Tải bản đầy đủ (.docx) (132 trang)

Pháp luật về công khai minh bạch tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (474.43 KB, 132 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

....…../………

BỘ NỘI VỤ
…….../………

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

TRẦN QUANG TRUNG

PHÁP LUẬT VỀ CÔNG KHAI MINH BẠCH TÀI
SẢN, THU NHẬP CỦA NGƯỜI CÓ CHỨC VỤ,
QUYỀN HẠN TRONG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH
NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

HÀ NỘI – NĂM 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

....…../………

BỘ NỘI VỤ
…….../………

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

TRẦN QUANG TRUNG



PHÁP LUẬT VỀ CÔNG KHAI MINH BẠCH TÀI
SẢN, THU NHẬP CỦA NGƯỜI CÓ CHỨC VỤ,
QUYỀN HẠN TRONG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH
NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH MÃ SỐ:
60 38 01 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN THỊ DIỆU OANH

HÀ NỘI – NĂM 2017


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ..........................................................................................................
1.

Lý do lựa chọn đề tài luận văn ...............................................................

2.

Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn ...........................

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn ..........................................................
4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn ...................................

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn ...............

6.

Ý nghĩa thực tiễn của luận văn ..............................................................

7.

Kết cấu của luận văn ...............................................................................

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ CÔNG KHAI,
MINH BẠCH TÀI SẢN, THU NHẬP CỦA NGƯỜI CÓ CHỨC VỤ,
QUYỀN HẠN TRONG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC ..........
1.1. Khái niệm và vai trò của pháp luật về công khai, minh bạch tài sản,
thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà
nước ................................................................................................................
1.1.1. Khái niệm pháp luật về công khai, minh bạch tài sản, thu nhập của
người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước ............
1.1.2. Vai trò của pháp luật về công khai, minh bạch tài sản, thu nhập của
người có chức vụ,quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước .............
1.2. Nội dung pháp luật về công khai, minh bạch tài sản, thu nhập của
người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước .........
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật về công khai, minh bạch tài sản,
thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà
nước ................................................................................................................
1.4. Kinh nghiệm quốc tế về quy định công khai, minh bạch tài sản, thu
nhập ................................................................................................................
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ...............................................................................


Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ CÔNG KHAI, MINH BẠCH TÀI SẢN, THU NHẬP CỦA NGƯỜI

CÓ CHỨC VỤ, QUYỀN HẠN TRONG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ
NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY...............................................................50
2.1. Thực trạng pháp luật quy định về công khai, minh bạch tài sản, thu
nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà
nước................................................................................................................50
2.1.1. Quy định pháp luật hiện hành về công khai, minh bạch tài sản, thu nhập

của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước.......50
2.1.1.1. Quy định về đối tượng phải công khai, minh bạch tài sản, thu nhập 50
2.1.1.2. Quy định về các loại tài sản, thu nhập phải công khai, minh bạch .. 52

2.1.1.3. Quy định về nội dung, hình thức công khai, minh bạch tài sản, thu
nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước55

2.1.1.4. Quy định về giải trình và xác minh tài sản, thu nhập của người

chức vụ, quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước........................57
2.1.1.5. Quy định về xử lý vi phạm việc công khai, minh bạch tài sản, thu
nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước61

2.1.2. Những tồn tại, vướng mắc của quy định pháp luật về công khai, minh
bạch tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan hành
chính nhà nước.............................................................................................64
2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về công khai, minh bạch tài sản, thu
nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà
nước................................................................................................................77
2.2.1. Kết quả đạt được................................................................................77
2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân của hạn chế.....................................82
2.2.2.1. Những hạn chế............................................................................ 82
2.2.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế................................................87


2


TIỂU KẾT CHƯƠNG 2............................................................................... 93
Chương 3. ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM PHÁP LUẬT VỀ
CÔNG KHAI, MINH BẠCH TÀI SẢN, THU NHẬP CỦA NGƯỜI CÓ
CHỨC VỤ, QUYỀN HẠN TRONG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ
NƯỚC Ở VIỆT NAM................................................................................... 95
3.1. Định hướng bảo đảm pháp luật về công khai, minh bạch tài sản, thu
nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà
nước................................................................................................................95
3.2. Giải pháp bảo đảm pháp luật về công khai, minh bạch tài sản, thu nhập

của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước 101
3.2.1. Nhóm giải pháp về nhận thức..........................................................101
3.2.2. Nhóm giải pháp sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về công
khai, minh bạch tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong
các cơ quan hành chính nhà nước.............................................................102
3.2.3. Nhóm giải pháp tổ chức thực hiện pháp luật về công khai, minh bạch
tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan hành
chính nhà nước..........................................................................................107
KẾT LUẬN..................................................................................................115
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................117

3


DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
Biểu đồ 01: các nguồn thu nhập của cán bộ, công chức .................................

