Tải bản đầy đủ (.docx) (135 trang)

Đánh giá của người dân địa phương về tác động của du lịch tại xã cẩm thanh, tp hội an, tỉnh quảng nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.3 MB, 135 trang )

Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: Th.S Ngơ Thị Hường

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA LỊCH SỬ
*********

Đề tài:
ĐÁNH GIÁ CỦA NGƯỜI DÂN ĐỊA
PHƯƠNG VỀ TÁC ĐỘNG CỦA DU LỊCH TẠI
XÃ CẨM THANH, THÀNH PHỐ HỘI AN,
TỈNH QUẢNG NAM

GVHD: Th.S NGƠ THỊ HƯỜNG
SVTH : NGUYỄN THỊ THANH ĐOAN
Lớp

: 14 CVNH

Chun ngành: Văn Hóa – Du Lịch

Đà Nẵng, tháng 4 năm 2018


SVTH: Nguyễn Thị Thanh Đoan – Lớp: 14 CVNH

Trang 1



Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: Th.S Ngô Thị Hường

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay trên phạm vi thế giới, du lịch đã trở thành nhu cầu không thể thiếu
trong đời sống xã hội. Với sự phát triển không ngừng, du lịch không những đã đóng
góp một phần quan trọng cho nền kinh tế quốc dân mà còn mang lại sự giao lưu về
chính trị, văn hóa, thúc đẩy sự tiến bộ khoa học kĩ thuật, thúc đẩy chính sách hợp
tác giữa các quốc gia.
Trong khu vực Đông Á – Thái Bình Dương, Việt Nam là một đất nước có vị
trí thuận lợi, tài nguyên du lịch đa dạng, phong phú, giàu bản sắc văn hóa dân tộc
cùng với đó là cơ cấu dân số trẻ tạo điều kiện để du lịch phát triển mạnh mẽ. Trong
những năm qua, du lịch Việt Nam đang trên đà phát triển, lượng khách quốc tế cũng
như khách du lịch nội địa ngày càng tăng. Du lịch Việt Nam ngày càng được biết
đến nhiều hơn trên thế giới, nhiều điểm đến trong nước được bình chọn là địa chỉ
yêu thích của du khách quốc tế.
Nằm trên con đường di sản miền Trung của Việt Nam, là điểm đến của hai di
sản thế giới cùng với nhiều yếu tố hấp dẫn khác, Quảng Nam hội tụ đủ điều kiện
thuận lợi để phát triển du lịch. Đặc biệt, Hội An nơi có nhiều điểm du lịch hấp dẫn
du khách trong và ngoài nước, đã nhận được nhiều cuộc bình chọn và giải thưởng
uy tín của các tạp chí lớn trong nước và quốc tế. Chẳng hạn, năm 2016 trong giải
World’s Best Awards của tạp chí Travel & Leisure, thành phố Hội An xinh đẹp của
Việt Nam đã có mặt ở vị trí số 6 hạng mục những thành phố tuyệt nhất châu Á. Tiếp
đến năm 2017 trang web du lịch nổi tiếng thế giới TripAdvisor vừa công bố danh
sách 25 điểm đến tốt nhất thế giới 2017, trong đó, Hội An của Việt Nam xếp thứ 13.
Hay theo trang Travel & Leisure làm cuộc khảo sát bình chọn những khu phố được
yêu thích nhất thế giới năm 2018 thì Hội An đứng thứ 7 trong các khu phố quyến rũ
nhất thế giới. Cứ mỗi năm qua đi Hội An lại mang về cho mình nhiều giải thưởng

danh giá khác.
Thành phố Hội An bên cạnh khu phố cổ thu hút được nhiều sự quan tâm của
du khách bốn phương thì nơi đây còn có một điểm đến hấp dẫn du khách không
kém đó là xã Cẩm Thanh. Cẩm Thanh nằm không xa trung tâm phố cổ Hội An với
khoảng 5km đường bộ và 3km đường sông. Đường xá được nâng cấp nên việc đi lại
vô cùng dễ dàng, thuận lợi và có thể di chuyển bằng nhiều phương tiện khác nhau.
Mặt khác, những tuyến đường nối dài ven biển hay qua cầu Cửa Đại đều dễ dàng
tiếp cận với các điểm du lịch xã Cẩm Thanh, điều này thuận lợi cho việc thiết kế các
tour, tuyến du lịch kết nối các điểm trong thành phố, trong tỉnh cũng như các khu
vực lân cận.

SVTH: Nguyễn Thị Thanh Đoan – Lớp: 14 CVNH

Trang 2


Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: Th.S Ngô Thị Hường

Cùng với những điều kiện đó, xã Cẩm Thanh đã và đang thu hút số lượng lớn
khách du lịch đến đây và bước đầu đạt được những kết quả tích cực. Đến Hội An,
du khách không chỉ được khám phá một di sản văn hóa thế giới với khu phố cổ yên
bình mà còn được chiêm ngưỡng, hòa mình vào cảnh sông nước nên thơ, hữu tình
như một “miền Tây” đúng nghĩa, nơi được ví như “Nam bộ trong lòng phố cổ”Rừng dừa Bảy Mẫu hay du khách có cơ hội cùng ăn, ở, sinh hoạt với những người
dân thân thiện, chất phát nơi đây; được khám phá nét đẹp bình dị, tận hưởng không
khí trong lành nơi thôn quê và trải nghiệm nhiều hoạt động hấp dẫn khác. Những
năm gần đây, hoạt động du lịch xã Cẩm Thanh bắt đầu có những bước khởi sắc. Với
những tiềm năng có được cùng với sự quan tâm của chính quyền các cấp, các tổ
chức hỗ trợ phát triển du lịch, các công ty kinh doanh du lịch, nơi đây đã trở thành

điểm đến không thể bỏ qua khi du khách đến Hội An. Quan trọng hơn, một phần cư
dân nơi đây đã tham gia vào hoạt động du lịch, cuộc sống người dân nhờ vậy được
cải thiện đáng kể; những nét đẹp văn hóa, phong tục tập quán, những giá trị lịch sử
địa phương được bảo vệ và giữ gìn; ý thức bảo vệ môi trường cũng được nâng cao.
Với sự phát triển như hiện nay, du lịch cũng đã có những tác động đến sự phát
triển của đời sống người dân địa phương trên cả 3 góc độ: kinh tế, văn hóa xã hội và
môi trường. Sự phát triển của cộng đồng sẽ tạo ra nguồn lực cho sự phát triển du
lịch. Người dân địa phương sẽ là đối tượng tham gia hoạt động du lịch trực tiếp và
đánh giá của họ về tác động của du lịch là quan trọng. Bởi vì thái độ tích cực của cư
dân là điều cần thiết cho sự hài lòng của khách đến và trở lại của khách đi, xác định
đánh giá của người dân địa phương về phát triển du lịch và tác động của nó đóng
một vai trò quan trọng trong sự thành công tương lai của một điểm đến. Một điểm
du lịch luôn tồn tại một quy luật cố hữu, sau khi phát triển đến một mức độ nào đó
sẽ bị ngưng trệ và nếu không có giải pháp, định hướng đổi mới kịp thời sẽ đi đến lụi
tàn, quên lãng. Cách tốt nhất để kéo dài “tuổi thọ” của một điểm du lịch là phải đảm
bảo phát triển 3 khía cạnh: kinh tế, xã hội và môi trường. Đối với du lịch Cẩm
Thanh, để khai thác các nguồn tài nguyên hiệu quả hơn nữa, đem lại nguồn lợi
nhiều hơn nữa cho người dân địa phương, các bên tham gia nhưng vẫn bảo vệ được
môi trường, bảo vệ hệ sinh thái, đặc trưng văn hóa – xã hội và nâng cao hiệu quả
kinh tế tại đây thì việc nghiên cứu“Đánh giá của người dân địa phương về tác động
của du lịch tại xã Cẩm Thanh, Tp. Hội An, tỉnh Quảng Nam” là rất cần thiết.

SVTH: Nguyễn Thị Thanh Đoan – Lớp: 14 CVNH

Trang 3


Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: Th.S Ngô Thị Hường


2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Tác động của du lịch là một chủ đề phổ biến trong nghiên cứu du lịch. Nhiều
nhà nghiên cứu của chủ đề này đã nghiên cứu thái độ của người dân về tác động của
phát triển du lịch, với sự biện minh rằng những phát hiện này sẽ rất quan trọng đối
với quy hoạch và quản lý du lịch.



