Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Nghiên cứu đề xuất các giải pháp đa lợi ích sử dụng bền vững các hồ nước, sông ngòi thuộc khu vực ngoại thành hà nội (phía nam và phía bắc sông hồng)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (863.56 KB, 28 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

BÁO CÁO TỔNG KẾT
KẾT QUẢ THỰC HIỆN ĐỀ TÀI KH&CN
CẤP ĐẠI HỌC QUỐC GIA

Tên đề tài: NGHIÊN CỨU ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP ĐA LỢI ÍCH SỬ DỤNG BỀN
VỮNG CÁC HỒ NƯỚC, SÔNG NGÒI THUỘC KHU VỰC NGOẠI THÀNH HÀ NỘI
(PHÍA NAM VÀ PHÍA BẮC SÔNG HỒNG)

Mã số đề tài: QGTĐ.12.05
Chủ nhiệm đề tài: PGS.TS. Đặng Văn Bào

Hà Nội, 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

BÁO CÁO TỔNG KẾT
KẾT QUẢ THỰC HIỆN ĐỀ TÀI KH&CN
CẤP ĐẠI HỌC QUỐC GIA
Tên đề tài: NGHIÊN CỨU ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP ĐA LỢI ÍCH SỬ DỤNG BỀN
VỮNG CÁC HỒ NƯỚC, SÔNG NGÒI THUỘC KHU VỰC NGOẠI THÀNH HÀ NỘI
(PHÍA NAM VÀ PHÍA BẮC SÔNG HỒNG)

Mã số đề tài: QGTĐ.12.05
Chủ nhiệm đề tài: PGS.TS. Đặng Văn Bào
CÁC CÁN BỘ THAM GIA

PGS.TS. Nguyễn Hiệu
PGS.TS. Tạ Hòa Phương


PGS.TS. Trần Ngọc Anh
PGS.TS. Lê Văn Thiện
TS. Nguyễn An Thịnh
TS. Trần Thanh Hà
TS. Vũ Kim Chi
NCS. Nguyễn Văn Thảo
ThS. Nguyễn Quang Anh
ThS. Đặng Kinh Bắc
ThS. Phan Thị Thanh Hải
ThS. Giang Tuấn Linh

Hà Nội - 2014


PHẦN I. THÔNG TIN CHUNG
1.1. Tên đề tài: Nghiên cứu đề xuất các giải pháp đa lợi ích sử dụng bền vững các hồ
nước, sông ngòi thuộc khu vực ngoại thành Hà Nội (phía Nam và phía Bắc sông Hồng)
1.2. Mã số: QGTĐ.12.05
1.3. Danh sách chủ nhiệm, thành viên tham gia thực hiện đề tài
TT

Chức danh, học vị, họ và tên

1

PGS.TS. Đặng Văn Bào

2

PGS.TS. Nguyễn Hiệu


3

PGS.TS. Tạ Hòa Phương

4

PGS.TS. Trần Ngọc Anh

5

PGS.TS. Lê Văn Thiện

6

TS. Vũ Kim Chi

7

TS. Nguyễn An Thịnh

8

TS. Trần Thanh Hà

9

ThS. Phan Thị Thanh Hải

10 ThS. Đặng Kinh Bắc

11 ThS. Giang Tuấn Linh
12 NCS. Nguyễn Văn Thảo

Đơn vị công tác
Khoa Địa lý, Trường
ĐH KHTN
Khoa Địa lý, Trường
ĐH KHTN
Khoa Địa chất,
Trường ĐH KHTN
Khoa KT-TV-HDH,
Trường ĐH KHTN
Khoa Môi trường,
Trường ĐH KHTN
Viện Việt Nam học và
KHPT
Khoa Địa lý, Trường
ĐH KHTN
Viện Việt Nam học và
KHPT
Trung tâm Nghiên cứu
đô thị, ĐHQGHN
Khoa Địa lý, Trường
ĐH KHTN
Trung tâm nông
nghiệp nhiệt đới quốc
tế
Viện Tài nguyên và
môi trường biển


Chức danh thực hiện
đề tài
Chủ trì đề tài
Thư ký đề tài
Thành viên tham gia
Thành viên tham gia
Thành viên tham gia
Thành viên tham gia
Thành viên tham gia
Thành viên tham gia
Thành viên tham gia
Thành viên tham gia
Thành viên tham gia
Thành viên tham gia

1.4. Đơn vị chủ trì: Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN
1.5. Thời gian thực hiện:
5.1 Theo hợp đồng: 24 tháng, từ tháng 10 năm 2012 đến tháng 10 năm 2014
5.2 Gia hạn (nếu có):

đến tháng….. năm…..

5.3 Thực hiện thực tế: 24 tháng, từ tháng 10

năm 2012 đến tháng 10 năm 2014

1.6. Những thay đổi so với thuyết minh ban đầu (nếu có):
Không thay đổi
1.7. Tổng kinh phí được phê duyệt của đề tài: 450 triệu đồng.
1



PHẦN II. TỔNG QUAN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Viết theo cấu trúc một bài báo khoa học tổng quan từ 6-15 trang (báo cáo này sẽ được đăng
trên tạp chí khoa học ĐHQGHN sau khi đề tài được nghiệm thu), nội dung gồm các phần:
1. Đặt vấn đề
Hồ nước và sông ngòi là những thực thể tự nhiên hoặc tự nhiên – nhân sinh, cũng là những
dạng tài nguyên quý giá bởi nó đem đến cho con người lợi ích từ nhiều mặt khác nhau. Các hồ
nước tạo cảnh quan môi trường, điều hòa không khí, phục vụ mục đích du lịch, thể thao dưới
nước, nghiên cứu khoa học và học tập; chứa và điều tiết nước; cung cấp nước sinh hoạt và sản
xuất; cung cấp nguồn lợi thủy sản.
Ngoài các hồ nước tự nhiên được hình thành do các hoạt động nội hoặc ngoại sinh, đặc biệt
là các hồ nước ở đồng bằng châu thổ do biến đổi dòng chảy, trong quá trình phát triển, con người
đã xây dựng nên nhiều công trình thủy điện, thủy lợi với các hồ nước có quy mô khác nhau. Các
hồ thủy lợi đóng vai trò hết sức quan trọng trong phát triển bền vững. Trong những năm trước
đây, tại nhiều nước trên thế giới và ở Việt Nam, các hồ thủy lợi được xây dựng chủ yếu phục vụ
tưới, tiêu cho các loại cây trồng. Tuy nhiên, đồng thời với sự phát triển kinh tế - xã hội và đặc biệt
là nhận thức và nhu cầu của con người, các hệ thống thủy lợi nói chung và hồ thủy lợi được xác
định là đa chức năng hay đa mục tiêu.
Là một thành phố sông nước, hệ thống sông hồ đóng vai trò hết sức quan trọng trong phát
triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường của thành phố Hà Nội. Tuy nhiên, đứng trước xu
hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa thì hàng loạt vấn đề đang đặt ra giữa kiến trúc đô thị và
môi trường. Hà Nội mở rộng và sẽ hiện đại hơn, nhưng sông hồ thì ngày càng bị san lấp, thu hẹp
và ô nhiễm hơn. Sau quyết định mở rộng địa giới hành chính của thủ đô Hà Nội về phía tây và
việc phê duyệt dự án “Quy hoạch chung xây dựng thủ đô Hà Nội đến năm 2030 và tầm nhìn đến
năm 2050”, hệ thống sông, hồ, đặc biệt là sông Đáy, sông Nhuệ, sông Cà Lồ,… trở thành những
dòng sông có vị trí và vai trò hết sức quan trọng của Hà Nội. Ngoài chức năng thoát lũ hiện nay,
chúng sẽ phải “gánh vác” những trọng trách mới cho sự phát triển phồn thịnh của thủ đô trong
tương lai, trở thành những trục cảnh quan, hành lang xanh, điều hoà không khí và môi trường của
thủ đô Hà Nội, hay tạo cảnh quan môi trường cho các đô thị sinh thái bên sông...v.v. Chính bởi

vậy, sự hiểu biết về những con sông và hồ nước này, đặc biệt về sự hình thành và phát triển của
chúng trong quá khứ cũng như hiện nay là hết sức cấp thiết.
Quá trình hình thành và phát triển của sông Hồng và các chi lưu của nó (sông Đáy, sông
Nhuệ, Cà Lồ, sông Đuống,…) đã diễn ra từ hàng nghìn năm. Trong suốt quá trình phát triển,
chúng đã tạo nên các đới biến động rộng lớn, đồng thời cũng để lại những dấu ấn của mình trên
địa hình, là các hồ móng ngựa, dải trũng hay các gờ cao ven lòng. Các dấu vết này, một phần còn
tồn tại cho đến ngày nay, còn phần lớn đã bị các hoạt động phát triển kinh tế, đặc biệt là quá trình
đô thị hoá, làm cho không còn nhận ra được nữa hay biến mất trên thực địa. Điều đáng lưu tâm là,
đi cùng với những di vết mà các con sông để lại tiềm ẩn những vấn đề liên quan tới các tầng đất
yếu hay các trục thoát lũ trên vùng đồng bằng…, có ảnh hưởng trực tiếp và quan trọng đến quá
trình quy hoạch và phát triển đô thị. Sự thiếu hiểu biết cũng như các hoạt động quy hoạch không
phù hợp với sự phân bố của các lòng sông cổ, cũng như đới biến động của chúng, có thể dẫn tới
những hậu quả đáng tiếc, như sụt lún nền móng công trình, gây ngập úng cục bộ.
Đã có một số công trình nghiên cứu liên quan với hệ thống sông hồ Hà Nội, nhưng phần lớn
chỉ là các công trình nghiên cứu đơn ngành, hoặc các công trình chỉnh trị cho từng khu vực (sông
Đáy, sông Nhuệ,…). Cũng cần nhận thức rằng cho tới nay, những hồ nước và các sông suối nhỏ ở
ngoại thành Hà Nội có mức độ ô nhiễm chưa cao; đã có sự đầu tư tôn tạo cảnh quan, môi trường,
2


song hầu hết còn mang tính nhỏ lẻ, thực hiện cho từng khu vực, từng hồ, từng sông suối. Trước
khi quá trình đô thị hóa làm biến đổi sâu sắc các sông hồ này, cần có công tác điều tra, nghiên cứu
đầy đủ, đồng bộ nhằm đưa ra những giải pháp tổng thể cho việc bảo vệ và phát triển một dạng tài
nguyên thiên nhiên có giá trị lớn lao này của Hà Nội.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, ĐHQGHN đã cho triển khai thực hiện đề tài
“Nghiên cứu đề xuất các giải pháp đa lợi ích sử dụng bền vững các hồ nước, sông ngòi thuộc khu
vực ngoại thành Hà Nội (phía Nam và phía Bắc sông Hồng)”. Các kết quả nghiên cứu của đề tài
sẽ góp phần tích cực cho công tác quy hoạch và xây dựng các phương án sử dụng bền vững hệ
thống sông hồ của thủ đô Hà Nội.
Về không gian nghiên cứu, theo tên đề tài chỉ giới hạn ở khu vực ngoại thành Hà Nội, song

lại tập trung ở phía Bắc và Nam sông Hồng. Đề tài sẽ giới hạn không gian nghiên cứu gồm các
huyện, thị ngoại thành ở Bắc và Nam sông Hồng như: Ba Vì, Sơn Tây, Phúc Thọ, Đan Phượng,
Từ Liêm, Thạch Thất, Quốc Oai, Hà Đông, Hoàng Mai, Mê Linh, Đông Anh. Cũng phải thấy rằng
các sông hồ ở nội thành cũng không nên tách khỏi phạm vi không gian, song đề tài sẽ không tập
trung nghiên cứu mà chỉ thu thập các kết quả nghiên cứu từ những đề tài khác.
2. Mục tiêu
- Xác định được đặc điểm hình thành và phân bố hệ thống hồ nước, sông ngòi khu vực ngoại
thành Hà Nội.
- Phân tích, đánh giá được hiện trạng và biến động (tự nhiên, tài nguyên, môi trường) các hồ
nước, sông ngòi khu vực ngoại thành Hà Nội.
- Đề xuất được các giải pháp đa lợi ích sử dụng bền vững các hồ nước, sông ngòi khu vực
ngoại thành Hà Nội.
3. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở các tiếp cận phát triển bền vững, tiếp cận tổng hợp và hệ thống, tiếp cận địa lý và
lịch sử, tiếp cận liên ngành, đa ngành, đề tài đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể
sau:
a. Phương pháp tổng hợp và phân tích tài liệu
Thu thập, hệ thống hoá, xử lý, phân tích, đánh giá các tài liệu, số liệu sẵn có từ các cơ
quan Trung ương và Hà Nội, Hà Tây (trước đây) theo định hướng các nội dung nghiên cứu. Bên
cạnh đó, đề tài sẽ kế thừa những vấn đề lý luận khoa học, quan điểm tiếp cận và kinh nghiệm thực
tiễn của các công trình khoa học, đề tài nghiên cứu đã thực hiện ở trên thế giói và trong nước, đặc
biệt chú ý tới các công trình liên quan đến địa bàn nghiên cứu.
b. Các phương pháp khảo sát và điều tra thực địa
Các phương pháp khảo sát và điều tra thực địa nhằm thu thập và bổ sung, cập nhật các số
liệu tại các khu vực, tuyến, điểm nghiên cứu được lựa chọn để xây dựng và hoàn thiện cơ sở dữ
liệu về đặc điểm điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, chất lượng môi trường và hiện trạng
phát triển kinh tế - xã hội…phục vụ các nội dung nghiên cứu của đề tài.
c. Các phương pháp địa lý, địa chất truyền thống
Để xác lập đầy đủ luận cứ cho việc đề xuất giải pháp sử dụng bền vững hệ thống sông hồ
Hà Nội, cần phải sử dụng đồng bộ các phương pháp địa lý – địa chất truyền thống, bao gồm cả

các phương pháp chuyên sâu thuộc các lĩnh vực địa mạo, địa chất, khí hậu, thủy văn,…