Biểu đồ 02: Tỷ lệ thu nhập ngoài lương so với lương ....................................
Biểu đồ 03: Số người kê khai tài sản, thu nhập không trung thực giai đoạn
2013 - 2016...................................................................................................... 87

4


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài luận văn
Tham nhũng luôn là một nguy cơ, thách thức lớn đối với mọi quốc gia.
Ở nước ta, tham nhũng vẫn diễn ra nghiêm trọng, với những biểu hiện tinh vi,
phức tạp, gây bức xúc trong xã hội; tiếp tục là thách thức lớn đối với sự lãnh
đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Trong những năm qua, công tác
phòng, chống tham nhũng đã đạt được những kết quả tích cực nhưng nhìn
chung vẫn chưa đạt yêu cầu và mục tiêu đề ra là cần tiếp tục ngăn chặn, từng
bước đẩy lùi nạn tham nhũng.
Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều Nghị quyết, Chỉ thị và các văn
bản pháp luật chỉ rõ ý nghĩa, tầm quan trọng, mục tiêu, nhiệm vụ, những chủ
trương, giải pháp chủ yếu của cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng: Kết
luận số 21-KL/TW Hội nghị Trung ương 5 (khóa XI) về việc “Tiếp tục thực
hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí”; Chiến lược quốc gia về
phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam đến năm 2020… Trong đó, Luật
Phòng, chống tham nhũng được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam thông qua ngày 29/11/2005, được sửa đổi, bổ sung vào năm 2007
và 2012 được coi là công cụ pháp lý quan trọng nhằm phòng ngừa tham
nhũng. Đạo luật này đã quy định nhiều giải pháp phòng ngừa tham nhũng
như: Công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị; xây

dựng, thực hiện các chế độ, định mức, tiêu chuẩn; xây dựng, thực hiện quy tắc
ứng xử, quy tắc đạo đức nghề nghiệp, chuyển đổi vị trí công tác của người có
chức vụ, quyền hạn, viên chức; xử lý trách nhiệm của người đứng đầu khi để
xảy ra tham nhũng; minh bạch tài sản, thu nhập; cải cách hành chính, đổi mới
công nghệ quản lý và phương thức thanh toán.

1


2

Minh bạch tài sản, thu nhập được coi là giải pháp then chốt, trọng tâm
trong phòng ngừa tham nhũng. Nghị định số 78/2013/NĐ-CP ngày 17/7/2013
của Chính phủ và Thông tư số 08/2013/TT-TTCP ngày 31/10/2013 của Thanh
tra Chính phủ hướng dẫn thi hành các quy định về minh bạch tài sản, thu nhập
cũng đã quy định cụ thể về thực hiện việc kê khai, để từ đó tạo cơ sở thuận lợi
cho việc công khai kể từ năm 2013. Tuy nhiên, các quy định còn có những
hạn chế và đây cũng là giải pháp gặp nhiều khó khăn trong quá trình triển khai
thực hiện.
Thứ nhất, quy định pháp luật về công khai, minh bạch tài sản, thu nhập
chưa ổn định, việc sửa đổi, bổ sung chỉ được thực hiện trong khoảng thời gian
ngắn. Sự thay đổi của các quy định về công khai, minh bạch tài sản, thu nhập
sẽ phát sinh về sự thay đổi nghiệp vụ áp dụng dẫn đến quá trình kê khai tài
sản thu nhập và xác minh việc kê khai gặp nhiều khó khăn, vướng mắc.
Thứ hai, quy định hiện hành về đối tượng phải kê khai tài sản, thu nhập
chưa rõ ràng. Luật Phòng, chống tham nhũng hiện hành chưa có quy định kê
khai đối với trường hợp đối tượng đi học, đi công tác dài hạn ở nước ngoài,
có chuyển đổi vị trí công tác.
Thứ ba, quy định về tài sản, thu nhập phải kê khai chưa đáp ứng yêu
cầu của công tác phòng, chống tham nhũng. Ví dụ, quy định giá trị tài sản từ

50 triệu đồng/loại tài sản trở lên là chưa phù hợp với biến động giá trị tài sản
trên thị trường, phạm vi và loại tài sản phải kê khai chưa phản ánh hết được
tài sản, thu nhập của đối tượng phải kê khai như các khoản chi phí sinh hoạt,
chi phí học tập, đào tạo ở nước ngoài, các khoản hiến, tặng, cho các đối tượng
ngoài phạm vi kê khai...
Thứ tư, quy định về nội dung và hình thức công khai, minh bạch tài sản,
thu nhập chưa hợp lý. Pháp luật hiện nay chưa quy định việc phải công khai
rộng rãi thông tin về tài sản và thu nhập. Bản kê khai chỉ được niêm yết

2


3

tại trụ sở làm việc hoặc công bố tại các cuộc họp, hội nghị của cơ quan, đơn
vị. Do đó, người dân không được tiếp cận với các bản kê khai về tài sản, thu
nhập của cán bộ, công chức.
Thứ năm, quy định về việc xác minh tài sản, thu nhập chưa tạo được
tính chủ động nhằm làm rõ tính trung thực của việc kê khai. Quy định về xác
minh kê khai mới chỉ dừng lại ở xác minh việc kê khai mà chưa xác minh nội
dung nguồn gốc tài sản kê khai, chưa có biện pháp hữu hiệu để kiểm tra xác
minh nguồn gốc, số lượng, giá trị tài sản, thu nhập kê khai.
Thứ sáu, quy định về chế tài xử lý vi phạm về công khai, minh bạch tài
sản, thu nhập chưa cụ thể và chưa đủ sức răn đe. Trong đó, quy định xử lý kỷ
luật đối với đối tượng không kê khai hoặc kê khai chậm quá nh chưa đủ sức
răn đe; chưa có quy định cụ thể về xử lý đối với người và số tài sản kê khai
không trung thực; chưa có quy định xử lý trách nhiệm người được giao nhiệm
vụ mà thực hiện nhiệm vụ xác minh không đầy đủ, thiếu chặt chẽ...
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, để góp phần hoàn thiện pháp luật
về phòng, chống tham nhũng nói chung và tạo cơ sở pháp lý cho việc công