Trên thế giới

Khi du lịch được xác định theo hướng phát triển bền vững thì các dự án quy
hoạch phát triển du lịch cũng theo hướng có lợi cho tài nguyên du lịch và phát triển
cộng đồng, đảm bảo phát triển 3 yếu tố: kinh tế, văn hóa - xã hội, môi trường ở
nhiều nước. Theo Jurowski và cộng sự (1997), đánh giá của cộng đồng về tác động
của du lịch liên quan đến vấn đề lợi ích mà họ nhận được hay những chi phí mà họ
phải trả. Nên các ý kiến tích cực hay tiêu cực của người dân là do họ cảm nhận chủ
yếu về yếu tố kinh tế mà du lịch mang lại cho họ. Bên cạnh đó còn có các yếu tố
khác như tác động về xã hội, tác động về môi trường, tác động về văn hóa, sinh thái,
nguồn tài nguyên thiên nhiên, gắn kết với cộng đồng của các sản phẩm và dịch vụ
du lịch.
Lin Yan (2013) đã khảo sát, phỏng vấn người dân và sử dụng phương pháp
thống kê mô tả và đã đưa ra được các yếu tố ảnh hưởng tích cực và tiêu cực đối với
đánh giá cộng đồng sống ở thị trấn Chu Trang (Trung Quốc), từ đó phân tích các
yếu tố liên quan đến nhân khẩu có ảnh hưởng khá lớn trong đánh giá của người dân
nhất là về trình và tuổi tác.
Trong bài nghiên cứu của tác giả Lim Poh Ling và Shaharudin Jakpar (2011),
các tác giả đã nhận thấy rằng có rất ít nghiên cứu về cảm nhận và thái độ của cư dân
địa phương đối với sự phát triển du lịch ở Penang vì thế tác giả đã đưa ra mục tiêu
nhằm tìm kiếm mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân của cộng đồng dân cư và sự hỗ trợ

cho sự phát triển du lịch tương lai. Tác giả đã có cái nhìn tổng quát sự phát triển của
du lịch, các nhân tố tác động đến du lịch chủ yếu thể hiện trên các khía cạnh kinh tế,
văn hóa xã hội, môi trường và đưa ra các giả thiết theo mô hình về mối quan hệ giữa
đánh giá của người dân đối với du lịch và thái độ trong việc phát triển du lịch trong
nghiên cứu của Perdue, Long, Allen (1990).

SVTH: Nguyễn Thị Thanh Đoan – Lớp: 14 CVNH

Trang 4


Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: Th.S Ngô Thị Hường

Theo Aref (2010) trong bài nghiên cứu điều tra thái độ của người dân đối với
tác động của du lịch tại Shiraz Iran. Nghiên cứu chứng tỏ rằng có thái độ tương tự
nhau đối với tác động của du lịch giữa các địa phương lãnh đạo và người dân. Các
phân tích của sự nghiên cứu chỉ ra rằng không có sự khác biệt đáng kể giữa thái độ
của các nhà lãnh đạo ở cả hai huyện của Shiraz. Kết quả rút ra từ cuộc thảo luận
nhóm tập trung với các cư dân địa phương cũng cho thấy rằng các cư dân có thái độ
tích cực với tác động của du lịch đối với cộng đồng của họ.
Peter E. Murphy (1986) với “Tourism: A community Approach”. Tác giả cung
cấp một góc nhìn mới hơn về du lịch với phương pháp tiếp cận về sinh thái và cộng
đồng, khuyến khích những sáng kiến nhằm gia tăng lợi ích trên nhiều lĩnh vực cho
người dân với việc xây dựng sản phẩm du lịch đặc trưng dựa trên nguồn tài nguyên
vốn có của địa phương hay Philip L.Pearce (1997) với “Tourism Community
Relationships” đã kết hợp nhiều phương pháp trong lĩnh vực kinh tế, xã hội, tâm lý
nhằm nghiên cứu những khía cạnh mới của du lịch và nhất là làm sao cho cộng
đồng địa phương hiểu và hành động về du lịch. Nghiên cứu của tác giả Derek Hall

(2003) trong công trình “Tourism and Sustainable Community Development” nhấn
mạnh vai trò của cộng đồng trong việc bảo vệ môi trường, phát triển bền vững kinh
tế và văn hóa.
Một tài liệu vô cùng hữu ích cho các nhà nghiên cứu, các nhà hoạch định
chính sách quan tâm đến du lịch và phát triển nông thôn là “Building Community
Capacity of Tourism Development” của Gianna Moscardo (2008). Tài liệu nêu ra
những lý do thất bại trong cách làm du lịch ở nhiều nơi do thiếu năng lực kinh
doanh, đặc biệt là do đánh giá và năng lực của cộng đồng địa phương về du lịch còn
rất hạn chế. Tác giả đã phân tích những vấn đề còn tồn tại và đưa ra những phương
án hữu hiệu trong việc lập kế hoạch phát triển du lịch thông qua những mô hình
thành công ở nhiều nơi trên thế giới.
Có thể thấy rằng, đánh giá của người dân địa phương về tác động của du lịch
được các học giả trên thế giới nghiên cứu, nhìn nhận chủ yếu trên 2 góc độ tích cực
và tiêu cực. Các vấn đề về cộng đồng, du lịch dựa vào cộng đồng, những tác động
cũng như những thay đổi về kinh tế, xã hội, môi trường tác động trực tiếp đến người
dân địa phương; quy hoạch du lịch; các công cụ quản lý giám sát du lịch, bảo tồntài
nguyên, văn hóa và thiên nhiên, tạo ra các phúc lợi kinh tế và những phúc lợi khác
cho người dân địa phương hay những mô hình, kinh nghiệm phát triển du lịch mang
lại hiệu quả cao ở một số nước…được các nhà nghiên cứu thể hiện rõ qua các công
trình của mình.

SVTH: Nguyễn Thị Thanh Đoan – Lớp: 14 CVNH

Trang 5


Khóa Luận Tốt Nghiệp




GVHD: Th.S Ngô Thị Hường

Ở Việt Nam

Bài báo trên Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn Ritsumeikan “Nhận thức
về tác động của du lịch và phát triển du lịch giữa dân cư VQG Cúc Phương, Ninh
Bình, Việt Nam” của TS. Phạm Hồng Long (2011). Với mục tiêu là điều tra đánh giá
của người dân về các tác động của du lịch và mức độ hỗ trợ phát triển du lịch trong
khu vực của người dân Cúc Phương.
Luận văn Thạc sĩ Du lịch “Nghiên cứu tác động của hoạt động du lịch đến đời
sống văn hóa – xã hội của cộng đồng người H’Mông ở Sapa, Lào Cai” của Nguyễn
Thị Trà My (2015), trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn, Đại học Quốc
gia Hà Nội, công trình này đã nghiên cứu hoạt động du lịch có những ảnh hưởng
đến đời sống của bà con các dân tộc thiểu số nơi đây, đặc biệt là cộng đồng người
H’Mông, chiếm đến 52% dân số của Sa Pa. Bên cạnh những tác động tích cực của
hoạt động du lịch còn có những tác động tiêu cực ảnh hưởng đến đời sống của
người H’Mông. Vấn đề đặt ra đối với việc phát triển du lịch tại đây là phát huy, gìn
giữ bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc nơi đây hướng
tới phát triển du lịch bền vững.
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh “Đánh giá đánh giá của người dân đối
với tác động du lịch và sự hỗ trợ của họ cho sự phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh
Vĩnh Long” của Trịnh Minh Lý (2016), trường Đại học Vĩnh Long. Đề tài này đã
đánh giá nhận thức của người dân Vĩnh Long đối với tác động của du lịch và sự hỗ
trợ của họ đối với du lịch và đề ra một số giải pháp nhằm làm tăng sự hỗ trợ của
người dân trong việc phát triển du lịch. Đồng thời, đề xuất một số chính sách phát
triển du lịch phù hợp với sự phát triển của địa phương.
Công trình “Phát triển du lịch sinh thái nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống
của cộng đồng dân cư vùng đệm vườn quốc gia Cúc Phương” (2008) của tác giả
Trần Đức Thắng; “Giải pháp phát triển du lịch dựa vào cộng đồng tại vườn quốc
gia Ba Bể” (2012) của Hồ Thị Kim Thoa; nghiên cứu của Trịnh Ngọc Anh với

“Phát triển du lịch cộng đồng tại vườn quốc gia U Minh Thượng” (2013) hay
“Nghiên cứu về sự tham gia của cộng đồng địa phương vào hoạt động du lịch tại
Cù Lao Chàm - Hội An, Quảng Nam” (2016) của Phạm Thị Minh Chính…Kết quả
của những nghiên cứu này đã trở thành nguồn tài liệu quan trọng để các địa phương,
các tỉnh xem xét, nghiên cứu và ứng dụng hiệu quả phát triển du lịch.

