Tải bản đầy đủ (.docx) (167 trang)

NHU cầu đào tạo LIÊN tục về xử TRÍ một số BỆNH KHÔNG lây NHIỄM của cán bộ y tế xã TỈNH hòa BÌNH và THỬ NGHIỆM GIẢI PHÁP CAN THIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 167 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

NGUYỄN HỮU THẮNG

NHU CẦU ĐÀO TẠO LIÊN TỤC
VỀ XỬ TRÍ MỘT SỐ BỆNH KHÔNG LÂY NHIỄM
CỦA CÁN BỘ Y TẾ XÃ TỈNH HÒA BÌNH VÀ
THỬ NGHIỆM GIẢI PHÁP CAN THIỆP

LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC


HÀ NỘI – 2018BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y

TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

NGUYỄN HỮU THẮNG

NHU CẦU ĐÀO TẠO LIÊN TỤC
VỀ XỬ TRÍ MỘT SỐ BỆNH KHÔNG LÂY NHIỄM
CỦA CÁN BỘ Y TẾ XÃ TỈNH HÒA BÌNH VÀ
THỬ NGHIỆM GIẢI PHÁP CAN THIỆP
Ngành: Vệ sinh xã hội học và tổ chức y tế
Mã số: 62720164



LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS. TS. Nguyễn Hoàng Long
2. PGS. TS. Nguyễn Duy Luật


HÀ NỘI – 2019
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thảnh bản luận án này, tôi đã nhận được s ự giúp đ ỡ, h ỗ
trợ chân tình và hiệu quả của nhiều đơn vị, cá nhân, thầy cô giáo và các
bạn đồng nghiệp gần xa, nhóm nghiên cứu và của nh ững người thân
trong gia đình.
Trước tiên, tôi xin bày tỏ sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc t ới
PGS. TS. Nguyễn Hoàng Long và PGS. TS. Nguy ễn Duy Luật, hai người
Thầy đã hướng dẫn, động viên giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên c ứu và
viết luận án này. Những nhận xét và đánh giá của các Thầy, đ ặc bi ệt là
những gợi ý về hướng giải quyết vấn đề trong suốt quá trình nghiên
cứu, thực sự là những bài học vô cùng quý giá đối với tôi không ch ỉ trong
quá trình viết luận án mà cả trong hoạt động nghiên cứu chuyên môn
sau này.
Tôi xin chân thành cảm ơn tập thể thầy cô trong Viện đào t ạo Y
học dự phòng và Y tế công cộng, Trường Đại học Y Hà Nội, Chính quy ền,
Sở Y tế tỉnh Hòa Bình, trường Trung cấp Y tế, Bệnh viện đa khoa, B ệnh
viện nội tiết, các đơn vị y tế huyện Mai Châu, thành ph ố Hòa Bình,
huyện Lương Sơn và đặc biệt các cán bộ y tế xã đã cung cấp thông tin,
giúp đỡ, góp ý và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi trong quá trình
nghiên cứu và viết luận án của mình.
Tôi xin cảm ơn Ban Giám hiệu, phòng Quản lý đào tạo sau đại học,
trường Đại học Y Hà Nội, những đồng nghiệp gần xa đã chia sẻ, đ ộng

viên, giúp đỡ để tôi hoàn thành luận án này.


Cuối cùng, tôi xin cảm ơn bố mẹ, vợ và các con đã động viên và h ỗ
trợ tôi rất nhiều về mặt thời gian, hy sinh về vật chất lẫn tinh th ần đ ể
giúp tôi hoàn thành luận án này.
Hà Nội, ngày tháng 12 năm 2018
NGHIÊN CỨU SINH
Nguyễn Hữu Thắng
LỜI CAM ĐOAN
Tôi là Nguyễn Hữu Thắng, nghiên cứu sinh khóa XXXIII, Trường Đại học Y
Hà Nội, chuyên ngành: Vệ sinh xã hội học và Tổ chức y tế, xin cam đoan:
1. Đây là luận án do bản thân tôi trực tiếp thực hiện dưới dự hướng dẫn
của PGS. TS.Nguyễn Hoàng Long và PGS. TS.Nguyễn Duy Luật.
2. Công trình này không trùng lặp với bất cứ nghiên cứu nào khác đã
được công bố tại Việt Nam.
3. Các số liệu và thông tin trong nghiên cứu là hoàn toàn chính xác, trung
thực và khách quan, đã được xác nhận và chấp thuận của cơ sở nơi
nghiên cứu.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về những cam kết này.
Hà Nội, ngày tháng 12 năm 2018
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Hữu Thắng


MỤC LỤC

27,49,83,93,123-125
0-26,28-48,50-82,84-92,94-122,126-



DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
%

Tỷ lệ phần trăm

BHYT:
BKLN:

Bảo hiểm y tế
Bệnh không lây nhiễm

BMI:

Chỉ số khối cơ thể

BV:

Bệnh viện

CSSK:

Chăm sóc sức khỏe

CBYT:

Cán bộ y tế

DALY:

ĐTĐ:

Số năm sống điều chỉnh theo bệnh tật
Đái tháo đường

KCB:

Khám chữa bệnh

HA:

Huyết áp

IDF:
THA:
TYT:

Hiệp hội đái tháo đường thế giới
Tăng huyết áp
Trạm y tế

SL
YTCS:

Số lượng
Y tế cơ sở

YLL:

Tổng số năm sống bị mất do tử vong


YLD:

Số năm sống tàn tật

WHO

Tổ chức Y tế thế giới


DANH MỤC BẢNG


DANH MỤC HÌNH


9

ĐẶT VẤN ĐỀ
Đái tháo đường (ĐTĐ) và tăng huyết áp (THA) là hai trong những bệnh
không lây nhiễm (BKLN) đang có những diễn biến rất phức tạp. Tổ chức Y tế
thế giới cho biết, vào năm 2008, trên toàn cầu có khoảng 40% người từ 25
tuổi trở lên được chẩn đoán mắc THA. Số người mắc bệnh này đã tăng từ 600
triệu người vào năm 1980 lên tới 1 tỷ người vào năm 2008 [1]. Hiện nay trên
thế giới, tỷ lệ THA chiếm 8 - 18% dân số [2], là một trong 10 yếu tố nguy cơ
hàng đầu gây gánh nặng bệnh tật và tử vong trên toàn cầu [3], chiếm 13% tỷ
lệ tử vong ở Việt Nam [3]. Trong khi đótỷ lệ hiện mắc bệnh ĐTĐ trên toàn
cầu vào năm 2015 ước tính là 415 triệu người trưởng thành [4]. Tỷ lệ mắc
ĐTĐ ở người trưởng thành đã tăng gấp đôi so với năm 1980, tăng từ 4,7% lên
8,5% [5]. ĐTĐ là nguyên nhân gây ra 1,5 triệu người chết vào năm 2012,

43% được tìm thấy ở những người dưới 70 tuổi. ĐTĐ dẫn đến thiệt hại kinh
tế không chỉ với người bệnh mà còn với gia đình họ, hệ thống chăm sóc sức
khỏe và nền kinh tế quốc gia qua chi phí y tế trực tiếp, mất việc và tiền lương.
Dựa trên nghiên cứu về chi phí y tế gần đây, ước tính chi phí trực tiếp cần chi
trả cho điều trị ĐTĐ lên tới 827 tỷ đô la [6],[5].
Tại Việt Nam, kết quả điều tra về ĐTĐ ở nước ta cho thấy, tỷ lệ mắc
bệnh ĐTĐ lứa tuổi 30- 69 tuổi toàn quốc là 2,7% vào năm 2006{Bệnh viện
Nội tiết Trung ương, 2013 #38}, tăng gấp đôi lên 5,4% năm 2012 [7]. Đây là
điều đáng báo động khi tỷ lệ ĐTĐ gia tăng{Tạ Văn Bình, 2004 #37} nhanh hơn
dự báo. Ước tính, năm 2010 tỷ lệ ĐTĐ ở nhóm tuổi từ 20-79 tuổi là 2,9% tương
ứng 1,65 triệu người bị bệnh và dự báo sẽ tăng lên 3,42 triệu người vào năm
2030, gia tăng 88.000 người một năm [8]. Riêng chi phí cho điều trị ĐTĐ đã
chiếm khoảng 3-6% ngân sách dành cho y tế hàng năm. Về bệnh THA, năm
2000 có khoảng 16,3% người lớn mắc bệnh này, đến năm 2009 tỷ lệ THA ở
người lớn là 25,4% và năm 2016 tỷ lệ người lớn bị THA đang ở mức báo động là
48%, một mức báo động đỏ trong thời điểm hiện tại [9].


10

Trước tình hình gia tăng bệnh THA và ĐTĐ làm ảnh hưởng tới sức
khỏe, chất lượng sống của người dân, tổn thất nặng nề về kinh tế và ảnh
hưởng tới an sinh xã hội, ngày 20/3/2015 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
Quyết định số 376/QĐ- TTg về việc “Phê duyệt chiến lược quốc gia phòng,
chống bệnh ung thư, tim mạch, ĐTĐ, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, hen phế
quản và các BKLN khác, giai đoạn 2015- 2025”. Chiến lược đã nhấn mạnh
chủ động giám sát phát hiện sớm bệnh, điều trị, đặc biệt là quản lý tại cơ sở
chăm sóc sức khoẻ ban đầu là yếu tố quyết định hiệu quả trong phòng chống
các BKLN nói chung và bệnh THA, ĐTĐ nói riêng.
Trạm Y tế xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là Trạm Y tế xã) có

chức năng cung cấp, thực hiện các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho
nhân dân trên địa bàn xã [10],[11].TYT xã cũng là đơn vị kỹ thuật đầu tiên
tiếp xúc với nhân dân, nằm trong hệ thống y tế nhà nước có nhiệm vụ thực
hiện các dịch vụ CSSK ban đầu, phát hiện sớm các dịch bệnh và phòng chống
dịch bệnh, đỡ đẻ thông thường, cung cấp thuốc thiết yếu, vận động nhân dân
thực hiện kế hoạch hóa gia đình và tăng cường sức khỏe [12]. Trong những
năm qua, Đảng và Nhà nước đã rất quan tâm đầu tư phát triển mạng lưới y tế
cơ sở (YTCS) rộng khắp, từng bước được cải thiện góp phần nâng cao chất
lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân. Thông qua các chương trình mục tiêu
quốc gia, YTCS đã tham gia vào các hoạt động phòng chống BKLN, từ đó
giúp phát hiện, điều trị và quản lý khoảng 700.000 người THA, 250.000
người tiền ĐTĐ và mắc ĐTĐ [13]. Tuy đã đạt được những kết quả nhất định,
nhưng theo báo cáo của Bộ Y tế, hoạt động phòng chống BKLNcủa hệ thống
y tế nói chung và YTCS nói riêng còn gặp nhiều khó khăn trên các khía cạnh:
quản lý điều hành; nhân lực, tài chính, dược và trang thiết bị, thông tin y tế và
cung ứng dịch vụ[3]. Hòa Bình là một tỉnh miền núi thuộc khu vực trung du
và miền núi phía Bắc, là nơi tập trung nhiều dân tộc cùng chung sống với diện
tích 4.662,5 km2, tổng cộng có 210 đơn vị cấp xã gồm 11 thị trấn, 8 phường
và 191 xã trực thuộc. Dân số toàn tỉnh Hòa Bình đạt gần 831.357 người [14].