khai, minh bạch tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn việc triển
khai nghiên cứu đề tài “Pháp luật về công khai, minh bạch tài sản, thu nhập
của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước ở
Việt Nam hiện nay” là cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Thời gian qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu về tham nhũng, về
công tác phòng, chống tham nhũng nói chung và về các biện pháp phòng ngừa
tham nhũng nói riêng; tuy nhiên, cho đến nay, ít có công trình khoa học trực
tiếp nghiên cứu, đánh giá một cách độc lập, toàn diện, đầy đủ về mặt lý luận
cũng như thực tiễn, đặc biệt là khía cạnh pháp lý của việc công khai, minh
bạch tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn.

3


4

Khoảng trống nghiên cứu này cần được nghiên cứu và phát triển ở
phạm vi sâu hơn trên cơ sở kế thừa các kết quả nghiên cứu liên quan, để làm
rõ được cơ sở lý luận, pháp lý và thực tiễn của việc công khai, minh bạch tài
sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn ở Việt Nam hiện nay. Một số
các công trình nghiên cứu có liên quan, cụ thể như sau:
-

Một số sách: “Một số vấn đề cơ bản về phòng ngừa và chống tham

nhũng” - Nguyễn Văn Thanh, Trần Đức Lượng, Phạm Duy Nghĩa, Nxb.Tư
pháp, Hà Nội, 2004, 231tr, “Nhận diện tham nhũng và các giải pháp phòng,
chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay” - Phan Xuân Sơn, Phạm Thế Lực,
Nxb.CTQG, Hà Nội, 2008, 250tr, “Tài liệu bồi dưỡng về phòng, chống tham

nhũng” - Thanh tra Chính phủ, Viện Khoa học Thanh tra, Nxb. Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 2008, 240tr, “Tư tưởng Hồ Chí Minh với vấn đề chống tham
nhũng” - Bùi Mạnh Cường, Nxb. Lao động - xã hội, Hà Nội, 2003; “Đấu
tranh chống tham nhũng - trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, xã hội và
công dân” - Lê Quỳnh s.t., tuyển chọn, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội,
2005. Các công trình này đã đi vào nhận diện tham nhũng, đưa ra các chủ
trương, biện pháp phòng, chống tham nhũng theo quan điểm của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, Đảng và Nhà nước, các cơ chế giám sát thanh tra, kiểm tra trong
công tác phòng, chống tham nhũng ở nước ta, thực trạng phòng, chống tham
nhũng ở Việt Nam và vấn đề đặt ra; phân tích các giải pháp phòng ngừa, phát
hiện tham nhũng; xử lý người có hành vi tham nhũng; đồng thời đề cập đến
vai trò, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân trong cuộc đấu
tranh phòng, chống tham nhũng, phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả đấu trong phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay.
-

Đề tài khoa học: “Đấu tranh chống tham nhũng với nhiệm vụ xây dựng

nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” (Đề tài nhánh 4 của Đề
tài độc lập cấp Nhà nước: Luận cứ khoa học cho việc xây dựng chiến lược

4


5

phòng ngừa và nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở Việt
Nam cho đến năm 2020) - Đào Trí Úc, Hà Nội, 2007, 298tr; “Luận cứ khoa
học cho việc xây dựng chiến lược phòng ngừa và nâng cao hiệu quả đấu
tranh phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam cho đến năm 2020” - Mai Quốc

Bình, Hà Nội, 2007, 255tr; Luận án tiến sĩ: “Các tội phạm về tham nhũng
theo pháp luật hình sự Việt Nam” - Trần Văn Đạt, Học viện Kỹ thuật Quân sự,
Ngày bảo vệ: 06/08/2012; “Hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham
nhũng ở Việt Nam hiện nay” - Trần Đăng Vinh, Trường đại học Luật Hà Nội,
ngày bảo vệ: 30/06/2013; “Nghiên cứu, sử dụng đặc điểm thủ đoạn gây án
trong điều tra các tội phạm về tham nhũng” - Hoàng Trung Thực, Học viện
Cảnh sát nhân dân, ngày bảo vệ: 21/1/2013;… Các công trình phân tích nhiệm
vụ đấu tranh chống tham nhũng trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp
quyền, tình hình công tác đấu tranh chống tham nhũng ở Việt Nam, các giải
pháp phòng ngừa và nâng cao hiệu quả đấu tranh chống tham nhũng, nghiên
cứu pháp luật về phòng, chống tham nhũng, tội phạm tham nhũng theo pháp
luật hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng, hướng hoàn thiện pháp luật về
phòng, chống tham nhũng, nghiên cứu thực trạng sử dụng các đặc điểm thủ
đoạn gây án trong điều tra các tội phạm về tham nhũng, rút ra những thủ đoạn
gây án có tính phổ biến của tội phạm; Đưa ra dự báo và đề xuất các giải pháp,
góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động nghiên cứu điều tra tội phạm tham
nhũng. Các công trình nghiên cứu này cũng phân tích, đưa ra một số các giải
pháp đấu tranh phòng, chống tham nhũng nói chung, thực trạng thực hiện các
giải pháp hiện nay ở nước ta cũng như đi vào phân tích một số giải pháp cụ
thể phòng, chống tham nhũng như tăng cường tính minh bạch trong hoạt
động, giải pháp phòng, chống tham nhũng trong khu vực tư, tố cáo hành vi
tham nhũng, chống hối lộ, thanh tra thực hiện luật phòng, chống tham nhũng,
tuyên truyền, phổ biến pháp luật về phòng, chống tham nhũng… Ngoài ra,