3


d. Phương pháp bản đồ, viễn thám và GIS
Bản đồ có khả năng thể hiện rõ và trực quan nhất những đặc trưng không gian của các đối
tượng nghiên cứu. Phương pháp Viễn thám và GIS có ý nghĩa đặc biệt đối với nghiên cứu biến
động lòng sông, cả biến động hiện đại và biến động trong quá khứ. Tuy nhiên, để vẽ lại được các
lòng sông cần phải có công tác kiểm tra kết hợp với những nghiên đồng bộ về địa chất, địa mạo.
Đ. Các phương pháp phỏng vấn, lịch sử và khảo cổ
Đây là phương pháp được sử dụng chính trong quá trình phân tích, đánh giá các dấu vết
của quá trình biến động lòng sông trên địa bàn thành phố Hà Nội, làm cơ sở cho việc luận giải quy
luật phân bố các lòng sông cổ, mối quan hệ của chúng với các di tích văn hóa, lịch sử, khảo cổ.
e. Phương pháp thống kê, xử lý, phân tích các tư liệu thống kê
Phương pháp này được thực hiện ở nhiều giai đoạn của đề tài. Thống kê là phương pháp
xử lý số liệu định lượng: thống kê qua các số liệu khảo sát, đo đạc ngoài thực địa; thống kê qua đo
đạc, tính toán trên bản đồ; xử lý thống kê các phiếu điều tra kinh tế hộ gia đình cũng như đánh giá
khả năng thích nghi sinh thái và phân tích hiệu quả kinh tế của từng loại hình sử dụng đất theo
mục tiêu của đề tài.Trong xử lý và phân tích các số liệu thống kê dân số, kinh tế xã hội của các
huyện, xã trong khu vực nghiên, đề tài dự kiến ứng dụng phầm mềm SPSS.
f. Phương pháp chuyên gia
Trong quá trình thực hiện, đề tài thường xuyên tổ chức các buổi xeminar nhằm trao đổi
các thông tin về lý luận cũng như thực tiễn với các chuyên gia giàu kinh nghiệm về lĩnh vực có
liên quan từ góc độ của các khoa học khác nhau. Các ý kiến góp ý của các chuyên gia góp phần
định hướng cách giải quyết vấn đề để đạt được mục tiêu đề và sản phẩm đề ra. Mặt khác, đề tài sẽ
tổ chức các buổi hội thảo tại các địa phương nhằm thu thập ý kiến đóng góp từ các nhà quản lý,
cộng đồng địa phương về thực tiễn khai thác, sử dụng tài nguyên và tính liên kết vùng trong phát
triển và bảo vệ môi trường.
4. TổNG KếT KếT QUả NGHIÊN CứU:

1. Quá trình hình thành và đặc điểm phân bố của hệ thống hồ nước, sông ngòi thành
phố Hà Nội
1.1. Các nhân tố ảnh hưởng tới quá trình hình thành và phát triển của hệ thống sông –
hồ Hà Nội
1.1.1. Cấu trúc địa chất
Các nghiên cứu lý thuyết và thực tế đều thống nhất đánh giá cấu trúc địa chất – tân kiến tạo
có ý nghĩa đặc biệt đối với sự định hướng các dòng chảy và hồ nước. Đá cổ nhất của Hà Nội là
các thành tạo biến chất thuộc phức hệ Núi Con Voi tuổi Proterozoi, phân bố thành dải từ Sơn Tây
đến Thạch Thất. Quá trình laterit hóa phát triển mạnh trên đá này tạo các tầng đá ong khá dày.
Các thành tạo tuổi Triat là thành phần chủ yếu cấu tạo nên các khối núi ở phía tây Hà Nội. Ba
khối núi được tạo nên bởi 3 kiểu trầm tích khác nhau: i) Khối núi Ba Vì được cấu tạo chủ yếu bởi
phun trào hệ tầng Viên Nam với vật chất phân dị từ bazơ đến axit, đặc biệt là các thành tạo phun
nổ với các lớp cuội kết còn được bảo tồn trên đỉnh núi Ba Vì; ii) Khối núi Sóc Sơn cấu tạo bởi các
trầm tích lục nguyên tuổi Triat giữa; iii) Các khối núi tạo nên cảnh quan độc đáo ở Hương Sơn
cấu tạo bởi đá vôi hệ tầng Đồng Giao. Trầm tích Miocen hệ tầng Phan Lương là vật chất chính
cấu tạo nên đáy hồ Suối Hai. Các thành tạo hạt thô như cuội sỏi thuộc hệ tầng Hà Nội tuổi
Pleistocen giữa – muộn cấu tạo nên các bậc thềm cao 20-30 khá phổ biến, chúng cũng tạo nên lớp
phủ ở đáy đồng bằng với độ sâu từ 20-50m, là tầng chứa nước ngầm quan trọng của đồng bằng Hà
4


Nội. Các thành tạo tuổi Pleistocen muộn – Holocen là trầm tích mềm bở, sông suối có thể xâm
thực dễ dàng và tạo nên các khúc uốn lòng sông và hồ móng ngựa.
1.1.2. Địa hình và quá trình địa mạo
Về khái quát, địa hình thành phố Hà Nội có hướng nghiêng từ bắc xuống nam và từ tây sang
đông, phù hợp với bề dày tăng dần của các thành tạo bở rời tuổi Đệ Tứ. Địa hình núi chiếm diện
tích nhỏ ở phía tây bắc, tây và tây nam thành phố. Địa hình đồng bằng phân bố ở phía đông, đông
nam. Chuyển tiếp giữa hai nhóm địa hình trên là bề mặt gò đồi trung du [1].
Phần cực bắc của thành phố thuộc phạm vi huyện Sóc Sơn phân bố các dải núi thấp, là phần
kéo dài về đông nam của hệ thống núi Tam Đảo. Dãy núi Sóc gồm nhiều ngọn nằm trên hai huyện

Mê Linh (Vĩnh Phúc) và Sóc Sơn, tạo thành ranh giới thiên nhiên giữa Hà Nội với các tỉnh Vĩnh
Phúc và Thái Nguyên. Theo chiều từ bắc xuống nam, có thể dễ dàng nhận thấy sự giảm độ cao
đáng kể từ các dải đồi núi thấp ở khu vực Sóc Sơn với địa hình bóc mòn chiếm ưu thế xuống khu
vực Phù Lỗ - Đông Anh với địa hình được hình thành bởi hoạt động tích tụ của sông và biển trong
Đệ Tứ. Các dải đồi núi cao 200 – 300m tại Sóc Sơn với sườn dốc trên 200, về phía nam được
chuyển tiếp nhanh xuống các đồi thoải ở độ cao 40 – 60m rồi đến bề mặt gò đồi thoải lượn sóng
với độ cao chỉ 12 – 20m. Điều đáng chú ý là dải gò đồi này đều có có dạng vòng cung với bán
kính cong rộng như ôm lấy vùng đồi núi Sóc Sơn. Qua sông Cà Lồ, dải gò đồi có độ cao tuyệt đối
khoảng 8 – 15m, song mức độ phân cắt lại lớn hơn.
Phần cực tây – tây bắc của thủ đô Hà Nội là khối núi Ba Vì, nơi có 3 đỉnh cao trên 1100m,
trong đó đỉnh Tản Viên cao 1287m. Núi được cấu tạo bởi tập hợp đá phức tạp, song chủ yếu là đá
phun trào từ bazơ đến axit tuổi Triat. Phía nam – đông nam Ba Vì là dãy núi Viên Nam cũng được
cấu tạo bởi đá trầm tích phun trào với đỉnh cao 1031m, là ranh giới tự nhiên của Hà Nội với tỉnh
Hòa Bình. Đó cũng là đường chia nước thuộc lưu vực hệ thống sông Tích – sông Đáy và sông Đà.
Phía tây nam của Hà Nội phân bố các khối núi đá vôi với địa hình karst đặc trưng trên trầm
tích carbonat hệ tầng Đồng Giao. Hệ thống hang động và thung lũng karst đã tạo cho nơi đây một
điểm du lịch sinh thái – tâm linh đặc sắc.
Khu vực chuyển tiếp giữa vùng đồi núi xuống đồng bằng phân bố khá địa hình đồi và đồng
bằng dạng gò đồi thoải khá đặc biệt. Đó là đồng bằng aluvi - proluvi cổ rất đặc trưng, phân bố ở
khu vực Sóc Sơn, Hòa Lạc, Xuân Mai – Miếu Môn. Đồng bằng aluvi – proluvi Hoà Lạc có dạng
địa hình quạt, đường đáy dài 6 – 8 km, đường cao 4 – 5km. Độ cao tuyệt đối của địa hình giảm
dần từ 25 -28m ở tây nam đến 12- 13m ở phía đông bắc. Trên bề mặt này quá trình phong hóa
laterit rất phát triển, tạo tầng đá ong dày, khá rắn chắc.
Địa hình đồng bằng chiếm diện tích lớn nhất của thành phố Hà Nội, phân bố ở các huyện
Hoài Đức, Quốc Oai, Từ Liêm, Thanh Trì, Gia Lâm, các quận nội thành và ở huyện Đông Anh.
Độ cao của bề mặt địa hình này đạt từ 4-5 đến 8-10 mét so với mực nước biển hiện nay. Nhìn đại
thể, địa hình đồng bằng tương đối bằng phẳng, trên đó phân bố các dải trũng có nước thường
xuyên (sông, hồ) hoặc trong mùa mưa, nhiều dải trũng nguyên là dấu vết các lòng sông cổ. Nằm
bên cạnh các dải trũng thường là các dải đất cao dạng con trạch, nơi cư trú của người dân lâu đời
nhất của vùng đất này. Đó chính là các gờ cao ven lòng sông, một trong các dấu hiệu để nhận

dạng các lòng sông cổ. Bề mặt địa hình đồng bằng hiện nay bị chia cắt mạnh bởi các hệ thống
sông, kênh mương và đê đập. So với trước đây, hiện nay bề mặt địa hình đồng bằng của Hà Nội
đã bị biến đổi rất nhiều do tác động của con người. Quá trình địa mạo chiếm ưu thế hiện nay là
rửa trôi bề mặt, xói lở bờ, tích tụ do sông dưới tác động của cả các nhân tố địa mạo tự nhiên và lẫn
hoạt động của con người.
5


1.1.3. Điều kiện khí hậu
a. Cổ khí hậu: Bề mặt địa hình và hệ thống sông hồ tại đồng bằng Hà Nội được hình thành
và biến đổi liên quan chặt chẽ với những đợt biển tiến – biển lùi xen kẽ và chúng chính là kết quả
của biến đổi khí hậu trong quá khứ thông qua những chu kỳ băng hà – gian băng. Vào thời kỳ
băng hà, mực nước đại dương thế giới bị hạ thấp, tức là hạ thấp mực cơ sở xâm thực của các con
sông đổ ra đại dương, vì thế hoạt động xâm thực sâu của các con sông được tăng cường mạnh mẽ,
dẫn tới sự chia cắt bề mặt địa hình. Các máng xói đào khoét, cải tạo lại các dải đất thấp tự nhiên
của các thềm sông bậc I tại Mê Linh, Đông Anh được hình thành. Trái lại, vào thời kỳ gian băng,
mực nước biển dâng cao làm xuất hiện các biển ven lục địa, các vũng vịnh và những vùng lục địa
hay các đảo bị phân rời. Biển tiến cực đại Holocen giữa đã biến đồng bằng Hà Nội thành các vịnh
và đầm lầy cổ, với biểu hiện là các tầng than bùn ở Đông Anh, Cầu Giấy và các tầng sét mịn dẻo
thuộc hệ tầng Hải Hưng. Sau biển tiến cực đại, khoảng 3-4 nghìn năm trước bắt đầu giai đoạn
aluvi là giai đoạn cuối cùng của chu kì phát triển đồng bằng châu thổ. Hoạt động uốn khúc lòng
sông trên nền vật chất bở rời đã tạo điều kiện hình thành nhiều hồ móng ngựa.
b. Khí hậu hiện đại: Khí hậu Hà Nội tiêu biểu cho vùng Bắc Bộ với đặc điểm của khí hậu
nhiệt đới ẩm gió mùa, mùa hè nóng, mưa nhiều và mùa đông lạnh, ít mưa. Thuộc vùng nhiệt đới,
thành phố quanh nǎm tiếp nhận lượng bức xạ Mặt Trời rất dồi dào và có nhiệt độ cao. Do tác động
của biển, Hà Nội có độ ẩm và lượng mưa khá lớn, trung bình 114 ngày mưa một năm. Một đặc
điểm rõ nét của khí hậu Hà Nội là sự thay đổi và khác biệt của hai mùa nóng, lạnh. Mùa nóng kéo
dài từ tháng 5 tới tháng 9, kèm theo mưa nhiều, nhiệt độ trung bình 29,2 ºC. Từ tháng 11 tới tháng
3 năm sau là khí hậu của mùa đông với nhiệt độ trung bình 15,2 ºC. Cùng với hai thời kỳ chuyển
tiếp vào tháng 4 và tháng 10, thành phố có đủ bốn mùa xuân, hạ, thu và đông.