11

Về lĩnh vực y, toàn tỉnh hiện có hơn 500 bác sĩ, tỷ lệ bác sĩ/vạn dân là 6,63
[15]. Theo báo cáo của Sở Y tế tỉnh Hòa Bình thì thực trạng các TYT còn
chưa đáp ứng được nhu cầu khám chữa bệnh nói chung và phòng chống
BKLNnói riêng.Trong khi tỷ lệ mắc THA (trên 40 tuổi) là 29,6%, người cao
tuổi (>60 tuổi) lên tới 35%; Tỷ lệ mắc ĐTĐ > 40 tuổi là 9,3%, tiền ĐTĐ là
56,1%2[16]. Tính đến tháng 6/2013, bệnh viện Nội tiết tỉnh Hòa Bình quản lí
và điều trị 2.896 người bệnh ĐTĐ, tăng gần 600 người bệnh so với năm 2012,

tình trạng lạm dụng rượu bia ở Hòa Bình là khá phổ biến, điều này có thể có
những tác động rất xấu đối với sức khỏe, làm tăng nguy cơ mắc bệnh THA,
ĐTĐ[17]. Do đó, năm 2012, Sở Y tế tỉnh Hòa Bình đã xây dựng dự án phòng
chống BKLN của tỉnh,trong đó có hoạt động đào tạo liên tục nhằm nâng cao
năng lực cho cán bộ y tế các tuyến, bao gồm YTCS. Tuy nhiên, cũng theo báo
cáo của Sở Y tế tỉnh Hòa Bình, hoạt động đào tạo liên tục còn một số tồn tại
như đào tạo chưa xác định nhu cầu cho từng nhóm đối tượng, chưa chú trọng
đến các kỹ năng thiếu hụt để thực hiện đào tạo, thời gian đào tạo chưa phù
hợp, thiếu hệ thống đánh giá sau đào tạo...Để khắc phục những tồn tại nêu
trên và trả lời các câu hỏi đặt ra là kiến thức, thái độ của CBYT xã về xử trí
một số BKLN hiện nay ra sao? CBYT xã đã đủ kỹ năng để xử trí một số
BKLNtheo yêu cầu hiện nay chưa? CBYT xã có nhu cầu đào tạo về xử trí một
số BKLN tại TYT xã như thế nào? Đó là những câu hỏi cần được trả lời. Do
vậy nghiên cứu sinh chọn đề tài: “Nhu cầu đào tạo liên tục về xử trí một số
bệnh không lây nhiễm của cán bộ y tế xã tỉnh Hòa Bình và thử nghiệm
giải pháp can thiệp”, nhằm nâng cao chất lượng khám chữa một số BKLN
của người dân tại trạm y tế xã, cụ thể là THA và ĐTĐ, góp phần bảo vệ và
nâng cao sức khỏe nhân dân.
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1.

Phân tích nhu cầu đào tạo liên tục về xử trí bệnh tăng huyết áp và đái
tháo đường của cán bộ y tế xã tỉnh Hòa Bình năm 2017.


12

2.

Bước đầu đánh giá hiệu quả chương trình đào tạo liên tục về xử trí

bệnh tăng huyết áp và đái tháo đường dành cho cán bộ y tế xã.


13

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1

MỘT SỐ THÔNG TIN CHUNG VỀ TĂNG HUYẾT ÁP VÀ ĐÁI

THÁO ĐƯỜNG
1.1.1. Định nghĩa về tăng huyết áp và đái tháo đường
1.1.1.1. Định nghĩa tăng huyết áp
Tăng huyết áp – hay còn được gọi là cao huyết áplà một trạng thái
trong đó máu lưu thông dưới một áp suất tăng cao lâu dài. Máu được mang từ
tim đến tất cả các bộ phận của cơ thể qua các động mạch và tĩnh mạch. Mỗi
lần tim đập, tim sẽ bơm máu đi khắp cơ thể. Huyết áp được tạo ra bằng lực
của máu tác động lên thành trong của mạch máu khi máu được tim bơm đi
khắp cơ thể. Tổ chức Y tế thế giới và Hội THA quốc tế (World Health
Organization - International Society of Hypertention WHO - ISH) đã thống
nhất định nghĩa THA khi huyết áp tối đa ≥ 140 mmHg và/hoặc HA tối thiểu ≥
90 mmHg [18],[19].
1.1.1.2. Định nghĩa đái tháo đường
Đái tháo đường là một rối loạn mạn tính, bao gồm những thuộc tính
sau:Tăng glucose máu;Kết hợp với những bất thường về chuyển hóa
carbonhydrat, lipid và protein;Bệnh ĐTĐ luôn gắn liền với xu hướng phát
triển các bệnh lý về thận, đáy mắt, thần kinh và các bệnh tim mạch khác [20].
Ngoài ra, theo Hội Đái tháo đường Hoa Kỳ 2010: “Đái tháo đường là một
nhóm các bệnh lý chuyển hóa đặc trưng bởi tăng glucose máu do khiếm
khuyết tiết insulin, khiếm khuyết hoạt động insulin hoặc cả hai. Tăng glucose

máu mạn tính trong ĐTĐ sẽ gây tổn thương, rối loạn chức năng hay suy nhiều
cơ quan, đặc biệt là mắt, thận, thần kinh, tim và mạch máu”[21].


14

1.1.2. Gánh nặng bệnh tật do tăng huyết áp và đái tháo đường
1.1.2.1. Trên thế giới
 Tăng huyết áp
Tổ chức Y tế thế giới và Trung tâm kiểm soát bệnh tật Hoa Kỳ nhận
định, THA đã và đang trở thành một vấn đề y tế công cộng chính hiện nay.
Trên toàn cầu, bệnh tim mạch gây ra khoảng 17 triệu trường hợp tử vong mỗi
năm, tức chiếm tới 1/3 tổng số tử vong, mà trong đó, có tới 9,4 triệu ca là từ
biến chứng của THA[22]. THA là nguyên nhân gây ra ít nhất khoảng 45% ca
tử vong do bệnh tim và 51% do đột quỵ[23]. Trong năm 2008, trên toàn thế
giới, ước tính có khoảng 40% người từ 25 tuổi trở lên được chẩn đoán mắc
THA, tức số người mắc bệnh này đã tăng từ 600 triệu người vào năm 1980
lên thành 1 tỷ người vào năm 2008 [24]. Theo Tổ chức y tế thế giới (2014)
trên thế giới tỷ lệ THA 8 - 18% dân số thay đổi từ các nước Châu Á như
Indonesia 6 - 15%, Malaysia 10 - 11%, Đài Loan 28%, tới các nước Âu - Mỹ
như Hà Lan 37%, Pháp 10 - 24%, Hoa Kỳ 24%. Tỷ lệ THA ở người già tại
Brazil (2013) là 46,9% [25], khu vực châu Phi là 46%[1].
THA là vấn đề ảnh hưởng đến 26% dân số trưởng thành trên thế giới.
Năm 2000, có 972 triệu người mắc THA. Các nhà nghiên cứu đã ước tính
rằng THA hiện đang giết chết 9 triệu người mỗi năm [1]. Số lượng người lớn
bị THA được dự đoán sẽ tăng lên khoảng 60%, con số đó vào khoảng 1,6 tỷ
người vào năm 2025[26]. Có tới 10% chi phí chăm sóc sức khỏe liên quan
đến THA, chi phí hàng năm cho THA là 370 tỷ đô [27].
 Đái tháo đường
ĐTĐ là một trong bốn bệnh không lây gây tàn phế và tử vong cao nhất