5


6

còn đề cập đến nghĩa vụ chủ yếu của Việt Nam với tư cách là thanh viên Công

ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng, chủ trương và giải pháp để thực thi
có hiệu quả Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng tại Việt Nam.
Ngoài ra, còn một số bài viết đăng trên các tạp chí khoa học như: “Muốn
chống tham nhũng cần xoá bỏ nguyên nhân sinh ra nó” - Nguyễn Trọng Tủ,
Tạp chí Dân chủ và pháp luật, 2007, Số 1, Tr.40-41; “Về công tác chống tham
nhũng ở nước ta hiện nay” - Nguyễn Thế Mạnh, Tạp chí Quản lý nhà nước,
2009, Tháng 5, Số 160, tr. 33-38; “Tham nhũng đất đai và biện pháp nhằm
hạn chế tham nhũng” - Nguyễn Thị Phượng, Tạp chí Quản lý nhà nước, 2009,
Tháng 4, Số 159, tr. 34-37; “Để công tác phòng, chống tham nhũng có hiệu
quả hơn nữa”- Trần Văn Truyền, Tạp chí Cộng Sản, 2009, Tháng 7, Số 801,
tr. 27-30; “Tham nhũng có phải là do "Mặt trái của cơ chế thị trường" Hạnh
Liên, Tạp chí Ngân hàng, 2006, Số 16, Tr.64-66; “Chống tham nhũng” Nguyễn Đình Phu, Tạp chí Xây dựng Đảng, 2007, Số 1, tr.52-53; “Những yếu
tố tâm lý và xã hội của hành vi tham nhũng và biện pháp khắc phục” - Quốc
Chấn, Tạp chí Nghiên cứu con người, 2006, Số 4(25), Tr.49-53; “Chống tham
nhũng nhìn từ góc độ bảo vệ chính trị nội bộ” - Mai Chiến, Tạp chí Xây dựng
Đảng, 2006, Số 9, Tr.45-46,53;… Các bài viết trên đây phân tích về tham
nhũng trên nhiều khía cạnh khác nhau, góp phần chỉ ra nguyên nhân và các
biện pháp để phòng, chống tham nhũng có hiệu quả, cả các biện pháp phòng
ngừa như công khai, minh bạch, kiến tạo văn hóa chống tham nhũng, hoàn
thiện các cơ chế quản lý trong các lĩnh vực và các biện pháp chống tham
nhũng khác.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích nghiên cứu của luận văn là cung cấp những luận cứ khoa học
cho việc đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng
cao hiệu quả thực hiện pháp luật về công khai, minh bạch tài sản, thu nhập

6


7


của người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan hành chính nhà nước ở
Việt Nam hiện nay.
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ chính sau:
Phân tích làm sáng tỏ các vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật công
khai,

minh bạch tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan
hành chính nhà nước, bao gồm: đưa ra quan niệm pháp luật về công khai,
minh bạch tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan
hành chính nhà nước; làm rõ vai trò của pháp luật về công khai, minh bạch tài
sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà
nước; phân tích nội dung pháp luật về công khai, minh bạch tài sản, thu nhập
của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước; đưa ra
các yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật về công khai, minh bạch tài sản, thu nhập
của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước và phân
tích kinh nghiệm quốc tế về pháp luật công khai, minh bạch tài sản, thu nhập.
-

Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về

công khai, minh bạch tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong
cơ quan hành chính nhà nước: những mặt đạt được, những tồn tại, hạn chế và
nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế đó.
-

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, phân tích và đưa ra những

định hướng và giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả thực hiện pháp luật về công khai, minh bạch tài sản, thu nhập của người

có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam
hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là pháp luật về công khai, minh bạch tài
sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà
nước ở Việt Nam hiện nay ở góc độ lý luận, cơ sở pháp lý và cơ sở thực tiễn.

7


8

Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu trong khuôn khổ pháp luật hiện
hành về công khai, minh bạch tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền
hạn trong cơ quan hành chính nhà nước (quy định của Luật Phòng, chống
tham nhũng năm 2005, được sửa đổi, bổ sung năm 2007 và năm 2012, Nghị
định số 78/2013/NĐ-CP ngày 17/7/2013 của Chính phủ về minh bạch tài sản,
thu nhập và các văn bản hướng dẫn thi hành); và khai thác dữ liệu liên quan
đến thực trạng trong khoảng thời gian từ năm 2013 đến năm 2016.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Phương pháp luận: Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phòng, chống tham nhũng.
Phương pháp nghiên cứu: Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được
sử dụng trong luận văn là phương pháp phân tích, tổng hợp, quan sát, thống
kê, so sánh.
6. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
-

Việc nghiên cứu góp phần làm rõ cơ sở khoa học cho việc đề xuất các


giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật về công khai, minh bạch tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền
hạn trong các cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
-

Kết quả nghiên cứu luận văn là tài liệu tham khảo phục vụ cho công

tác nghiên cứu và giảng dạy, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ, công chức các
cơ quan hành chính nhà nước nói chung và của ngành thanh tra nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Kết cấu của luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận của pháp luật về công khai, minh bạch tài sản,
thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước.