SVTH: Nguyễn Thị Thanh Đoan – Lớp: 14 CVNH

Trang 6


Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: Th.S Ngô Thị Hường

Ngoài ra vẫn còn nhiều công trình, bài nghiên cứu đề cập đến đánh giá của
người dân địa phương về tác động của du lịch, tuy nhiên, trên đây là những tài liệu
tiêu biểu đã được chọn lọc. Từ việc tổng hợp các tài liệu nêu trên, có thể thấy rằng,
dù dựa trên cách tiếp cận nào, việc phân tích, lý giải dựa trên lập trường nào chăng
nữa thì các tài liệu đã nêu bật các tác động của du lịch lên kinh tế, xã hội, môi
trường; nhấn mạnh tầm quan trọng đánh giá của cộng đồng đối với sự phát triển du
lịch, đồng thời xây dựng các mô hình, các giải pháp thiết thực hướng đến thực hiện
mục tiêu phát triển du lịch đạt hiệu quả về kinh tế, xã hội, môi trường.
Tại xã Cẩm Thanh, Hội An, du lịch mới bắt đầu phát triển trong những năm
gần đây và chưa có nhiều nghiên cứu đề cập đến đánh giá của người dân địa phương
về tác động của du lịch cũng như sự phát triển du lịch tại đây. Các công trình chỉ
mới dừng lại ở mức độ nghiên cứu khôi phục rừng dừa để phục vụ đời sống người
dân, về việc nuôi trồng thủy sản, thống kê hệ sinh vật tại khu sinh thái Cẩm Thanh
hay phát triển du lịch sinh thái tại Rừng dừa…
Trong công trình nghiên cứu của Trần Xuân Hiệp “Trồng dừa nước - giải

pháp kĩ thuật sinh thái bảo vệ nền đường ven kênh rạch và môi trường bền vững”
(2007) và Nguyễn Thị Gia Thạnh với đề tài: “Nghiên cứu hiện trạng và đề xuất một
số định hướng khai thác, sử dụng hợp lí nguồn lợi dừa nước tại xã Cẩm Thanh,
thành phố Hội An” (2011) có đề cập tới việc phát triển du lịch tại Rừng dừa nước
Cẩm Thanh, tuy nhiên mới ở mức độ sơ lược, ở dạng định hướng chung và chưa đi
sâu vào việc nghiên cứu phát triển.
Hiện tại, mặc dù du lịch tại xã Cẩm Thanh đang thu hút đông đảo số lượng
khách du lịch trong và ngoài nước, đặc biệt là khu du lịch sinh thái Rừng dừa Bảy
Mẫu, tuy nhiên vấn đề khai thác phát triển và quản lý du lịch nơi đây vẫn còn nhiều
tồn tại, bất cập. Việc khuyến khích, kêu gọi cộng đồng địa phương tham gia hơn
nữa, đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động du lịch nơi đây là cần thiết để hướng
đến mục tiêu hạn chế những tác động tiêu cực của du lịch và phát huy những tác
động tích cực của du lịch tại địa phương. Có thể nói rằng, những tài liệu trên đây sẽ
là nền tảng, là cơ sở khoa học quan trọng để việc nghiên cứu đánh giá của người
dân địa phương về tác động của du lịch tại xã Cẩm Thanh, Hội An, Quảng Nam đạt
được kết quả tốt.

SVTH: Nguyễn Thị Thanh Đoan – Lớp: 14 CVNH

Trang 7


Khóa Luận Tốt Nghiệp
3.

GVHD: Th.S Ngô Thị Hường

Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu này nhằm mục đích hiểu rõ hơn những đánh giá của người dân


Cẩm Thanh về tác động của du lịch và sự hỗ trợ của họ đối với phát triển du lịch tại
địa phương. Các câu hỏi nghiên cứu cụ thể và giả thuyết nghiên cứu đã được sử
dụng trong nghiên cứu trình bày như sau.
Câu hỏi nghiên cứu
- Đặc điểm về nhân khẩu học và xã hội của người dân xã Cẩm Thanh là gì?
-

Làm thế nào để cư dân xã Cẩm Thanh đánh giá được tác động của du lịch và

đánh giá như thế nào những tác động này? Làm thế nào để họ hỗ trợ phát triển du
lịch xã Cẩm Thanh?
-

Những biến số nào trong nghiên cứu giải thích sự hỗ trợ của cư dân đối với

du lịch phát triển xã Cẩm Thanh?
4.

Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được các mục đích trên, khóa luận cần thực hiện các nhiệm vụ:

-

Tổng quan cơ sở lý luận về tác động của du lịch, đánh giá của người dân địa

phương về tác động của du lịch.
-

Nghiên cứu đánh giá của người dân địa phương về tác động của du lịch tại xã


Cẩm Thanh.
-

Đề xuất giải pháp, kiến nghị nhằm khai thác hiệu quả du lịch nâng cao chất

lượng cuộc sống cho người dân địa phương tại xã Cẩm Thanh.
5.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

5.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung vào nghiên cứu đánh giá của người dân Cẩm Thanh về tác
động của du lịch tại địa phương.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về không gian: Nghiên cứu được tiến hành trong phạm vi xã Cẩm
Thanh, Hội An, Quảng Nam (trong đó tập trung nghiên cứu 3 thôn có hoạt động du
lịch nổi bật nhất: Vạn Lăng, Thanh Tam Đông, Thanh Đông).
Phạm vi về thời gian: Tiến hành từ tháng 1/2018 đến 4/2018.
6.

Phương pháp nghiên cứu

6.1. Phương pháp tổng hợp, phân tích các thông tin
Phương pháp này sử dụng nhằm phân tích, tổng hợp các tư liệu, thông tin liên
quan đến đối tượng, chủ thể nghiên cứu giúp triển khai và khái quát lại các vấn đề
cần nghiên cứu.

SVTH: Nguyễn Thị Thanh Đoan – Lớp: 14 CVNH

Trang 8



Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: Th.S Ngô Thị Hường

Thu thập dữ liệu thứ cấp: Nguồn dữ liệu thứ cấp được thu thập từ các kết quả
nghiên cứu, sách, báo trong và ngoài nước, tạp chí, trang website điện tử, các tài
liệu, báo cáo của các cơ quan quản lý du lịch tỉnh Quảng Nam, thành phố Hội An và
chính quyền địa phương xã Cẩm Thanh…
Thu thập dữ liệu sơ cấp: Đối với bài nghiên cứu này, số liệu sơ cấp được thiết
lập trên cơ sở phiếu khảo sát phỏng vấn, phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên phân
tầng nhằm hạn chế tối đa việc sai số trong quá trình thu thập thông tin từ đối tượng
du khách. Phiếu khảo sát được chuẩn bị kỹ theo cấu trúc logic về số lượng câu hỏi
cũng như là nội dung. Phiếu khảo sát được phát trực tiếp cho đối tượng, đối tượng
có thể trả lời trực tiếp bằng cách nghe câu hỏi mà chọn đáp án sau khi phỏng vấn
viến đọc câu hỏi hoặc tự điền vào phiếu sau đó phỏng vấn viên sẽ thu phiếu lại sau
khoảng thời gian nhất định.
Phương pháp này được thực hiện trong luận văn thông qua việc tổng hợp các
nguồn tư liệu, số liệu, các kết quả đánh giá, điều tra xã hội học, khảo sát thực tế.
Phân tích để thấy được tình hình thực trạng phát triển du lịch tại Cẩm Thanh, sự
tham gia của cộng đồng vào phát triển du lịch địa phương cũng như những đánh giá
của người dân địa phương về tác động của du lịch lên kinh tế, xã hội, môi trường tại
xã Cẩm Thanh.
6.2. Phương pháp xử lý và phân tích số liệu
Để phân tích số liệu hay các thông tin định lượng, chúng tôi sử dụng phần
mềm Phần mềm hỗ trợ IBM SPSS Statistics 23 và Expert Choice v11. Các đáp án
trả lời sẽ được mã hóa và sử dụng các phép tính trong SPSS để tính toán chính xác,
nhằm khẳng định các số liệu thu được có đảm bảo tin cậy, chính xác và có nhiều lợi
ích hay không. Quy trình xử lý và phân tích số liệu tiến hành như sau:

Bước 1:
-

Khai báo biến

-

Mã hóa câu hỏi thành biến độc lập

-

Mã hóa tên biến.