1.1.4. Các hoạt động nhân sinh
Một trong những tác động lớn nhất của con người ở vùng đất Hà Nội là việc đắp đê và xây
dựng thành lũy. Các tác động của con người đến tự nhiên ở vùng Hà Nội thấy rõ nét nhất là từ sau
Công nguyên đến nay. Đó là việc xây dựng thành Cổ Loa, Đại La, cải tạo vùng đất thấp ở đồng
bằng và Thiên niên kỷ thứ nhất sau Công nguyên. Công việc tu bổ hệ thống đê cũ và đắp các đê
mới đồng thời đào kênh dẫn nước được đặc biệt quan tâm từ sau khi hòa bình lập lại (1954). Có
thể nói, hệ thống đê điều ở Hà Nội nói riêng và đồng bằng Bắc Bộ nói chung là một công trình
mang tính văn hóa-nhân văn rất lớn thể hiện tinh thần mở nước và giữ nước của dân tộc ta.
Phân tích hệ thống đê ở Hà Nội có thể nhận thấy rằng việc đắp đê sông Hồng là quyết định
đúng đắn, song dưới khía cạnh địa chất – địa mạo thì công trình này đã là sự can thiệp lớn vào tự
nhiên. Các con đê gần như bị cắt đứt liên hệ của các hồ móng ngựa và thậm chí cả một số sông
như sông Đáy, sông Nhuệ, sông Tô Lịch với chính con sông từng tạo ra và nuôi dưỡng nó. Dòng
nước chứa nhiều phù sa của sông Hồng không còn tràn vào đồng bằng mà bị nhốt giữa hai thân
đê. Do vậy đáy sông không ngừng bị nâng cao, nhiều doi cát giữa dòng và bãi bồi được hình
thành, đặc biệt trong đoạn từ Sơn Tây đến Nam Định. Từng phần đáy sông và bề mặt các doi cát ở
nhiều nơi đã cao hơn mặt ruộng trong đê. Đó là nguyên nhân khiến cho từ đời này qua đời khác
các con đê cứ phải được tôn tạo, đắp cao lên mãi [2].
Một trong các tác động mạnh của con người tới biến đổi các dòng sông đáng kể nữa là việc
xây dựng hệ thống thủy lợi và chống lũ. Đập Đáy (đập Phùng), cống Liên Mạc đã tác động lớn tới
đặc trưng thủy văn và môi trường của sông Đáy, sông Nhuệ.
1.2. Phân loại hệ thống sông – hồ và đất ngập nước khác ở thành phố Hà Nội
Có nhiều cách phân loại hồ nước và sông ngòi, tuy nhiên cách phân loại trên cơ sở nguồn
gốc là khoa học nhất. Việc phân chia các hồ nước, sông ngòi theo nguồn gốc không những để hiểu
6


được lịch sử hình thành, quá trình phát triển mà còn là cơ sở để đánh giá một cách đúng đắn nhất
về điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên của hồ nước, sông ngòi, cũng như là cơ sở cho dự
báo xu hướng biến đổi chúng.
Hiện nay, theo thống kê chưa đầy đủ Hà Nội có trên 110 hồ với tổng diện tích mặt nước

khoảng 2180 ha. Việc xác định và phân loại các hồ nước thành phố Hà Nội được thực hiện trên cơ
sở phân tích ảnh viễn thám, các tư liệu lịch sử và khảo sát thực địa kiểm tra [3]. Trên cơ sở phân
tích đặc điểm hình thành và phát triển, hệ thống hồ đầm Hà Nội được phân theo hai nhóm: hồ tự
nhiên và hồ nhân tạo (Hình 2).
Nhóm hồ tự nhiên được hình thành chủ yếu bởi quá trình biến động lòng sông và trên nền
tự nhiên đó, con người đã có những tác động vào các vùng đất vốn thấp trũng, gồm: 1) Hồ do biến
động lòng sông là các hồ được hình thành do quá trình uốn khúc của dòng sông. Sông Hồng và
các chi lưu khi chảy trên đồng bằng do vẫn có năng lượng lớn, song do độ dốc địa hình nhỏ, vật
chất cấu tạo đồng bằng chủ yếu là mềm bở bên uốn khúc mạnh. Trên các đai uốn khúc hình thành
nhiều hồ móng ngựa. Bằng phân tích địa chất, địa mạo đã xác định được ba thế hệ lòng sông cổ và
tương ứng với chúng là ba thế hệ hồ móng ngựa: i) Các hồ được hình thành trên các lòng sông cổ
tuổi Pleistocen (hồ phân bố ở Đông Anh, Mê Linh, điển hình nhất là đầm Vân Trì); ii) Các hồ
hình thành trên các lòng sông cổ thuộc giai đoạn Holocen sớm – giữa (phân bố ở phía đông Thạch
Thất); iii) Các hồ móng ngựa được hình thành vào giai đoạn Holocen muộn (điểm hình là hồ Tây,
hồ Yên Sở,…). 2) Các vùng đất ngập nước theo mùa: Vùng trũng Chương Mỹ - Ứng Hòa đã được
nhắc tới trong nhiều công trình. Đó là các bề mặt đồng bằng khá phẳng, phân bố ở trung tâm bãi
bồi tuổi Holocen, được hình thành do sự thiếu hụt trầm tích. Việc ngập nước trong thời gian khá
dài mùa mưa cũng là cơ hội cho khai thác chúng vào mục đích phát triển các cây trồng, vật nuôi
ngắn ngày ưa nước [4].
Thuộc nhóm hồ tự nhiên – nhân sinh khá phổ biến, cả trên vùng gò đồi và đồng bằng của
thành phố Hà Nội, gồm ba kiểu hồ sau: 1. Hồ do đắp đập chắn trên vùng gò đồi: Đó là các hồ đã
được xây dựng từ lâu, ban đầu chủ yếu nhằm mục đích thủy lợi. Sự phát triển kinh tế - xã hội với
nhu cầu ngày càng cao của con người, đặc biệt là nhu cầu vui chơi, giải trí, các hồ thủy lợi dần
được thay thế chức năng chính là du lịch. Điển hình cho nhóm hồ này là hồ Suối Hai, hồ Đồng
Mô,… 2. Hồ do đắp đập chắn và sụt lún karst: Một trong những đặc trưng cơ bản của vùng karst
là các dạng địa hình âm được hình thành do quá trình rửa lũa, hòa tan đá vôi và có thể do quá trình
sụp đổ các hang động karst nguyên là các hang sông. Các hồ nước ở phần rìa khối karst Hương
Sơn là những dải đất trũng, chỉ cao hơn mực nước biển 0,5-1m, tạo địa hình âm trên nền đồng
bằng cao 3-6m. Việc đắp các đập chứa nước ở đây ban đầu cũng chỉ với mục đích thủy lợi. Hiện
nay hồ Quan Sơn thuộc huyện Mỹ Đức đã trở thành điểm tham quan du lịch hấp dẫn. 3. Trên

vùng đồng bằng thấp trũng còn phân bố các hồ do đào đất hạ độ cao. Có hai mục tiêu chính để
đào, tạo nên hai kiểu hồ: i) đầm, hồ, ao do đào và đắp bờ phục vụ nuôi trồng thủy sản, chúng có
độ sâu không lớn; ii) hồ do khai thác khoáng sản, chủ yếu là khai thác đất sét làm gạch ngói, tạo
nên những hồ có đáy sâu trên 10m, điển hình là các hồ ở khu vực Canh [5].
2. Đặc điểm tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, môi trường và thực trạng khai thác, sử dụng,
quản lý hệ thống hồ nước, sông ngòi thành phố Hà Nội
2.1. Hệ thống sông chính ở Hà Nội
1. Sông Hồng: là dòng sông lớn nhất ở Miền Bắc và đứng thứ 2 ở Việt Nam (sau sông Mê
Kông). Sông bắt nguồn từ những đỉnh núi cao của dãy Ai Lao San (tỉnh Vân Nam, Trung Quốc).
Diện tích toàn lưu vực khoảng 143.700 km2 (trong đó phần thuộc lãnh thổ Việt Nam là 61.400
km2) với chiều dài là 1.126 km (phần thuộc Việt Nam là 556 km). Đến khu vực Việt Trì, sông
Hồng nhận thêm các phụ lưu là sông Đà và sông Lô, trong đó lượng nước từ sông Đà chiếm tới
7


gần một nửa. Sông Hồng chảy vào địa phận Hà Nội ở huyện Ba Vì và ra khỏi Hà Nội ở huyện
Phú Xuyên với chiều dài khoảng 130 km. Chiều rộng chỗ hẹp nhất tính đến hai bờ đê là 1.500m,
chỗ rộng nhất là 4.600m. Hệ số uốn khúc khá lớn, đến 1,56. Đoạn sông chảy qua thủ đô Hà Nội,
ngoài các tác động thường xuyên và mạnh mẽ của con người (đê, kè, cầu, phà, v.v.), nó cũng là
đoạn phân lưu cho các sông thuộc phạm vi thành phố là Sông Đuống, Sông Nhuệ và trước đó là
Sông Đáy. Chế độ thủy văn của hệ thống sông ở Hà Nội, điển hình là sông Hồng hoàn toàn phụ
thuộc theo mùa: mùa lũ và mùa cạn. Mùa lũ xảy ra từ tháng VI đến tháng X, mùa cạn kéo dài từ
tháng XI đến tháng V năm sau. Sông Hồng có lưu lượng nước lớn nhất ở Việt Nam. Giá trị lưu
lượng trung bình khoảng 3.800 m3/s, 122x109 m3/năm tại trạm thủy văn Sơn Tây. Lưu lượng cực
đại có thể đạt tới 38,560 m3/s (tháng 8/1971). Khoảng 75-80% lưu lượng trung bình năm xảy ra
vào mùa mưa (từ tháng 6 đến tháng 10 hàng năm) và chỉ 20-25% xảy ra vào mùa khô (từ tháng 11
đến tháng 5 năm sau).
2. Sông Đuống: Một trong các chi lưu lớn của sông Hồng hiện tại là sông Đuống (trước đây
gọi là sông Thiên Đức). Sông bắt đầu từ khu vực thôn Xuân Trạch, xã Xuân Canh, huyện Đông
Anh, còn phía bên kia là thôn Bắc Cầu, xã Ngọc Thụy, huyện Gia Lâm. Ở đoạn đầu (khoảng trên

4 km), sông Đuống chảy theo hướng đông nam và tạo với dòng chính sông Hồng một góc nhọn
phù hợp với quy luật phân nhánh của sông. Sông Đuống vừa là tuyến giao thông đường thủy ra
vùng biển đông bắc, vừa là hành lang thoát lũ của sông Hồng. Có khoảng 23% nước từ sông Hồng
được chuyển qua sông Đuống. Trong lịch sử đã có ít nhất 3 lần nạo vét sông Đuống ở đọan từ
sông Hồng đến cầu Đuống và các năm 1515, 1729 (thời Lê) và 1860 (thời Nguyễn).
3. Sông Đà: còn gọi là sông Bờ hay Đà Giang là phụ lưu lớn nhất của sông Hồng. Sông bắt
nguồn từ tỉnh Vân Nam, Trung Quốc chảy theo hướng tây bắc – đông nam để rồi nhập với sông
Hồng ở Phú Thọ. Sông Đà dài 910 km (có tài liệu ghi 983 km), diện tích lưu vực là 52.900 km².
Đoạn ở Việt Nam dài 527 km. Điểm đầu là biên giới Việt Nam-Trung Quốc tại huyện Mường Tè
(Lai Châu). Sông có lưu lượng nước lớn, cung cấp gần 50% lượng nước cho sông Hồng và là một
nguồn tài nguyên thủy điện lớn cho ngành công nghiệp điện Việt Nam. Một trong những tác động
lớn nhất của con người đối với sông Đà là xây dựng các nhà máy thủy điện. Kể từ 1987 công trình
hồ thủy điện đi vào hoạt động , khu vực hạ lưu đập thủy điện có sự biến động hết sức phức tạp
theo không gian và thời gian . Quá trình biến động theo chiều ngang vẫn tiế p diễn mă ̣c dù hai bên
bờ sông nhiề u đoa ̣n đã được xây kè bảo vê ̣ , còn lòng sông biến đổi theo chiều sâu diễn ra cũng
khá phức tạp.
4. Sông Tích: bắt nguồn từ sườn phía Đông Bắc núi Ba Vì đổ xuống giữa hai xã Cẩm Lĩnh
và Thụy An mà trong sự tích Sơn Tinh – Thủy Tinh gọi là mười sáu cửa của Đầm Đượng, đoạn
sông này còn được là là sông Đầm Long. Sông Tích chảy xuôi về ngã ba Ba Thá và đổ vào sông
Đáy. Bên hữu ngạn sông Tích có rất nhiều suối nhỏ từ núi Ba Vì, Viên Nam đổ xuống như Bến
Tam, Cầu Tân, Sông Hang, sông Giếng, suối Vai Ca…; bên tả ngạn có sông Cửu Khê từ đầm làng
Phương Khê chảy vào. Lòng sông Tích nhiều đá ngầm và bãi cạn.
5. Sông Đáy: dài khoảng 250 km, với lưu vực (cùng với phụ lưu sông Nhuệ) hơn 7.500 km²
trên địa bàn các tỉnh thành Hà Nội, Hòa Bình, Hà Nam, Ninh Bình và Nam Định. Là một phân lưu
của sông Hồng, sông Đáy nhận nước của sông Hồng ở địa phận Hà Nội giữa huyện Phúc Thọ và
huyện Đan Phượng. Quãng sông này còn có tên là sông Hát hay Hát Giang. Xuôi đến Vân Đình,
sau khi nhận nước từ sông Tích thì lòng sông rộng ra. Đến địa phận huyện Mỹ Đức, sông Đáy
tiếp nhận dòng suối Yến (thủy lộ vào chùa Hương). Việc người Pháp đắp đập Phùng đã tác động
mạnh tới dòng chảy và môi trường sông Đáy. Kể từ năm 1937, khi được xây dựng xong cho đến
1954, đập Đáy mới vận hành ba lần vào các năm 1940, 1945, 1947. Khi đập Đáy không làm việc