8


9

Chương 2. Thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về công khai,
minh bạch tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan
hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3. Định hướng, giải pháp bảo đảm pháp luật về công khai,
minh bạch tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan
hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay.

9



10

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ CÔNG KHAI, MINH BẠCH
TÀI SẢN, THU NHẬP CỦA NGƯỜI CÓ CHỨC VỤ, QUYỀN HẠN
TRONG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
1.1. Khái niệm và vai trò của pháp luật về công khai, minh bạch tài
sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan hành chính
nhà nước
1.1.1. Khái niệm pháp luật về công khai, minh bạch tài sản, thu nhập
của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước
- Quan niệm về pháp luật:
Pháp luật là những quy tắc xử sự chung có tính bắt buộc thực hiện đối
với mọi người. Trong các xã hội có giai cấp có nhiều loại chuẩn mực xã hội
khác nhau, thể hiện ý chí, nguyện vọng chung của các giai cấp, các lực lượng
xã hội khác nhau, nhưng chỉ có một hệ thống pháp luật chung cho toàn xã hội.
Pháp luật luôn gắn liền với nhà nước, do các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền đặt ra, thừa nhận hoặc phê chuẩn và được Nhà nước đảm bảo thực hiện
bằng nhiều biện pháp, trong đó có các biện pháp cưỡng chế. Pháp luật thể
hiện ý chí của Nhà nước trong các quy phạm pháp luật. Quy phạm pháp luật
đặt ra không phải cho một tổ chức hay cá nhân nào cụ thể mà cho tất cả các tổ
chức và cá nhân tham gia quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh. Mọi tổ chức, cá
nhân ở vào những hoàn cảnh, điều kiện mà quy phạm pháp luật đã quy định
đều bắt buộc phải thực hiện nó.
Nội dung mỗi quy phạm pháp luật thường thể hiện hai mặt: Cho phép
và bắt buộc; tức là, quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự trong đó chỉ ra quyền
và nghĩa vụ pháp lý của các bên tham gia quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh.

10



11

Quy phạm pháp luật là quy phạm pháp luật thành văn, được chứa đựng trong
các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước.
Theo đó, pháp luật là tổng thể các quy phạm pháp luật quy định các quy
tắc xử sự chung do Nhà nước ban hành theo những trình tự, thủ tục, hình thức
nhất định và được Nhà nước bảo đảm thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ
xã hội.
- Quan niệm về công khai, minh bạch:
Trong một số cuốn từ điển tiếng Việt, thuật ngữ công khai được hiểu là
“không giấu giếm, bí mật mà cho mọi người cùng biết” hoặc “công khai là
việc không giữ kín, mà để cho mọi người đều có thể biết”[49]. Thuật ngữ
công khai cũng thường được sử dụng gắn liền với minh bạch và chúng ta
thường hiểu “minh bạch” là sự rõ ràng, không bị hiểu nhầm về một việc làm
hoặc một quy định nào đó.
Nếu như thuật ngữ “công khai” đã được sử dụng nhiều trong đời sống xã
hội theo nghĩa phổ thông là việc thông tin cho các chủ thể biết được một sự việc
hoặc vấn đề nào đó thì thuật ngữ “minh bạch” chỉ được sử dụng phổ biến, đặc
biệt là trong lĩnh vực quản trị công kể từ khi Việt Nam ký kết và thực hiện Hiệp
định thương mại song phương Việt Nam - Hoa kỳ (BTA) - có hiệu lực từ tháng
12/2001. Hiệp định này có riêng một chương quy định về minh bạch và quyền
khiếu kiện (Chương VI). Kể từ đó đến nay, trong hơn 15 năm, cụm từ “công
khai, minh bạch” đã trở nên phổ biến trong xã hội cũng như đời sống pháp lý,
đặc biệt là khi đề cập đến mối quan hệ giữa nhà nước - xã hội và nghiên cứu về
các biện pháp phòng ngừa tham nhũng. Công khai, minh bạch được coi là biện
pháp quan trọng đầu tiên để ngăn ngừa tham nhũng.

Công khai, minh bạch là thuật ngữ pháp lý được sử dụng khá rộng rãi,

đặc biệt là trong các văn bản pháp luật về phòng, chống tham nhũng. Theo
Khoản 2, Điều 2, Luật Phòng, chống tham nhũng hiện hành thì “công khai là

11


12

việc cơ quan, tổ chức, đơn vị công bố, cung cấp thông tin chính thức về văn
bản, hoạt động hoặc về nội dung nhất định”. Nói cách khác, những gì công
khai tức là người khác biết hoặc có thể được biết. Công khai là hoạt động của
các cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm công bố hoặc phổ biến để mọi người dân
có thể biết, có thể tiếp cận được một cách dễ dàng.
Tuy đã trở thành thuật ngữ pháp lý được sử dụng phổ biến nhưng trong rất
nhiều trường hợp quy định của pháp luật cũng như thực tiễn chưa làm rõ bản
chất của “công khai” và “minh bạch” nên nhiều trường hợp còn có sự nhầm lẫn
khi sử dụng cụm từ này. Về bản chất thì công khai thường được sử dụng như một
hoạt động của chủ thể, đó là hình thức công bố thông tin ra bên ngoài để người
khác biết về sự vật, hiện tượng hoặc sự việc nào đó. Minh bạch là cụm từ dùng
để chỉ trạng thái biểu hiện rõ ràng ra bên ngoài của sự vật, hiện tượng hoặc sự
kiện nào đó. Có thể thấy rằng công khai chỉ là phương thức thực hiện để hướng
tới mục đích là sự minh bạch. Như vậy, minh bạch không thể đồng nghĩa với
công khai nhưng muốn đạt được sự minh bạch, đòi hỏi phải công khai.