Bước 2:
-

Nhập số liệu và làm sạch số liệu

-

Loại bỏ các phiếu trả lời không đạt yêu cầu

-

Loại bỏ các trường hợp trả lời bất thường

-

Kiểm tra độ chính xác của dữ liệu nhập


SVTH: Nguyễn Thị Thanh Đoan – Lớp: 14 CVNH

Trang 9


Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: Th.S Ngô Thị Hường

Bước 3:
-

Phân tích các biến dữ liệu

-

Chọn kiểu thang đo

-

Đánh giá mức độ phù hợp của từng biến

Bước 4:
Ứng dụng phép toán thống kê mô tả, kiểm định mức độ tin cậy của
câu hỏi
-

Tính tần suất (%), trung bình, độ lệch chuẩn

Bước 5:

- Lập các bảng biểu, đánh giá và giải thích kết quả
6.3. Phương pháp điều tra thực địa
Đây là phương pháp không thể thiếu trong việc làm rõ các vấn đề nghiên cứu
liên quan đến xã Cẩm Thanh. Kết hợp với việc nghiên cứu thông qua các biểu đồ,
tài liệu liên quan, phương pháp thực địa được coi là phương pháp chủ đạo của đề
tài. Thông qua khảo sát thực tế sẽ nắm được tình hình, hiểu rõ về cách thức hoạt
động, thực trạng phát triển du lịch hiện tại của Cẩm Thanh và đánh giá của người
dân về tác động của du lịch. Do đó, thông tin thu được từ phương pháp này khá
phong phú và cho kết quả nghiên cứu chân thực.
6.4. Phương pháp điều tra xã hội học
+ Phương pháp điều tra bảng hỏi
Thực hiện khảo sát trong phạm vi 3 thôn: Vạn Lăng, Thanh Tam Đông và
Thanh Đông. Đây là 3 thôn có hoạt động du lịch nổi bật nhất. Thời gian điều tra
bảng hỏi được tiến hành từ ngày 10/2 đến 30/3. Có 1 mẫu phiếu dành cho người dân
địa phương. Số phiếu khảo sát được tính như sau: Khu vực điều tra được giới hạn
trong phạm vi 3 thôn ở xã Cẩm Thanh với số lượng các mẫu điều tra được tính toán
dựa vào công thức của Nancy J.Helen F. Clair E (2004).
n=
Trong đó:

n: số lượng mẫu cần xác định cho nghiên cứu điều tra
N: số hộ gia đình trong cộng đồng
e: độ sai số được tính bằng phần trăm sai số của số gốc (phản ánh
mức độ chính xác mong muốn)

SVTH: Nguyễn Thị Thanh Đoan – Lớp: 14 CVNH

Trang 10



Khóa Luận Tốt Nghiệp
Đơn vị thôn
Thôn Thanh Đông
Thôn Thanh Tam Đông
Thôn Vạn Lăng
Tổng số mẫu điều tra
Dựa vào kết quả trên, tác giả lấy số mẫu điều tra thực tế của mỗi thôn là 100
phiếu. Để đạt kết quả tốt, tác giả đã tiến hành điều tra thử mỗi đối tượng khảo sát 15
phiếu, từ đó có những điều chỉnh lại bảng hỏi cho phù hợp.
+ Phương pháp điều tra phỏng vấn
Đối tượng thực hiện phỏng vấn trong khóa luận là cộng đồng địa phương,
chính quyền địa phương (cán bộ quản lý du lịch xã, tổ trưởng tổ du lịch cộng đồng,
tổ trưởng tổ dân phố, bí thư chi bộ), đại diện các doanh nghiệp du lịch tại Cẩm
Thanh. Kết quả phỏng vấn sẽ cung cấp những thông tin đa chiều, cái nhìn toàn diện
về phát triển du lịch tại đây để việc viết khóa luận có được độ tin cậy cao.
7.

Đóng góp của đề tài
Phân tích đánh giá của người dân Cẩm Thanh về tác động của du lịch đề tài góp

phần làm sáng tỏ nhận thức của người dân về tác động của du lịch đến 3 khía cạnh kinh
tế, xã hội và môi trường. Từ đó có cái nhìn cụ thể về tác động tích cực cũng như tiêu
cực của du lịch đối với đời sống của người dân địa phương. Qua đó, tìm ra những biện
pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động du lịch, phát huy các tác động tích cực của du
lịch và hạn chế các tác động tiêu cực đến đời sống của người dân. Đồng thời, kết quả
nghiên cứu của đề tài sẽ là nguồn tài liệu tham khảo cho các ngành khoa học có liên
quan, đóng góp vào việc hoạch định chiến lược, xây dựng chính sách phát triển du lịch
tại Hội An nói chung và xã Cẩm Thanh nói riêng. Bên cạnh đó giúp cho các sinh viên,
học viên cao học có thể sử dụng nghiên cứu trong học tập.


8. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, phần nội dung
chính của khóa luận bao gồm 3 chương. Cụ thể:
Chương 1: Cơ sở lý luận chung và tổng quan về du lịch xã Cẩm Thanh, Tp.
Hội An, Tỉnh Quảng Nam
Chương 2: Đánh giá của người dân Cẩm Thanh về tác động của du lịch
Chương 3: Định hướng và giải pháp phát triển du lịch hiệu quả tại xã Cẩm
Thanh, Hội An.

SVTH: Nguyễn Thị Thanh Đoan – Lớp: 14 CVNH

Trang 11


Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: Th.S Ngô Thị Hường

9. Quy trình thực hiện đề tài
Quy trình nghiên cứu đánh giá đánh giá của người dân Cẩm Thanh về tác
động của du lịch được thực hiện trong khoảng thời gian 4 tháng (từ giữa tháng
01/2018 đến giữa tháng 04/2018) qua các giai đoạn:
Xác định đề tài
nghiên cứu

Hoàn thiện kết
quả và trình bày
báo cáo NC

Phân tích dữ liệu


Thu thập và xử lý dữ

liệu (2 lần)

SVTH: Nguyễn Thị Thanh Đoan – Lớp: 14 CVNH

Trang 12


Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: Th.S Ngô Thị Hường

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VÀ TỔNG QUAN VỀ DU
LỊCH CẨM THANH, TP. HỘI AN, TỈNH QUẢNG NAM
1.1. Cơ sở lý luận chung
1.1.1. Khái niệm liên quan
1.1.1.1. Du lịch
Ngày nay, du lịch trở thành một hoạt động thường xuyên, phổ biến và là nhu
cầu thiết yếu trong cuộc sống của con người. Chính những lợi ích nhiều mặt mà du
lịch mang lại, đây được xem là ngành kinh tế mũi nhọn, đã góp phần vực dậy nền
kinh tế của nhiều quốc gia. Mặc dù vậy cho đến nay, việc nhận thức về du lịch vẫn
chưa được thống nhất. Đã có rất nhiều cách hiểu, nhìn nhận khác nhau về du lịch.
Khái niệm Du lịch theo Tổ chức du lịch thế giới (World Tourist Organization):
“Du lịch bao gồm tất cả mọi hoạt động của những người du hành, tạm trú, trong
mục đích tham quan, khám phá và tìm hiểu, trải nghiệm hoặc trong mục đích nghỉ
ngơi, giải trí, thư giãn; cũng như mục đích hành nghề và những mục đích khác nữa,
trong thời gian liên tục không quá một năm, ở bên ngoài môi trường sống định cư;
nhưng loại trừ các du hành mà có mục đích chính là kiếm tiền. Du lịch cũng là một

dạng nghỉ ngơi năng động trong môi trường sống khác hẳn nơi định cư.” [50]
Tại hội nghị Liên Hiệp Quốc về du lịch họp tại Roma (1963) định nghĩa về du
lịch như sau: “Du lịch là tổng hợp các mối quan hệ, hiện tượng và các hoạt động
kinh tế bắt nguồn từ các cuộc hành trình và lưu trú của cá nhân hay tập thể ở bên
ngoài nơi ở thường xuyên của họ hay ngoài nước họ với mục đích hoà bình. Nơi họ
đến lưu trú không phải là nơi làm việc của họ.” [49]
Định nghĩa của hội nghị quốc tế về thống kê du lịch Otawa, Canada (6/1991):
“Du lịch là hoạt động của con người đi tới một nơi ngoài môi trường thường
xuyên (nơi thường xuyên của mình), trong một khoảng thời gian ít hơn khoảng thời
gian đã được các tổ chức du lịch quy định trước, mục đích của chuyến đi không
phải là tiến hành các hoạt động kiếm tiền trong phạm vi vùng tới thăm” [13].
Trong giáo trình Thống kê du lịch, Nguyễn Cao Thường và Tô Đăng Hải cho
rằng: “Du lịch là một ngành kinh tế xã hội, dịch vụ có nhiệm vụ phục vụ nhu cầu
tham quan, giải trí nghỉ ngơi có hoặc không kết hợp với các hoạt động chữa bệnh,
thể thao, nghiên cứu khoa học và các nhu cầu khác” [35].

