Tải bản đầy đủ (.docx) (68 trang)

Dấu ấn hậu hiện đại trong hôm sau của mai văn phấn nhìn từ cái tôi trữ tình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (321.79 KB, 68 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA NGỮ VĂN

THIỀU THỊ THÙY LINH

DẤU ẤN HẬU HIỆN ĐẠI TRONG HÔM SAU
CỦA MAI VĂN PHẤN NHÌN TỪ CÁI TÔI TRỮ
TÌNH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH CỬ NHÂN VĂN HỌC

ĐÀ NẴNG, NĂM 2018


ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA NGỮ VĂN

DẤU ẤN HẬU HIỆN ĐẠI TRONG HÔM SAU
CỦA MAI VĂN PHẤN NHÌN TỪ CÁI TÔI
TRỮ TÌNH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH CỬ NHÂN VĂN HỌC

Người hướng dẫn:
PGS.TS NGÔ MINH HIỀN
Người thực hiện:
THIỀU THỊ THÙY LINH


(Khóa 2014-2018)

ĐÀ NẴNG, NĂM 2018


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS.
Ngô Minh Hiền, người đã tận tình hướng dẫn tôi trong
quá trình nghiên cứu để hoàn thành khóa luận này.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy,
cô giáo trong Khoa Ngữ Văn, Trường Đại học Sư Phạm
- Đại học Đà Nẵng đã truyền đạt những kiến thức nền
tảng để tôi có thể thực hiện tốt đề tài của mình.

Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn gia đình,
bạn bè, những người đã động viên, khuyến khích tôi
trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Đà Nẵng, tháng 4 năm 2018

Sinh viên

Thiều Thị Thùy Linh


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan kết quả nghiên cứu của công trình này là của bản thân
tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn của GVC – PGS.TS Ngô Minh Hiền.

Việc trích dẫn lại những ý kiến nhận định, ý kiến của các công trình
nghiên cứu đã được chú thích rõ ràng theo yêu cầu khoa học. Tôi xin

chịu trách nhiệm về tính trung thực của công trình nghiên cứu này.

Đà Nẵng, tháng 4 năm 2018

Sinh viên

Thiều Thị Thùy Linh


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU......................................................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài.................................................................................................................. 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề............................................................................................ 1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................................ 5
4. Phương pháp nghiên cứu.............................................................................................. 5
5. Bố cục đề tài.......................................................................................................................... 5
CHƯƠNG 1: THƠ MAI VĂN PHẤN TRONG DÒNG CHẢY THƠ VIỆT
NAM ĐƯƠNG ĐẠI..................................................................................................................... 6
1.1. Một số điểm nổi bật của thơ Việt Nam đương đại........................................ 6
1.1.1. Cái tôi cá nhân được đề cao trong chiều sâu nhân bản.................. 6
1.1.2. Ngôn ngữ được gia tăng tính chất tự do.................................................. 7
1.1.3. Thơ Việt Nam đương đại mang đậm dấu ấn hậu hiện đại...............7
1.2. Hành trình sáng tạo nghệ thuật của Mai Văn Phấn...................................... 8
1.2.1. Mai Văn Phấn - nhà thơ của “những cuộc vong thân” .....................8
1.2.2. Các giai đoạn sáng tác của Mai Văn Phấn............................................... 9
1.2.2.1. Từ khởi đầu đến năm 1995....................................................................... 9
1.2.2.2. Từ năm 1995 đến năm 2000................................................................... 10
1.2.2.3. Từ năm 2000 đến nay................................................................................ 11
1.2.3. Quan niệm nghệ thuật của Mai Văn Phấn.............................................. 12

1.2.4. Hôm sau – Tập thơ đánh dấu quá trình bứt phá của Mai Văn Phấn ..13

CHƯƠNG 2: BIỂU HIỆN CÁI TÔI TRỮ TÌNH ĐA DIỆN TRONG HÔM SAU
CỦA MAI VĂN PHẤN............................................................................................................ 15
2.1. Tâm thế bất an trước cuộc đời............................................................................. 15
2.1.1. Hoài nghi các giá trị............................................................................................ 15
2.1.2. Cô đơn trong cuộc sống.................................................................................. 19
2.1.3. Dự cảm về tương lai.......................................................................................... 22
2.2. Khao khát cuộc sống toàn nguyên..................................................................... 25
2.2.1. Được là chính mình............................................................................................ 25
2.2.2. Vươn tới những giá trị sống tốt đẹp......................................................... 28


CHƯƠNG 3: MỘT SỐ PHƯƠNG THỨC NGHỆ THUẬT MANG ĐẬM DẤU
ẤN HẬU HIỆN ĐẠI TRONG HÔM SAU CỦA MAI VĂN PHẤN THỂ HIỆN
CÁI TÔI TRỮ TÌNH................................................................................................................. 31
3.1. Không gian và thời gian nghệ thuật................................................................... 31
3.1.1. Không gian u huyền, hư ảo............................................................................ 31
3.1.2. Thời gian tâm lý đầy ảo giác.......................................................................... 35
3.2. Ngôn ngữ và giọng điệu nghệ thuật.................................................................. 39
3.2.1. Ngôn ngữ nghệ thuật......................................................................................... 39
3.2.1.1. Ngôn ngữ lạ hóa, dị biệt.......................................................................... 39
3.2.1.2. Ngôn ngữ đời thường, mộc mạc........................................................ 43
3.2.2. Giọng điệu nghệ thuật....................................................................................... 46
3.2.2.1. Giọng giễu nhại............................................................................................ 46
3.2.2.2. Giọng suy ngẫm, triết lý.......................................................................... 51
3.3. Biểu tượng nghệ thuật.............................................................................................. 55
3.3.1. Con quạ..................................................................................................................... 55
3.3.2. Bóng tối..................................................................................................................... 57
KẾT LUẬN.................................................................................................................................. 59

TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................................... 60


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Từ sau 1986, thơ Việt Nam đã không ngừng thay đổi và và làm mới mình
hơn. Các nhà thơ trong thời gian này cũng tìm cho mình những lối đi riêng với
những cách tân nghệ thuật đầy bất ngờ. Bước vào thế kỉ XXI, thơ Việt Nam đạt
được những thành tựu đáng khả quan, mang lại niềm tin cho công chúng và
bạn đọc. Độc giả được thưởng thức những bài thơ mang diện mạo mới từ
cách nhìn nhận vấn đề đến cách đánh giá những hiện tượng cuộc sống của
các nhà thơ. Những cây bút tiêu biểu trong thời kì này như Nguyễn Quang
Thiều, Vi Thùy Linh, Mai Văn Phấn, Inrasara, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Thế
Hoàng Linh… đã góp phần làm nên sự thay đổi lớn cho thơ ca đương đại.
Mai Văn Phấn là nhà thơ được đông đảo bạn đọc quan tâm bởi những
tác phẩm thơ mới lạ mang đậm màu sắc hậu hiện đại. Hôm sau của Mai Văn
Phấn được coi là một trong những tác phẩm thể hiện cách tân nghệ thuật độc
đáo đậm dấu ấn hậu hiện đại. Chọn đề tài Dấu ấn hậu hiện đại trong Hôm sau
của Mai Văn Phấn nhìn từ cái tôi trữ tình,chúng tôi mong muốn làm nổi bật
những dấu ấn của chủ nghĩa hậu hiện đại được biểu hiện cụ thể qua thế giới
tâm trạng của thơ ông. Từ đó, có thể đánh giá khách quan về sự đặc sắc của
thơ Mai Văn Phấn, cũng như những đóng góp nghệ thuật của ông đối với sự
vận động và phát triển của thơ ca Việt Nam đương đại.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Mai Văn Phấn - một nhà thơ với số lượng tác phẩm lớn không chỉ
được lưu hành trong nước mà còn được dịch ra nhiều thứ tiếng nước
ngoài. Có thể nói ông là nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ và dồi dào. Vì
thế thơ ông được nghiên cứu nhiều và phổ biến rộng rãi đến bạn đọc.
Trong cuốn Mai Văn phấn và hành trình vào cõi khác của hai nhà nghiên cứu