thì mực nước và lưu lượng trong đoạn sông từ Tân Lang trở lên phụ thuộc hoàn toàn vào lượng
8


nước mưa và nước tiêu trong lưu vực. Từ sau năm 1971 đến nay, mặc dù chưa phải phân lũ nhưng
do có nhiều công trình tiêu úng trực tiếp vào sông nên mực nước về mùa lũ tăng lên rất cao. Hiện
nay sông Đáy vẫn là nguồn chính cấp cho nhiều sản xuất tập trung hai bên bờ sông.
6. Sông Nhuệ: cũng là một chi lưu của sông Hồng và cũng có vai trò nhất định trong việc
thoát lũ khi mùa mưa tới. Vị trí sông Nhuệ tách ra từ sông Hồng ở khu vực xã Liên Mạc, huyện
Từ Liêm. Hiện nay, ở đây cũng đã xây dựng hệ thống cống như cống Liên Mạc, vừa phục vụ tưới
tiêu, đồng thời giúp cho việc tiêu thoát lũ vào mùa mưa. Trong địa phận Hà Nội, sông này chảy
qua 3 quận huyện là quận Bắc Từ Liêm, quận Nam Từ Liêm và Thanh Trì (ở phần phía tây
huyện). Sau khi qua Từ Liêm và trước lúc vào Thanh Trì, sông có một đoạn sông chảy qua quận
Hà Đông nhưng sông chảy theo hướng nam là chính.
7. Sông Tô Lịch: gồm các phân lưu: Kim Ngưu, sông Lừ và sông Sét, trong đó sông Tô Lịch
dài 13,346km từ cống Bưởi đến đập Thanh Liệt; sông Kim Ngưu dài 11,87 km từ Lò Đúc đến gần
cầu Văn Điển; sông Sét dài 5,806 km; sông Lừ dài khoảng 5,242km với tổng chiều dài gần 40km.
Sông Tô Lịch ngày nay bắt đầu từ phường Nghĩa Đô thuộc quận Cầu Giấy (phía nam đường
Hoàng Quốc Việt), chảy cùng hướng với đường Bưởi, đường Láng và đường Kim Giang về phía
nam, tây nam rồi ngoặt sang phía đông nam và đổ ra sông Nhuệ ở đối diện làng Hữu Từ thuộc xã
Hữu Hòa, Thanh Trì. Đây là con sông dài nhất thành phố và cũng là trục chính thoát nước cho khu
vực phía tây thành phố Hà Nội, tiếp nhận lượng nước thải 150.000m3/ ngày đêm. Xưa kia khi
nhắc tới sông Tô Lịch người ta nghĩ ngay đến hình ảnh con sông hiền hoà, sạch sẽ, mát mẻ, là nơi
mà vua chúa thường du ngoạn để thư giãn giải trí. Nhưng giờ đây Sông Tô Lịch là nơi tiếp nhận
chính nước mưa và đủ loại nước thải chưa qua xử lý của thành phố (nước thải sinh hoạt, nước thải
bệnh viện, thậm chí cả nước thải công nghiệp...) khiến dòng chính Tô Lịch cũng như các phân lưu
của nó ngày càng ô nhiễm, màu nước đen. Điều này làm ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân
sống xung quanh và môi trường của thành phố. Hiện nay, sông Tô Lịch đã được kè 2 bên bờ,
được duy trì vớt rác trên sông, tuy nhiên mức độ ô nhiễm vẫn cao.
8. Sông Cà Lồ (còn gọi là sông Phủ Lỗ): là một chi lưu của sông Cầu, hợp lưu với sông Cầu

tại ngã ba Xá, xã Tam Giang, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh, cách không xa chỗ sông Công
hợp lưu vào sông Cầu. Trước đây sông Cà Lồ đã từng nối với sông Hồng, tuy nhiên đoạn đầu
nguồn của Cà Lồ (chỗ phân lưu khỏi sông Hồng) đã bị bịt vào đầu thế kỷ 20, nên sông Cà Lồ hiện
nay không còn nối với sông Hồng. Đầu nguồn sông Cà Lồ hiện nay ở huyện Mê Linh (Hà Nội) và
nguồn nước của sông chủ yếu là từ các dòng suối từ dãy núi Tam Đảo. Do điều kiện địa hình, tân
kiến tạo, thủy văn và cấu tạo vật chất, tại phần hạ lưu, sông Cà Lồ uốn khúc mạnh, tạo nêu nhiều
hồ móng ngựa đặc trưng.
2.2. Khái quát hệ thống hồ ở Hà Nội
Có sự khác biệt đáng kể của điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, môi trường và việc
quản lý, khai thác sử dụng các hồ nước ở nội và ngoại thành Hà Nội.
Các hồ nước ở nội thành Hà Nội hầu hết là các hồ tự nhiên do biến đổi lòng sông. Các hồ
đã hình thành từ nghìn đời nay, đã khá ổn định đến thế kỷ 19, song dưới tác động của quá trình đô
thị hóa, chúng bị thay đổi đáng kể, cả về diện tích và cảnh quan, cả về tài nguyên và chất lượng
môi trường. Đa số các hồ đều bị ô nhiễm bởi nước thải và trầm tích, với độ sâu bùn khoảng 0,5 –
1,5 m. Hiện nay, lưu lượng nước thải chảy vào đã vượt quá khả năng tự làm sạch của đa số các
hồ. Ô nhiễm và phú dưỡng dẫn đến sự suy thoái chất lượng nước, thiếu oxy và làm tăng trầm tích
trong hồ. Theo chương trình quan trắc hàng năm của Sở Tài nguyên và Môi trường Hà Nội, bắt
đầu từ năm 2006 đến 2008 cho thấy: nhìn chung chất lượng nước các hồ vào mùa khô ô nhiễm
hơn mùa mưa do mùa khô ít mưa, lượng nước trong hồ cạn, nhìn chung chất lượng nước năm
2008 được cải thiện hơn so với năm 2007, 2006. Các hồ đều có hiện tượng bị phú dưỡng, trong hồ
9


có rất nhiều tảo xanh (đặc biệt là hồ Ba Mẫu), các hồ gần khu vực dân cư như hồ Đống Đa, hồ
Giảng Võ, hồ Thành Công, hồ Thanh Nhàn. Số lượng coliform rất lớn vượt tiêu chuẩn cho phép
(QCVN 08:2008/BTNMT cột B) từ 100 đến trên 200 lần, vào mùa khô có thể vượt tới 715 lần (hồ
Đống Đa năm 2006);1750 lần (hồ Giảng Võ 2006); 2330 lần ( hồ Khương Trung 2006)...
Chất lượng nước mặt các hồ khu vực ngoại thành Hà Nội nhìn chung còn tương đối sạch
hơn, song một số chỉ tiêu cũng cần chú ý, tại các vị trí quan trắc trong cùng một hồ ít có sự đột
biến về giá trị của các thông số quan trắc giữa mùa mưa và mùa khô. Độ pH: Nước các hồ dao

động từ 6-8,5, tại các vị trí đa số có xu thế ngả sang kiềm yếu với độ pH dao động từ 7,0-8,5. Các
hợp chất dinh dưỡng: i) Hàm lượng NH4+ tại các vị trí quan trắc tương đối thấp, hầu hết là nằm
trong giới hạn quy chuẩn cho phép, dao động từ 0,082-0,717mg/L. Tại hồ Tân Xã vào mùa mưa
hàm lượng amoni là 0,717mg/L vượt giới hạn quy chuẩn cho phép 1,4 lần; ii) Hàm lượng NO3- tại
các vị trí quan trắc tương đối thấp, đều nằm trong giới hạn quy chuẩn cho phép, dao động từ 1,33,1 mg/L; iii) Hàm lượng NO2- tại các vị trí quan trắc tương đối thấp, đều nằm trong giới hạn quy
chuẩn cho phép, dao động từ 0,004-0,038 mg/L; iv) Hàm lượng PO43- tại các vị trí quan trắc rất
thấp, đều nằm trong giới hạn quy chuẩn cho phép, dao động từ 0,07-1,31mg/L. Các thông số bị
ảnh hưởng bởi hợp chất hữu cơ như oxy hòa tan (DO), BOD5, COD: Vào mùa mưa hàm lượng
COD và BOD5 đều nằm trong giới hạn quy chuẩn cho phép và vượt giới hạn quy chuẩn cho phép
ở mùa khô. Diễn biến hàm lượng COD và BOD5 giữa mùa khô và mùa mưa cho thấy các nguồn
thải ra các sông ổn định và hàm lượng thay đổi là do nước hồ bị pha loãng bởi nước mưa. Các kim
loại nặng trong nước: Nhìn chung hàm lượng của các kim loại nặng trong nước rất thấp, chỉ Fe là
vượt giới hạn quy chuẩn cho phép tại một số vị trí quan trắc. Các chất khác: Hàm lượng dầu mỡ
tại các hồ dao động từ <0,02-2 mg/L, trong đó hàm lượng dầu mỡ cao nhất và vượt giới hạn quy
chuẩn cho phép là hồ Mèo Gù (vượt 20,2 lần), hồ Tân Xã (vượt 20 lần), hồ Suối Hai. Hàm lượng
coliform chỉ có tại hồ Quan Sơn là vượt giới hạn quy chuẩn cho phép, vượt 3,2 lần, các hồ khác
đều nằm trong giới hạn quy chuẩn cho phép [6].
3. Đặc điểm biến động của hệ thống hồ nước, sông ngòi khu vực thành phố Hà Nội
Việc sử dụng ảnh đa thời gian giúp phát hiện các đối tượng không biến động, ít biến động
hoặc hoặc biến động mạnh trong một khoảng thời gian dài. Các ảnh vệ tinh Landsat được sử dụng
gồm các thế hệ ảnh được chụp ở 8 năm (từ 1989 – 2009) khác nhau vào mùa khô hoặc mùa mưa.
Việc sử dụng ảnh viễn thám đa thời gian còn giúp xác định được sự biến động của các lòng hồ,
dải trũng theo thời gian. Nhờ đó có thể xác định được những tác động của chính sách phát triển,
quy hoạch đô thị của Hà Nội qua nhiều thời kỳ. Đặc biệt, với sự quy hoạch và phát triển của thủ
đô Hà Nội, hiện tượng san lấp mặt hồ, dải trũng để xây nhà đang diễn ra nhanh chóng trong vòng
20 năm qua.
Việc tích hợp dữ liệu còn cho phép phân tích và tính toán được sự biến động của các vùng
trũng, trong đó có các hệ thống ao, hồ theo thời gian. Hiện tượng này diễn ra hoặc do sự thay đổi
về mực ngập ở các năm khác nhau do đặc tính địa hình, hoặc do tác dụng của nhân sinh với quá
trình đô thị hóa, việc san lấp lòng hoặc do quá trình khai thông lòng chảy, đào kênh mương mới.

Dữ liệu thu thập để đưa vào tính toán bao gồm cả ảnh mùa mưa và ảnh mùa khô sẽ giúp xác định
các ngưỡng ngập trong từng thời đoạn. Diện ngập của các đối tượng trong ảnh mùa khô sẽ bé hơn
nhiều so với diện ngập vào mùa mưa.
Bên cạnh đó, dữ liệu phân tích biến động sông hồ còn liên quan đáng kể tới sự thay đổi sử
dụng đất, liên quan với các thời kỳ mở rộng, thu hẹp ranh giới thủ đô Hà Nội trong 30 năm qua.
Điều dễ nhận thấy là quá trình đô thị hóa trong những năm qua đã khiến diện tích mặt nước nói
chung và lòng hồ ngày càng thu hẹp [7].
10