SVTH: Nguyễn Thị Thanh Đoan – Lớp: 14 CVNH

Trang 13


Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: Th.S Ngô Thị Hường

Ngoài ra còn rất nhiều cách hiểu khác về du lịch, trong đó, khái niệm được sử
dụng phổ biến ở nước ta là theo Luật du lịch Việt Nam (2005): “Du lịch là hoạt
động của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm thoả mãn nhu
cầu tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định” [4].
Như vậy, dù còn đôi chỗ khác biệt trong quan niệm về du lịch, chưa có sự

thống nhất về ngữ nghĩa, nhưng nhìn chung du lịch là cuộc hành trình và lưu trú tạm
thời của con người bên ngoài nơi ở thường xuyên của họ để nghỉ dưỡng, chữa bệnh,
phát triển thể chất và tinh thần, nâng cao trình độ nhận thức,... Mặt khác, du lịch
được hiểu là tập hợp các hoạt động kinh doanh, phục vụ vận chuyển, ăn uống, tham
quan, lưu trú... Ở Việt nam hiện nay, khái niệm về du lịch được trình bày trong Luật
Du lịch được thừa nhận và sử dụng rộng rãi.
1.1.1.2. Du lịch bền vững
Theo giáo sư Berneker- một chuyên gia hàng đầu về du lịch thế giới đã nhận
định: “Đối với du lịch, có bao nhiêu tác giả nghiên cứu thì có bấy nhiêu định
nghĩa.”
Theo Luật Du lịch Việt Nam (2006): “Du lịch bền vững là sự phát triển du
lịch đáp ứng được các nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp
ứng nhu cầu về du lịch của tương lai”.
Theo Hội đồng Du lịch và Lữ hành quốc tế (1996): “Du lịch bền vững là việc
đáp ứng các nhu cầu hiện tại của du khách và vùng du lịch mà vẫn bảo đảm những
khả năng đáp ứng nhu cầu cho các thế hệ du lịch tương lai”.
Theo Ủy ban Môi trường và Phát triển Quốc tế (1987): “Du lịch bền vững là
một quá trình nhằm đáp ứng những nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn hại đến
khả năng của những thế hệ mai sau”.
Từ những khái niệm nêu trên, ta có thể hiểu: “Du lịch bền vững là sự phát
triển du lịch có sự quan tâm đến việc bảo tồn các giá trị của tài nguyên du lịch
đồng thời giảm thiểu đến mức thấp nhất những tác hại xấu đến môi trường, kinh tế,
văn hóa- xã hội nhằm phục vụ nhu cầu hiện tại của du khách và điểm du lịch mà
không làm phương hại đến nhu cầu của tương lai”.
Du lịch bền vững là phát triển các hoạt động du lịch nhằm đáp ứng những nhu
cầu hiện tại của khách du lịch và người dân bản địa trong khi vẫn quan tâm đến việc
bảo tồn và tôn tạo các nguồn tài nguyên cho việc phát triển các hoạt động du lịch

SVTH: Nguyễn Thị Thanh Đoan – Lớp: 14 CVNH


Trang 14


Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: Th.S Ngô Thị Hường

trong tương lai…(Nguyễn Đình Hòe và Vũ Văn Hiếu, Du lịch bền vững, 2001). Du
lịch bền vững hướng đến việc quản lý các nguồn tài nguyên sao cho các nhu cầu
kinh tế xã hội đều được thỏa mãn trong khi vẫn duy trì được bản sắc văn hóa, các
đặc điểm sinh thái, sự đa dạng sinh học và hệ thống hỗ trợ đời sống.
Như vậy, du lịch bền vững là phát triển du lịch trong điều kiện bảo tồn và cải
thiện các mặt môi trường, kinh tế, văn hóa và xã hội. Vì vậy, du lịch bền vững cần:
-

Sử dụng tài nguyên môi trường một cách tối ưu để những tài nguyên này hình

thành một yếu tố quan trọng trong phát triển du lịch, duy trì những quá trình sinh thái
thiết yếu và hỗ trợ cho việc bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học.

-

Tôn trọng bản sắc văn hóa- xã hội của các cộng đồng ở các điểm đến, bảo

tồn di sản văn hóa và những giá trị truyền thống trong cuộc sống của họ và tham gia
vào quá trình hiểu biết và chấp thuận các nền văn hóa khác.
Bảo đảm những hoạt động kinh tế sống động lâu dài, đem lại lợi ích kinh tế, xã
hội cho tất cả mọi thành viên bao gồm những công nhân viên chức có thu nhập cao
hay những người có thu nhập và góp phần vào việc xóa đói giảm nghèo.
1.1.2. Đánh giá của cộng đồng địa phương về tác động của du lịch

1.2.1.1. Tác động của du lịch
Du lịch phát triển thì dù ở bất cứ đâu hay loại hình nào cũng đều có những tác
động đến điểm đến.Trải qua các quá trình nghiên cứu, đánh giá, các nhà Khoa học
đồng quan điểm rằng du lịch tác động đến địa phương chủ yếu tập trung vào ba lĩnh
vực: kinh tế, văn hóa xã hội và môi trường.
Về các tác động tích cực của du lịch, nhiều học giả có chung quan điểm rằng ở
mặt tích cực du lịch tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho cộng đồng địa phương. Du lịch
cải thiện nền kinh tế, thu thuế bổ sung vào ngân sách, thu nhập và trao đổi ngoại tệ.
Du lịch duy trì và củng cố mạng lưới liên kết giữa các doanh nghiệp trong vùng,
nâng cao đời sống cộng đồng địa phương, giúp lưu giữ và bảo tồn những di tích lịch
sử và di chỉ khảo cổ đồng thời bảo tồn bản sắc cộng đồng địa phương và niềm tự
hào văn hóa của họ. Du lịch còn tạo ra các cơ hội về các nơi mua sắm mới và các
hoạt động giải trí cho địa phương đồng thời giúp cải thiện hệ thống đường sá và các
tiện ích công cộng. Bên cạnh đó các tác động tích cực của du lịch còn được phản
ánh qua việc tạo ra các cơ hội trao đổi văn hoá, giúp tái dựng lại truyền thống địa
phương, nâng cao chất lượng cuộc sống và tăng cường hình ảnh của cộng đồng. Về

SVTH: Nguyễn Thị Thanh Đoan – Lớp: 14 CVNH

Trang 15


Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: Th.S Ngô Thị Hường

các tác động tiêu cực của du lịch, phát triển du lịch có thể mang lại những tác động
xấu. Ðặc biệt trong mùa cao điểm, du lịch gây ra những tác động tiêu cực lên nhiều
mặt của đời sống nhu kinh tế, văn hóa – xã hội, và môi truờng. Lindberg và Johnson
(1997), và Sheldon và Abenoja (2001) cho rằng mùa du lịch cao điểm gây nên tình

trạng quá tải ở các điểm công cộng, vui chơi giải trí; tình trạng ách tắc giao thông và
quá tải ở các bãi đỗ xe. Những tác động trên ảnh hưởng rất lớn đến đời sống hằng
ngày của cộng đồng địa phương, gây ra những bất tiện trong quá trình sinh hoạt và
làm việc của họ. Ngoài ra, có thể nhận thấy du lịch làm tăng chi phí sinh hoạt cũng
như tình trạng sử dụng rượu bia và chất kích thích trái phép ở một bộ phận du khách
và cộng đồng địa phương. Lankford (1994) nhấn mạnh rằng du lịch còn gây nên
những tổn hại cho môi trường như ô nhiễm và tăng lượng rác thải. Những tác động
xấu mà du lịch gây ra có thể khiến cộng đồng địa phương hình thành và duy trì thái
độ tiêu cực đối với phát triển du lịch. Về khía cạnh văn hoá, Kousis (1989) cho rằng
du lịch có thể gây ra những ảnh hưởng xấu đến những giá trị văn hóa truyền thống
của gia đình người dân. Du lịch là nguyên nhân của sự thương mại hóa văn hóa và
có thể tạo ra những xung đột xã hội và văn hóa tại cộng đồng của điểm đến do
những khác biệt về văn hóa xã hội, phúc lợi kinh tế và khoảng cách về khả năng chi
tiêu giữa khách du lịch và cộng đồng địa phương. Về lâu dài, cộng đồng địa phương
bắt đầu thích nghi với những chuẩn mực, giá trị văn hóa do du khách mang đến và
trở nên phụ thuộc về mặt văn hóa mang đến từ du khách [9].
1.2.2.2. Nhận thức của người dân về tác động của du lịch
Nhiều nhà nghiên cứu tiến hành nghiên cứu nhận thức của cộng đồng địa
phương về tác động của du lịch đã cho thấy rằng những khía cạnh này có thể được
giải thích bằng cách sử dụng lý thuyết trao đổi xã hội. Lý thuyết trao đổi xã hội là
“một lý thuyết xã hội học chung liên quan đến sự hiểu biết trao đổi các nguồn lực
giữa các cá nhân và các nhóm trong một tình huống tương tác”. Nó cho thấy rằng
mọi người đánh giá về trao đổi sẽ dựa trên chi phí và lợi ích phát sinh như là kết quả
của sự trao đổi đó, ở đây có thể hiểu hai nhân tố có sự trao đổi qua lại chính là du
lịch và đời sống của cư dân địa phương. Một cá nhân nhận thấy lợi ích qua một trao
đổi nào đó có thể đánh giá nó một cách tích cực, trong khi một người nhận thấy chi
phí có thể đánh giá nó một cách tiêu cực.