Ngô Hương Giang và Nguyễn Thanh Tâm đã lí giải về Mai Văn Phấn – một mẫu
hình nhân học. Cuốn sách được chia làm ba chương. Chương một là Chú giải về
thơ Mai Văn Phấn, tác giả giải thích những vấn đề khúc mắc trong các tập thơ đã
xuất bản của nhà thơ. Chương hai là Mai Văn Phấn và sự chuyển dịch văn hóa
qua thơ, trong chương này tác giả đi sâu vào lí giải nhà thơ như một

1


hiện tượng từ góc nhìn quan niệm sáng tạo và sự diễn giải kinh nghiệm
tri thức bằng lời. Chương ba là Thơ Mai Văn Phấn trong dòng chảy thơ
Việt Nam đương đại, đây là chương tổng quát hành trình của nhà thơ
trong nền thơ ca Việt Nam, cho thấy được quá trình phát triển thơ của
Mai Văn Phấn từ lúc mới bắt đầu cho đến lúc tồn tại thư một thực thể.
Và PGS.TS Hồ Thế Hà, trong bài viết Thơ tạo sinh nghĩa Mai Văn Phấn, đã
phân tích thơ của Mai Văn Phấn trên hai bình diện: thế giới hình tượng và khả
năng tạo sinh nghĩa; bản thể chữ và khả năng tạo sinh nghĩa để làm rõ quan điểm
của mình. Đồng thời ông khẳng định “Mai Văn Phấn là một hiện tượng riêng của
nền thơ đương đại Việt Nam – mà là một hiện tượng riêng, liên tục lấp lánh và mới
lạ. Ý thức đổi mới thi ca luôn thường trực trong từng cảm giác bé nhỏ của chính
nguời thơ mà anh tự gọi là “vong thân” tức phủ định bản ngã thi sĩ truớc đó của
mình để được tồn tại trong một trạng thái tình cảm luôn luôn mới và trong một
trạng thái ngôn ngữ luôn luôn khác – nghĩa là luôn luôn tạo sinh nghĩa – đã làm
cho thế giới thơ Mai Văn Phấn không ngừng vận động…” [22]
Còn Cao Năm trong bài Nhà thơ Mai Văn Phấn – hiện thân của sự sáng tạo
lại khẳng định: “Khép lại vài ý kiến tản mạn của mình, tôi chỉ muốn nói rằng, 20
năm đọc thơ, dõi theo con đường thơ Mai Văn Phấn, điều tôi nhận ra ở nhà thơ
đầy năng động này là một bản lĩnh sáng tạo luôn kiên định con đường mình đi, dù
biết trước là đầy chông gai, đau đớn và cả tai tiếng, nhưng đấy đích thực là con
đường của riêng mình, khoảng trời của riêng mình, để từ đấy có thể góp được cái

gì đó vào bầu trời cao xanh vời vợi của muôn loài…” [28]

Ở một khía cạnh khác, Phạm Xuân Nguyên với bài Ban mai và ngọn lửa đã khảo
sát và chỉ ra các biểu tượng ánh sáng ban mai và ngọn lửa trong thơ Mai Văn Phấn.
Ông cho rằng “Mai Văn Phấn làm thơ dưới luồng sáng linh thiêng dẫn dắt ban mai và
ngọn lửa. Anh tin vào sự hồi sinh, phục thiện, hoàn nguyên của đất đai bầu trời, của
cỏ cây hoa lá” [8; 377]. Lửa và ban mai được xem là từ khóa trong thơ Mai Văn Phấn,
ban mai là khởi đầu, lửa thắp sáng con đường và bước chân của loài người từ xa xưa
đến nay. Đây là ý nghĩa mang đầy tính nhân văn trong thơ Mai Văn Phấn. Còn trong bài
Thơ là Ngôi Lời, ông chỉ ra cái khác trong thơ Mai Văn Phấn. Cái khác không chỉ trong
mỗi câu thơ mà trong tư tưởng của tác giả, Mai Văn Phấn luôn muốn khác, tìm kiếm
cái khác nên mỗi tập thơ của ông khi ra đời là một sự

2


khác. Trong quá trình tìm kiếm, nhà thơ tạo ra chữ trong mọi hoàn cảnh,
cũng có thể cái hoàn cảnh đó tạo nên chữ. “Chữ bật ra Lời. Thơ là/thành
Ngôn Lời. Run rẩy và sừng sững. Thiêng liêng và huyền hoặc” [8;380]
Cũng trên tinh thần đó, PGS.TS Phạm Quang Trung trong bài viết Không gian
và hành trình thơ Mai Văn Phấn đã khái quát được đặc trưng thơ Mai Văn Phấn ở
chặng đầu nằm trong phạm trù “cái đẹp”. Thơ của ông luôn gắn với đời sống theo
yêu cầu nghiêm ngặt của mỹ học hiện thực cổ điển. Sau đó, thơ ông có dấu hiệu
chuyển mình từ phạm trù cái đẹp sang phạm trù cái cao cả bắt đầu từ tập Nghi lễ
nhận tên. Nhà nghiên cứu cũng nêu rằng: “Con đường và không gian thơ cho đến
giờ của Mai Văn Phấn nhìn đại thể là vậy. Phía trước vẫn còn đó: Một khoảng
không rộng mở… Cùng một khát vọng da diết… Có điều, ngay giữa lúc này, tôi
vẫn tha thiết mong mỏi đông đảo bạn đọc chúng ta hãy mở rộng lòng đón nhận
sự cách tân đầy ý thức mà cũng đầy hiệu quả của thơ anh” [32.


Bên cạnh đó, bài Từ những “không gian khác”… của nhà phê bình
văn học Nguyễn Thanh Tâm đã cho người đọc thấy được sự bứt phá
không ngừng, tìm tòi và học hỏi trong quá trình sáng tạo thơ của Mai
Văn Phấn. Ông không chỉ sáng tác thơ mà còn viết phê bình, cụ thể Mai
Văn Phấn đã cho xuất bản tập phê bình – tiểu luận Không gian khác.
Không chỉ có những bài viết của các nhà nghiên cứu, phê bình văn học
trong nước mà thơ Mai Văn Phấn còn được đào sâu, khai thác qua các luận văn:

Đầu tiên là luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Quang Hà Một số cách tân nghệ
thuật trong thơ Mai Văn Phấn, bảo vệ năm 2012. Công trình đã chỉ ra những
nét mới, đặc sắc trong quan niệm nghệ thuật và cấu trúc thơ Mai Văn Phấn đó
là cách tân trong quan niệm thơ và nhà thơ; cách tân trong cấu trúc hình ảnh,
biểu tượng, ngôn ngữ. Luận văn khẳng định: “Với những tìm tòi và cách tân
về cấu trúc thơ, hình ảnh, biểu tượng, ngôn ngữ thơ, tạo cho mình một giọng
điệu thơ riêng, Mai Văn Phấn đã cho thấy một diện mạo thơ mới có thể chuyển
tải được những bộn bề, phức tạp của cuộc sống và tâm trạng với nhiều cung
bậc tình cảm của cái tôi luôn mang nặng ý thức trách nhiệm với con người và
cuộc sống, phù hợp với xu hướng phát triển chung của xã hội.” [23].