- Quan niệm về tài sản, thu nhập:
Tài sản là một từ ngữ quen thuộc đối với bất kì ai, đó là vấn đề trọng tâm
của các quan hệ xã hội nói chung và trong quan hệ pháp luật nói riêng. Tài sản
tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau, phong phú và đa dạng. Tuy nhiên, trong
thực tế khái niệm tài sản được hiểu mơ hồ, chưa có sự thống nhất chung để có
thể xác định đối tượng đó có phải là tài sản hay không.

Theo quy định của pháp luật về dân sự, tài sản được liệt kê khép kín gồm:

vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản. Trong đó:
Vật là một bộ phận của thế giới vật chất, tồn tại khách quan mà con người
có thể cảm giác được bằng các giác quan của mình. Vật chỉ có ý nghĩa khi nó trở
thành đối tượng trong quan hệ pháp luật, do vậy, nếu bộ phận của thế giới vật
chất mà con người không thể kiểm soát, chiếm hữu được nó thì đồng nghĩa

12


13

với việc con người không thể tác động được vào nó. Như vậy, muốn trở thành
vật trong quan hệ pháp luật phải thỏa mãn những điều kiện sau: Là bộ phận của
thế giới vật chất; chỉ khi con người chiếm hữu được nó thì nó mới được coi là
vật, tức là con người có thể nắm giữ, quản lý được thì mới có thể đưa vào giao
dịch và được coi là vật; có thể đang tồn tại hoặc sẽ hình thành trong tương lai.

Tiền theo kinh tế chính trị học là vật ngang giá chung được sử dụng làm
thước đo giá trị của các loại tài sản khác. Một tài sản được coi là tiền hiện nay
khi nó đang có giá trị lưu hành trên thực tế. Tiền được coi là một dạng đặc
biệt của tài sản và cũng là thước đo để xác định toàn bộ khối tài sản của một
chủ thể nào đó trong quan hệ pháp luật dân sự.
Giấy tờ có giá là loại tài sản rất phổ biến trong giao dịch dân sự hiện nay
đặc biệt là giao dịch trong các hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng
khác. Căn cứ vào các quy định của pháp luật hiện hành thì giấy tờ có giá bao
gồm: Hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, séc, công cụ chuyển nhượng; Trái
phiếu Chính phủ, trái phiếu công ty, kỳ phiếu, cổ phiếu…. Giấy tờ có giá là
một loại tài sản trong quan hệ pháp luật và có các thuộc tính sau: Xác nhận

quyền tài sản của một chủ thể xác định; trị giá được bằng tiền và có thể
chuyển giao quyền sở hữu cho chủ thể khác trong giao dịch dân sự.
Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao
trong giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ. Quyền này được hiểu là
một quyền năng dân sự chủ quan của chủ thể được pháp luật ghi nhận và bảo
vệ. Quyền đó phải được xác định tương đương với một đại lượng vật chất
nhất định. Hiện nay, một số quyền tài sản được công nhận như quyền sử dụng
đất, quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp …
“Thu nhập” là “nhận được tiền bạc, của cải, vật chất từ một hoạt động
nào đó” [49]. Thực tế bất cứ cá nhân nào đều có thể có thu nhập của riêng
mình. Người lao động có thu nhập từ tiền công, tiền lương, thu nhập từ những

13


14

của cải, vật chất có được thông qua hoạt động sản xuất, kinh doanh, đầu tư
vốn, chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng bất động sản và các thu nhập khác
như trúng thưởng xổ số, trúng thưởng dưới các hình thức khuyến mại, trò chơi
có thưởng, thu nhập từ tiền bản quyền; thu nhập từ thừa kế, quà tặng là cổ
phiếu, trái phiếu, quyền sở hữu doanh nghiệp....
Với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, đa dạng hóa các
thành phần kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, nguồn chi
trả thu nhập cũng ngày càng đa dạng. Nguồn thu nhập ngoài nhận được từ
Nhà nước, còn có các khoản thu nhập nhận được từ các tổ chức kinh tế trong
nước và ngoài nước...
-

Quan niệm về cơ quan hành chính nhà nước:


Thuật ngữ hành chính có nguồn gốc từ tiếng La tinh “Administratio”,
tiếng Anh là “administration”, có nghĩa chung là quản lý, lãnh đạo. Nội hàm
của khái niệm bao gồm: Hoạt động quản lý của cơ quan nhà nước, hoạt động
tổ chức trong lĩnh vực quản lý; các cơ quan chấp hành của quyền lực nhà
nước, bao gồm Chính phủ và các cơ quan cấp dưới; những người tổ chức,
điều hành, chịu trách nhiệm trong tổ chức, hoạt động của các cơ quan, đơn vị.
“Hành chính” theo nghĩa Hán Việt chỉ sự thi hành những chính sách và
pháp luật của Chính phủ, tức là hoạt động quản lý hành chính nhà nước.
Trong khoa học luật hành chính, thuật ngữ “hành chính” được hiểu thông
dụng là sự quản lý. Theo giáo trình “Hành chính học đại cương” của GS Đoàn
Trọng Truyến - NXB Chính trị Quốc gia, “hành chính” là những biện pháp tổ
chức và điều hành của các tổ chức, các nhóm, các đoàn thể hợp tác trong các
hoạt động của mình vì mục tiêu chung.
Hành chính theo nghĩa rộng là chỉ những hoạt động, những tiến trình chủ
yếu có liên quan đến những biện pháp để thực thi những mục tiêu, những
nhiệm vụ đã được xác định trước. Hành chính theo nghĩa h p là nền hành