SVTH: Nguyễn Thị Thanh Đoan – Lớp: 14 CVNH


Trang 16


Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: Th.S Ngô Thị Hường

Một số tác giả nghiên cứu về nhận thức của người dân đối với du lịch đã phân
chia thành nhiều tiêu chí như trong nghiên cứu của Vareiro và các cộng sự (2013),
sử dụng chủ yếu thang đo Likert 5 mức độ để đánh giá nhận thức của người dân đối
với tác động và phát triển của du lịch gồm 14 tiêu chí. Trong đó có 6 tiêu chí sử
dụng để đo lường nhận thức về tác động tích cực và 3 tiêu chí đo lường mặt tiêu cực
của văn hóa-xã hội; 3 tiêu chí đo lường lợi ích và 1 tiêu chí đo lường tác hại về kinh
tế và cuối cùng là 1 tiêu chí chỉ ra nhận thức về mặt tiêu cực tác động của môi
trường.
Nghiên cứu khác của Phạm Hồng Long đã sử dụng 35 tiêu chí để đánh giá
những tác động tích và tiêu cực của du lịch đối với người dân trên các mặt kinh tế,
văn hóa-xã hội, môi trường và 7 tiêu chí để đánh giá sự hỗ trợ của người dân đối với
phát triển du lịch tại Vịnh Hạ Long.
Như vậy, có thể thấy rằng, du lịch tác động nhiều mặt lên đời sống của cư dân
địa phương và tựu chung nhất tập trung vào ba lĩnh vực kinh tế, xã hội và môi
trường. Cũng theo các nhà nghiên cứu, người dân có những cảm nhận khác nhau về
sự tác động của du lịch lên đời sống của họ, tuy nhiên họ quan tâm nhất vẫn xoay
quanh các vấn đề như:
1. Cải thiện thu nhập và chất lượng cuộc sống.
2. Thu hút nhiều đầu tư hơn cho cộng đồng.
3. Chất lượng dịch vụ công cộng tốt hơn.
4. Cải thiện chất lượng dịch vụ nhà hàng, khách sạn.
5. Hỗ trợ nền kinh tế các địa phương.
6. Cải thiện cơ hội việc làm trong cộng đồng địa phương.

7. Mức sống của cộng đồng địa phương đã tăng lên đáng kể
8. Cải thiện cơ sở vật chất hạ tầng địa phương.
9. Làm tăng niềm tự hào về cộng đồng dân tộc.
10. Giữ gìn các làng nghề truyền thống, loại hình văn hóa của cộng đồng
địa phương.
11. Nâng cao kiến thức về cộng đồng khác.
12. Có thêm nhiều hoạt động vui chơi, giải trí.
13. Cải thiện môi trường sinh thái của cộng đồng bằng nhiều cách.
14. Hỗ trợ tốt hơn cho việc phục hồi và duy trì những công trình lịch sử, di
tích.

SVTH: Nguyễn Thị Thanh Đoan – Lớp: 14 CVNH

Trang 17


Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: Th.S Ngô Thị Hường

15. Giúp địa phương có diện mạo mới, có tính thẩm mỹ hơn.
Nếu người dân có thái độ tích cực với việc phát triển du lịch thì sự hỗ trợ của
họ với du lịch sẽ làm cho việc phát triển du lịch ở địa phương đó lâu bền hơn. Một
điểm du lịch nào đó mà người dân thân thiện, hiếu khách và luôn niềm nở chào đón
các du khách thì việc phát triển du lịch mới bền vững.
Theo nghiên cứu của Bùi Thị Vân, chính ý thức của cộng đồng và sự tham gia
của họ là một trong những yếu tố quan trọng giúp du lịch phát triển bền vững. Và có
mối quan hệ tích cực giữa sự tham gia của cộng đồng và ý thức của cộng đồng trong
hoạt động du lịch. Các tài liệu nghiên cứu khác có liên quan đến nhận thức của
người dân về tác động của du lịch cho rằng dân cư nhận thức về lợi ích của du lịch

qua sự tăng lên về thu nhập, các công trình công cộng, cơ sở vật chất của địa
phương được đầu tư và lợi nhuận từ kinh doanh ở địa phương tăng lên hơn là việc
tăng chi phí sống.
Phan Thị Bích Vân (2012) đã dựa trên mô hình nghiên cứu của Perdue, Long
&Allen (1990) với những tác động của du lịch dựa trên lý thuyết về sự trao đổi
trong xã hội để kiểm tra tính hợp lý của sự tranh luận rằng những cá nhân nhận lợi
ích từ du lịch sẽ có khả năng hỗ trợ sự phát triển nhiều hơn nên đã áp dụng lợi ích
cá nhân vào nghiên cứu những nhu cầu và mong muốn của cộng đồng địa phương.
Những nhân tố tác động đến nhận thức về tác động của du lịch Faulker và Tideswell
(1997) bao gồm các yếu tố bên ngoài và yếu tố bên trong. Các yếu tố bên ngoài là
những đặc điểm có liên quan đến điểm du lịch của địa phương như giai đoạn phát
triển, mức độ phát triển du lịch, tỷ lệ giữa khách du lịch và cộng đồng địa phương,
khoảng cách về văn hóa giữa chủ và khách và tính mùa vụ của hoạt động du lịch.
Trong khi đó những yếu tố bên trong quan tâm đến tính không đồng nhất của cộng
đồng bằng cách đo lường những tác động thông qua sự nhận thức của những thành
viên trong cộng đồng.
1.2. Tổng quan về du lịch tại Cẩm Thanh
1.2.1. Khái quát về xã Cẩm Thanh
Cẩm Thanh - một xã thuộc thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam. Tổng diện tích
tự nhiên của xã Cẩm Thanh là 895,43 ha, phía Đông giáp thành phố Hội An, phía
Bắc giáp phường Cửa Đại, phía Tây giáp với phường Cẩm Châu, phía Nam giáp xã
Duy Nghĩa, phía Đông giáp Cửa Đại. Sông Đình và sông Đò nối sông Thu Bồn và
sông Ba Chươm theo hướng Tây Nam - Đông Bắc, cắt Cẩm Thanh thành nhiều
mảnh nhỏ với hệ thống kênh rạch chằng chịt.

SVTH: Nguyễn Thị Thanh Đoan – Lớp: 14 CVNH

Trang 18



Khóa Luận Tốt Nghiệp



GVHD: Th.S Ngô Thị Hường

Về điều kiện tự nhiên

Địa hình xã Cẩm Thanh khá phức tạp, thuộc dạng địa hình ven biển bị chia cắt
mạnh bởi hệ thống sông ngòi và kênh rạch. Phần lớn đất bị nhiễm phèn và nhiễm
mặn với diện tích mặt nước chiếm đến 348,69 ha. Hai bên bờ các sông lạch, dừa
nước mọc thành rừng quanh năm xanh tốt. Đặc biệt, Rừng dừa Bảy Mẫu rộng 57,68
ha trải rộng trên địa bàn các thôn Vạn Lăng, Thanh Tam Đông, Thanh Nhứt, Cồn
Nhàn, Thanh Tam Tây. Ngoài ra, Cẩm Thanh nằm gần Cửa Đại, hạ lưu sông Thu
Bồn, có hệ sinh thái vùng ngập mặn cửa sông ven biển, là nơi kết nối giữa phố cổ
Hội An - Cù Lao Chàm. Đây còn là vùng đệm khu dữ trự sinh quyển thế giới Cù
Lao Chàm, có vai trò rất quan trọng trong việc bảo tồn, giữ gìn và phát triển hệ sinh
thái rừng ngập mặn [40, tr.6].



Đặc điểm kinh tế, văn hóa - xã hội

Hiện nay toàn xã Cẩm Thanh có tất cả là 8 thôn. Những năm về trước, 8 thôn
này có tên lần lượt là thôn 1 đến thôn 8. Đến năm 2012, UBND thành phố ra quyết
định thay đổi tên gọi 8 thôn này. Theo đó, thôn 1 được đổi tên thành Thanh Tam
Tây, thôn 2 là Thanh Tam Đông, thôn 3 là Thanh Nhứt, thôn 4 là Thanh Nhì, thôn 5
là Thanh Đông, thôn 6 là Võng Nhi, thôn 7 là Vạn Lăng, thôn 8 là Cồn Nhàn. Đó là
những địa danh cũ của các làng, ấp ngày xưa, mang tính đặc thù, phổ biến gắn liền
với lịch sử hành thành và phát triển, điều kiện - đặc điểm địa bàn dân cư của các

thôn [46].
Theo số liệu thông kê năm 2015, tổng số hộ dân đang sinh sống tại xã Cẩm
Thanh là 2.074 hộ với 8.559 người. Số người trong độ tuổi lao động là 5.744 người,
chiếm 67,1%. Cơ cấu kinh tế của địa phương được xác định là nông nghiệp - ngư
nghiệp, thương mại - dịch vụ và tiểu thủ công nghiệp. Trong đó tập trung chủ yếu
vào các ngành nghề như nuôi trồng thủy sản, sản xuất nông nghiệp và khai thác hải
sản. Với tiểu thủ công nghiệp chủ yếu là các nhóm nghề: mộc, tre dừa, xay xát
lương thực, nhưng quy mô nhỏ, lẻ và một số ngành nghề khác có phát triển, nhưng
không đáng kể. Những năm gần đây, với sự bùng nổ của du lịch đã góp phần quan
trọng vào sự phát triển kinh tế của xã. Nhờ vậy, đời sống của người dân có sự thay
đổi, thêm phần khởi sắc [40].
Có thể thấy rằng, xã Cẩm Thanh có những điều kiện về tự nhiên, kinh tế, văn
hóa - xã hội không mấy nổi bật so với những vùng miền khác trên cả nước, tuy
nhiên, dựa trên những nền tảng có được cùng với sự cố gắng, nỗ lực của cư dân, các
cấp chính quyền, Cẩm Thanh đang từng bước chuyển mình mạnh mẽ trên con
đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa Đất nước.