3


Cũng trong Luận văn thạc sĩ bảo vệ ở Đại học Đà Nẵng Đặc điểm nghệ thuật
thơ Mai Văn Phấn của Vũ Thị Thảo năm 2012. Công trình đã làm rõ quan niệm
nghệ thuật của thơ Mai Văn Phấn. Từ các kiểu tư duy thơ, các chủ đề chính và các
hình ảnh mang tính biểu tượng đến ngôn ngữ giọng điệu và các biện pháp nghệ
thuật đắc sắc trong thơ Mai Văn Phấn đều ghi được dấu ấn riêng.
Tiếp theo là Mai Thị Thảo với luận văn thạc sĩ Cảm hứng tôn giáo trong thơ
Mai Văn Phấn của bảo vệ năm 2014 đã khẳng định cảm hứng tôn giáo không chỉ
chi phối đến hệ thống hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng, mà còn ảnh hưởng trực

tiếp đến lối kết cấu, ngôn ngữ và giọng điệu thơ Mai Văn Phấn. Tác giả cũng nhấn
mạnh: “Đưa vào thơ ca những vấn đề có tính chất triết học tâm linh, Mai Văn Phấn
không hề hướng người đọc xa rời tinh thần “nhập thế” tích cực mà trái lại ông
hướng người đọc đến những tầm sâu để nhìn vào đời sống của chính mình, từ đó
hiểu được cách tiếp cận đời sống ở chiều sâu tâm linh” [31].

Và công trình nghiên cứu Hoàng Thị Thanh Nhàn Thế giới nghệ thuật thơ
Mai Văn Phấn, bảo vệ luận văn Thạc sĩ năm 2014 đã làm rõ thế giới nghệ thuật
thơ trong thơ Mai Văn Phấn qua hai bình diện Hình tượng cái tôi và Hình
tượng thế giới. Hình tượng cái tôi trong thơ Mai Văn Phấn có bốn đặc điểm cơ
bản: giàu khát vọng và năng lượng cách tân thi ca; say đắm, nồng nàn trong
tình yêu; thống nhất giữa lý tính tỉnh táo và trực giác nhạy cảm; khao khát
hướng tới một thế giới tinh thần lý tưởng, “thuần Việt”. Đi cùng hình tượng
cái tôi là hình tượng thế giới, đó là một thế giới viên mãn và thuần khiết;
tương giao và hài hòa; và đầy ắp những cảm giác siêu nghiệm.
Sau đó là công trình luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Tiến Lượng bảo vệ năm
2015 Nghệ thuật tứ cấu trong thơ Mai Văn Phấn đã làm rõ những kiểu tứ cấu đặc
thù trong thơ của nhà thơ. Tính đặc thù ấy được tập trung khám phá và thể hiện
trên các bình diện chính là: cấu tứ dựa trên dòng trôi của cảm giác; cấu tứ dựa
trên mối quan hệ liên văn bản; cấu tứ dựa trên việc triển khai các cuộc đối thoại
và sự chú ý đồng bộ giữa cấu tứ của từng bài với cấu tứ của toàn tập thơ. Góp
phần tạo ra một khung trời riêng, một thế giới riêng của thơ Mai Văn Phấn.
Nhìn chung, đã có nhiều công trình nghiên cứu về thơ Mai Văn Phấn, tuy
nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu vấn đề Dấu ấn hậu hiện đại trong tập

4


thơ Hôm sau của Mai Văn Phấn nhìn từ cái tôi trữ tình một cách hệ
thống. Vì thế việc nghiên cứu Dấu ấn hậu hiện đại trong tập thơ Hôm

sau của Mai Văn Phấn nhìn từ cái tôi trữ tình là cần thiết. Những kết quả
nghiên cứu của các công trình trên sẽ là những gợi mở quan trọng cho
chúng tôi trong quá trình thực hiện luận văn này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu
Tập thơ Hôm sau của Mai Văn Phấn do nhà xuất bản Hội nhà văn
phát hành năm 2009.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Những dấu ấn hậu hiện đại làm nên giá trị nội dung và nghệ thuật
của tập thơ Hôm sau của Mai Văn Phấn nhìn từ cái tôi trữ tình.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để phục vụ cho việc nghiên cứu, chúng tôi đã sử dụng các
phương pháp nghiên cứu sau:
4.1. Phương pháp hệ thống cấu trúc
Cấu trúc toàn bộ thơ trong tập thơ Hôm sau thành một hệ thống
theo yêu cầu nghiên cứu để xem xét, đánh giá một cách xác đáng dấu
ấn hậu hiện đại trong tập thơ này.
4.2. Phương pháp phân tích – tổng hợp
Xem xét cụ thể các vấn đề và nội dung và nghệ thuật để làm rõ dấu ấn hậu
hiện đại trong tập Hôm sau. Đồng thời đưa ra những đánh giá, nhận xét chính xác
về giá trị nghệ thuật của thơ Mai Văn Phấn đối với thơ ca Việt Nam đương đại.

4.3. Phương pháp so sánh đối chiếu
So sánh tập thơ Hôm sau của Mai Văn Phấn với các tập thơ khác của
ông để khẳng định sự đặc sắc của dấu ấn hậu hiện đại trong tập thơ.

5. Bố cục đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Nội dung của
luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Thơ Mai Văn Phấn trong dòng chảy thơ Việt Nam đương đại
Chương 2: Biểu hiện cái tôi trữ tình đa diện trong Hôm sau của Mai Văn Phấn

Chương 3: Một số phương thức nghệ thuật mang đậm dấu ấn hậu
hiện đại trong Hôm sau của Mai Văn Phấn thể hiện cái tôi trữ tình
5


CHƯƠNG 1

THƠ MAI VĂN PHẤN TRONG DÒNG CHẢY
THƠ VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI

1.1. Một số điểm nổi bật của thơ Việt Nam đương đại
1.1.1. Cái tôi cá nhân được đề cao trong chiều sâu nhân bản
Thơ Việt Nam từ sau 1986 có nhiều thay đổi so với trước đây, cái tôi
cá nhân được đề cao và được chú ý khai thác khám phá một cách mới mẻ.
Thế giới nội cảm của con người được nhìn nhận ở chiều sâu nhân bản.
Cảm hứng ngợi ca và tính sử thi mờ dần để nghiêng về định giá các giá trị
đã ổn định, tính hoài nghi được tăng cao. Nhà thơ không còn là người giáo
dục nữa mà bây giờ họ là người có khả năng đánh thức, thúc giục, khơi
dậy cảm xúc trong tâm hồn con người. Những tác phẩm trong giai đoạn có
khả năng đánh thức những khát khao, ước mơ cho người đọc. Đời sống
nội tâm và chiều sâu ẩn dấu trong tâm hồn được nhà thơ khai thác một
cách triệt để. Con người trở thành một sinh thể bí ẩn, phức tạp. Con người
hướng dẫn nhà thơ khám phá và lột tả thế giới nội tâm của họ.
Nhà thơ nói nhiều hơn về nỗi buồn nhân sinh, về những cảm nhận của cái
tôi trước một thực tại nghiệt ngã. Nhiều nhà thơ công khai bày tỏ nỗi buồn. Đó là
nỗi buồn gắn chặt với một thực tại mới, một cảm quan nghệ thuật mới. Nỗi buồn
vì cuộc sống mưu sinh, những trắc ẩn về riêng tư, đôi lứa: Em chết trong nỗi