14


15

chính nhà nước hay còn gọi là nền hành chính công là tổng thể các tổ chức và
định chế hoạt động của bộ máy hành pháp có trách nhiệm quản lý công việc
hằng ngày của nhà nước do các cơ quan có tư cách pháp nhân công quyền tiến
hành bằng các văn bản dưới luật nhằm thực thi chức năng quản lý nhà nước,
giữ gìn và bảo vệ quyền lợi công và phục vụ nhu cầu hằng ngày của dân trong
mối quan hệ giữa công dân và nhà nước.
Cơ quan hành chính nhà nước là một bộ phận cấu thành của bộ máy nhà

nước, thực hiện các quyền hành chính, quản lý hành chính nhà nước. Cơ quan
hành chính nhà nước được phân làm cơ quan hành chính nhà nước ở trung
ương và cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. Cơ quan hành chính nhà
nước ở trung ương bao gồm Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ. Các cơ
quan này hoạt động trên phạm vi toàn quốc, văn bản pháp luật do các cơ quan
này ban hành có hiệu lực trên phạm vi cả nước và có tính bắt buộc thi hành
đối với mọi cơ quan hành chính nhà nước cấp dưới, với các tổ chức xã hội và
mọi công dân. Cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương bao gồm UBND
các cấp (tỉnh, huyện, xã). Ðây là các cơ quan hành chính nhà nước được thành
lập và hoạt động trên một phạm vi lãnh thổ nhất định, các văn bản pháp luật
do các cơ quan này ban hành có hiệu lực trong một phạm vi lãnh thổ nhất
định. Tuy có sự phân chia thành cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương
và cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương nhưng các cơ quan hành chính
nhà nước này luôn tạo thành một thể thống nhất, quan hệ chặt chẽ với nhau
trên nguyên tắc tập trung dân chủ.
Quan niệm về người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan hành
chính
nhà nước:
Thuật ngữ chức vụ được sử dụng phổ biến trong đời sống thường nhật,
trong khoa học pháp lý, khoa học hành chính và trong các văn bản pháp luật.
Từ góc độ tổ chức hành chính nhà nước, chức vụ được hiểu là đơn vị mang

15


16

tính tổ chức - cơ cấu của cơ quan nhà nước được thiết lập trên cơ sở văn bản
pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, xác định vị trí phục vụ và vai
trò lao động xã hội của người lao động, quyền và nghĩa vụ cũng như những

yêu cầu đối với chuyên môn của họ [45, tr 67-73]. Những chức vụ được thiết
lập để thực hiện các hoạt động công vụ phục vụ cho việc thực hiện các nhiệm
vụ, quyền hạn, thẩm quyền của cơ quan nhà nước mà pháp luật quy định. Mỗi
một chức vụ trong cơ quan hành chính nhà nước đều có một số lượng nhiệm
vụ, quyền hạn nhất định và tương ứng là trách nhiệm, bổn phận.
Quyền hạn được hiểu là “quyền theo cương vị, chức vụ cho phép” [51,
tr 1384]. Hiểu một cách đơn giản thì quyền hạn là những công việc mà một tổ
chức, cá nhân nào đó được làm, được pháp luật cho phép làm. Quyền của cơ
quan nhà nước là có giới hạn; cơ quan nhà nước hoặc công chức nhà nước chỉ
được làm những điều pháp luật cho phép. Nếu như với công dân, người ta hay
nói “quyền và nghĩa vụ”, quyền thường đi đôi với nghĩa vụ như quyền và
nghĩa vụ học tập, lao động... Cũng có trường hợp đơn giản là quyền như
quyền kết hôn hoặc chỉ là nghĩa vụ như nghĩa vụ nộp thuế. Tương ứng với
quyền và nghĩa vụ của công dân là quyền hạn và nhiệm vụ của cơ quan nhà
nước. Tuy nhiên, có một điểm khác là hầu như mọi quyền hạn của cơ quan
nhà nước đều là nhiệm vụ của chính nó. Khi cơ quan nhà nước được trao
quyền hạn gì thì cũng đồng thời có nhiệm vụ và trách nhiệm phải làm việc đó.
Cơ quan hành chính nhà nước là bộ phận cấu thành của bộ máy nhà
nước; trực thuộc trực tiếp hoặc gián tiếp cơ quan quyền lực nhà nước cùng
cấp; có phương diện hoạt động chủ yếu là hoạt động chấp hành - điều hành,
thực hiện chức năng quản lý nhà nước; có cơ cấu tổ chức và phạm vi thẩm
quyền do pháp luật quy định.
Người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước là
người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác,

16


17


được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong
khi thực hiện công vụ.
Khái niệm người có chức vụ, quyền hạn được quy định trong một số
văn bản pháp luật khác nhau như trong Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ
sung năm 2009) và Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 (đã được sửa
đổi, bổ sung năm 2007 và năm 2012). Theo đó, khái niệm người có chức vụ
được quy định tại Điều 277 Bộ luật Hình sự như sau: “Người có chức vụ là
người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có
hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất
định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ”. Và, Khoản 3,
Điều 1, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 (đã được sửa đổi, bổ sung
năm 2007 và năm 2012) quy định người có chức vụ, quyền hạn như sau:
-

