhảy vọt về công
nghệ và kinh tế, tạo tốc độ tăng trưởng vượt trội ở những sản phẩm và dịch vụ chủ lực
(công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu mới, cơng nghệ sinh học…) trên cơ sở hình
thành các khu công nghệ cao.
Như vậy nhu cầu đào tạo ứng dụng các công nghệ nhập khẩu và cung cấp cho các
khu cơng nghiệp cao sẽ ngày càng tăng, địi hỏi phải có sự chuẩn bị và đào tạo đội ngũ
LĐKT tương ứng.
Trong quá trình hội nhập, xuất khẩu lao động và chuyên gia cũng là hướng mũi
nhọn tạo việc làm và tham gia vào thị trường lao động quốc tế và khu vực của Việt
Nam; trong đó chủ yếu là xuất khẩu lao động có nghề và chun mơn trình độ cao.
Như vậy, việc đào tạo nhằm nâng cao chất lượng lao động nói chung và LĐKT nói
riêng trong q trình hội nhập là một yêu cầu cấp bách trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế.
c. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu LĐKT đặt ra yêu cầu nâng cao chất
lượng LĐKT.


15


Chiến lược phát triển KT - XH giai đoạn 2001 – 2010 nêu rõ: phát triển kinh tế,
CNH - HĐH là nhiệm vụ trung tâm. Vấn đề quan trọng nhất trong nội dung CNH HĐH là chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH HĐH tác động đến việc nâng cao chất lượng LĐKT trên các mặt sau:
- Chuyển quá trình sản xuất vào việc áp dụng công nghệ hiện đại, công nghệ cao,
làm thay đổi cơ cấu giá trị các ngành trong GDP. Chiến lược phát triển KT - XH 10 năm
2001 – 2010 đã xác định đến 2010 tỷ trọng trong GDP của nông nghiệp là 16 – 17%,
công nghiệp – xây dựng là 40 – 41%, dịch vụ là 42 – 43%. Tương ứng cơ cấu lao động
là 50% - 23% - 27% và tỷ lệ qua đào tạo là 40%, trong đó đào tạo nghề là 26% [3,
tr.127]. Sự tác động của chuyển dịch cơ cấu kinh tế đến cơ cấu lao động và đào tạo
LĐKT là sự tác động khách quan và ràng buộc lẫn nhau trong tổng thể kinh tế vĩ mô
không thể tách rời, vừa là điều kiện, vừa là tiền đề của nhau.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH theo các ngành, thực chất là
chuyển từ nền kinh tế truyền thống ở trình độ thấp, dựa vào nơng nghiệp là chủ yếu sang
nền kinh tế hiện đại, trình độ cao, phát triển mạnh cơng nghiệp và dịch vụ. Q trình
chuyển dịch này làm cho cơ cấu ngành nghề thay đổi tác động mạnh mẽ đến đào tạo
LĐKT cho phù hợp, số lao động đã được đào tạo theo ngành, nghề cũ cần được đào tạo
lại, đào tạo bổ sung kỹ năng theo yêu cầu của ngành nghề mới. Số lao động mới khi
tham gia đào tạo sẽ được tiếp cận ngay với ngành nghề mới mà thực tế lao động sản
xuất đã xuất hiện và đang phát triển.
Đào tạo LĐKT phục vụ cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hoá, hiện đại trở thành nhiệm vụ ngày càng quan trọng, địi hỏi phải đổi mới một cách
căn bản tồn bộ hệ thống đào tạo kỹ thuật thực hành đáp ứng được yêu cầu của thực tế
và cập nhật công nghệ mới luôn luôn thay đổi.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo vùng kéo theo cơ cấu lại lực lượng lao động theo
vùng và đặt ra yêu cầu mới trong đào tạo LĐKT, nhất là LĐKT tại chỗ nhằm hạn chế
dòng di chuyển LĐKT giữa các vùng và chảy máu chất xám. Với việc Chính phủ quyết
định hình thành các vùng kinh tế trọng điểm và các khu kinh tế mở đều là các khu cơng

nghiệp tập trung, có đầu tư lớn, liên doanh, liên kết với nước ngoài, áp dụng cơng nghệ
cao, sản xuất sản phẩm hàng hố chủ yếu cho xuất khẩu đã tác động đến đào tạo LĐKT