(tim mạch, ĐTĐ, ung thư và bệnh đường hô hấp mạn tính)[28].


15

Hiệp hội Đái tháo đường thế giới (IDF) đã thống kê số người mắc bệnh
ĐTĐ trên thế giới là 110 triệu người năm 1994, 135 triệu người năm 1995,
171 triệu người năm 2000 và 381,8 triệu người năm 2013[29]. Tỷ lệ mắc
ĐTĐ ở người trưởng thành đã tăng gấp đôi so với năm 1980, tăng từ 4,7% lên
8,5%[30]. Tỷ lệ này cao nhất ở khu vực Đông Địa Trung Hải và châu Mỹ
(11%) và thấp nhất ở khu vực châu Âu và Tây Thái Bình Dương (9%)[31],
[32]. Tỷ lệ mắc ĐTĐ tương đối đều trong các nhóm quốc gia phân theo thu
nhập dù các nước thu nhập thấp có tỷ lệ mắc thấp nhất (8%) và các nước thu
nhập trung bình cao có tỷ lệ cao nhất (10%)[32].
Riêng vào năm 2015, ước tính có khoảng 415 triệu người mắc ĐTĐ.
Dự báo năm 2040 sẽ có 642 triệu người mắc ĐTĐ[4], chi tiết trong bảng 1.1.
Bảng 1.1.Số lượng người mắc bệnh ĐTĐ tại một số vùng trên thế giới
năm 2015, ước tính 2040.
Địa dư
Châu Phi
Trung Đông và Bắc Phi
Đông Nam Á
Nam và Trung Mỹ
Tây Thái Bình Dương
Bắc Mỹ và Caribe
Châu Âu
Việt Nam
Thế giới

2015 (triệu người)

14,2
35,4
78,3
29,6
153,2
44,3
59,8
3,5
415

2040 (triệu người)
34,2
72,1
140,2
48,8
214,8
60,5
71,1
642

Theo IDF (năm 2015) có sự chênh lệch lớn số lượng mắc về độ tuổi:
320,5 triệu người mắc ở trong độ tuổi lao động (20 - 64 tuổi) trong khi con số
này là 94,2 triệu người trong độ tuổi 65-79 gấp hơn 3 lần. Đồng thời có rất ít
sự khác biệt giới tính số người mắc bệnh ĐTĐ cho đến năm 2015:Có khoảng
15,6 triệu đàn ông bị ĐTĐ hơn phụ nữ (215,2 triệu đàn ông và 199,5 triệu phụ
nữ). Sự khác biệt này được dự kiến sẽ giảm để người đàn ông khoảng 15,1
triệu hơn phụ nữ (328,4 triệu đàn ông và 313,3 triệu phụ nữ) vào năm 2040.


16


Về địa dư, tỉ lệ mắc bệnh ĐTĐ ở đô thị là 269,7 triệu cao hơn hẳn so với nông
thôn 145,1 triệu [4].
ĐTĐ là nguyên nhân gây ra 1,5 triệu người chết vào năm 2012. 43% của
3,7 triệu người chết được tìm thấy ở những người dưới 70 tuổi. Tỷ lệ tử vong có
thể quy cho tăng đường huyết hay ĐTĐ ở nhóm trên 70 tuổi cao hơn ở nhóm
nước thu nhập thấp hoặc trung bình hơn là nhóm nước thu nhập cao [30].
ĐTĐ dẫn đến thiệt hại kinh tế không chỉ với người bệnh, gia đình họ,
mà còn với hệ thống chăm sóc sức khỏe và nền kinh tế quốc gia qua chi phí y
tế trực tiếp, mất việc và tiền lương. Bên cạnh đó, những chi phí cho việc đi
lại, ăn ở trong quá trình điều trị của bệnh nhân và người nhà họ cũng gây gánh
nặng kinh tế rất lớn [3]. Dựa trên những ước tính chi phí y tế từ những tổng
quan nghiên cứu gần đây, người ta ước tính chi phí trực tiếp do điều trị ĐTĐ
là trên 827 tỉ đô la [30], [6].
1.1.2.2. Tại Việt Nam
 Tăng huyết áp
Tại Việt Nam, tỷ lệ mắc THA đang gia tăng một cách nhanh chóng:
năm 2000 có khoảng 16,3% người lớn mắc bệnh này, đến năm 2009 tỷ lệ
THA ở người lớn là 25,4% và năm 2016 tỷ lệ người lớn bị THA đang ở mức
báo động là 48%, một mức báo động đỏ trong thời điểm hiện tại [9]. THA là
yếu tố nguy cơ chính gây ra tai biến mạch máu não, bệnh mạch vành và các
bệnh tim mạch khác [33]. Theo điều tra của Viện Tim mạch Trung ương, tỷ lệ
mắc THA ở người trưởng thành là 25,1% [31]nam cao hơn nữ (28,3% và
23,1%), tăng 48% so với tỷ lệ mắc công bố bởi Điều tra y tế quốc gia năm
2001-2002 [34]. Trong nhóm được phát hiện huyết áp cao trong điều tra, chỉ
48,4% biết trước là đã mắc THA, 29,6% đang điều trị và 10,7% đang quản lý
huyết áp hiệu quả (đạt huyết áp <140/90 mmHg). Tỷ lệ người bị THA tăng
theo tuổi ở cả nam và nữ. Tỷ lệ THA ở thành thị cao hơn ở nông thôn (32,7 và