buồn/ Chết như từng giọt sương/ Rơi không thành tiếng (Lâm Thị Mỹ Dạ). Các nhà
thơ rung động trước những thay đổi tâm lý tinh tế, sâu kín, nhiều khi ngỡ như
thật mong manh. Tuy nhiên cũng xuất hiện không ít nỗi đau giả, những tiếng khóc
vờ vì cảm xúc hời hợt và thói triết lý vặt trong thơ. Người đọc cảm nhận nỗi buồn,
cô đơn là một phạm trù thẩm mĩ và cũng là một đề tài nổi bật của thơ ca. Không
hẳn nỗi buồn nào cũng nhất thiết phải có nguyên cơ, điều quan trọng là nhà thơ
phải thể hiện được những nỗi buồn sâu sắc và thấm đầy chất nhân bản. Thơ viết
nhiều về nỗi buồn nhưng dường như vẫn còn hiếm những nỗi buồn cao cả được
thể hiện một cách sâu sắc và ám ảnh.

6


1.1.2. Ngôn ngữ được gia tăng tính chất tự do
Ngôn từ của thơ Việt Nam đương đại tự do, “không có vùng cấm” nào
cho ngôn từ. Nhiều ngôn từ phong phú, ngôn ngữ sang trọng, bóng bẫy, ngôn
ngữ chợ búa, ngôn ngữ bụi đời, ngôn ngữ đời thường đều xuất hiện trong
thơ. Ngoài ra trong các tác phẩm thơ xuất hiện cảm hứng giải thiêng – con
người phá vỡ những chuẩn mực được cho là cao cả, phá vỡ những chuẩn
mực thiêng liêng không thể thay đổi mà người đi trước đã tạo lập. Các nhà
thơ đã đưa ra một quan điểm mới theo quan niệm cá nhân. Ví dụ trong bài Tự
hát của Xuân Quỳnh: Chẳng dại gì em ước nó bằng vàng/ Trái tim anh đã từng
biết đấy/ Anh là người coi thường của cải. Phụ nữ được tự do nói về quan
niệm tình yêu của mình, có khi họ còn tự động tán tỉnh đàn ông nữa.
Thơ chú ý đến tính đa nghĩa của ngôn ngữ thơ ca, gia tăng chất ảo trong
thơ. Nhà thơ ý thức tạo sự nhòe mờ cho ngôn ngữ nghệ thuật, vì thế để hiểu thơ
người đọc phải giải mã các sinh thể nghệ thuật qua nhiều chiều liên tưởng văn
hóa khác nhau. Tức là người đọc phải có trình độ và kiến thức thì mới có thể hiểu
được thơ. Ví dụ bài Tiếng Việt của Lưu Quang Vũ Ôi Tiếng Việt như bùn như lụa.


Trên thi đàn, xuất hiện nhiều giọng thơ lạ mang đậm chất phương Tây,
trong đó thể hiện rõ ý thức phá vỡ những chiều tuyến tính tạo nên những
dòng chảy đứt nối. Nó còn gia tăng tính đồng hiện của hình ảnh thơ. Nhà thơ
luôn đặt các hiện tượng khác nhau, bên cạnh nhau, cố gắng tỉnh lược các mối
quan hệ bề nổi buộc người đọc phải tự xác lập các mối liên hệ giữa chúng.

1.1.3. Thơ Việt Nam đương đại mang đậm dấu ấn hậu hiện đại
Hậu hiện đại là một khuynh hướng lớn trong văn học thế giới nên việc văn học
Việt Nam mang dấu ấn hậu hiện đại là điều dễ hiểu. Khuynh hướng này xuất hiện
trong thơ Việt Nam khá muộn, phải đến khi cải cách vào năm 1986, văn chương Việt
mới đi vào quỹ đạo văn chương thế giới và thơ mới mang dấu ấn của khuynh hướng
này. Khuynh hướng hậu hiện đại phát triển cho phép nhà thơ đi ngược lại quy luật đã
có, cái tôi cá nhân nhìn đời thực bằng nhiều màu sắc, được đánh giá mọi vấn đề
không toàn diện. Từ đó khiến cho nội dung thơ trở nên phong phú hơn, nhìn từ
những góc nhau nên có những suy tư, chiêm nghiệm, bài học, kinh nghiệm khác
nhau. Có thể nhận thấy điều này ở thơ Lê Đạt, Trần Dần, Hoàng Cầm…

7


Thơ Việt Nam trong khoảng từ năm 2000 – 2010 là bước tiến đột phá
trong quá trình thơ hậu hiện đại. Khi Internet và các loại hình thông tin
bùng nổ, người sáng tác trẻ có cơ hội tiếp cận mọi trào lưu văn học trên
thế giới. Đặc biệt là năm 2002, với sự ra đời hàng loạt website văn học
tiếng Việt, đã được xem là thời điểm định hình cho thời kì văn học hậu hiện
đại Việt Nam. Theo Inrasa, nhà thơ hậu hiện đại chối bỏ mọi dạng đại tự sự
bằng cách hiệu quả nhất là giải thiêng sự thể. Mang tư tưởng tự do, nhà
thơ hậu hiện đại luôn có tiếng nói phản biện xã hội đương thời, bóc trần
sự mê hoặc mà thông tin đại chúng muốn tác động vào xã hội. Đồng thời
thơ hậu hiện đại tự thân mang ý hướng phi tâm hóa, xóa bỏ mọi sự phân

biệt trong đội ngũ sáng tác. Lực lượng sáng tác thơ mang dấu ấn của trào
lưu hậu hiện đại bấy giờ như: nhóm Mở Miệng, Inrasara, Mai Văn Phấn, Vi
Thùy Linh, Nguyễn Thế Hoàng Linh, Nguyễn Hoàng Nam, Phan Thị Vàng
Anh, Phan Huyền Thư, Nguyễn Quang Thiều, Bùi Chát, Khế Iêm…
Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Việt Nam đương đại cho thấy sự phát triển
và mở rộng lãnh thổ của thơ và hướng đi mới của bộ phận tác giả trẻ nước ta
hiện nay. Từ đó mang lại niềm tin cho công chúng một quá trình chuyển mình
trong thi ca đầy năng động. Người đọc được thưởng thức những dòng thơ
mang những sắc diện hoàn toàn mới mẻ trong nhìn nhận, đánh giá những
hiện tượng của đời sống, cũng như trong bình diện ngôn ngữ, giọng điệu…
Tóm lại, nền thơ Việt Nam càng ngày càng phong phú với những cách
tân mới mẻ, độc đáo cùng nhiều khuynh hướng thơ. Nhìn một cách tổng quát,
thơ sau 1975 đã vận động một cách mạnh mẽ theo hướng hiện đại hóa. Với sự
đổi mới về nghệ thuật, sự nhận thức sâu sắc về bản chất thơ Việt Nam đương
đại đã tạo ra một đà phát triển mạnh mẽ cho nền thi ca dân tộc.