16


không chỉ về mặt nâng cao chất lượng đào tạo LĐKT ở trình độ cao đáp ứng u cầu
của cơng nghệ sản xuất hiện đại mà còn đặt ra yêu cầu phải quy hoạch lại mạng lưới các
cơ sở đào tạo, nhất là các trường trọng điểm có quy mơ thích hợp ở các vùng đáp ứng
kịp thời, tại chỗ LĐKT phù hợp với tốc độ phát triển kinh tế các vùng.
d. Sự phát triển của nền kinh tế thị trường.
Nền kinh tế thị trường mà chúng ta xây dựng là nền kinh tế nhiều thành phần trong
đó mọi thành phần kinh tế đều được khuyến khích phát triển và có cơ hội phát triển
nhưng kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; một nền kinh tế độc lập tự chủ nhưng
khơng phải là khép kín mà là nền kinh tế mở, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tham
gia vào sự phân công lao động quốc tế với vị thế và hiệu quả cạnh tranh ngày càng cao.
Sự phát triển của nền kinh tế thị trường đã đặt ra yêu cầu về việc nâng cao chất
lượng LĐKT trên các mặt:
- Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam phải dựa trên sự
hình thành cơ bản về thể chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa để tạo lập khung
khổ pháp lý và tạo lập đồng bộ các yếu tố của thị trường, trong đó có thị trường lao
động. Lao động tham gia vào thị trường lao động với sự cạnh tranh ngày càng quyết liệt.
Người lao động sẽ có nhiều cơ hội việc làm và thắng trong cạnh tranh là người có năng
lực nghề nghiệp và phẩm chất vượt trội phù hợp với yêu cầu của công việc mà người sử
dụng đang cần. Cơ chế cạnh tranh của thị trường lao động sẽ tạo ra động lực khuyến
khích người lao động học tập suốt đời, khơng ngừng nâng cao trình độ mọi mặt: Sức
khoẻ, trình độ tay nghề, … Có thể nói, cơ chế thị trường tạo ra nhu cầu về đào tạo
LĐKT của chính người lao động. Đó là nhu cầu khách quan và không ngừng phát triển.
Tiền công, tiền lương trong kinh tế thị trường là giá cả của lao động, là sự biểu hiện
bằng tiền của giá trị lao động. Lao động càng có trình độ cao càng có khả năng nâng cao

NSLĐ, giảm chi phí lao động trong giá trị đơn vị sản phẩm, làm cho tỉ trọng chi phí tiền
lương trong giá trị gia tăng có xu hướng giảm và do đó càng được trả lương, trả cơng
cao hơn, khi mà sản phẩm có khả năng cạnh tranh hơn trên thị trường. Hơn nữa, theo
quy luật tối đa hố lợi nhuận, với một trình độ kỹ thuật và công nghệ nhất định, tổng cầu
lao động phụ thuộc vào độ co giãn của lao động với đầu ra và tương quan giữa chi phí

17


tiền lương với các yếu tố đầu vào khác. Trong nền kinh tế thị trường hiện đại dựa trên
nền tảng kỹ thuật và công nghệ cao, xu hướng tiền lương tăng lên, dẫn đến việc lựa chọn
sử dụng nhiều tư bản hơn lao động, tức là tăng cầu LĐKT cao, giảm cầu về lao động
khơng có trình độ LĐKT. Đây cũng là yếu tố khách quan làm tăng cầu LĐKT trình độ
cao trong cơ chế thị trường, dẫn đến tăng nhu cầu đào tạo LĐKT trình độ ngày càng cao
để đáp ứng được yêu cầu của công nghệ mới - hiện đại và sự phát triển của các khu kinh
tế trọng điểm, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao.
e. Nhu cầu về LĐKT là cầu dẫn xuất.
Nhu cầu về LĐKT nói riêng và lao động nói chung là nhu cầu dẫn xuất, do nhu cầu
về sản xuất sản phẩm quyết định; nhu cầu về sản xuất sản phẩm lại xuất phát từ nhu cầu
tiêu dùng của con người. Cùng với sự phát triển của nền sản xuất xã hội, nhu cầu của
con người ngày càng phong phú và đa dạng, đòi hỏi số lượng sản phẩm sản xuất ngày
càng nhiều hơn, với chất lượng cao hơn. Do đó, nâng cao chất lượng LĐKT là điều kiện
cần thiết để nâng cao chất lượng và hiệu quả của quá trình sản xuất sản phẩm, nhờ đó
mà đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng cũng như của nền sản xuất
xã hội.
g. CNH – HĐH đặt ra yêu cầu nâng cao chất lượng LĐKT.
Quá trình CNH - HĐH đất nước là một xu thế tất yếu của lịch sử, là q trình trạng
bị kỹ thuật cơng nghệ hiện đại cho nền kinh tế quốc dân. Qúa trình đó địi hỏi lực lượng
lao động, nhất là LĐKT ngày càng phải có trình độ học vấn và tay nghề, sức khoẻ và
thái độ, tác phong, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp để có thể tiếp cận và sử dụng được