17

17,3%). Huyết áp cao gây ra 91.560 ca tử vong năm 2010, chiếm 20,8% tổng
số ca tử vong và 7,2% tổng số DALY, chủ yếu do tai biến mạch máu não và
bệnh tim thiếu máu cục bộ[33].
Theo thống kê năm 1960, tỷ lệ THA ở người trưởng thành phía Bắc
Việt Nam chỉ là 1% và gần 40 năm sau (1999) đã là 11,2%, tăng lên hơn 11
lần. Theo nghiên cứu trên 17.199 người lớn tuổi từ 25 - 64 tuổi, những người
có chỉ số khối cơ thể trung bình (BMI) 20,7 có tỷ lệ THA là 20,7% trong năm
2005 cao hơn so với 16,9% được báo cáo trong điều tra y tế quốc gia Việt
Nam năm 2001-2002[35].
Theo kết quả điều tra năm 2008, tỷ lệ THA ở người độ tuổi 25 - 64 là
25,1% [36]. Hoạt động điều tra, giám sát bệnh THA đã được triển khai năm
2010 và cho kết quả đáng lo ngại với tỷ lệ này trong cộng đồng khá cao với
28,3% ở nam giới và 23,1% ở nữ giới. Theo báo cáo của WHO (2011) về
BKLN của các nước, cho thấy ở Việt Nam năm 2008 chỉ số huyết áp tâm thu
trung bình ở nam là 126 mmHg, ở nữ là 121 mmHg [37]. Trong số những
người bệnh THA, chỉ có 48,4% biết được tình trạng THA và 29,6% có điều trị
bệnh[3]. Trung bình giai đoạn 2002 - 2008 mỗi năm tăng 1,3%, ước tính nếu
tăng tương tự như giai đoạn trước, đến năm 2025 tỷ lệ người THA sẽ trên
35%[38].
Năm 2011 tỷ lệ chung của THA là 25,1%, ở nam 28,3% và 23,1% ở
nữ. Tỷ lệ THA ở thành thị cao hơn ở nông thôn (32,7 và 17,3%) [39]. Huyết
áp cao gây ra 91.560 ca tử vong năm 2010, chiếm 20,8% tổng số tử vong và
7,2% tổng số DALY[3].Năm 2014, theo Lê Văn Lợi tỷ lệ THA ở một số vùng
nông thôn Việt Nam là 39% [40], An Giang tỉ lệ này ở người cao tuổi là
49,1% (2015) [41], Sơn La 50,1% (2014), Tiền Giang 56,5% (2016) [42].
Cuộc điều tra quốc gia về Yếu tố nguy cơ BKLN Việt Nam năm 2015
đã chỉ ra, tỷ lệ hiện mắc THA (huyết áp tâm thu≥140 và/hoặc huyết áp tâm



18

trương≥90 hoặc đang dùng thuốc) là 18,9%, cao hơn ở nam giới (23,1%) so
với nữ (14,9%). So với điều tra STEPS 2010, tỷ lệ hiện mắc THA tăng từ
15,3% lên 20,3% trong độ tuổi từ 25-64. Một điều đặc biệt cần lưu ý nữa đó
là, trong nhóm đã phát hiện bệnh, 24,9% đang dùng thuốc còn lại 75,1%
không sử dụng thuốc. Trong số những người có dùng thuốc (24,9%), có 9,7%
kiểm soát được HA của mình (duy trì HA tâm thu <140 và HA tâm trương
<90) trong khi số còn lại (15,2%) không kiểm soát được huyết áp (HA tâm
thu ≥140 và/ hoặc HA tâm trương ≥ 90 mmHg)[43].
Tóm lại, hiện nay ở Việt Nam, mặc dù mỗi mỗi nghiên cứu thường cho
ra một kết quả có thể khác nhau vì nhiều lý do, tuy nhiên, những nghiên cứu
này góp phần củng cố và chứng minh rằng THA đã và đang có xu hướng tăng,
diễn biến khó lường cùng những hậu quả nặng nề. Do đó, công tác phòng
chống THA rất cần được quan tâm triển khai thực hiện.
 Đái tháo đường
Theo thống kê của IDF (năm 2015), ở Việt Nam có 3,5 triệu ca mắc
bệnh ĐTĐ và gần 53,5 người tử vong vì căn bệnh này[44].
Tại Việt Nam, kết quả một số nghiên cứu cho thấy: Hà Nội (1990) tỷ lệ
mắc ĐTĐ là 1,2%, thành phố Hồ Chí Minh (1993) là 2,52%, Huế (1996) là
0,95%. Bệnh viện Nội tiết Trung ương đã công bố kết quả cho biết, tỷ lệ mắc
bệnh ĐTĐ lứa tuổi 30- 69 tuổi toàn quốc là 2,7% vào năm 2006{Bệnh viện
Nội tiết Trung ương, 2013 #38}, tăng gấp đôi lên 5,4% năm 2012 [7]. Đây là
điều đáng báo động khi tỷ lệ ĐTĐ gia tăng{Tạ Văn Bình, 2004 #37} nhanh
hơn dự báo. Ước tính, năm 2010 tỷ lệ ĐTĐ ở nhóm tuổi từ 20-79 tuổi là 2,9%
tương ứng 1,65 triệu người bị bệnh và dự báo sẽ tăng lên 3,42 triệu người vào
năm 2030, gia tăng 88.000 người một năm [8].
Theo điều tra về dịch tễ ĐTĐ ở nước ta tập trung vào đối tượng từ 30
đến 64 tuổi ở 04 thành phố lớn là Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Hồ Chí Minh