1.2. Hành trình sáng tạo nghệ thuật của Mai Văn Phấn
1.2.1. Mai Văn Phấn - nhà thơ của “những cuộc vong thân”
Mai Văn Phấn sinh năm 1955 tại một làng quê thuộc huyện Kim Sơn, Ninh
Bình. Từ nhỏ, cái mộng văn chương đã ấp ủ trong lòng nhà thơ. Ông yêu thơ và
làm thơ từ khi còn là cậu bé mười sáu, mười bảy tuổi. Bài thơ đầu tay Hoa xoan
ghi dấu lại những ngày tháng sống và chiến đấu gian khổ trong quân ngũ của

8


Mai Văn Phấn. Cũng từ đây, nhà thơ bắt đầu có những trăn trở về con đường thơ
của mình, muốn xóa đi tất cả những quan niệm, hiểu biết về thơ ca trước đó. Là
nhà thơ thuộc thế hệ hậu chiến, một trong những cây bút xuất sắc của dòng thơ
cách tân sau 1975, những tác phẩm của ông đã góp phần không nhỏ trong cuộc

cách tân thơ ca Việt Nam. Mai Văn Phấn đã tìm cho mình một giọng thơ riêng rất
tinh tế với những cảm xúc sâu lắng và ngôn từ được trau chuốt. Nhà thơ đã cho
ra đời hàng loạt các tác phẩm ấn tượng: Giọt nắng (1992), Gọi xanh (1995), Cầu
nguyện ban mai (1997), Nghi lễ nhận tên (1999), Người cùng thời (1999), Vách
nước (2003), Hôm sau (2009), và đột nhiên gió thổi (2009), Bầu trời không mái che
(2010), hoa giấu mặt (2012), Vừa sinh ra từ đó (2013), Thả (2015), Phê bình tiểu
luận Không gian khác (2016), Lặng yên cho nước chảy (2018)… Thơ Mai Văn Phấn
hiện được dịch ra nhiều thứ tiếng và giới thiệu tại nhiều quốc gia như Anh quốc,
Hoa Kì, Thái Lan, Indonesia, Thụy Điển,… Thành công trong sáng tác thơ ông đã
được ghi nhận bằng hàng loạt các giải thưởng uy tín như: Giải thưởng Cuộc thi
thơ tuần báo Người Hà Nội năm 1994, Giải thưởng Cuộc thi thơ tuần báo Văn
nghệ năm 1995, chuỗi giải thưởng Văn học Nguyễn Bỉnh Khiêm (Hải Phòng) trong
các năm 1991, 1993, 1994, 1995, Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam dành cho tập
thơ Bầu trời không mái che năm 2010 và mới nhất là Giải thưởng văn học Cikada
của Thụy Điển trao năm 2017.

1.2.2. Các giai đoạn sáng tác của Mai Văn Phấn
1.2.2.1. Từ khởi đầu đến năm 1995
Bắt đầu bằng bài thơ Tản mạn về cỏ viết năm 1990. Mai Văn Phấn
đã bước vào làng thơ Việt Nam một cách vô cùng mộc mạc và giản dị.
Hai tập thơ Giọt nắng (1992) và Gọi xanh (1995) được xem là sự đánh dấu
thành công cho giai đoạn sáng tác đầu của tác giả. Ra đời trong giai đoan khởi
đầu nên đa số các bài thơ được viết bằng thể thơ lục bát xoay quanh những chủ
đề như tình yêu quê hương đất nước, tình yêu gia đình, thiên nhiên…

Trong giai đoạn này, ý thức cách tân nghệ thuật đã trỗi dậy trong
nhà thơ mặc dù thơ ông vẫn chưa thoát khỏi hệ hình thi pháp truyền
thống. Cùng với thể thơ lục bát truyền thống, hình thức vắt dòng cũng
được Mai Văn Phấn sử dụng trong một số bài thơ làm cho thơ thêm
cảm xúc hơn, diễn tả được tâm trạng của nhân vật trữ tình trong thơ.

9


“ (…)
Giờ nỗi cô đơn lại sà xuống vần xoay
Chiếc vòi rồng muốn hóa thân tôi thành cát bụi
Mặt trời chiều hay trái cây chín vội
Rụng xuống lòng mình
Trĩu nặng
Trần gian.
(…)”
(Cát bụi và tôi - Gọi xanh)

Tuy chưa nhuần nhuyễn và đột phá nhưng thơ vắt dòng thể hiện rõ
ý đồ nghệ thuật và sự sáng tạo không ngừng của nhà thơ
1.2.2.2. Từ năm 1995 đến năm 2000
Đây là giai đoạn Mai Văn Phấn đã dần bước ra khỏi dàn đồng ca truyền
thống trong văn đàn thi ca dân tộc để tạo cho mình một lối đi riêng. Với sức
sáng tạo không ngừng ông đã cho ra đời ba tập thơ: Cầu nguyện ban mai
(1997), Nghi lễ nhận tên (1999) và trường ca Người cùng thời (1999).

Tập thơ Cầu nguyện ban mai được xem là sự giao thoa giữa cái cũ ở
giai đoạn trước và cái mới ở giai đoạn này. Cảm xúc cá nhân trong thơ
được rõ nét hơn, tình yêu lứa đôi được đề cập nhiều hơn, thế giới nội cảm
của nhân vật trữ tình trong bài thơ được khai thác và khám phá sâu hơn
giai đoạn trước. Những chất liệu thuyền thống trong thơ như thuyền, biển,
máu, ao, mùa thu, cá… được Mai Văn Phấn kết hợp trong thể thơ văn xuôi
và tự do tạo nên nhịp thơ mới, căng tràn và hấp dẫn hơn.
Nghi lễ nhận tên là tập thơ mang tính bước ngoặt trong hành trình thơ Mai
Văn Phấn. Là tập thơ chuyển từ phạm trù tư duy cái đẹp sang phạm trù cái cao cả.

“Tên của tập thơ gợi lên từ một ý niệm về bản thể trong thời khắc nhận ra bản
mệnh của mình. Quả thực, từ Giọt nắng, Gọi xanh, Cầu nguyện bạn mai đến Nghi
lễ nhận tên, Mai Văn Phấn đã có một nhận thức về chính những chuyển động
trong cấu trúc tư duy nghệ thuật cũng như hình thái thơ mà anh tìm kiếm.” [4;41].

10


Đến Trường ca Người cùng thời ngôn từ thơ của Mai Văn Phấn đã trở
nên trau chuốt, tứ thơ mới mẻ và đặc sắc hơn, không theo cấu trúc tự sự
quen thuộc mà theo mạch suy tưởng. Trường ca gồm mười chương thể hiện
nhiều quan niệm mới lạ của tác giả về con người và thế giới. Đây là tác phẩm
chứa đựng những quan niệm mới mẻ và đầy tính nhân sinh cao cả của ông.