Các kết quả phân tích biến động hệ thống hồ nước cho thấy các hồ ở nội thành có sự biến
động đáng kể về diện tích, phù hợp với các kết quả được Hoàng Văn Thắng và cộng sự đưa ra
năm 2010 [8]. Các hồ nước ở ngoại thành ít biến động về diện tích.
3.1. Biến động hệ thống sông suối và hồ nước
3.1.1. Xác định các lòng sông cổ
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về địa mạo và biến động lòng sông, song chủ yếu đề
cập tới biến động trong Holocen và hiện đại [9]. Các nghiên cứu của chúng tôi cho thấy quá trình
biến động lòng sông được phát triển và bảo tồn từ Pleistocen muộn đến nay.
a. Các lòng sông cổ giai đoạn Pleistocen
Đầm Vân Trì, sông Hoàng Giang (còn gọi là sông Thiếp) ở huyện Đông Anh vốn là các
dòng sông lớn, nay đã không còn được liên hệ với sông chính nữa và trở thành sông cổ. Một số
tác giả trước đây đã ghép lòng sông liên quan với đầm Vân Trì với lòng sông đã hình thành Hồ
Tây. Các nghiên cứu của chúng tôi đã cho thấy các quá trình biến động lòng sông để hình thành
các hồ này thuộc các giai đoạn hoàn toàn khác nhau. Đầm Vân Trì, sông Hoàng Giang và một số
đầm, hồ khác ở khu vực Đông Anh, Mê Linh là các dấu vết còn sót lại của các lòng sông hoạt
động giai đoạn Pleistocen. Về Hồ Tây, không có ý kiến nào khác rằng đó là hồ móng ngựa, được
hình thành sau biển tiến Holocen giữa.
Kết luận của nhóm tác giả dựa trên phân tích hình thái và cấu tạo địa chất của các hồ và
sông. Trước tiên có thể dễ dàng nhận thấy là các đầm, hồ và sông Hoàng Giang ở Đông Anh có
dạng cong có thể liên hệ với hình thái của các hồ móng ngựa. Sự khác biệt ở đây chính là hình

thái của các bờ hồ. Các bờ hồ tại đây không có đường nét trơn tru, mềm mại như các hồ đã được
xác định tuổi Holocen. Hình thái bờ khúc khuỷu, bị nhiều mương xói, khe rãnh cắt từ lòng hồ về
phía địa hình cao hai bên. Đó là dấu hiệu khá quan trọng. Các mương xói, khe xói này có gốc xâm
thực từ chính đáy hồ, thường được hình thành vào thời kỳ địa hình đồng bằng nổi cao đáng kể so
với gốc xâm thực cơ sở, vào giai đoạn biển thoái cuối Pleistocen muộn. Dấu hiệu địa chất đã
chứng minh cho nhận định trên bởi tất cả bờ, một phần đáy đầm và đáy các mương xói đều được
cấu tạo bởi trầm tích sét loang lổ hệ tầng Vĩnh Phúc tuổi Pleistocen muộn. Các đầm, hồ này chính
là các lòng sông đã hoạt động trong quá trình tạo trầm tích hệ tầng Vĩnh Phúc, nay một bộ phận
lớn đã được nâng cao, tạo nên thềm bậc I.
b. Các lòng sông cổ thời kỳ Holocen sớm – giữa
Holocen sớm – giữa gắn với thời kỳ đầu biển tiến Flandrian tác động tới đồng bằng Bắc bộ
đến biển tiến cực đại. Các tài liệu thực tế và kết quả điều tra, nghiên cứu trước đây đều không trả
lời được câu hỏi rằng trong thời kỳ biển thoái cuối Pleistocen và đầu biển tiến Holocen, lòng sông
Hồng nằm ở đâu. Có lẽ mật độ lỗ khoan và các tài liệu địa vật lý chưa đủ dầy để khoanh vẽ được
trầm tích tướng lòng sông này bị chôn vùi sâu dưới các thành tạo biển tiến hệ tầng Hải Hưng hoặc
bồi tích hệ tầng Thái Bình. Việc tìm kiếm dấu tích của thế hệ dòng chảy này được nhóm tác giả
lựa chọn ở phần rìa cao của đồng bằng châu thổ sông Hồng, là khu vực Thạch Thất – Sơn Tây.
Các kết quả phân tích ảnh viễn thám, được kiểm tra bằng thực địa cho thấy ở phía tây đê
sông Đáy có sự phân bố hàng loạt lòng sông cổ và các thành tạo bãi bồi sông. Bãi bồi có độ cao
lớn hơn các khu vực khác (từ 8-10m), trên đó có những gờ cao và dải trũng kéo dài, ít ngập nước.
Các lòng sông cổ ở đây có bán kính cong lớn khác thường, là thế hệ cổ nhất mà sông Đáy để lại
trong tiến trình chuyển dịch về phía đông.
Các lòng sông cổ phía tây sông Đáy cắt vào bề mặt tích tụ cao 10-15m thuộc thềm I cấu
tạo bởi trầm tích hệ tầng Vĩnh Phúc tuổi Pleistocen muộn, phía đông – đông bắc chúng chuyển
tiếp sang bề mặt bãi bồi cao và bề mặt tích tụ biển hệ tầng Hải Hưng tuổi Holocen giữa. Đó là cơ
11


sở quan trọng cho việc xếp các lòng sông cổ phía tây sông Đáy vào giai đoạn Holocen sớm –
giữa, giai đoạn còn bỏ ngỏ trong tiến hóa địa hình dòng chảy sông Hồng tại đồng bằng Hà Nội.

c. Các lòng sông cổ thời kỳ Holocen muộn
Sau biển tiến Holocen cực đại, biển thoái và lòng sông Hồng vươn xa về phía đông. Hoạt
động uốn khúc theo quy luật dòng chảy trên đồng bằng bãi bồi đã tạo ra nhiều lòng sông cổ, được
thể hiện bằng các hồ móng ngựa hoặc dải trũng.
Một trong những sản phẩm rõ ràng nhất của biến động lòng sông Hồng trong Holocen
muộn là Hồ Tây và hồ Yên Sở. Là một hồ sót được hình thành do sự dịch chuyển của lòng sông
Hồng về phía đông bắc, hồ Tây là điển hình của một dạng địa hình được hình thành có tính kế
thừa liên tiếp từ hoạt động của dòng chảy, sông – hồ và đầm lầy. Về hình thái, hồ Tây có dạng
hình móng ngựa điển hình. Mặt cắt địa chất được phản ánh khá rõ nét tiến hóa địa chất của hồ Tây
từ giai đoạn phát triển lòng sông đến giai đoạn đầm hồ. Theo các mặt cắt này, phần dưới là các
thành tạo tướng lòng sông gồm cát lẫn ít bột sét, gặp ở độ sâu 3-3,5m, dày trên 10m, chuyển lên
trên là các lớp bột sét nguồn gốc sông – hồ và trên cùng là bùn sét tướng đầm hồ. Sự tồn tại của
các hồ sót do biến đổi lòng sông như hồ Tây, hồ Yên Sở còn có nguyên nhân là hoạt động đắp đê
ngăn các hồ này với dòng sông chính đã được bắt đầu từ gần 1000 năm qua. Do có hệ thống đê,
bồi tích của sông Hồng đã không phủ để lấp đầy các lòng sông cổ này.
Hồ Hoàn Kiếm cùng với một dãy 9 hồ nhỏ được thể hiện trên bản đồ Hà Nội của Phạm
Đình Bách vẽ năm 1873 và do người Pháp thành lập các năm 1885, 1898, 1899 xếp thành một
tuyến thống nhất hình cung lồi nhẹ về phía sông Hồng và nối với Hồ Trúc Bạch, giống như một
lạch sông cổ [2]. Nhận xét của Đào Đình Bắc ở trên là phù hợp với cách nhìn nhận về mặt hình
thái, có cơ sở, được minh chứng thêm bởi bờ sông ở phía tây hồ (đường Lê Thái Tổ) – nơi được
cho là phần sót lại do xâm thực của lòng sông, cấu tạo bởi trầm tích hệ tầng Vĩnh Phúc tuổi
Pleistocen – cao hơn hẳn bờ ở phía đông (đường Đinh Tiên Hoàng) – một bộ phận của bãi bồi
Holocen muộn. Khác với nhận xét trên, trên cơ sở phân tích đặc điểm trầm tích được lấy theo các
ống phóng ở hồ Hoàn Kiến, Trần Nghi cho rằng hồ này cũng như hàng loạt các hồ khác ở nội
thành Hà Nội có nguồn gốc là các lạch thoát lũ. Cần có những kết quả phân tích theo tài liệu lỗ
khoan ở đoạn giữa các hồ - được cho là lòng sông cổ để làm rõ sự khác biệt trên.
3.1.2. Các đới biến động lòng sông
Do có sự biến đổi liên tục của các dòng chảy trong mỗi đai uốn khúc và thậm chí còn có
sự dịch chuyển của cả đai uốn khúc, việc xác lập các đới biến động của các dòng chảy sẽ có ý
nghĩa lớn hơn việc chỉ xác định các lòng sông cổ cụ thể. Đằng sau ý nghĩa của việc nghiên cứu

đới biến động lòng sông chính là xác định được các khu vực không bị sông cắt qua – các vùng đất
có nền móng ổn định, thuận lợi cho phát triển đô thị. Trên cơ sở các tiêu chí xác định đới biến
động lòng sông sau biển tiến cực đại Holocen là: sự tập trung cao của các lòng sông cổ; hệ thống
đê và các gờ cao ven lòng nằm kề các thành tạo trầm tích hệ tầng Vĩnh Phúc (a, amQ13vp), hệ tầng
Hải Hưng (am, mlQ22hh), đã xác lập đới biến động lòng sông từ sông Đáy về phía sông Tô Lịch.
Đới biến động của các sông này có chiều rộng khá lớn, nhiều đoạn có thể so sánh với đới biến
động của sông Hồng hiện nay (trên 3000m). Các đới biến động lòng sông chính gồm:
- Đới biến động lòng sông phía bắc sông Hồng: Bằng các dấu hiệu địa mạo, bước đầu có
thể xác định được thế hệ thứ nhất của đới biến động sông Hồng nằm ở phía bắc sông Hồng, thuộc
phạm vi các huyện Mê Linh – Đông Anh. Sự phân bố chủ yếu của các trầm tích hệ tầng Vĩnh
Phúc ở đây cho thấy thế hệ lòng sông này có tuổi Pleistocen muộn. Hướng chung của các dòng
chảy ở giai đoạn này là á vĩ tuyến, phù hợp với hướng của sông Cà Lồ hiện nay. Trong phạm vi
12


này còn có thể có một đới biến động lòng sông phương á kinh tuyến, từ khu vực xã Xuân Nộn
huyện Đông Anh, chạy qua Đông Anh tới Cổ Loa.
- Đới biến động của sông Đáy cổ: Nằm giữa đê tả Đáy và sông Tích là đới biến động của
sông Đáy cổ. Các lòng sông cổ tại đây thể hiện khá rõ, đó là các lòng sông có bán kính cong lớn.
Sự bảo tồn các dấu tích lòng sông cổ khá tốt này có thể do chúng không chịu ảnh hưởng của sông
kể từ sau thời điểm đắp đê sông Đáy. Đới biến động lòng sông Đáy cổ cũng được bắt đầu từ phía
giáp sông Hồng tại Sơn Tây, kéo dài theo phương tây bắc – đông nam qua phía đông Thạch Thất
đến khu vực Phùng Xá. Phía nam đường Láng – Hòa Lạc, đới hoạt động lòng sông không còn
được thể hiện rõ nữa. Đới biến động có chiều rộng khoảng 3 km, tương xứng với đới biến động
của sông Đáy hiện đại. Đáng chú ý là ở phía tây đới biến động này là thềm bậc I của sông với tầng
trầm tích sét loang lổ khá điển hình, nhiều nơi trầm tích bị kết vón hoặc thậm chí tạo đá ong.
- Đới biến động sông Đáy hiện đại: Đới biến động của sông Đáy hiện đại phân bố chủ yếu
trong phạm vi tuyến đê sông Đáy. Trên bình đồ, đới có hình phễu với phần mở rộng là khu vực
chia nước từ sông Hồng vào sông Đáy. Chiều rộng của đới biến động lòng sông ở đây đạt trên
8km, thu hẹp dần về phía đập Phùng là 3 km. Phía sau đập Phùng, đai uốn khúc khá ổn định với

chiều rộng đạt trung bình 3 km. Các lòng sông cổ trong phạm vi đới biến động này chỉ được quan
sát và khoanh vẽ chính ở phía bắc đập Phùng. Phía nam đập, hầu như chỉ quan sát thấy lòng sông
cổ giáp tuyến đê ở phía tây sông Đáy. Dòng sông Đáy uốn khúc mạnh trong phạm vi đới biến
động, nhiều đoạn hai đỉnh khúc uốn sát nhau, thể hiện động lực dòng chảy yếu ở giai đoạn sau
cùng của lịch sử phát triển.
- Đới biến động sông Nhuệ: So với sông Đáy, việc xác định đới biến động của sông Nhuệ
khó khăn hơn, nhiều đoạn khoanh vẽ chỉ mang tính giả định. Đới biến động của sông Nhuệ có
chiều rộng đạt từ 2-3km, được chia thành 3 khu vực khác nhau như sau: i) Khu vực thứ nhất tại
khu vực phía tây Cổ Nhuế. Tại đây bờ bắc của đới biến động được giới hạn bởi lòng sông Hồng,
bờ nam là các lòng sông cổ phân bố từ khu vực Hạ Mỗ, kéo dài theo hướng đông nam qua Tân
Lập, Tây Tựu. Chiều rộng của đới đạt trên 3km; ii) Khu vực thứ hai là đoạn Liên Mạc – Cổ Nhuế,
là đới biến động mới nhất của sông Nhuệ, còn để lại dấu vết rõ ràng là hàng loạt lòng sông cổ và
gờ cao ven lòng tại Cổ Nhuế. Đới biến động cũng có dạng hình phễu với cửa vào tại Liên Mạc đạt
khoảng 3km, phần phía đông nam thu hẹp chỉ còn khoảng 2km; iii) Khu vực thứ ba bắt đầu từ cổ
Nhuế tới Mễ Trì. Trong đoạn này, ranh giới của đới biến động được xác định chủ yếu theo hình
thái địa hình của các lòng sông cổ và sự tồn tại các khối sót cấu tạo bởi trầm tích hệ tầng Vĩnh
Phúc, Hải Hưng. Ngoài một nhánh của đới biến động kéo dài về phía nam theo sông Nhuệ hiện
đại, nhánh thứ hai được giả định kéo dài về phía sông Tô Lịch, được giới hạn phía bắc bởi các
lòng sông cổ dọc theo hồ Thành Công, Đống Đa và tuyến đê La Thành. Hai nhánh cổ trên uốn
lượn quanh khối sót Yên Hòa – Trung Hòa [2, 4].
3.2. Một số ứng dụng nghiên cứu biến động sông – hồ trong sử dụng tài nguyên và phòng
tránh thiên tai
Việc xác định các thế hệ lòng sông cổ và đới biến động lòng sông có ý nghĩa khoa học và
thực tiễn lớn. Về khoa học, chúng cho phép khôi phục lại bối cảnh cổ địa lý trong lịch sử hình
thành đồng bằng sông Hồng. Các giá trị thực tiễn liên quan với việc xác định vị trí định cư của
người Việt cổ [1], tới định hướng sử dụng hợp lý tài nguyên đất, nước và phòng tránh thiên tai.
Về phòng tránh thiên tai, các nghiên cứu đều cho thấy lòng sông cổ, hồ nước là những
vùng đất thấp, nền địa chất yếu. Kết quả thống kê cho thấy hầu hết những khu vực có mức độ sụt
lún lớn nhất đều trùng với những nơi có tồn tại các tầng đất yếu tướng lòng sông. Điều này lý giải
cho những những công trình sụt lún đã và đang diễn ra tại rất nhiều nơi như ở xã Quốc Oai