19

cho thấy tỷ lệ mắc bệnh là 4%, có tới 64,9% số người bệnh ĐTĐ không được
phát hiện và hướng dẫn điều trị.
Theo nghiên cứu của cục Y tế dự phòng (năm 2015) trên tất cả người
dân 18 - 69 tuổi tại 63 tỉnh thành trên toàn quốc thì tỉ lệ người trưởng thành
tăng đường huyết là 4,1%, với 68,9% người tăng đường huyết chưa được phát
hiện [43].
Trong kết quả nghiên cứu của Bệnh viện Nội tiết Trung Ương năm
2012 trên 11.000 người tuổi từ 30 - 69 tại 6 vùng: miền núi phía Bắc, Đồng
bằng sông Hồng, Duyên hải miền Trung, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Tây
Nam Bộ đã cho thấy tỉ lệ mắc ĐTĐ là 5,7%, trong đó cao nhất là Tây Nam Bộ
7,2%, thấp nhất là Tây Nguyên 3,8% [45].
Theo báo cáo chung tổng quan ngành y tế 2015, tại Việt Nam, chưa có
nghiên cứu nào đánh giá đầy đủ trên quy mô quốc gia về gánh nặng bệnh tật
gây ra do các BKLN nói chung và ĐTĐ nói riêng. Một số tài liệu cho thấy, tại
Việt Nam, trong số người tử vong, tỷ trọng do BKLN tăng từ 56% năm 1990 lên
72% năm 2010[46], trong đó bệnh tim mạch chiếm 30%, ung thư 21%, bệnh
đường hô hấp mạn tính 6%, tâm thần – kinh 2% và ĐTĐ 3%, tuy nhiên tăng
glucose máu mạn tính trong ĐTĐ sẽ gây tổn thương, rối loạn chức năng hay suy
nhiều cơ quan, đặc biệt là mắt, thận, thần kinh, tim và mạch máu. ĐTĐ cũng là
nguy cơ của những bệnh khác như bệnh tăng huyết áp và bệnh thận.
BKLN gây ra 56,1% tổng số năm sống bị mất do tử vong sớm (YLL),
trong đó ở nam giới là 35,1% và nữ giới là 20,9%. Khoảng 25,5% tổng số
YLL là do những BKLN hiện đang có chương trình mục tiêu can thiệp, còn
lại 30,6% chưa có chương trình can thiệp trực tiếp, dù các chương trình dự
phòng yếu tố nguy cơ như chống tăng huyết áp hoặc chống tác hại của thuốc
lá, rượu bia đều có tác động tới những bệnh BKLN chưa có chương trình can

thiệp [3].


20

Tổng gánh nặng bệnh tật ở Việt Nam không phải chỉ do tử vong vì có
những bệnh ít gây tử vong, nhưng tạo ra gánh nặng do người bệnh phải sống
tàn tật. DALY, đơn vị đo lường gánh nặng bệnh tật, được tính bằng YLL và số
năm sống tàn tật (YLD) cho từng bệnh cụ thể, 66,3% tổng gánh nặng bệnh tật
tính bằng DALY ở Việt Nam năm 2010 là do BKLN [46]. Đáng lưu ý là các
BKLN ở Việt Nam hiện có chương trình can thiệp chỉ chiếm 19,6% tổng gánh
nặng bệnh tật của Việt Nam năm 2010 (trong đó bệnh ĐTĐ chiếm 1,7%), đa
phần gánh nặng bệnh tật do BKLN chưa có chương trình can thiệp. Thứ hạng
các bệnh theo tỷ trọng trong tổng DALY có sự khác biệt với thứ hạng của các
bệnh theo gánh nặng tử vong. Trong khi ung thư chiếm 19,2% tổng số năm
sống mất đi do tử vong sớm, khi tính cả năm sống tàn tật thì tỷ lệ gánh nặng
bệnh tật giảm xuống 11% do nhiều loại ung thư gây tử vong nhanh, số năm
sống sót tàn tật thấp. Ngược lại, một số bệnh không gây tử vong sớm nhưng
tạo ra gánh nặng do năm sống tàn tật cao như trầm cảm, rối loạn thính
giác,tầm nhìn và thấp khớp. Trong nhóm bệnh chưa có chương trình can
thiệp, có một số bệnh gây gánh nặng lớn như tai biến mạch máu não, bệnh tim
thiếu máu cục bộ, suy thận mạn tính, xơ gan được tác động gián tiếp do các
hoạt động can thiệp giảm các yếu tố nguy cơ như rượu, bia, thuốc lá, ĐTĐ
(yếu tố nguy cơ bệnh thận,…) và THA (yếu tố nguy cơ của bệnh tim, tai biến
mạch máu não).
Ngoài gánh nặng bệnh tật tính bằng DALY, các BKLN còn gây gánh
nặng rất lớn về kinh tế thông qua các chi phí trực tiếp và gián tiếp ảnh hưởng
không chỉ đến ngành y tế mà còn đến sự phát triển kinh tế-xã hội. Thứ nhất,
chi phí trực tiếp dành cho y tế là các chi phí liên quan trực tiếp tới việc điều
trị BKLN, bao gồm các chi phí vận hành bệnh viện, phòng khám, lương cho

cán bộ, thuốc, vật tư tiêu hao phục vụ việc điều trị. Ngoài ra, còn các chi phí
dành cho việc đi lại, ăn ở trong quá trình điều trị của người bệnh và người nhà