1.2.2.3. Từ năm 2000 đến nay
Đây là giai đoạn sáng tác gặt hái được nhiều thành công của Mai Văn
Phấn trong suốt những chặng đường thơ ca. Ông cho ra đời hàng loạt tác
phẩm ghi dấu ấn trong lòng người đọc: Vách nước (2003), Hôm sau (2009), và
đột nhiên gió thổi (2009), Bầu trời không mái che (2010), Hoa giấu mặt (2012),
Những hạt giống của đêm và ngày (2013), Vừa sinh ra từ đó (2013), Thả (2015),
Lặng yên cho nước chảy (2018). Sự cách tân sáng tạo trong nghệ thuật cũng
như quan niệm giúp cho nhà thơ đạt được nhiều giải thưởng lớn và các tác
phẩm trong giai đoạn này được dịch ra nhiều tiếng nước ngoài.
Tập Hôm sau và tập và đột nhiên gió thổi là hai tập thơ thể hiện cái nhìn mới về
hiện thực, về con người và về nghệ thuật của nhà thơ. Tập thơ Hôm sau có cảm xúc
chủ đạo là bi quan, hoài nghi đầy lo âu của con người trong vũ trụ bao la. Còn tập thơ
và đột nhiên gió thổi lại mang những niềm tin và nhiều hi vọng về tương lai. Hai tập
thơ như gắn kết chặt chẽ với nhau thể hiện ý đồ nghệ thuật của nhà thơ.

Tiếp theo phải kể đến Bầu trời không mái che, tập đạt giải thưởng Hội Nhà

văn Việt Nam năm 2010 đồng thời cũng là bước đánh dấu sự phát triển của thơ
Mai Văn Phấn trên hành trình hướng đến một thế giới nghệ thuật không có ranh
giới, không có mái che. Tập thơ gồm ba phần: Cửa Mẫu, Mùa trăng và Hình đám
cỏ. Cửa Mẫu gồm có chín khúc, mỗi khúc đều được gắn với những hiện tượng,
quy luật trong nhận thức vạn vật tương thông: sinh - lão – bệnh – tử.

Trong khi đó là tập thơ Hoa giấu mặt lại mang cảm xúc an nhiên, lặng lẽ,
hướng sâu vào cảnh giới của siêu nghiệm. Ở tập thơ này Mai Văn Phấn đi tìm
những mảnh vỡ của kí ức tinh thần, những tàn dư của giá trị nhân bản trong
cuộc mua bán, trao đổi với văn minh của con người. Cảm thức về sự vô
thường hiện lên xuyên suốt tập thơ, Hoa giấu mặt tỏa ra hương thơm nhắn
nhủ con người về sự hiện hữu của sự sống diệu kì, thiêng liêng.

11


Ở Những hạt giống của đêm và ngày và Vừa sinh ra ở đó, đã thể

hiện một thế giới thiền, tinh khiết, trong lành, nguyân sơ và nguyên
thủy. Đó là kết tinh những ý niệm của Mai Văn Phấn vê thế giới, sự sống
và thi ca. Tập thơ biểu hiện rõ quan niệm thơ như là những tưởng
tượng, mơ mộng, tạo sinh, giàu nhịp điệu và ngôn từ gợi cảm.
Ngoài ra Mai Văn Phấn còn sáng tác tập thơ ba câu Thả hàm chứa
tinh thần buông bỏ triệt để của cái tôi cá nhân nhàm tìm lại bản ngã của
con người. Tập thơ như một ám thị về thời gian theo kiểu Mai Văn Phấn
– thời gian của những khoảnh khắc nhân sinh đẹp đẽ, đáng nhớ và
đáng sống. Đồng thời cũng chính là hành trình buông mình của cái tôi
trong nhà thơ để sau đó đi sâu vào cõi mơ hồ của tâm linh và sáng tạo.
Và đầu năm 2018, tập thơ Lặng yên cho nước chảy được ra đời gồm
có năm phần: Trong sương, Thay mùa, Đất mở, Cái miệng bất tử và Buông

tay cho trời rạng. Trong sương là những bài thơ 2 câu, 3 câu; Thay mùa là
những bài thơ theo lối truyền thống; Đất mở là thơ tự do về đất đai mùa
màng; Cái miệng bất tử là thơ cách tân với những vấn đề thế sự; Buông
tay cho trời rạng là thơ văn xuôi và trường thi. Dễ dàng nhận ra đây là tập
thơ gộp tất cả những cách tân nghệ thuật và những quan niệm ông đã viết
từ khi khởi đầu đến nay. Tất cả các thể thơ trong Lặng yên cho nước chảy
đều đã được nhà thơ viết trong tất cả các tác phẩm của mình. Đây là cuộc
trở về và nhìn lại với hành trình thơ Mai Văn Phấn nhưng mang một diện
mạo mới đó là tâm thức của con người thời đại với cái nhìn mới.

1.2.3. Quan niệm nghệ thuật của Mai Văn Phấn
Xuyên suốt hành trình sáng tạo nghệ thuật, Mai Văn Phấn là người luôn trăn trở
và suy tư một cách nghiêm túc về nghề nghiệp. Trong một bài phỏng vấn, nhà thơ Mai
Văn Phấn đã nêu ra quan niệm nghệ thuật của mình: “Thật kinh hãi khi phải ngắm nhìn
một nghệ sĩ cứ đứng mãi một chỗ mà biểu diễn quá nhiều lần một tiết mục tới gần
như vô cảm, nói cách khác là thương hại những ai thâm canh triền miên trên một
mảnh đất đã cỗi cằn. Quá trình vượt thoát khỏi cá tính chính là quá trình vong thân.
Với cá nhân tôi, quá trình vong thân là khoảng cách giữa những giai đoạn tạm ngừng
sáng tạo. Đó là khoảng thời gian đông cứng, vô nghĩa nhất.

12


Tôi từng cảm giác bị nhấn chìm trong sự trống rỗng, trầm cảm, thậm chí bi
phẫn… Nhưng trạng thái ấy giúp tôi tìm được cách vượt thoát. Sau mỗi lần
vượt thoát, có cảm giác mình vừa may mắn tỉnh ngộ, tái sinh, hay được đầu
thai vào một thân xác khác” [10;399]. Vì thế, quá trình “vong thân” của nhà thơ
thường đồng hành với quá trình đổi mới và cách tân thơ của ông. Với Mai Văn
Phấn: “Đổi mới thi pháp trước hết là từ chối ve vuốt những sở thích của
người đọc, nhằm tạo những sóng từ khác, những mã số khác trong không

gian thơ vừa được khám phá. Lý tưởng thi ca của sự cách tân nhằm gọi đúng
bản chất của sự vật trong nhịp điệu đời sống hiện đại” [10;378].
Qua đó, ta thấy nhà thơ Mai Văn Phấn luôn coi quá trình sáng tạo nghệ
thuật là một cuộc “vong thân”, một cuộc vượt thoát chính bản thân mình. Ông
cho rằng, mỗi nhà thơ phải biết tự phủ định mình, tức là phải coi cái mà mình
vừa viết ra là cái đã cũ thì mới mong đạt đến thành công đỉnh cao trong nghệ
thuật. Và bài thơ mà nhà thơ viết ra không còn thuộc về họ nữa mà thuộc về
độc giả. Cũng trong Hội thảo thơ Mai Văn Phấn và Đồng Đức Bốn, nhà thơ
Bằng Việt nhận xét: “Thơ Mai Văn Phấn hay dùng từ vong thân (thoát ra khỏi
mình khỏi các khái niệm cũ) và vượt thoát là dấu hiệu đáng mừng của thế hệ với tư duy ấy chúng ta có thể mang thơ đi xa là chìa khóa để sáng tạo trong
thong dong và nhẹ nhõm sau khi đã vứt bỏ cái gánh nặng của quá khứ. Quan
niệm của Mai Văn Phấn mà tôi rất thích đó là hậu hiện đại chỉ là cái sẽ đi qua
mà thôi để trở lại với tân cổ điển (nó chỉ là chỗ giải thoát bế tắc)…”[26].
Tương lai rồi sẽ đến nhưng cái đáng quý nhất chính là ở thời điểm thực
tại phải làm tốt và quan trọng là phải có tâm huyết với mọi việc. Không thể có
thơ hay khi mà tác giả không tự xây dựng cho mình một cá tính, một bản sắc
riêng trong thế giới tinh thần. Là một nhà thơ đầy trách nhiệm xã hội, Mai Văn
Phấn đã can đảm cất lên tiếng nói của mình, ông quan niệm đã là người cầm
bút không phải chỉ có tài năng mà còn luôn nhiệt huyết với nghề của mình.
1.2.4. Hôm sau – Tập thơ đánh dấu quá trình bứt phá của Mai Văn Phấn
Tập thơ Hôm sau được xuất bản tại Nhà xuất bản Hội nhà văn năm 2009, gồm 27
bài thơ viết theo thể tự do và văn xuôi. Đó là: Vẫn trấn tĩnh tiễn khách ra ngõ, Không
thể tin, Quay theo mái nhà, Anh tôi, Nghe tin bạn bị mất trộm, Biến tấu con