Cán bộ, công chức, viên chức;

Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong cơ

quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ
sĩ quan chuyên môn - kỹ thuật trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân;
-

Cán bộ lãnh đạo, quản lý trong doanh nghiệp của Nhà nước; cán bộ lãnh

đạo, quản lý là người đại diện phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp;

-

Người được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ có quyền hạn trong khi


thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó.
Như vậy có thể thấy, người có chức vụ, quyền hạn trước hết là người
đại diện cho bộ máy công quyền để thi hành công vụ. Nội dung và cơ sở hoạt
động của người có chức vụ, quyền hạn sẽ được xác định dựa trên chức vụ mà
họ đảm nhiệm và nhiệm vụ mà họ được giao.
Với quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng thì 3 trong 4 nhóm
người có chức vụ, quyền hạn rất dễ xác định bởi vị trí công tác của họ có tính
ổn định, lâu dài, đó là cán bộ, công chức, viên chức; Sĩ quan, quân nhân

17


18

chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội
nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn - kỹ
thuật trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân; Cán bộ lãnh đạo, quản lý
trong doanh nghiệp của Nhà nước; cán bộ lãnh đạo, quản lý là người đại diện
phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp. Tuy nhiên, nhóm thứ 4 rất khó
xác định, bởi đó có thể là những người được giao chức vụ, quyền hạn trong
những trường hợp nhất định. Do đó, cùng là người có chức vụ, quyền hạn
nhưng địa vị pháp lý của nhóm đối tượng khác nhau lại khác nhau, cơ chế
quản lý họ cũng khác nhau và để kiểm soát tài sản, thu nhập của họ cũng cần
phải có sự phân biệt nhất định mà không nhất thiết phải áp dụng chung những
hình thức kiểm soát cho tất cả các đối tượng là người có chức vụ, quyền hạn.
Cơ quan hành chính nhà nước là bộ phận của bộ máy nhà nước. Cơ
quan hành chính nhà nước có quyền nhân danh Nhà nước khi tham gia vào
các quan hệ pháp luật nhằm thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý với mục
đích hướng tới lợi ích công. Biểu hiện của tính quyền lực nhà nước đó là: Cơ
quan hành chính nhà nước có quyền ban hành các văn bản pháp luật như nghị

định, quyết định, chỉ thị và có thể được áp dụng những biện pháp cưỡng chế
hành chính nhà nước nhất định. Hệ thống cơ quan hành chính nhà nước có cơ
cấu tổ chức phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy
định. Cơ quan hành chính nhà nước có tính độc lập tương đối về cơ cấu - tổ
chức. Các cơ quan hành chính nhà nước được thành lập và hoạt động dựa trên
quy định của pháp luật, có chức năng nhiệm vụ, thẩm quyền riêng và có
những mối quan hệ phối hợp trong thực thi công việc được giao với các cơ
quan khác trong bộ máy nhà nước mà quan hệ đó được quy định bởi thẩm
quyền nhất định do pháp luật quy định - đó là tổng thể những quyền, nghĩa vụ
chung và những quyền hạn cụ thể mang tính quyền lực - pháp lý mà nhà nước
trao cho để thực hiện nhiệm vụ, chức năng của nhà nước.

18


19

Trên cơ sở những phân tích trên, có thể đưa ra quan niệm “công khai,
minh bạch tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan
hành chính nhà nước là việc công bố, giải trình, xác minh thông tin về tài
sản, thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức và những người hưởng lương
từ ngân sách nhà nước theo quy định pháp luật trong cơ quan hành chính nhà
nước nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp luật về vấn
đề này”.
Trong đó, việc công bố thông tin về tài sản, thu nhập phải xuất phát từ
việc người có chức vụ, quyền hạn thực hiện kê khai tài sản, thu nhập và được
cơ quan có thẩm quyền công khai bản kê khai tài sản, thu nhập đó.
Giải trình là việc tự giải thích, chứng minh của người có nghĩa vụ kê khai
về việc hình thành tài sản, thu nhập tăng thêm so với lần kê khai trước đó.
Xác minh tài sản, thu nhập là việc xem xét, đánh giá, kết luận của cơ

quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền về tính trung thực, chính xác của
việc kê khai tài sản, thu nhập theo trình tự, thủ tục được pháp luật quy định.

Như vậy, pháp luật về công khai, minh bạch tài sản, thu nhập của
người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước là tổng thể
các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội trong quá trình công
bố, giải trình, xác minh thông tin về tài sản, thu nhập của người có chức vụ,
quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước nhằm phòng ngừa, phát hiện
và xử lý hành vi vi phạm pháp luật về vấn đề này.
1.1.2. Vai trò của pháp luật về công khai, minh bạch tài sản, thu nhập
của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan hành chính nhà nước

Thứ nhất, pháp luật về công khai, minh bạch tài sản, thu nhập của
người có chức vụ, quyền hạn tạo cơ sở pháp lý cho các cơ quan chức năng có
thẩm quyền đánh giá, xử lý cán bộ, công chức; từ đó xây dựng đội ngũ cán bộ
thanh liêm, trong sạch.

19


×