(12/2008), Thành Công…liên quan với vị trí các lòng sông cổ. Đặc biệt hiện nay xuất hiện rất
13


nhiều những công trình đang xây dựng trên chính những trục của lòng sông cổ bằng cách lấp các
dải trũng, hồ móng ngựa, là nguy cơ dẫn tới sụt lún và ngập úng cục bộ.
Bên cạnh yếu tố sụt lún nền móng công trình, ngập úng đô thị cũng là một vấn đề đáng
quan tâm, chú ý hiện nay. Đặc biệt là sau trận lụt năm 2008, rất nhiều khu vực đã bị ngập úng,
nước bị ứ lại và khó tiêu thoát. Qua khảo sát và đối chứng với kết quả nghiên cứu lòng sông cổ
cho thấy hầu hết những khu vực có mức độ ngập úng cao nhất đều nằm trong tuyến của lòng sông
cổ. Đây đều là những dải trũng có khả năng tích nước vào mùa lũ, kết hợp với việc quy hoạch đô
thị sai quy cách đã khiến nước không thể tiêu thoát tới những khu vực sông suối bên cạnh.
Chính vì điều này, chúng ta cần phải có những giải pháp cần thiết để giảm thiểu những
điều tương tự có thể xảy ra trong tương lai. Đặc biệt, với chức năng của sông Đáy và sông Nhuệ
trong quá khứ đều là những hệ thống thoát lũ cho Hà Nội, cần tìm cách khôi phục lại để chúng có
thể làm tốt chức năng thoát lũ của mình. Một trong các giải pháp có thể là khôi phục lại cửa vào
của các con sông này tại những vị trí góc nhọn so với sông Hồng, tránh tính trạng như hiện nay là
cửa của hai con sông này đều có hướng vuông góc với dòng chảy chính sông Hồng, làm giảm khả
năng cung cấp nước vào sông. Chúng ta cũng có thể tìm cách nắn chỉnh lại dòng sông tại những
nơi dòng sông bị uốn khúc thứ sinh, làm giảm tốc độ tiêu thoát nước vào mùa mưa lũ.
4. Định hướng và các giải pháp đa mục tiêu sử dụng bền vững hệ thống sông – hồ Hà Nội
4.1. Một số cơ sở pháp lý cho định hướng sử dụng bền vững hệ thống sông – hồ Hà Nội
Quyết định 1081/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội thành
phố Hà Nội đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 với quan điểm xây dựng và phát triển Thủ
đô thành động lực thúc đẩy phát triển đất nước. Ngoài các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội,
nhiều vấn đề về môi trường, cảnh quan và phòng tránh giảm thiểu thiệt hại do tai biến thiên nhiên
đã được đặt ra. Đồng thời với Quyết định trên, nhiều văn bản quan trọng liên quan tới phát triển
Thủ đô cũng được thảo luận và ban hành. Các bản báo cáo kèm theo đã xác định vị trí sông Hồng
là đặc điểm nổi bật của Hà Nội, ngoài ra hệ thống sông hồ, mặt nước được đánh giá là tài nguyên
giá trị của thành phố. Các bản vẽ trong các sơ đồ quy hoạch đã thể hiện mạng lưới 9 con sông

trong lòng Hà Nội như những động mạch chủ trong cơ thể sống động. Hệ thống sông hồ cũng
được đề cập chi tiết những lợi ích: từ vận tải thuỷ đến khả năng gia tăng giá trị không gian các
khu tài chính kinh doanh, những đóng góp về không gian đô thị mở đến nơi giải trí hay liên hiệp
thể thao. Để bảo vệ và phát triển nguồn tài nguyên nước, Hà Nội dự kiến dành ra 5-10% đất đô thị
để làm hồ điều hoà, gấp 10-15 lần mặt nước Hồ Tây. Sông Hồng, sông Nhuệ, sông Tích, sông
Đáy, dãy đầm hồ Vân Trì, sông Cà Lồ, sông Thiếp, sông Đuống… được tô đậm với việc nạo vét,
cải tạo, nâng cấp cảnh quan. Xây dựng mới và nâng cấp hệ thống kênh dẫn liên thông từ hồ Quan
Sơn qua sông Tích, sông Đáy, sông Nhuệ để vượt qua đô thị Phú Xuyên nối với sông Hồng.
Nghị quyết số 06/2014/NQ-HĐND đã Quy hoạch bảo tồn đa dạng sinh học thành phố Hà
Nội đến năm 2030. Trong Nghị quyết này, đa dạng sinh học của hệ thống sông – hồ và cảnh quan
xung quanh được đặc biệt quan tâm. Trong Nghị quyết số: 09/2012/NQ về “Quy hoạch phát triển
thủy lợi thành phố Hà Nội đến năm 2020, định hướng đến năm 2030” đã đề cập tới việc nâng cấp
các hồ chứa nhỏ đáp ứng nhu cầu tưới tiêu. Tuy nhiên chưa đề cập tổng thể về tài nguyên nước
liên quan với hệ thống hồ chứa và sông ngòi. Đồng thời với việc quy hoạch cấp, thoát nước, Nghị
quyết đã chú ý tới việc chuyển đổi mục đích của các vùng đất trũng ngập nước. Trong Quyết định
số 1836/QĐ-UBND phê duyệt “Quy hoạch phát triển thủy sản thành phố Hà Nội đến năm 2020,
định hướng đến năm 2030”, hệ thống hồ nước, sông ngòi và các vùng đất trũng được quy hoạch
cho nuôi trồng thủy sản. Các hồ nước, sông ngòi còn được quy hoạch cho phát triển du lịch trong
Quyết định số 4597/QĐ-UBND ngày 16 tháng 10 năm 2012 “Quy hoạch phát triển du lịch thành
14


phố Hà Nội đến năm 2020, định hướng đến năm 2030”. Các hồ nước, sông ngòi có giá trị tham
quan của Hà Nội đều được đưa vào các sản phẩm du lịch cũng như các tuyến, điểm du lịch cụ thể.
4.2. Định hướng sử dụng bền vững hệ thống sông – hồ Hà Nội
Hệ thống sông, hồ đóng vai trò hết sức quan trọng trong phát triển bền vững. Trong những
năm trước đây, các hồ thủy lợi được xây dựng chủ yếu phục vụ phát triển nông nghiệp. Đồng thời
với sự phát triển kinh tế - xã hội và đặc biệt là nhận thức và nhu cầu của con người, các hồ thủy
lợi được xác định là đa chức năng hay đa mục tiêu [10]. Đồng thời với thuật ngữ “hồ đa mục
tiêu”, trong những năm gần đây trên thế giới và ở Việt Nam còn sử dụng khái niệm hồ sinh thái

(Ecological lake), liên quan trực tiếp với sử dụng đa mục tiêu.
Nhằm định hướng sử dụng bền vững hệ thống hồ nước – sông ngòi, cần phải đặt chúng
trong các không gian có mối liên hệ với hệ thống tự nhiên và kinh tế - xã hội khác. Tiếp cận dựa
vào hệ sinh thái theo mục tiêu quản lý gắn với việc phân chia lãnh thổ thành các không gian có
các chức năng riêng là hết sức cần thiết [11]. Trên cơ sở phân tích hệ thống tự nhiên, hiện trạng
khai thác, sử dụng lãnh thổ, những vấn đề môi trường nảy sinh và phân tích các quy hoạch liên
quan, thủ đô Hà Nội được phân chia thành 12 không gian có chức năng khác nhau và được định
hướng sử dụng khác nhau cho phát triển bền vững hồ nước, sông ngòi (Hình 3).
Các không gian sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường các hồ nước, sông ngòi
thành phố Hà Nội gồm:
1. Không gian quản lý chặt chẽ hệ sinh thái trên cạn: gồm a) Khu vực Vườn quốc gia Ba
Vì; b) Khu vực núi Viên Nam; c) Khu vực núi tây Miếu Môn; d) Vùng núi đá vôi Hương Khê; e)
Khối núi Sóc Sơn.
2. Không gian phát triển đô thị gắn với bảo tồn cảnh quan và hệ sinh thái hồ nước nội
thành Hà Nội.
3. Không gian bảo vệ cảnh quan, hệ sinh thái và sử dụng bền vững hồ nước và khe suối
đầu nguồn, gồm: a) Khu vực vùng đệm Vườn quốc gia Ba Vì; b) Khu vực vùng gò đồi Sóc Sơn.
4. Không gian quản lý tích cực môi trường và sử dụng bền vững hồ nước và sông suối đầu
nguồn, gồm: a) Khu vực Suối Hai – Đồng Mô; b) Khu vực Quan Sơn – Suối Yến; c) Khu vực Đa
Phúc.
5. Không gian quản lý tích cực và sử dụng bền vững hồ nước nội thành, gồm: a) Khu vực
Xuân Đỉnh; b) Khu vực Trung Hòa; c) Khu vực Thanh Trì; d) Khu vực Yên Sở.
6. Không gian bảo vệ môi trường và sử dụng bền vững hồ nước, sông suối vùng gò đồi,
gồm: a) Khu vực Tây Đằng – Sơn Tây; b) Khu vực Mê Linh – Đông Anh.
7. Không gian bảo vệ môi trường và sử dụng bền vững hồ nước và dải đất cao do biến đổi
lòng sông, gồm: a) Khu vực Đan Phượng; b) Khu vực Liên Quan; c) Khu vực Vân Hà – Yên
Viên.
8. Không gian phát triển hành lang xanh, bảo vệ môi trường và sử dụng bền vững sông
suối và hồ nước thuộc hành lang thoát lũ, gồm: a) Khu vực Đập Phùng; b) Khu vực Kim Bài; c)
Khu vực Sông Tô Lịch.

9. Không gian bảo vệ môi trường và sử dụng bền vững sông suối và hồ nước vùng trũng
thấp hạ lưu, gồm: a) Khu vực Phú Xuyên; b) Khu vực Như Nguyệt.
10. Không gian phát triển thân thiện môi trường và sử dụng bền vững hồ nước vùng trũng
thấp nội đồng, gồm: a) Khu vực Chương Mỹ; b) Khu vực Ứng Hòa.
11. Không gian phát triển thân thiện môi trường và sử dụng bền vững hồ nước vùng bãi
15


bồi, gồm: a) Khu vực Hoài Đức; b) Khu vực Thanh Oai; c) Khu vực Thường Tín; d) Khu vực Gia
Lâm.
12. Không gian bảo vệ môi trường và sử dụng bền vững sông Đà – sông Hồng, gồm: a)
Khu vực sông Đà; b) Khu vực ngã ba sông Hồng – sông Đà; d) Khu vực Đan Phượng – Thanh
Trì; đ) Khu vực Phú Xuyên; e) Khu vực sông Đuống.
4.3. Một số giải pháp sử dụng bền vững sông ngòi và hồ nước
Đồng thời với việc định hướng sử dụng hợp lý 12 không gian được coi như giải pháp tổng thể
nêu trên, một số giải pháp sử dụng đa mục tiêu cụ thể được đưa ra dưới đây:
a. Giải pháp quản lý và bảo vệ hồ với sự tham gia của cộng đồng
Công tác khôi phục, bảo vệ và bảo tồn hệ thống hồ Hà Nội có thành công hay không phụ
thuộc vào việc bảo vệ và khôi phục hệ sinh thái của từng hồ ao và hệ thống sông ngòi. Công việc
phục hồi này đòi hỏi sự phối hợp khoa học giữa các biện pháp công trình, các biện pháp kỹ thuật
và sự tham gia bảo vệ giám sát của cộng đồng quanh hồ cũng như những thay đổi hợp lý trong cơ
chế quản lý hồ. Những ưu tiên chính hiện nay là ngăn ngừa nước thải và rác thải xả vào hồ, ngăn
ngừa và kiểm soát việc xả rác bừa bãi trên hành lang bờ hồ, từng bước quy hoạch mỹ quan cho
từng hồ thành những điểm giải trí công cộng cho cộng đồng.
b. Giải pháp đa mục tiêu trong bảo vệ cảnh quan – văn hóa và phát triển kinh tế, du lịch
 Phục vụ mục đích tạo lập cảnh quan văn hóa: Sự kết hợp hài hòa của mặt nước và cây
xanh ở Hà Nội tạo nên tiềm năng khai thác, sử dụng lớn của hệ thống hồ. Hầu hết các hồ đều nằm
trong các công viên hoặc vườn hoa trong thành phố. Công viên kết hợp với mặt nước hồ mang lại
vẻ đẹp và sự hài hòa, tạo ra các khu vực vui chơi, giải trí cho người dân. Vẻ đẹp của hồ nước được
tăng lên đáng kể khi các kiến trúc công trình xung quanh chúng được thiết kế hợp lý như nhà