SVTH: Nguyễn Thị Thanh Đoan – Lớp: 14 CVNH

Trang 19


Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: Th.S Ngô Thị Hường

1.2.2. Tình hình phát triển du lịch tại Cẩm Thanh
1.2.2.1. Tài nguyên du lịch
Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, di tích lịch sử, di tích cách mạng,
giá trị nhân văn, công trình lao động sáng tạo của con người có thể sử dụng nhằm

thỏa mãn nhu cầu du lịch; là yếu tố cơ bản để hình thành các điểm du lịch, khu du
lịch nhằm tạo ra sự hấp dẫn du lịch. Nó bao gồm tài nguyên du lịch tự nhiên và tài
nguyên du lịch nhân văn: Tài nguyên du lịch tự nhiên bao gồm các yếu tố hợp phần
tự nhiên, các hiện tương tự nhiên và quá trình biến đổi của chúng, tạo nên các điều
kiện thường xuyên tác động đến sự sống và hoạt động của con người được sử dụng
vào mục đích du lịch. Tài nguyên du lịch nhân văn là nhóm tài nguyên du lịch có
nguồn gốc nhân tạo, nghĩa là do con người sáng tạo ra; bao gồm toàn bộ những sản
phẩm có giá trị về vật chất cũng như tinh thần do con người sang tạo ra có giá trị
phục vụ du lịch.



Tài nguyên du lịch tự nhiên

Bao bọc xã Cẩm Thanh là các nhánh sông Đế Võng, sông Đình và hạ vực
sông Thu Bồn. Khí hậu thuận hòa. Chính những điều kiện thuận lợi này đã tạo nên
một rừng dừa bạt ngàn, nơi được ví như “Nam Bộ giữa lòng phố cổ” - Rừng dừa
Bảy Mẫu có giá trị về sinh thái, cảnh quan đẹp và là nơi trú ngụ của nhiều loài chim,
các thủy sinh vật vùng cửa sông ven biển, trong đó, có nhiều loài có giá trị như tôm,
cua, ghẹ, các động vật thân mềm. Các thảm cỏ biển là nơi sinh sống và bắt mồi của
nhiều loài hải sản. Các hệ sinh thái ngập mặn này còn đóng vai trò như một máy lọc
sinh học, tích tụ và phân hủy chất thải, làm trong sạch nguồn nước trước khi về với
biển. Rừng dừa Bảy mẫu cũng nằm trong hệ thống khu dự trữ sinh quyển thế giới
Hội An – Cù Lao Chàm được UNESSCO công nhận vào năm 2009. Chính vì vậy,
rừng dừa nước được xem là tài nguyên du lịch sinh thái có giá trị ở Cẩm Thanh nói
riêng và vùng ven biển miền Trung nói chung.
Không những thế, đây còn là vùng quê điển hình của nông thôn Việt Nam,
ngành kinh tế chính của cư dân Cẩm Thanh từ bao đời nay là nông nghiệp. Cuộc
sống người dân gắn liền với những làng rau hữu cơ. Nằm cách phố cổ Hội An 4km
về phía Đông, vườn rau hữu cơ Thanh Đông là nơi khởi nguồn cho nông nghiệp

hữu cơ tại miền Trung. Được thành lập vào giữa năm 2014 với sự hỗ trợ của Trung
tâm hành động vì sự phát triển đô thị (ACCD) và vốn từ mô hình nông thôn mới.

SVTH: Nguyễn Thị Thanh Đoan – Lớp: 14 CVNH

Trang 20


Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: Th.S Ngô Thị Hường
2

Vườn rau có tổng diện tích là 6.368m do 8 hộ nông dân tham gia sản xuất. Rau
được trồng không sử dụng các loại phân hóa học, giống biến đổi gien, thuốc diệt sâu
bọ và chất kích thích tăng trưởng nên rau rất sạch, thân thiện với môi trường và an
toàn cho người tiêu dùng. Vườn rau hiện nay có trên 30 loại cây trồng, tất cả đều
được cấp chứng nhận tiêu chuẩn quốc gia cho sản xuất và chế biến các sản phẩm
hữu cơ. Để có được chỗ đứng trên thị trường rau Hội An hiện nay, các hộ nông dân
ở đây đã trải qua một thời gian dài với vô vàng khó khăn. Nhưng với tinh thần
không ngại khó, vườn rau Thanh Đông đến nay đã thành một điểm cung cấp rau
sạch, đồng thời là điểm tham quan cho những du khách yêu nông nghiệp, muốn hòa
mình vào thiên nhiên và trải nghiệm cuộc sống nông thôn.



Tài nguyên du lịch văn hóa

Ngoài những tài nguyên tự nhiên hấp dẫn, xã Cẩm Thanh cũng sở hữu nguồn
tài nguyên văn hóa có giá trị. Trên đất Cẩm Thanh ngày nay còn lưu giữ nhiều di chỉ

- di tích và các lễ hội truyền thống, minh chứng cho một bề dày văn hóa phong phú.
Khu di tích rừng dừa Bảy Mẫu, với địa hình là một rừng dừa nước ngập mặn,
kín đáo, sông nước bao bọc nên rất thuận lợi cho chiến tranh du kích. Trong những
năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Thị ủy Hội An đã chọn nơi
đây làm căn cứ địa cách mạng để chiến đấu và đã chiến thắng kẻ thù với nhiều
chiến công vang dội. Trải qua thời gian, cảnh quang của khu vực di tích đã có nhiều
thay đổi. Tuy nhiên Rừng dừa Bảy Mẫu vẫn phát triển xanh tốt và ngày càng được
mở rộng diện tích. Di tích đã được đưa vào danh sách danh mục bảo vệ của UBND
thành phố Hội An. Năm 2004, di tích đã được đánh dấu các vị trí diễn ra các sự kiện
lịch sử quan trọng, trên cơ sở đó có thể phục dựng lại một số hạng mục công trình
tiêu biểu để phục vụ công tác nghiên cứu, tham quan và giáo dục truyền thống cho
tuổi trẻ tại địa phương.
Làng nghề tranh tre dừa truyền thống của xã Cẩm Thanh: Tre dừa vốn là hình
ảnh thân thuộc, gần gũi với mỗi người dân Việt Nam trong cuộc sống lẫn trong
chiến đấu. Ngày nay, với sự phát triển của đất nước, những lũy tre, rặng dừa không
còn được nhìn thấy nhiều. Thế nhưng, có một làng nghề tre dừa tồn tại qua bao đời
nay như một kho tàng lưu giấu kỉ niệm ở một làng quê thanh bình - làng nghề tre
dừa Cẩm Thanh. Sự tồn tại song song của làng nghề tre dừa cùng với hệ sinh thái

SVTH: Nguyễn Thị Thanh Đoan – Lớp: 14 CVNH

Trang 21


Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: Th.S Ngô Thị Hường

rừng dừa nước đã tạo nên một không gian văn hóa thu hút du khách trong và ngoài
nước đến nghiên cứu, tham quan và thưởng lãm. Theo các bậc cao niên trong làng,

nghề làm tranh tre dừa Cẩm Thanh được hình thành cách đây hơn 200 năm, theo
dấu chân của những lái buôn ghe bầu từ Nam bộ đến. Thuở ban đầu, cư dân đan tre
dừa chỉ với mục đích làm tranh che nắng, che mưa. Dần dần, do nhu cầu làm nhà,
nhiều gia đình đã bén duyên với nghề. Một thời, tranh tre dừa của làng theo những
chuyến thuyền đi khắp miền đất nước. Theo người dân nơi đây cho biết: “Toàn xã
có hơn 25% số hộ sinh sống bằng nghề tre dừa nứa, trong đó tập trung nhiều nhất
là thôn Thanh Tam Đông. Làng nghề phát triển đã giúp bà con ổn định cuộc sống”.
Bà Nguyễn Thị Vân - Bí thư đảng bộ xã Cẩm Thanh, TP Hội An nói: “Doanh thu
hàng năm của mặt hàng này là trên dưới 10 tỷ, giải quyết việc làm trên địa bàn xã
từ 20 - 25 lao động, Vào mùa cao điểm thì số lượng lao động tăng hơn. Đây cũng là
một trong những sản phẩm đặc trưng nhất của Cẩm Thanh”.
Theo thời gian, nghề truyền thống này có lúc tưởng như lụi tàn, mai một do
người dân không còn nhu cầu sử dụng tranh tre trong việc xây dựng nhà. Nhưng
những năm gần đây, nhu cầu xây dựng mới các ngôi nhà truyền thống, bằng chất
liệu tranh dừa ngày càng nhiều và thị hiếu của du khách về các sản phẩm làm từ tre
ngày càng nhiều, nhờ đó nghề truyền thống tranh tre dừa ở Cẩm Thanh đã có cơ hội
khôi phục lại và phát triển.
Nghệ thuật nấu nướng: Các món ăn đặc sản từ dừa nước, thủy - hải sản, rau
hữu cơ… với những hương vị đậm nét, đặc trưng của vùng quê thanh bình sẽ là dấu
ấn khó phai trong lòng du khách. Các lớp dạy nấu ăn cũng là một dịch vụ du lịch
thú vị thu hút nhiều sự tham gia của du khách.
Du khách khi đến với xã Cẩm Thanh, dừng chân tại khu sinh thái rừng dừa
Bảy mẫu sẽ được thưởng thức những món ăn đặc sản ngon. Theo người dân Quảng
Nam: “Cá chai nướng ngọt thịt, thơm nức mũi ăn kèm với cải xanh hoặc cuốn bánh
tráng kèm các loại rau thơm thì ngon hết sảy”. Cá chai là loài cá nước mặn, bề
ngoài xấu xí, thô ráp gồ ghề, thân dài, đuôi nhọn, đầu tròn to dẹt và hai mắt lồi. Cá
chai có thể chế biến thành nhiều món như kho rim, kho mặn, kho tộ, nấu canh chua;
nhưng thơm ngon và hấp dẫn nhất là cá chai nướng.
Món sò điệp nướng mỡ hành béo ngậy. Sò điệp xứ Quảng có vị ngọt thanh
mát, đây là món ăn rất tốt cho sức khỏe và không chứa quá nhiều đạm. Sò điệp kết