cơng nghệ đó. Trong khi đó, nước ta tiến hành CNH - HĐH từ mặt bằng kinh tế thấp
kém với một đội ngũ lao động nói chung chất lượng thấp. Vì vậy, trong giai đoạn tới, để
tiến hành CNH-HĐH, một đòi hỏi cấp bách là phải nâng cao chất lượng lực lượng lao
động nói chung và LĐKT nói riêng.
Như vậy, nâng cao chất lượng LĐKT trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam là một tất
yếu khách quan, đáp ứng u cầu và địi hỏi mới của q trình CNH - HĐH trong điều
kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý vĩ mô
của nhà nước hiện nay.

18


1.2. Điều kiện nâng cao chất lượng lao động kỹ thuật.
Nâng cao chất lượng LĐKT là sự hình thành và khơng ngừng nâng cao trình độ
nghề nghiệp và khả năng hành nghề của người lao động trong quá trình đào tạo cũng
như trong cả đời sống và làm việc của họ để đạt được cấp độ nào đó và có thể làm được
các công việc phức tạp tương ứng. Nâng cao chất lượng LĐKT phải bao gồm các nội
dung:
- Sự hiểu biết và kiến thức nghề;
- Kỹ năng nghề;
- Thái độ, tác phong nghề và thói quen làm việc.
Nâng cao chất lượng LĐKT theo các nội dung trên có quan hệ chặt chẽ với danh
mục nghề, nhất là danh mục nghề đào tạo, tiêu chuẩn nghề và hệ thống đánh giá, thẩm
định, thi để cấp bằng/chứng chỉ nghề ở cấp quốc gia, tiến dần đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Hiện nay, đào tạo LĐKT về mặt chất lượng phải đảm bảo tiêu chuẩn quốc gia và
dần dần đạt tiêu chuẩn khu vực và quốc tế. Đây là một yêu cầu khó khăn, đòi hỏi phải
đổi mới hệ thống đào tạo LĐKT phù hợp với giai đoạn mới, trong đó cần tập trung vào
các nội dung:
- Xây dựng danh mục nghề đào tạo kỹ thuật thực hành phù hợp với sự phát triển của
kỹ thuật và công nghệ của quốc gia trong từng thời kỳ;

- Xây dựng tiêu chuẩn nghề cho từng cấp trình độ (bán lành nghề, lành nghề, trình
độ cao cấp trường, cấp quốc gia, dần đạt tiêu chuẩn chất lượng đào tạo nghề khu vực và
quốc tế;
- Đầu tư vào các yếu tố đảm bảo chất lượng trong đào tạo (giáo viên, nội dung, giáo
trình, cơ sở vật chất, máy móc, thiết bị … nhất là cho thực hành);
- Xây dựng và cấp chứng nhận các cơ sở dạy nghề đạt tiêu chuẩn đào tạo LĐKT
chất lượng cao, trước hết là các trường trọng điểm, để trong một số năm có nhiều trường
đạt chuẩn quốc gia và quốc tế, có uy tín trong nước và trên thế giới;
- Hình thành các chương trình, dự án trọng điểm có mục tiêu về nâng cao năng lực
đào tạo LĐKT trên phạm vi toàn tỉnh và trong các ngành, các DN.