hàng, tượng đài… làm cho cảnh quan gần với thiên nhiên và sống động hơn.
 Phục vụ mục đích nuôi trồng thủy sản: Cá được nuôi trong các hồ để bổ sung nguồn thực
phẩm cho nhu cầu của cư dân thành phố và cải thiện môi trường nước hồ. Nuôi cá phát triển mạnh
ở các huyện ngoại thành như Đông Anh, Thanh Oai, Chương Mỹ, Thanh Trì,….
 Phục vụ tưới tiêu: Các hồ nước ở ngoại thành đóng vai trò lớn trong thủy lợi, song do
chúng có quy mô lớn, cảnh quan đẹp nên chính là “cỗ máy điều hòa không khí khổng lồ”, là
nguồn tài nguyên du lịch quý giá (hồ Suối Hai, Đồng Mô,…).
 Bảo tồn và tạo thêm nhiều không gian mặt nước – một giải pháp nhằm gìn giữ và duy trì
nét đặc trưng của Hà Nội:
c. Phục vụ mục đích bảo vệ môi trường – phòng chống tai biến thiên nhiên
Các hồ chính ở Hà Nội có chức năng chủ yếu là điều tiết dòng chảy và thoát lũ, xử lý sơ bộ
nước thải, cải thiện điều kiện vệ sinh môi trường, tạo cảnh quan văn hóa cũng như không gian
nuôi trồng thủy sản. Định hướng sử dụng hệ thống hồ Hà Nội bao gồm các nội dung chính sau:
 Phục vụ mục đích điều tiết dòng chảy và thoát lũ
Các hồ có chức năng tích nước và thoát nước mưa nên hồ có thể làm giảm lục trong đô thị.
Chức năng điều tiết của hồ có thể làm giảm dòng chảy bằng cách thoát nước qua ống dẫn nước
của hồ. Ngoài ra, hồ có thể điều tiết mực nước thông qua kênh, mương trong mùa mưa để làm
giảm sức chứa của các trạm bơm, giảm chi phí xây dựng và chi phí thoát nước.
 Phục vụ mục đích xử lý sơ bộ nước thải và cải thiện điều kiện vệ sinh môi trường:
Với chức năng như hồ sinh học để xử lý sơ bộ nước thải, giảm một lượng lớn các chất độc hại
trong nước như BOD, các chất hóa học khó phân hủy… Trong nhưng năm gần đây, ô nhiễm môi
trường do nước thải ngày càng trở nên nghiêm trọng hơn. Tuy nhiên, hiện nay đã có hệ thống thu
16


gom nước thải của một số hồ như Hoàn Kiếm, Trúc Bạch,… được chuyển vào hệ thống cống
thoát riêng; hệ thống cống thoát nước xung quanh hồ Nam Đồng và một số hồ khác cũng đang
được xây dựng. Trong tương lai gần, giải pháp này sẽ được áp dụng cho toàn bộ hệ thống hồ
thuộc khu vực đô thị của thành phố.
5. Đánh giá về các kết quả đã đạt được và kết luận

Sau 24 tháng triển khai, tập thể tác giả đã hoàn thành được mục tiêu và các sản phẩm đặt
ra. Một số kết luận khoa học được đưa ra như sau:
1. Đồng thời với sự phát triển kinh tế - xã hội và nhu cầu của con người, việc sử dụng đa
mục tiêu đối với sông ngòi, hồ nước trở thành nhu cầu tất yếu. Các hồ nước và sông ngòi tạo cảnh
quan môi trường, điều hòa không khí, phục vụ du lịch, thể thao dưới nước, phục vụ nghiên cứu
khoa học và học tập; chứa và điều tiết nước; cung cấp nước sinh hoạt và sản xuất; cung cấp nguồn
lợi thủy sản.
2. Hệ thống sông hồ Hà Nội nằm trong hệ thống tự nhiên, kinh tế - xã hội không những chỉ
riêng Hà Nội mà còn cả lãnh thổ xung quanh. Đặc điểm hình thành, phát triển của hệ thống sông –
hồ này liên quan tới hàng loạt nhân tố như cấu trúc địa chất, tân kiến tạo; điều kiện địa hình và
quá trình địa mạo; các điều kiện khí hậu – thủy văn. Các hoạt động nhân sinh ở Hà Nội và lân cận
đã tác động đáng kể tới quá trình hình thành và biến đổi sông – hồ, đặc biệt là việc xây dựng hệ
thống đê điều từ nghìn năm nay, xây dựng và cải tạo hệ thống kênh mương, đắp hồ thủy lợi,...
3. Là một thành phố sông nước, hệ thống sông – hồ đóng vai trò hết sức quan trọng trong
phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường của thành phố Hà Nội. Hệ thống hồ đầm Hà Nội
được phân theo hai nhóm: hồ tự nhiên và hồ nhân tạo. Các hồ tự nhiên gồm: i) Hồ do biến động
lòng sông; ii) Hồ và các vùng đất ngập nước theo mùa); Nhóm hồ nhân tạo gồm i) Hồ do đắp đập
chắn trên vùng gò đồi; ii) Hồ do đắp đập chắn và sụt lún karst và iii) Hồ do đào đất hạ độ cao. Các
hồ nước ở nội thành đã bị ô nhiễm nghiêm trọng, hồ ở ngoại thành còn đang giữ được môi trường
an toàn, song chưa được đầu tư quy hoạch và khai thác sử dụng một cách hợp lý và bền vững.
4. Sông Hồng với chiều dài là 1.126 km (phần thuộc Việt Nam là 556 km, đoạn chảy qua Hà
Nội khoảng 40km), là dòng sông chính của thành phố Hà Nội. Các phụ lưu là sông Đà và sông
Lô, trong đó lượng nước từ sông Đà chiếm tới gần 50%. Phân lưu của sông Hồng hiện tại là Sông
Đuống, Sông Nhuệ và trước đây còn có sông Đáy, sông Tô Lịch. Các sông này vốn là các chi lưu
lớn của sông Hồng, song theo quy luật của dòng chảy kết hợp với các hoạt động tân kiến tạo và
các hoạt động nhân sinh, dần chúng bị suy tàn và trở thành các dòng sông chết hoặc bị thay đổi
đáng kể như các dòng sông nhân tạo.
5. Biến đổi lòng sông là đặc trưng cơ bản, có tính quy luật và phổ biến của hệ thống sông,
đặc biệt là các sông ở đồng bằng châu thổ. Từ kết quả phân tích ảnh viễn thám và các nghiên cứu
về địa mạo, trầm tích, đề tài đã tái hiện được các lòng cổ. Tại thành phố Hà Nội đã xác định được

3 thế hệ lòng sông cổ: thế hệ lòng sông cổ tuổi cuối Pleistocen phân bố ở phía bắc sông Hồng (Mê
Linh, Đông Anh); thế hệ lòng sông cổ đầu Holocen phân bố ở phía tây sông Đáy (huyện Thạch
Thất) và thế hệ lòng sông cổ Holocen muộn khá phổ biến, điển hình là dọc sông Đáy, sông Nhuệ,
sông Tô Lịch và hệ thống hồ nước như hồ Tây, hồ Yên Sở,...
6. Định hướng sử dụng bền vững hệ thống sông – hồ Hà Nội được xây dựng trên cơ sở phân
tích chức năng các không gian chứa các hồ nước và sông ngòi. 12 không gian khác nhau được xác
định với các định hướng chính như sau: Không gian quản lý chặt chẽ hệ sinh thái trên cạn; Không
gian phát triển đô thị gắn với bảo tồn cảnh quan và hệ sinh thái hồ nước nội thành Hà Nội; Không
gian bảo vệ cảnh quan, hệ sinh thái và sử dụng bền vững hồ nước và khe suối đầu nguồn; Không
gian quản lý tích cực môi trường và sử dụng bền vững hồ nước và sông suối đầu nguồn; Không
17


gian quản lý tích cực và sử dụng bền vững hồ nước nội thành,…
7. Các giải pháp đa mục tiêu sử dụng bền vững sông ngòi, hồ nước thành phố Hà Nội được
đề xuất như: Kết hợp hồ thủy lợi với tạo cảnh quan và phát triển du lịch sinh thái; Đối với các hồ
cảnh quan, hồ điều hòa, cần xử lý nước thải, xây dựng hệ hệ thống cống thoát nước riêng xung
quanh các hồ; tăng cường quá trình tự làm sạch trong hồ; kè bờ và nạo vét kênh mương. Cần có
giải pháp cải tạo các sông Đáy, sông Nhuệ, sông Tô Lịch để trở thành các không gian sông nước
sạch, vừa tạo cảnh quan cho phát triển du lịch và đô thị, vừa phục vụ giao thông đường thủy. Cần
có giải pháp quản lý phần thượng nguồn các sông hồ ở vùng đồi núi của thành phố, chống xói
mòn, bồi lắng và ô nhiễm môi trường đầu nguồn.
6. Tóm tắt kết quả (tiếng Việt và tiếng Anh)
Tiếng Việt
Thành phố Hà Nội có diện tích mặt nước hồ ao khoảng 2180 ha, được phân theo hai nhóm:
hồ tự nhiên và hồ nhân tạo. Các hồ tự nhiên gồm: i) Hồ do biến động lòng sông; ii) Hồ và các
vùng đất ngập nước theo mùa. Nhóm nhân tạo gồm i) Hồ do đắp đập chắn trên vùng gò đồi; ii) Hồ
do đắp đập chắn trong vùng sụt lún karst và iii) Hồ do đào đất hạ độ cao. Mỗi loại hồ có vị trí địa
lý và chức năng khác nhau, làm cơ sở cho định hướng sử dụng đa mục tiêu.
Đồng thời với các lòng sông hiện tại như sông Hồng, sông Đuống, sông Cà Lồ,…, tại

thành phố Hà Nội đã xác định được 3 thế hệ lòng sông cổ: thế hệ lòng sông cổ tuổi cuối
Pleistocen phân bố ở phía bắc sông Hồng (Mê Linh, Đông Anh); thế hệ lòng sông cổ đầu Holocen
phân bố ở phía tây sông Đáy (huyện Thạch Thất) và thế hệ lòng sông cổ Holocen muộn khá phổ
biến, điển hình là dọc sông Đáy, sông Nhuệ, sông Tô Lịch và hệ thống hồ nước như hồ Tây, hồ
Yên Sở,... Các lòng sông cổ gắn liền với sự hình thành hồ nước ở đồng bằng.
Một số giải pháp đa mục tiêu sử dụng bền vững sông ngòi, hồ nước thành phố Hà Nội
được đề xuất như: i) Thực hiện định hướng sử dụng hợp lý các hồ nước và sông ngòi với 12
không gian khác nhau; ii) Kết hợp hồ thủy lợi với tạo cảnh quan và phát triển du lịch sinh thái; iii)
Cải tạo các sông như sông Đáy, sông Tích, sông Cà Lồ, sông Nhuệ, sông Tô Lịch để trở thành các
không gian sông nước sạch, vừa tạo cảnh quan cho phát triển du lịch và đô thị, vừa phục vụ giao
thông đường thủy; iv) Cần quản lý phần thượng nguồn các sông hồ ở vùng đồi núi của thành phố,
chống xói mòn, bồi lằng và ô nhiễm môi trường đầu nguồn.
Tiếng Anh
Hanoi city has about 2180 hectares of water surface area, which has been classified into two
groups: natural lakes and artificial lake). Natural lakes include: i) Lakes caused of riverbed changes, ii)
Lakes and swales taken place seasonally; Artificial lake include: i) Lakes formed of daming up in the
hills; ii) Lakes formed by daming up in karst subsidence and iii) Lakes formed by digging the soil.
Each type of lakes has various function and geographical location as a basic for orientation of using
multipurposes.
Together with the present riverbed of Red river, Duong river, Ca lo river... in Hanoi city, there
are three generations of ancient riverbed defined; including: riverbed formed in the end of Pleistocene
located in the north of Red river (in Me Linh, Dong Anh district); generation of the early Holcence
riverbed located in the west of Day river (Thach That district) and generation of the late Holocence
riverbed has been reasonable popular, especially Day river, Nhue river, To Lich river and a lot of lakes
such as West lake, Yen So lake... The ancient riverbeds have been associated with the formation of
lakes in the delta.

18



Some multipurpose solutions have been promoted for sustainable using rivers and lakes in
Hanoi capital such as: i) Carrying out orientation for reasonable using lakes, rivers by 12 different
spaces; ii) Combining irrigation lakes together with landscape forming and ecotourism
development; iii) Renovating Day river, Tich river, Ca Lo river, Nhue river, and To Lich river in
order to become the clean river landscapes that support for not only tourism and urban
development, but also water transportation; iv) It is important to manage area of headwaters river,
lakes in the area of hills, mountains of the city to protect Hanoi city from erosion, alluvium and
evironmental pollution of headwaters.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Đặng Văn Bào, Nguyễn Quang Anh, Đặng Kinh Bắc, Phạm Thị Phương Nga. Địa mạo và
vị trí định cư của người Việt cổ (lấy ví dụ khu vực phía bắc thành phố Hà Nội). Kỷ yếu
Hội nghị khoa học Địa lý toàn quốc lần thứ 8 – 2014, Nxb. Đại học Sư phạm Thành phố
Hồ Chí Minh, 2014, trang 191 – 201. 2014.

2.

Đào Đình Bắc, Đặng Văn Bào. Đặc điểm địa mạo, hệ thống lòng sông cổ khu vực thủ đô
và ý nghĩa của chúng đối với sự phát triển của kinh đô Thăng Long – Hà Nội, Hội thảo
khoa học quốc tế kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội phát triển bền vững thủ đô Hà
Nội văn hiến, anh hùng, vì hòa bình. NxB ĐHQGHN, Hà Nội, 2010, tr. 981-994.

3.

Đặng Kinh Bắc, Đặng Văn Bào Nguyễn Hiệu, Phạm Phương Nga. Ứng dụng viễn thám và
GIS trong nghiên cứu tái hiện sông cổ và hệ thống hồ nước khu vực thành phố Hà Nội.
Kỷ yếu Hội nghị khoa học Địa lý toàn quốc lần thứ 7; NxB. Đại học Thái Nguyên, 2013,
trang 971 – 980.