21

bệnh nhân. Thứ hai là các chi phí gián tiếp bao gồm các chi phí do việc mất
năng suất lao động hay thu nhập mất đi do việc bán tài sản để điều trị. Tại
Việt Nam, cho đến nay chưa có ước tính tổng thể gánh nặng kinh tế cho các
BKLN. Tuy nhiên, có một vài tính toán cho một số bệnh cụ thể cho thấy gánh
nặng kinh tế cũng rất đáng quan tâm. Tổng các chi phí y tế và mất năng suất lao
động liên quan tới 3 căn bệnh do thuốc lá tại Việt Nam năm 2005 ít nhất là 1.160
tỷ đồng (khoảng 77,5 triệu USD)[47]. Một nghiên cứu khác ước tính gánh nặng
kinh tế do hút thuốc lá gây ra trong 5 nhóm bệnh liên quan đến hút thuốc lá (ung
thư phổi, tai biến mạch máu não, bệnh tim thiếu máu cục bộ, bệnh phổi tắc
nghẽn mạn tính, ung thư đường hô hấp và tiêu hóa trên) ở Việt Nam năm 2011 là
23.139,3 tỷ đồng (0,91% tổng GDP; 5,07% chi cho y tế) [48].
1.2.VAI TRÒ CỦA TRẠM Y TẾ XÃ TRONG PHÒNG CHỐNG BỆNH
TĂNG HUYẾT ÁP VÀ ĐÁI THÁO ĐƯỜNG
1.2.1. Chức năng và nhiệm vụ của trạm y tế xã
- Trạm y tế xã
Tổ chức Y tế xã, phường, thị trấn (gọi chung là Trạm Y tế xã) là đơn vị
y tế thuộc Trung tâm Y tế huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi
chung là Trung tâm Y tế huyện), được thành lập theo đơn vị hành chính xã,
phường, thị trấn (gọi chung là xã). TYT xã có chức năng cung cấp, thực hiện
các dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân trên địa bàn xã[10],[11].
TYT xã là đơn vị kỹ thuật đầu tiên tiếp xúc với nhân dân, nằm trong hệ
thống y tế nhà nước có nhiệm vụ thực hiện các dịch vụ CSSK ban đầu, phát
hiện sớm các dịch bệnh và phòng chống dịch bệnh, đỡ đẻ thông thường, cung
cấp thuốc thiết yếu, vận động nhân dân thực hiện kế hoạch hóa gia đình và

tăng cường sức khỏe [38].


22

Theo Nghị định số 117/2014/NĐ-CP ban hành ngày 8/12/2014 của Chính
phủ, TYT xã có chức năng cung cấp, thực hiện các dịch vụ chăm sóc sức khỏe
ban đầu cho nhân dân trên địa bàn xã, trong đó có quản lý bệnh không lây
nhiễm nói chung và xử trí THA và ĐTĐ nói riêng[11]:
-

Thực hiện các hoạt động chuyên môn, kỹ thuật về: Y tế dự phòng; khám
bệnh, chữa bệnh kết hợp ứng dụng y học cổ truyền trong chữa bệnh và
phòng bệnh; chăm sóc sức khỏe sinh sản; cung ứng thuốc thiết yếu; quản
lý sức khỏe cộng đồng; truyền thông giáo dục sức khỏe;

-

Hướng dẫn về chuyên môn và hoạt động đối với nhân viên y tế thôn, bản;

-

Phối hợp với các cơ quan liên quan thực hiện công tác dân số - kế hoạch
hóa gia đình trên địa bàn;

-

Tham gia kiểm tra các hoạt động hành nghề y, dược tư nhân và các dịch vụ
có nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe nhân dân trên địa bàn;


-

Là đơn vị thường trực Ban Chăm sóc sức khỏe cấp xã về công tác bảo vệ,
chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trên địa bàn;

-

Thực hiện các nhiệm vụ khác do Giám đốc Trung tâm Y tế huyện và Chủ
tịch Ủy ban nhân dân cấp xã giao.

1.2.2. Khả năng cung ứng của Trạm y tế xã liên quan đến xử trí bệnh
tăng huyết áp và đái tháo đường
1.2.2.1. Nguồn nhân lực
Tuyến YTCS đóng vai trò quan trọng trong quản lý BKLN và nhân lực
luôn là một yếu tố quyết định đến sự vận hành và hiệu quả của tất cả các hoạt
động. Tại Việt Nam đã có mạng lưới YTCS rộng khắp các xã, phường. Đến
cuối năm 2012, số lượng cán bộ y tế công tác tại các TYT xã đạt khoảng
70.000 người, đạt 6,1 cán bộ y tế/trạm, đa số có trình độ trung cấp, cao đẳng.
Trên toàn quốc có 76,9% TYT có bác sĩ, thấp nhất là ở Trung du và miền núi
phía bắc (66,4%) và cao nhất ở khu vực Đông Nam Bộ (83,4%) và Đồng bằng


23

sông Cửu Long (87,2%). Tuy nhiên, cán bộ y tế ở tuyến xã hiện nay không
đáp ứng được nhiệm vụquản lý các BKLN, bệnh mạn tính, trong đó có bệnh
THA và ĐTĐ. Một số nghiên cứu cho thấy năng lực của đội ngũ y cán bộ y tế
TYT xã tại một số địa phương còn yếu, không đủ khả năng để chẩn đoán và
xử trí các bệnh thông thường như THA (Theo Viện Chiến lược và Chính sách
Y tế). Trong một nghiên cứu đánh giá năng lực chuyên môn của nhân viên y

tế tuyến xã cho thấy hơn 50% bác sĩ và y sĩ trả lời sai các câu hỏi về bệnh tim
mạch và bệnh nội khoa. Y sĩ hiện đang tham gia công tác phòng và khám
chữa bệnh ở TYT xã về các BKLN, nhưng thời gian được đào tạo cho các nội
dung này trong chương trình đào tạo y sĩ rất hạn chế, chỉ là 5 đơn vị học trình
(75 tiết) lý thuyết và 4 tuần thực hành cho tất cả các bệnh thông thường nội
khoa. Với chương trình đào tạo chỉ 2 năm như hiện nay, y sĩ sau khi ra trường
không thể đủ năng lực để khám, phát hiện bệnh và rất khó để tham gia vào
quản lý các BKLN[3].
Thực tế, nghiên cứu của Hồ Văn Hải năm 2012 - 2014 tại huyện Xuyên
Mộc, Bà Rịa - Vũng Tàu, chỉ ra rằng các nhân viên y tế xã có kiến thức về
THA còn rất hạn chế: 40% phân độ THA sai, 70% không hiểu mục tiêu điều
trị THA và 80% không hiểu rõ về sử dụng thuốc điều trị THA, do có tới 60%
nhân viên chưa được tập huấn về chẩn đoán, điều trị THA. Về thực hành:
50% nhân viên y tế xã đo huyết áp chưa đúng kỹ thuật, 70% tư vấn cho bệnh
nhân chưa đầy đủ về các biện pháp thay đổi lối sống, 90% kê đơn thuốc điều
trị THA chưa hợp lý. Đối với nhân viên y tế ấp, gần 50% không có chuyên
môn y tế và 70% chưa được tập huấn kỹ năng truyền thông về THA, nên kiến
thức còn hạn chế, 50% không hiểu đúng THA là gì, 50% không biết các biện
pháp thay đổi lối sống có lợi cho sức khỏe và 60% không biết mục tiêu của
điều trị THA. Ngoài ra, hơn 2/3 cán bộ chưa tư vấn đầy đủ các biện pháp thay
đổi lối sống có lợi cho sức khỏe, 100% sử dụng tài liệu chưa đúng (tờ rơi).