19


Thực hiện các nội dung này được tiến hành thông qua việc hình thành và xây dựng
các điều kiện để nâng cao chất lượng LĐKT. Cụ thể:
1.2.1. Cơ chế chính sách nhà nước về nâng cao chất lượng LĐKT.
Phát triển LĐKT nói chung và nâng cao chất lượng LĐKT nói riêng được Đảng và
Nhà nước ta đặc biệt quan tâm trong phát triển nền giáo dục quốc dân. Chủ trương, quan
điểm của Đảng ta về đào tạo LĐKT được hình thành ngay từ khi giành được chính
quyền và khơng ngừng đổi mới hoàn thiện qua các thời kỳ. Nổi bật nhất là Đại hội VIII
của Đảng, đã đánh dấu mốc quan trọng trong đổi mới tư duy về phát triển và đào tạo
nâng cao chất lượng LĐKT ở Việt Nam. Đó là thời kỳ địi hỏi phải phát triển và đào tạo
LĐKT, nhất là LĐKT trình độ cao đáp ứng yêu cầu CNH-HĐH và hội nhập kinh tế quốc
tế. Nghị quyết IX và X của Đảng đã tiếp tục khẳng định và nâng lên tầm cao mới về chủ
trương, quan điểm giáo dục – đào tạo nói chung, đào tạo LĐKT nói riêng và đặc biệt có
ý nghĩa chỉ đạo thực tiễn sâu sắc. Trên cơ sở tổng kết thực hiện Nghị quyết TW2 (khoá
VIII) và cụ thể hoá Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, Hội nghị TW 6 (khoá IX) đã kết
luận những vấn đề rất quan trọng có tính chất chủ trương, quan điểm để định hướng phát
triển giáo dục – đào tạo, kể cả đào tạo LĐKT đến 2010. Đó là thời kỳ thực hiện chiến

lược CNH - HĐH rút ngắn và chuẩn bị một đội ngũ LĐKT có thể đi ngay vào kinh tế tri
thức.
Quan điểm, chủ trương của Đảng ta về nâng cao chất lượng LĐKT đã được thể chế
hoá trong Bộ Luật lao động, trong chiến lược giáo dục 2009 – 2020 và trong nhiều Nghị
định, thơng tư hướng dẫn của Nhà nước.
Nhìn tổng thể, chủ trương quan điểm của Đảng ta về nâng cao chất lượng LĐKT
không chỉ dừng lại ở hệ tư tưởng, ở tầm định hướng chính sách mà nó đã được thể chế
hoá về mặt Nhà nước thành hệ thống cơ chế, chính sách và đang đi vào cuộc sống sinh
động. Đó là một hệ thống chủ trương, quan điểm nhất qn, tồn diện và khơng ngừng
được hồn thiện trên cơ sở đổi mới tư duy, nhận thức ngày càng sâu sắc và chuyển hoá
thành hành động thực tiễn.
1.2.2. Tổ chức quản lý và các điều kiện vật chất kinh tế cho đào tạo LĐKT trong
hệ thống giáo dục.

20


Theo quy định của pháp luật Việt Nam, các trường dạy nghề thuộc nhiều cấp quản
lý, như các trường thuộc Bộ ngành, các trường thuộc địa phương…
Theo số liệu thống kê, các Bộ, ngành quản lý gần 41% tổng số trường, bao gồm cả
trường trực thuộc các Tổng công ty, công ty. Trong số các trường do các Bộ, ngành quản
lý, một số Bộ ngành chiếm tỷ lệ sao như: Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn –
26,19%; Bộ Xây dựng – 21,43%; Bộ Giao thông Vận tải – 17,86%; …Song, bên cạnh
đó, hệ thống các trường do địa phương quản lý đã góp phần tích cực vào việc đào tạo
đội ngũ LĐKT cho đất nước, phục vụ sự phát triển KT - XH của các địa phương. Các
tỉnh/ thành phố trực thuộc Trung ương quản lý gần 60% số trường. Một số địa phương
có từ 3 – 7 trường dạy nghề là Hà Nội, Thanh Hoá, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải
Phịng,… Đa số các tỉnh có từ 1 – 2 trường dạy nghề. Tuy nhiên, so với nhu cầu thì các
trường dạy nghề ở các địa phương còn thiếu và còn khá chênh lệch về cả số lượng và
chất lượng cơ sở vật chất phục vụ quá trình đào tạo [3, tr.181].