4.

Đặng Văn Bào, Đặng Kinh Bắc, Phạm Thị Phương Nga, Nguyễn Thị Phương. Lòng sông
cổ ở Hà Nội: Tái hiện và định hướng quản lý. Tạp chí Khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội
(sẽ in trong số 4/2014).

5.

Đặng Văn Bào, Nguyễn Hiệu, Đặng Kinh Bắc, Phạm Thị Phương Nga, Giang Tuấn Linh.
Cơ sở khoa học cho định hướng sử dụng hợp lý và bảo vệ môi trường hệ thống sông ngòi
và hồ nước thành phố Hà Nội. Tạp chí Nghiên cứu địa lý nhân văn; Số 4(7), 2014, trang
11-20.

6.

Báo cáo hiện trạng môi trường thành phố Hà Nội năm 2009. Sở Tài nguyên và Môi trường
thành phố Hà Nội, 2009.

7.

Dang Kinh Bac, Nguyen Thi Ha Thanh, Luong Thi Tuyet. Research on urban changes in
a relationship with geographical factors in the western region of hanoi during the period
2000-2014. The 35th Asian Conference on Remote Sensing 2014. 27-31 Oct 2014, Nay Pyi
Taw, Myanmar.

8.

Hoàng Văn Thắng và Lê Diên Dực. Quản lý và bảo tồn đất ngập nước Hà Nội. Kỷ yếu
Hội thảo khoa học quốc tế kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội “Phát triển bền vững
Thủ đô Hà Nội văn hiến, anh hùng và hòa bình”. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội,

2010, tr. 1222-1235.
Vũ Văn Phái, Hà Nội, địa chất, địa mạo và tài nguyên liên quan, NXB Hà Nội, Hà Nội,
2011.

9.

19


10. Bùi Hiển (chủ nhiệm). Nghiên cứu giải pháp nâmg cao hiệu quả hồ thủy lợi các tỉnh
Trung du miền núi phía Bắc phục vụ đa mục tiêu. Báo cáo tổng kết đề tài cấp bộ. Trường
Đại học Thủy lợi, 2010. 154 trang.
11. Lê Sâm, Nguyễn Văn Lân, Nguyễn Đình Vượng. Nghiên cứu hồ chứa theo quan điểm sinh
thái, cách tiếp cận bền vững trong xây dựng các công trình chứa nước ở Việt Nam. Tuyển
tập kết quả KH&CN Viện Khoa học Thủy lợi Miền Nam. Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà
Nôi, 2010.

PHẦN III. SẢN PHẨM, CÔNG BỐ VÀ KẾT QUẢ ĐÀO TẠO CỦA ĐỀ TÀI
3.1. Kết quả nghiên cứu
TT

Tên sản phẩm

1

Sản phẩm 1. Quá trình hình
thành và đặc điểm phân bố
của hệ thống hồ nước, sông
ngòi khu vực ngoại thành Hà
Nội;


Yêu cầu khoa học hoặc/và chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật
Đăng ký

Đạt được

- Phân tích, đánh giá
được các nhân tố chính
trong việc hình thành hệ
thống hồ nước và sông
ngòi (địa chất, địa mạo,
khí hậu, thủy văn; các
yếu tố nhân sinh);
- Xác định được nguồn
gốc, quá trình hình thành
và phân bố các hồ nước;

- Tổng quan được cơ sở lý luận
và thực tiễn về quá trình hình
thành và biến đổi các hồ nước,
sông ngòi;
- Đã phân tích, đánh giá được
các nhân tố chính trong việc
hình thành và đặc điểm phân bố
hệ thống hồ nước và sông ngòi
(địa chất, địa mạo, khí hậu,
thủy văn; các yếu tố nhân sinh);
- Xác định được đặc điểm phân
bố, phân loại theo nguồn gốc
các hồ nước thành phố Hà Nội,

gồm 2 nhóm: hồ tự nhiên –
nhân sinh và hồ nhân sinh.

20


2

Sản phẩm 2. Đặc điểm tự
nhiên, tài nguyên thiên nhiên,
môi trường và thực trạng khai
thác, sử dụng, quản lý các hồ
nước, sông ngòi khu vực
ngoại thành Hà Nội;

- Làm rõ được đặc điểm - Làm rõ được đặc điểm tự
tự nhiên (vị trí, hình nhiên (vị trí, hình dạng, kích
dạng, kích thước, đặc thước, đặc trưng địa chất, địa
trưng địa chất, địa mạo, mạo, thủy văn,...), tài nguyên
thủy văn,...), tài nguyên thiên nhiên (sinh vật và phi
thiên nhiên (sinh vật và sinh vật), môi trường (chủ yếu
phi sinh vật), môi trường là môi trường nước) của các hồ
(chủ yếu là môi trường nước, sông ngòi chính;
nước) của các hồ nước, - Phân tích, đánh giá được thực
sông ngòi chính;
trạng khai thác, sử dụng hồ
- Phân tích, đánh giá nước, sông ngòi.
được thực trạng khai
thác, sử dụng hồ nước,
sông ngòi.


3

4

Sản phẩm 3. Đặc điểm biến
động (điều kiện tự nhiên, tài
nguyên, môi trường) của các
hồ nước, sông ngòi khu vực
ngoại thành Hà Nội;

Sản phẩm 4. Các giải pháp
đa lợi ích sử dụng bền vững
các hồ nước, sông ngòi khu
vực ngoại thành Hà Nội;

- Ứng dụng công nghệ
viễn thám và GIS trong
xác định biến động hồ
nước, sông ngòi.
- Xác định được các đặc
điểm biến động (điều
kiện tự nhiên, tài nguyên,
môi trường) của các hồ
nước, sông ngòi khu vực
ngoại thành Hà Nội;

- Đã ứng dụng công nghệ
viễn thám và GIS xác định được
biến động hồ nước, các đới biến

động lòng sông trong các thời
kỳ, xác định được biến động
lòng sông hiện đại;

- Các giải pháp có tính
đồng bộ, có tính khả thi;
- Giải pháp về định
hướng quy hoạch phát
triển bền vững được ưu
tiên, định hướng cho các
giải pháp cụ thể của các
đối tượng.

- Đã phân tích được quy
hoạch phát triển Thủ đô Hà
Nội liên quan với việc sử dụng
không gian hệ thống sông
ngòi, hồ nước.

- Phân tích và tổng hợp được
đặc điểm biến động (điều kiện
tự nhiên, tài nguyên, môi
trường) một số hồ nước và sông
ngòi khu vực ngoại thành Hà
Nội;

- Đã xây dựng bản đồ và đề
xuất định hướng sử dụng bền
vững các hồ nước, sông ngòi
thành phố Hà Nội;

- Đã định hướng giải pháp
giảm nhẹ thiên tai liên quan
với sử dụng không gian hồ
nước, sông ngòi thành phố Hà
Nội;

21


5

Sản phẩm 5. Cơ sở dữ liệu
trong môi trường GIS về các
hồ nước, sông ngòi khu vực
ngoại thành Hà Nội.

- Cơ sở dữ liệu được xây - Đã xây dựng được hệ thông
dựng trong trong môi bản đồ và cơ sở dữ liệu trong
trường GIS;
GIS.
- Tập hợp được các tài
liệu, số liệu, kết quả - Tập hợp được các tài liệu, số
liệu, kết quả chính trong đĩa
chính.
CD.

3.2. Hình thức, cấp độ công bố kết quả

TT


1
2
2.1
3
4
5
5.1

5.2

5.3

6
6.1

Ghi địa chỉ
và cảm ơn
sự tài trợ
Sản phẩm
của
ĐHQGHN
đúng quy
định
Công trình công bố trên tạp chí khoa học quốc tế theo hệ thống ISI/Scopus
Sách chuyên khảo được xuất bản hoặc ký hợp đồng xuất bản
Hệ thống sông hồ Hà Nội
Đã ký hợp đồng biên soạn
Đăng ký sở hữu trí tuệ
Bài báo quốc tế không thuộc hệ thống ISI/Scopus
Bài báo trên các tạp chí khoa học của ĐHQGHN, tạp chí khoa học chuyên

ngành quốc gia hoặc báo cáo khoa học đăng trong kỷ yếu hội nghị quốc tế
Đặng Văn Bào, Đặng Kinh Bắc, Tạp chí Khoa học ĐHQG Ghi địa chỉ
Phạm Thị Phương Nga, Nguyễn Hà Nội
và cảm ơn sự
Thị Phương. Lòng sông cổ ở Hà (Chấp nhận in)
tài trợ của
Nội: Tái hiện và định hướng quản
ĐHQGHN

đúng
quy
định
Đặng Văn Bào, Nguyễn Hiệu, Tạp chí Nghiên cứu địa lý Ghi địa chỉ
Đặng Kinh Bắc, Phạm Thị nhân văn; Số 4(7), 2014. và cảm ơn sự
Phương Nga, Giang Tuấn Linh. Trang 11-20.
tài trợ của
Cơ sở khoa học cho định hướng
ĐHQGHN
sử dụng hợp lý và bảo vệ môi
đúng
quy
trường hệ thống sông ngòi và hồ
định
nước thành phố Hà Nội.
Dang Kinh Bac, Nguyen Thi Ha The 35th Asian Conference Ghi địa chỉ
Thanh, Luong Thi Tuyet. on Remote Sensing 2014. và cảm ơn sự
Research on urban changes in a 27-31 Oct 2014, Nay Pyi tài trợ của
relationship with geographical Taw, Myanmar.
ĐHQGHN
factors in the western region of

đúng
quy
hanoi during the period 2000định
2014.
Báo cáo khoa học đăng trong kỷ yếu hội nghị quốc gia
Đặng Kinh Bắc, Đặng Văn Bào Kỷ yếu Hội nghị khoa học Cam kết địa
Nguyễn Hiệu, Phạm Phương Địa lý toàn quốc lần thứ 7; chỉ và cảm
Nga. Ứng dụng viễn thám và GIS NxB. Đại học Thái ơn duy nhất
trong nghiên cứu tái hiện sông Nguyên; trang 971 – 980. đề
tài
cổ và hệ thống hồ nước khu vực 2013
ĐHQGHN
Tình trạng
(Đã in/ chấp nhận in/ đã nộp
đơn/ đã được chấp nhận đơn
hợp lệ/ đã được cấp giấy xác
nhận SHTT/ xác nhận sử
dụng sản phẩm)

22

Đánh giá
chung
(Đạt,
không
đạt)

Đạt
Đạt


Đạt

Đạt

Đạt


thành phố Hà Nội.
6.2 Đặng Văn Bào, Nguyễn Quang Kỷ yếu Hội nghị khoa học Ghi địa chỉ
Anh, Đặng Kinh Bắc, Phạm Thị Địa lý toàn quốc lần thứ 8 - và cảm ơn sự
Phương Nga. Địa mạo và vị trí 2014, Nxb. Đại học Sư tài trợ của
định cư của người Việt cổ (lấy ví phạm Thành phố Hồ Chí ĐHQGHN
dụ khu vực phía bắc thành phố Minh; trang 191 - 201. đúng
quy
Hà Nội).
2014.
định
7 Báo cáo khoa học kiến nghị, tư vấn chính sách theo đặt hàng của đơn vị sử
dụng
8 Kết quả dự kiến được ứng dụng tại các cơ quan hoạch định chính sách hoặc cơ
sở ứng dụng KH&CN
3.3. Kết quả đào tạo
Thời gian và kinh phí
TT
Họ và tên
tham gia đề tài
(số tháng/số tiền)
Nghiên cứu sinh
1


Nguyễn Văn
12/20
Thảo
Hỗ trợ hoàn thiện cơ sở lý
luận và thực tế ứng dụng
viễn thám và GIS trong
nghiên cứu biến động
sông, hồ

Công trình công bố liên quan
(Sản phẩm KHCN, luận án, luận
văn)

Đạt

Đã bảo vệ

Dự thảo luận án: Nghiên cứu biến Chưa
động địa hình trong mối quan hệ vệ
với các hệ sinh thái vùng ven biển
tỉnh Quảng Ninh trên cơ sở ứng
dụng tư liệu viễn thám và GIS

bảo

Học viên cao học
1

Nguyễn
Quang Anh


6/20

Luận văn: Nghiên cứu địa mạo Đã bảo vệ
Tham gia trước và sau khi phục vụ xác định các điểm định cư
bảo vệ luận văn. Hiện của người Việt cổ khu vực huyện
chuẩn bị làm nghiên cứu Mê Linh – Đông Anh thành phố
Hà Nội. 2012
sinh theo hướng này.

2

Phan
Thị
6/25
Luận văn: Nghiên cứu địa mạo Đã bảo vệ
Thanh Hải
Tham gia trước và sau thổ nhưỡng phục vụ sử dụng hợp
lý tài nguyên môi trường đất ở khu
khi bảo vệ luận văn
vực núi Ba Vì và lân cận. 2012

3

Đặng Kinh
Bắc

6/25
Tham gia trước và sau
khi bảo vệ luận văn


Luận văn: Ứng dụng công nghệ Đã bảo vệ
viễn thám và GIS trong nghiên
cứu tái hiện hệ thống lòng cổ sông
Đáy, sông Nhuệ đoạn chảy qua
thành phố Hà Nội. 2012

Cử nhân
1

Nguyễn Thu
Phương

Khóa luận: Nghiên cứu nguồn gốc Đã bảo vệ
và định hướng sử dụng hợp lý các
hồ nước khu vực phía Tây Hà Nội.
23


×