24

Nhìn chung, kiến thức và thực hành chẩn đoán, điều trị của nhân viên y tế xã
và ấp còn hạn chế [49].
Tại huyện Đồng Hỷ, Thái Nguyên, số liệu nghiên cứu vào năm 2011
cho biết, hiện trong tổng số 18 xã, có tất cả 104 nhân viên y tế tham gia vào
công tác chăm sóc sức khỏe. Có 1 TYT xã không có bác sỹ. Vào năm 2011,

chỉ có một số nhân viên từ 7 TYT xã được tham gia khóa đào tạo về tư vấn
thay đổi hành vi, cải thiện lối sống, phòng chống và quản lý THA. Ngoài ra,
huyện Đồng Hỷ còn có 272 nhân viên y tế thôn xóm. Trong đó, chỉ có một số
đối tượng được đào tạo về phòng ngừa và quản lý BKLN [50].
1.2.2.2. Thuốc thiết yếu, cơ sở vật chất, trang thiết bị.
Thuốc và các dụng cụ, trang thiết bị là một phần không thể thiếu trong
chữa trị THA và ĐTĐ. Tổ chức y tế thế giới khuyến cáo, các loại thuốc thiết
yếu luôn luôn phải có sẵn ở các bệnh viện huyện. Tuy nhiên, lại không đề cập
đến TYT xã. Tác giả Hoàng Văn Minh và cộng sự trong nghiên cứu tại huyện
Đông Hỷ, Thái Nguyên năm 2011 đã chỉ ra, bệnh nhân mắc ĐTĐ rất hiếm khi
được điều trị ở TYT xã và chỉ một số ít TYT xã có thuốc để điều trị. Thuốc
chống THA có sẵn trong các TYT xã, đặc biệt ở các xã nằm trong dự án của
Tổ chức Y tế thế giới. Tuy nhiên, không phải tất cả các loại thuốc dành cho
THA đều có sẵn, như không có TYT xã nào có statins, và chỉ có 3 TYT xã có
thuốc chẹn kênh Beta. Ngoài ra, chỉ có 7 trong số 18 TYT xã của huyện Đông
Hỷ có quy trình chẩn đoán và điều trị THA và 5 TYT xã có quy trình chẩn
đoán ĐTĐ. Các quy trình/hướng dẫn giáo dục sức khỏe về phát hiện sớm các
BKLN đều không có trong các cơ sở chăm sóc sức khỏe ban đầu của huyện
Đồng Hỷ. Không những vậy, mặc dù tất cả các TYT xã ở huyện Đồng Hỷ đều
được xếp vào loại đạt tiêu chuẩn quốc gia, tuy nhiên, các dụng cụ và trang
thiết bị liên quan đến dự phòng và điều trị BKLN lại không đáp ứng được các
tiêu chí của Tổ chức Y tế thế giới cho chăm sóc sức khỏe ban đầu. Cụ thể như,


25

không TYT xã nào có các que thử nước xeton của nước tiểu, chỉ 2 TYT xã có
dải xét nghiệm nước tiểu [50].
Mặc dù nhiều thuốc thiết yếu điều trị THA và ĐTĐ đã có trong danh
mục thuốc chủ yếu được bảo hiểm y tế thanh toán, nhưng một số thuốc điều

trị BKLN thường không sẵn có tại các cơ sở y tế công, đặc biệt tại các TYT
xã, phường. Thuốc thiết yếu cho ĐTĐ không có sẵn tại YTCS. Tiếp cận thuốc
điều trị THA còn bất cập trong việc xây dựng danh mục và lựa chọn thuốc,
quy định về thời gian cấp thuốc định kỳ. BHYT không chi trả một số thuốc
điều trị theokhuyến cáo, thiếu điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị và thiếu
cơ chế khuyến khích cho cán bộ TYT xã.
1.2.2.3. Tài chính
Theo Báo cáo chung tổng quan ngành y tế năm 2014, ngân sách nhà
nước là nguồn tài chính quan trọng đảm bảo các hoạt động theo phòng chống,
quản lý BKLN, bao gồm: đào tạo năng lực cán bộ y tế, sàng lọc, xây dựng mô
hình quản lý điều trị bệnh nhân, truyền thông, theo dõi đánh giá. Tuy nhiên,
nguồn kinh phí này lại khá hạn hẹp. Theo số liệu Tài khoản y tế quốc gia
2011, tổng kinh phí cho hoạt động phòng chống BKLN chiếm 3,5% tổng chi
y tế quốc gia và chiếm 12,5% tổng chi cho toàn bộ hoạt động dự phòng và
nâng cao sức khỏe. Phân tích số liệu thống kê giai đoạn 2005-2011 cho thấy
tỷ lệ chi cho phòng chống BKLN trong tổng chi y tế quốc gia tăng không
đáng kể, từ 2,5% lên 3,5% và hiện nay đang bị cắt giảm [3]. Kinh phí được
cấp cho chương trình phòng chống THA và ĐTĐ vào năm 2013 lần lượt chỉ là
32,6 và 35,8 tỷ đồng. Trung tâm Y tế dự phòng Hà Nội cho biết, kinh phí hoạt
động phòng chống BKLN nói chung và ĐTĐ nói riêng còn rất ít. Như vào
năm 2017, Trung tâm Y tế dự phòng được cấp khoảng 32 tỷ đồng cho phòng
chống dịch bệnh – Sốt xuất huyết tuy nhiên, phòng chống BKLN chỉ được
cấp khoảng 2,5 tỷ đồng để hoạt động [51].


×