13


quạ, Đúng vậy, Bài học, Chỉ là giấc mơ, Ở nhũng đỉnh cột, Giấc mơ vô tận,
Ghi ở Vạn Lý Trường Thành, Đêm lập xuân, Dậy trẻ con, Còn cậu hãy đứng
đằng kia, Hắn, Đến trong suy nghĩ, Hội chứng từ một tin đồn…, Nhìn kỹ,

Tỉnh táo tột cùng, Kể lại giấc mơ, Biết thì sống, Nếu, Cái miệng bất tử,
Chuyện còn dài, Sống hồn nhiên và Giả viết cho buổi sáng hôm sau.
Tập thơ Hôm sau là một cuộc tự đổi mới thơ mình của Mai Văn Phấn, làm nên
một bước tiến mới của tác giả. Khi dòng chảy thi ca đương đại trong quá trình hội
nhập có phần ít dao động, Mai Văn Phấn đang cố gắng tạo cho mình một sự bứt phá
vượt khỏi vết mòn xưa cũ và tiếp tục tự vấn bằng những thôi thúc sáng tạo.
Hôm sau mang cái tôi cá nhân đầy u buồn, bế tắc và bi quan của con người
trong cuộc sống. Trong tác phẩm, ta bắt gặp một cái nhìn mới về hiện thực, con người
và nghệ thuật. Xuyên suốt tập thơ là chuỗi những mảnh ghép phi logic của hiện thực.
Nói phi logic nghĩa là chúng ta đang bị chi phối bởi logic của quan niệm, của sự áp
đặt. Chính xác hơn đó là một logic mới, nó không đáng bị khinh khi, bị chối bỏ. Đồng
nghĩa với điều đó là con người cũ kỹ, tha hoá dần đi. Sự chân thực của huyễn tưởng
đã nói lên thân phận của con người trong môi trường sống ngày càng khắc nghiệt,
quay cuồng bất trắc. Trong tập thơ, niềm bi quan về thân phận của cái tôi cá thể hiện
lên rõ nét và đặc sắc. Cái tôi hoàn toàn mất đi bản lĩnh tự tôn, cái tôi làm con người
mệt mỏi, rũ rượi, muốn chết, muốn bóp cổ mình để hoá giải, nhưng cái tôi cũng khát
khao hướng tới một sự sống trọn vẹn, tràn đầy.

Hôm sau nghĩa là còn chưa tới. Phải chăng tập thơ là dự cảm của tác
giả về một tương lai, thế giới mà ông nói đến trong thời kì hội nhập này?

14


CHƯƠNG 2

BIỂU HIỆN CÁI TÔI TRỮ TÌNH ĐA DIỆN
TRONG HÔM SAU CỦA MAI VĂN PHẤN
2.1. Tâm thế bất an trước cuộc đời
2.1.1. Hoài nghi các giá trị

Trong tập thơ Hôm sau của Mai Văn Phấn, những cảm xúc cá nhân, suy
tư nội tại được thể hiện thông qua những chiêm nghiệm của nhà thơ về cuộc
sống. Có thể thấy, hoài nghi là cảm giác xuyên suốt trong tập thơ Hôm sau mà
ở đó nhân vật trữ tình thể hiện cái nhìn, cảm xúc của mình về mọi thứ xung
quanh, về vạn vật, về con người … Trong các bài thơ Vẫn trấn tĩnh tiễn khách
ra ngõ, Kể lại giấc mơ, Không thể tin… sự hoài nghi các giá trị tự nhiên được
thể hiện sâu sắc qua góc nhìn của chủ thể trữ tình bằng những câu nghi vấn.

“Nhà mình
Mọi sự đảo lộn
Không nhớ bức chân dung hạ xuống bao giờ
Đâu rồi chiếc đồng hồ chạy bằng dây cót?
Bộ ấm chén giả cổ ai cho?”
(Vẫn trấn tĩnh tiễn khách ra ngõ)
Cuộc sống ngày càng phát triển, con người có nhiều thứ phải quan
tâm, từ đó khiến họ quên đi những điều nhỏ nhặt trong cuộc sống thường
nhật. Những thói quen hằng được ngày lặp lại khiến bản chất thật sự của
việc mà mà con người đã làm không còn nguyên giá trị. Chỉ khi con người
nhận ra mọi thứ xung quanh không còn nguyên vẹn thì họ mới nhận ra mọi
sự đảo lộn trong cuộc sống. Người ta “không nhớ bức chân dung hạ
xuống bao giờ” và bắt đầu hoài nghi về mọi thứ trong nhà: “Đâu rồi chiếc
đồng hồ chạy bằng dây cót?/ Bộ ấm chén giả cổ ai cho?”.
Dưới góc nhìn của nhân vật trữ tình, cuộc sống đã thay đổi. Mọi thứ không
còn nguyên vẹn như ban đầu. Mọi giá trị đều bị đổ vỡ. Và một hiện thực không thể
tin đang tồn tại. Trong sự hoài nghi của cá nhân, những con vật vốn được tạo hóa

15


ban sẵn sự sống bây giờ lại trở thành sản phẩm được “chế tác từ đồ phế

thải”. Sự hoài nghi của cái tôi như một lời phản biện với quan niệm thông
thường, những hình dung mới làm thay đổi ý niệm về những mặc định. Những
sinh thể tự nhiên “Con mèo”, “con cá”, “con chó”, “chim họa mi”, “đàn kiến”,
dưới góc nhìn của nhân vật trữ tình hoàn toàn có thể được sinh ra từ những
tác nhân khác, những thứ nhỏ nhặt nhất trong đời thường.

Không chỉ hoài nghi trong lúc tỉnh táo tri nhận, cái tôi còn hoài
nghi, mất niềm tin về cuộc đời trong trạng thái vô thức:
“Có người thấy tên tôi trong đống giấy phế liệu, hồ sơ ghi làm gián điệp những
hai mươi mang. Rõ ràng có kẻ đểu cáng đã cố tình viết thêm số 0 vào sau số

2. Làm gì ở miền quê hẻo lánh lúc đó có hai mươi thể chế? Miền quê là

cuộc đấu trí? Là trung tâm thông tin? Hay điểm nóng?”
(Kể lại giấc mơ)
Từ việc con số nêu khống từ hai lên hai mươi, cái tôi đặt câu hỏi “Làm gì
ở miền quê hẻo lánh lúc đó có hai mươi thể chế? Miền quê là cuộc đấu trí? Là
trung tâm thông tin? Hay điểm nóng?”. Câu hỏi như lời khẳng định chắc chắn
rằng cái tôi bị oan, thông tin trong những tờ giấy đó hoàn toàn sai sự thật.