Ở Việt Nam hiện nay, bình quân tổng diện tích mặt bằng của một trường dạy nghề là
hơn 24,4 nghìn m2. Diện tích mặt bằng của các trường trung ương cao gấp 4 lần so với
các trường địa phương, các trường công lập cao gấp hơn 20 lần các trường ngồi cơng
lập. Diện tích xây dựng bình qn của một trường cơng lập là 8000m 2. Trong tất cả các
hạng mục xây dựng như: phòng học, xưởng thực hành, phịng thí nghiệm, nhà ở cho
sinh viên và chỗ làm việc cũng có sự chênh lệch giữa trường cơng lập và trường ngồi
cơng lập. Tuy nhiên, nếu xét về diện tích phịng học/sinh viên thì khơng có sự khác nhau
lớn giữa các trường cơng lập và ngồi công lập (2,1 và 2,3m 2/học viên) và giữa các
trường ở Trung ương và địa phương (2,46 và 1,98m2). Tính bình quân cho 1 học sinh
của tất cả các trường dạy nghề thì diện tích xây dựng là 2,2m 2 cịn số phịng học bình
qn/1000 học viên là 52,2 phịng. Mặc dù vẫn còn khoảng 31% số phòng học và 50,7%
số xưởng thực hành là nhà cấp 4 và nhà tạm nhưng nhìn chung, chất lượng phịng học
và nhà xưởng của các trường dạy nghề đã được cải thiện.
Về trang thiết bị giảng dạy và thực tập, đa số ở mức cơng nghệ trung bình (64,3%),
chỉ khoảng trên 20% được coi là hiện đại. Một số ngành nghề mà trang thiết bị sử dụng
cho thực hành nghề rất lạc hậu như: nghề in, vận hành thiết bị hoá, luyện kim, … nhưng

21


cũng có những nghề được trang bị khá hiện đại như: kĩ thuật điện, khai thác bưu điện,
kỹ thuật viễn thơng, tin học …
Có thể nói, về cơ bản trang thiết bị cho luyện tập kỹ năng thực hành nghề của một
số trường dạy nghề còn thiếu về số lượng và lạc hậu về chất lượng. Một số trường có dự
án đầu tư có yếu tố nước ngồi, trang thiết bị đã được cải thiện đáng kể, một số trường
có thiết bị khá hiện đại, đạt tiêu chuẩn khu vực và quốc tế [3,tr. 187-188].
1.2.3. Môi trường điều kiện chuyển giao kỹ thuật công nghệ trong các đơn vị
kinh tế.
Để tăng trưởng kinh tế, đáp ứng nhu cầu hiện đại hố đất nước, trong những năm
qua, việc chuyển giao cơng nghệ tiên tiến đã được nhiều DN thực hiện. Điều này đòi hỏi

phải đào tạo, đổi mới chất lượng nguồn nhân lực nói chung và LĐKT nói riêng để đáp
ứng quá trình chuyển giao này. Trong những năm qua, đào tạo, đổi mới chất lượng
nguồn nhân lực để đáp ứng q trình chuyển giao cơng nghệ, làm chủ được cơng nghệ,
xử lý hệ thống thông tin kỹ thuật, lắp đặt và vận hành, bảo trì cơng nghệ … đã được trú
trọng thực hiện. Trong khu vực FDI, chuyển giao công nghệ được thực hiện mạnh mẽ
hơn các khu vực kinh tế khác, đồng thời cũng là khu vực có nhu cầu sử dụng nhiều
LĐKT hơn các khu vực khác.
Bảng 1.1: Sử dụng lao động theo trình độ CMKT
của các loại hình DN (%) [3, tr.147]
LĐPT

CNKT

DN FDI

19,8

59,0

DNNN

25,7

DN ngồi quốc doanh
Văn phịng đại diện nước
ngoài

Trung

CĐ, ĐH trở lên


Tổng số

6,5

14,7

100

49,1

11,5

13,5

100

39,2

44,5

8,2

8,1

100

1,5

16,9


30,9

50,7

100

cấp

Các DN thuộc các thành phần kinh tế, nhất là các DN FDI đã thực hiện việc đào tạo
mới, đào tạo lại, đào tạo nâng cao cho người lao động. Tính chung đã có khoảng gần