hợp cùng mỡ hành và đậu phộng là sự lựa chọn tuyệt vời cho những người yêu thích
món ăn có vị thơm ngọt vào hương vị béo tự nhiên.

SVTH: Nguyễn Thị Thanh Đoan – Lớp: 14 CVNH

Trang 22


Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: Th.S Ngô Thị Hường

Có thể kể đến những thức quà quen thuộc của làng quê, bánh dừa nướng
Quảng Nam là một trong những món đặc sản nổi tiếng của vùng Trung Bộ, một thứ
quà được rất nhiều người lựa chọn để mang về làm quà mỗi lần có dịp ghé chơi nơi
đây. Người Quảng Nam thì tự hào với hai món bánh dừa là bánh dừa dẻo và bánh
dừa nướng đều được làm từ dừa tươi, bột nếp và đường trắng độc đáo đầy hấp dẫn.
Bánh dừa nướng có hương vị và nét độc đáo riêng khác hẳn với bánh dừa dẻo; nếu
bánh dừa dẻo có màu trắng tinh thì bánh dừa nướng lại có sắc vàng nâu óng ả đều
thơm lừng mùi dừa đặc trưng.
Bánh ít lá gai, cái tên nghe thật ngộ nhưng ẩn chứa bên trong đó là hương vị
ngọt ngào của đường mật mía, vị chát bùi của lá gai, mùi thơm dịu nhé của nếp, vì
giòn bùi của đậu và cay của gừng. Chỉ cần cắn một miếng thôi bạn sẽ cảm mọi vị
ngon rất riêng thấm trên đầu lưỡi. Đến Quảng Nam mà không cần trên tay chiếc
bánh ít để thưởng thức thì quả thật chuyến đi chưa trọn vẹn, không cảm nhận được
hết sự thú vị của nền ẩm thực nơi đây.
Các tài nguyên văn hóa khác:
+
Các giá trị văn hóa, lịch sử, nghệ thuật, kiến trúc: mộ tổ tộc Lê, mộ
bà Thứ

Phi vua Quang Trung và tướng lĩnh thời Tây Sơn, di chỉ Bào Đà và phế tích kiến
trúc Chăm tại Lùm Bà, khu lăng Trà Quân, đình làng ở các thôn…
+

Truyền thống tập quán, nghệ thuật dân gian: Đó là các hoạt động sinh hoạt

văn hóa, phong tục tập quán và những nét đẹp truyền thống tốt đẹp cũng như nghệ
thuật diễn xướng dân gian như hát bả trạo, hát hò khoan…
Mặc dù xã Cẩm Thanh sở hữu nguồn tài nguyên nhân văn khá phong phú, số
lượng nhiều, có giá trị khá cao, xong, xã Cẩm Thanh vẫn chưa khai thác hết giá trị
của các tài nguyên này. Hiện tại, xã Cẩm Thanh mới khai thác du lịch từ làng nghề
tre dừa và tìm hiểu, khám phá cuộc sống người dân qua dịch vụ homestay, tuy nhiên
vẫn chưa đem lại hiệu quả đáng kể.
Chúng ta có thể nhận định rằng, vùng đất Cẩm Thanh có nguồn tài nguyên du
lịch hấp dẫn nhưng vẫn chưa được khai thác tương xứng với lợi thế nơi đây có
được. Vấn đề đặt ra đối với xã Cẩm Thanh là phải xác định được tài nguyên du lịch
có khả năng trở thành điểm thu hút du lịch, những tài nguyên có giá trị đặc trưng,
hấp dẫn nhất để từ đó có những định hướng, điều chỉnh đúng đắn đưa du lịch nơi
đây có những bước tiến mới góp phần phát triển kinh tế, nâng cao đời sống người
dân và thay đổi diện mạo của xã theo chiều hướng tích cực hơn.

SVTH: Nguyễn Thị Thanh Đoan – Lớp: 14 CVNH

Trang 23


Khóa Luận Tốt Nghiệp

GVHD: Th.S Ngô Thị Hường


1.2.2.2. Các hoạt động du lịch được khai thác và tổ chức





Hoạt động du lịch với mô hình homestay

Cẩm Thanh, homestay cũng được chính quyền địa phương khuyến khích

hoạt động. Cũng như Hội An, homestay ở đây thu hút du khách dựa trên các tiêu chí
vui vẻ, thân thiện, nhiều cây xanh trong khuôn viên. Tính đến năm 2016, toàn xã có
36 cơ sở dịch vụ, trong đó có 17 homestay có thiết kế không gian đẹp mắt, chủ yếu
là khai thác vẻ hoang sơ của địa phương kết hợp với phòng ở đầy đủ tiện nghi, tạo
thành một không gian nghỉ dưỡng lý tưởng cho du khách [40].
Homestay tại Cẩm Thanh, du khách sẽ có những trải nghiệm cuộc sống thường
ngày với gia đình chủ nhà như trồng rau, tưới nước, bắt cá, cắt lúa, chăn trâu…
Người chủ đóng vai trò như một hướng dẫn viên, nói chuyện và cung cấp cho du
khách nhiều thông tin thú vị về phong tục, tập quán ở làng quê Cẩm Thanh. Nhiều
homestay mở ra giải quyết được công ăn việc làm cho người dân, vừa khai thác
được vẻ đẹp của địa phương để phát triển kinh tế, vừa để quảng bá hình ảnh Cẩm
Thanh một cách hiệu quả. Tuy nhiên, quá nhiều homestay mở ra làm “méo mó” bản
chất ban đầu của mô hình này. Nhiều chủ hộ đầu tư kinh phí quá lớn, biến các
homestay trở thành các khu nghỉ dưỡng cao cấp chứ không còn là những khu lưu trú
cộng đồng. Bà Nguyễn Thị Trang - chủ homestay Luna (thôn Thanh Nhứt, xã Cẩm
Thanh) chia sẻ: “Homestay hiện nay đã biến tướng đi ít nhiều, những homestay thật
sự thì cách bài trí và cơ sở vật chất rất đơn giản, chủ yếu là giúp khách du lịch
khám phá và trải nghiệm văn hóa địa phương. Tuy nhiên, nhiều chủ đầu tư bây giờ
chú trọng vào phòng nghỉ, còn việc để cho du khách khám phá và trải nghiệm thì
không nhiều lắm”. Đây cũng là ý kiến chung của nhiều chủ homestay ở Cẩm Thanh.

Trước vấn đề này, thành phố đã tiến hành kiểm tra và ngừng hoạt động một số cơ sở
homestay kinh doanh không đúng quy định, đồng thời tạm ngừng cấp phép kinh
doanh homestay mới nhằm tạo điều kiện cho loại hình này phát triển đúng hướng,
đáp ứng được yêu cầu và định hướng phát triển du lịch bền vững của thành phố.
Từ năm 2010, du lịch tại rừng dừa Bảy mẫu nơi đây bắt đầu khởi sắc và phát
triển mạnh vào năm 2012. Đến nay, Rừng dừa Bảy Mẫu trở thành điểm du lịch sinh
thái hấp dẫn, được ví như “Nam Bộ giữa lòng phố cổ”. Đến đây, du khách được trải
nghiệm các hoạt động thú vị như ngồi thuyền thúng tham quan rừng dừa kết hợp
câu cá, câu tôm, nghe kể chuyện về di tích Rừng dừa và chiến tích chiến tranh của
bà con Cẩm Thanh, xem biểu diễn lắc thúng, quăng lưới kéo cá, đua ghe, tham gia

SVTH: Nguyễn Thị Thanh Đoan – Lớp: 14 CVNH

Trang 24


×