Không chỉ mang tâm thế hoài nghi về những giá trị tự nhiên mà tập
thơ còn hoài nghi về các giá trị mang tính quy chuẩn, các tiêu chí đạo
đức của con người (Nếu, Cái miệng bất tử, Chuyện còn dài, Bài học…)
Cuộc sống đầy khó khăn, cạm bẫy và giả dối làm con người luôn lo lắng.
Ngay cả trong vô thức của nhân vật trữ tình, những câu hỏi luôn được đặt ra
cho thấy sự hoài nghi về cuộc sống càng lúc càng tăng lên. Sự an toàn, thân
thiện và tốt đẹp trong cuộc đời này dường như là không thể:

“Nếu đêm qua không có cơn mưa?
Nếu tôi không ngủ trên giường?

Nếu không phải khoảng cách ba mét bảy mươi lăm xăng-ti?”
(Nếu)

16


Trạng thái nghi ngờ với tất cả mọi thứ xung quanh mình khiến cái
tôi trở nên hoảng loạn:
“Tôi đặt vào cái miệng những ngữ âm
như gõ lên ô Search một website tìm kiếm
Kết quả làm tôi choáng ngợp
Tôi bị lạc vào ổ phục kích?
Là phần mềm bị nhiễm virus?
Hay hòn than vừa rơi xuống tảng băng?”
(Cái miệng bất tử)
Con người cảm thấy bất lực và không biết bản thân đang mong muốn tìm
kiếm điều gì. Bản thân sẽ lạc vào “ổ phục kích”, sẽ sa vào “phần mềm nhiễm
virus” trong máy tính hay “sẽ là hòn than rơi xuống tảng băng”. Sự hoài nghi
về những giá trị đạo đức, những quy chuẩn của xã hội có thể được coi như là
một phản xạ tự nhiên của tinh thần con người khi nhận thức bản chất giả dối
của những vấn đề đời sống. Cố gắng tìm kiếm một câu trả lời, chủ thể tự đặt
ra những câu hỏi trong sự hoài nghi về sự phi logic của cuộc sống:

“Con gián bò quanh tôi và nói
vừa đầu thai được ba tháng tuổi
kiếp trước từng là người đàng hoàng

Đàng hoàng sao chịu phận xẹp lép?
Tôi không tin và đu lên khung cửa
Thế nhân chứng đâu? Vật chứng đâu?”

(Chuyện còn dài)
Những giá trị quy chuẩn, đạo đức của xã hội đang bị nghi ngờ. Nghi ngờ sự
đàng hoàng của con gián thực chất chính là nghi ngờ bản chất thực sự của con
người, về những giá trị đạo đức và những quy chuẩn làm người trong xã hội đương
đại. Trong xã hội đầy rẫy sự dối trá, giả tạo… liệu “đàng hoàng” có còn tồn tại?

17


Chủ thể trữ tình dường như đã mất niềm tin vào cuộc sống thực tại,
vào những giá trị đạo đức đang bị tha hóa nghiêm trọng.
Sự hoài nghi về những giá trị đạo đức của chủ thể trữ tình còn
được Mai Văn Phấn thể hiện qua bài thơ Bài học:
“Cánh và khuỷu tay vẫn cứng
Từ cổ tay xuống đến ngón phải mềm
Đạo mạo múa tay trong bị
Tôi học bài này từ nhỏ
(Một lần bị khinh như mẻ
Thằng đạo mạo đạp mình xuống lề đường
Cạch đến già!)
….”
Ngay từ nhỏ, đứa trẻ đã nhận thức được sự dối trá ẩn lấp đằng sau dáng vẻ
đạo mạo của con người. Đó là bài học học kinh nghiệm được nhân vật “Tôi” rút ra
khi nhận thấy được sự thật về những quy chuẩn đạo đức đã không còn tồn tại. Bị
đối xử ghẻ lạnh, thân phận nhỏ bé không được tôn trọng từ đó sinh ra tâm thế
hoài nghi về sự tương giao trong mối quan hệ giữa con người với con người.

Tâm thế bất an trước cuộc đời còn được chủ thể trữ tình thể hiện
qua sự hoài nghi về các giá trị chân, thiện, mỹ trong cuộc sống:
“Vợ tôi bảo muốn chữa bệnh đau đầu

phải hồn nhiên như cây cỏ.

Về thôn quê thấy cỏ ngút ngàn
tôi giang tay nhờ gió lay lắt
giống các fan hâm mộ đưa theo nhịp bài hát.

Đung đưa một lúc cũng mỏi
18


càng thêm đau đầu trong nắng tháng sáu
bởi phải tưởng tượng ra mưa xuân
trời âm u và có gió nhẹ.”
(Sống hồn nhiên)
Không tin rằng muốn “chữa bệnh đau đầu” thì phải sống một cuộc sống tốt
đẹp, “hồn nhiên như cây cỏ”, chủ thể trữ tình tìm về thôn quê để thử trải nghiệm
và sống như lời “vợ” dặn, sống hòa mình vào thiên nhiên “giang tay nhờ gió lay
lắt”. Nhưng sự thật không như mong đợi, chủ thể “càng thêm đau đầu” vì trong
thời tiết oi bức “nắng tháng sáu” của mùa hạ “phải tưởng tượng ra mưa xuân”.
Một sự thật hiển nhiên cho thấy con người luôn suy nghĩ, đau khổ trong mọi hoàn
cảnh. Vì thế không thể sống “hồn nhiên” trong xã hội đương đại.
Trong tập thơ Hôm sau, chủ thể trữ tình mang một thế giới nội tâm phong phú,
trong đó cái tôi hoài nghi được Mai Văn Phấn tô đậm bằng nhiều góc nhìn khác nhau.
Một thế giới với sự thay đổi nhanh chóng, làm con người không còn nhận ra mọi thứ,
không thoát ra được những quy chuẩn của xã hội. Chính vì thế, cái tôi nghi ngờ đời
sống thực tại, cảm thấy không thể tin vào mọi thứ. Cái tôi vì thế, gần như hoàn toàn
mất đi bản lĩnh của mình, không nhận ra đâu là hư thực, ngờ vực tất cả mọi thứ hiện
hữu trong cuộc sống. Do sự nhạy cảm của cá nhân hay do cuộc sống có quá nhiều
thứ không chân thật khiến con người mất đi niềm tin?


2.1.2. Cô đơn trong cuộc sống
Trong bản chất, mỗi con nguời là một vũ trụ thu nhỏ, trong đó phản ánh
và tồn tại toàn bộ thế giới hiện thực. Trong chiều sâu của chính mình, con
người mới tìm thấy chiều sâu của thực tại cuộc sống, các tầng bí ẩn thầm kín
nhất. Và cô đơn là trạng thái luôn tồn tại trong con người trong thế giới hậu
hiện đại. Đầu tiên đó là nỗi cô đơn trong các mối quan hệ xã hội:

“Nhà thơ trú trong bóng râm
Từng con chữ bị khoét mất mắt.”
(Biến tấu con quạ)
Hình ảnh “Nhà thơ trú trong bóng râm” cho thấy sự yếu đuối, cô đơn và chơi
vơi của con người xã hội. Cái chết ẩn náu đâu đó trong những bóng râm, những

19


×