22


11% số lao động đào tạo, gần 7% được đào tạo lại trong các DN và 44% được đào tạo
nâng cao [3, tr.148].
Việc chuyển giao kỹ thuật công nghệ là điều kiện để đội ngũ lao động nói chung và
LĐKT nói riêng được phát triển, nâng cao trình độ, đặc biệt là trong các dự án đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam. Tỷ lệ lao động được đào tạo trong các DN FDI cao hơn tỉ lệ
chung của các loại hình DN; trong khu vực FDI, các cơng ty chi phí cho đào tạo lao
động rất lớn. Chẳng hạn tại các cơng ty ở Bình Dương, để gửi lao động đi đào tạo nước
ngồi, bình qn mỗi cơng ty phải bỏ ra 3000$/người và đào tạo trong nước là
1500$/người [3, tr.150].
Q trình đào tạo người lao động khơng chỉ diễn ra trong khu vực DN mà trong tất
cả các lĩnh vực của nền kinh tế; kinh phí đào tạo được huy động từ nhiều nguồn như:
nhà nước, các nhà tài trợ, cá nhân người đi học… Nhiều trường ĐH như ĐH Bách khoa
Hà Nội, ĐH Công nghiệp Hà Nội, ĐH Công nghệ - ĐH Quốc gia Hà Nội … đã kết hợp
với các trường ĐH của các nước (Úc, Anh, Mỹ, …) để đào tạo các khoá kỹ sư tài năng,
có trình độ lý thuyết và thực hành cao để cung cấp cho thị trường lao động. Hiện nay,

cũng có nhiều công ty chuyên cung cấp nhân sự lành nghề cao cho thị trường nhân sự
cao cấp, đặc biệt là các quản trị viên, kỹ sư cao cấp cho các DN, cơng ty.
Có thể thấy, q trình chuyển giao kỹ thuật công nghệ là tạo ra những điều kiện, tiền
đề quan trọng cho việc nâng cao chất lượng LĐKT của Việt Nam trong giai đoạn tới.
1.2.4. Các chính sách sử dụng LĐKT.
Ở nước ta, chính sách sử dụng lao động, đặc biệt là lao động có CMKT cao, nhân tài
cịn nhiều hạn chế. Những chính sách liên quan đến việc sử dụng lao động như: chính
sách tiền lương, tiền cơng, chính sách bảo hiểm xã hội và các chính sách chế độ khác
chưa tạo được động lực cho người lao động tự phấn đấu để phát triển trình độ chun
mơn, tay nghề của mình trong q trình cơng tác. Một thực tế tồn tại ở Việt Nam là
nhiều trường hợp, lao động giản đơn hoặc lao động chân tay trong các DN có vốn đầu tư
nước ngồi lại có thu nhập cao hơn lao động phức tạp và lao động sáng tạo của trí thức
trong các cơ quan, DNNN. Vì vậy, động lực để làm việc nhiệt tình khơng cịn, nhiều
người phải đi làm thêm ngồi chun mơn, thậm chí phải bỏ nghề để đi làm những dịch

23


vụ giản đơn. Điều này làm mất đi một nguồn sức mạnh q giá phục vụ cơng cuộc
CNH-HĐH đất nước.
Chính sách sử dụng LĐKT còn nhiều bất hợp lý; một số lượng lớn được sử dụng
không đúng ngành nghề đào tạo. Chế độ lương, đãi ngộ bất hợp lý không hấp dẫn cán
bộ CMKT, nhất là đội ngũ có kỹ năng. Từ đó, xuất hiện hiện tượng chuyển dịch đội ngũ
cán bộ CMKT có năng lực sang làm việc tại các khu vực liên doanh có vốn đầu tư nước
ngồi.
Một điểm đáng nói nữa là tình trạng sử dụng nhân lực có trình độ CMKT khơng
đúng ngành nghề được đào tạo, khơng đúng hoặc dưới khả năng đào tạo cịn phổ biến.
Hiện nay, chỉ có khoảng hơn 70% cán bộ có trình độ CMKT được sử dụng đúng ngành
nghề đào tạo. Nhiều cơ sở hoặc DN đã sử dụng cả những sinh viên tốt nghiệp ĐH vào
làm công việc của CNKT. Cách sử dụng như trên vừa lãng phí cơng sức đào tạo mà lại

không hiệu quả, số lượng lao động có trình độ CMKT của nước ta khơng được phát huy
và phát triển trong công việc [44, tr.163]
Như vậy, chính sách sử dụng lao động của Việt Nam hiện nay đang là một trong
những nguyên nhân hạn chế sự sáng tạo, phát triển của lao động có CMKT. Với các cơ
chế và chính sách hiện nay, lực lượng lao động có CMKT sẽ khơng có động lực để tự
bồi dưỡng nâng cao trình độ, đáp ứng ngày càng tốt hơn những yêu cầu của công việc.
1.3. Kinh nghiệm một số địa phương về nâng cao chất lượng LĐKT và bài học
cho Hà Nam.
1.3.1. Kinh nghiệm của một số tỉnh về nâng cao chất lượng LĐKT.
a. Kinh nghiệm của Thành phố Hồ Chí Minh.
Trong những năm qua, Thành phố Hồ Chí Minh là nơi thực hiện tốt chủ trương đa
dạng hoá đào tạo nghề, nâng cao chất lượng LĐKT; gắn đào tạo với sử dụng và giải
quyết việc làm, đáp ứng một phần yêu cầu về nguồn LĐKT cho đại bộ phận các DN trên
điạ bàn Thành phố và các tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm khu vực phía Nam. Tuy
nhiên, hoạt động dạy nghề vẫn cịn có nhiều khó khăn, bất cập như: khâu tổ chức quản
lý Nhà nước về phát triển, đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực LĐKT vẫn chưa được
thống nhất quản lý và điều phối chung; sức hấp dẫn của học nghề cũng chưa thực sự

24


mạnh mẽ, học nghề vẫn chưa vượt qua được tâm lý về khoa cử, bằng cấp, danh vị xã hội
nên số lượng tuyển sinh và tốt nghiệp hàng năm tuy có tăng nhưng cịn chậm và hiệu
suất chưa cao. Đồng thời nguồn lực đầu tư cho đào tạo nghề, đào tạo LĐKT còn eo hẹp,
nguồn lực đầu tư, kể cả ngân sách Nhà nước cấp và huy động xã hội chưa đáp ứng được
các nhu cầu của hoạt động dạy nghề. Việc sử dụng ngân sách trong điều kiện hiện nay
còn dàn trải, chưa hợp lý nên hiệu quả thấp; đào tạo chưa theo kịp và đón đầu với cơng
nghệ mới; hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu về nguồn LĐKT cịn tản mạn và chưa chuẩn
xác, thiếu thơng tin dự báo về nhu cầu tuyển dụng, yêu cầu về trình độ kỹ thuật cơng
nghệ từng ngành nghề sản xuất đối với cơ sở dạy nghề; đào tạo chưa đáp ứng được nhu

cầu LĐKT có trình độ cao ở các khu công nghiệp, khu chế xuất. Việc liên thông đào tạo
nghề giữa các trình độ đào tạo khác chưa được thực hiện tích cực, vẫn cịn chưa rõ nét.
Để nâng cao chất lượng nguồn LĐKT, đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế – xã
hội, Thành phố Hồ Chí Minh đã đưa ra một số giải pháp sau:
1. Tăng cường quản lý Nhà nước về dạy nghề, sớm thực hiện việc liên thơng giữa
các trình độ đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân nhằm thu hút học sinh vào các
trường chuyên nghiệp và dạy nghề; thiết kế các chương trình đào tạo đảm bảo sự liên
thơng giữa các cấp trình độ, trong đó đào tạo trung cấp nghề với người có bằng THCS,
được học cùng lúc chương trình đào tạo nghề với chương trình văn hố của hệ thống
Giáo dục thường xuyên, sau 3 năm tốt nghiệp được tiếp tục học lên các cấp học cao hơn.
2. Đẩy mạnh công tác giáo dục hướng nghiệp trong các trường THCS và THPT
nhằm thu hút vào học nghề; chú trọng đến các học sinh các trường THCS để góp phần
giảm tải cho các trường THPT. Nội dung hướng nghiệp là giới thiệu và định hướng nghề
nghiệp, việc làm sau khi tốt nghiệp, khả năng học tiếp lên các bậc học cao hơn để có thể
thăng tiến nghề nghiệp…. Sử dụng các bộ công cụ trắc nghiệp hướng nghiệp để tư vấn,
định hướng nghề phù hợp với khả năng…
3. Tăng cường các điều kiện đảm bảo để nâng cao chất lượng đào tạo; thường xuyên
tổ chức bồi dưỡng cập nhật kiến thức chun mơn, nghiệp vụ, sư phạm, chính trị pháp
luật và các kiến thức hỗ trợ như; ví tính, ngoại ngữ,… cho đội ngũ giáo viên; có chế độ
khuyến khích về lương, thưởng, đề bạt khi đã qua đào tạo nâng cao trình độ chun
mơn, các khố bồi dưỡng hoặc tự bồi dưỡng. Chuẩn hoá nghiệp vụ chuyên môn và công

25


×