Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Một số biện pháp dạy trẻ 5 6 tuổi là người dân tộc thiểu số nói tiếng việt rõ ràng qua hoạt động khám phá khoa học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.54 MB, 26 trang )

MỤC LỤC
STT
1

NỘI DUNG

TRANG

MỞ ĐẦU

1

1.1

Lý do chọn đề tài

1

1.2

Mục đích nghiên cứu

2

1.3

Đối tượng nghiên cứu

2

1.4



Phương pháp nghiên cứu

2

2

NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

4

2.1

Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm

4

2.2

Thực trạng vấn đề

5

2.3

Các biện pháp tiến hành giải quyết vấn đề

6

2.4


Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm

16

3

KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ

18


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài.
Năm học 2017- 2018 chuyên đề “Tăng cường tiếng việt “ là chuyên đề
trọng tâm của năm học. Việc t ăng cường các biện pháp chuẩn bị tiếng Việt cho
trẻ vùng dân tộc thiểu số đảm bảo tất cả trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số được
chuẩn bị tiếng Việt trước khi vào lớp 1 đây là một trong những nhiệm vụ trọng
tâm của trường mầm non có học sinh là người dân tộc thiểu số. Chính phủ đã ra
quyết định số 1008/ QĐ-TTg ngày 02/6/2016 của thủ tướng chính phủ phê duyệt
đề án “Tăng cường tiếng Việt cho trẻ Mầm non, học sinh tiểu học vùng dân tộc
thiểu số giai đoạn 2016-2020 định hướng đến năm 2025”. Trong những năm học
gần đây, chuyên đề giáo dục “Dạy tiếng viêṭ cho trẻ vùng dân tôc̣ thiểu số”. Được
xác định là chuyên đề trọng tâm trong các trường Mầm non vùng dân tộc thiểu số,
với mong muốn để thực hiện có hiệu quả ngày một nâng cao chất lượng sử dụng
tiếng Việt cho trẻ em là người dân tộc thiểu số.
Trong các môn học và các hoạt động hàng ngày ở trường mầm non. Đều có
sự rèn luyện phát triển ngôn ngữ tăng cường tiếng việt cho trẻ, để trẻ hiểu tiếng việt
(tiếng phổ thông) giúp trẻ tiếp thu kiến thức đảm bảo sự phát triển toàn diện ở trẻ,
cho trẻ được sử dụng ngôn ngữ để trò chuyện, đàm thoại nhiều nhất là bộ môn khám

phá khoa học.
Hoạt động khám phá khoa học có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự phát
triển tâm lý của trẻ lứa tuổi mầm non nói chung và độ tuổi mẫu giáo 5-6 tuổi nói
riêng. Vì vậy cho trẻ khám phá khoa học chính là tạo điều kiện, cơ hội và tổ
chức các hoạt động đế trẻ tích cực tìm tòi phát hiện về các hiện tượng sự vật
xung quanh. Đây thực chất là quá trình tạo ra môi trường hoạt động, tạo ra các
tình huống và tổ chức các hoạt động cho trẻ tiếp xúc, trải nghiệm với các sự vật
hiện tượng của môi trường xung quanh. Qua đó trẻ hiểu biết về đặc điểm, tính
chất, các mối quan hệ, sự thay đổi và phát triển của chúng giúp trẻ học được các
kỹ năng quan sát, phân nhóm, phân loại, đo lường, phán đoán và giải quyêt vấn
đề, chuyển tải ý kiến của mình và đưa ra kết luận về các sự vât hiện tượng đã
quan sát, tiếp xúc. Hoạt động cho trẻ tiếp xúc tìm tòi, khám phá môi trường
xung quanh giúp trẻ được tiếp xúc với môi trường tự nhiên và môi trường xã
hội, trẻ lĩnh hội những kiến thức sơ đẳng, những hiểu biết, những kinh nghiệm
để trẻ học cách làm người chính vì thế khi hướng dẫn cho trẻ làm quen với bất
kỳ một đối tượng nào của môi trường xung quanh tôi luôn cho trẻ quan sát, tiếp
xúc vào các hoạt động đối tượng nhiều lần bằng nhiều giác quan ( nhìn, nghe,
ngửi sờ, nếm ). Trên cơ sở đó trẻ mới hiểu biết đúng đắn về đối tượng, cho trẻ tự
nói lên những hiểu biếi về đối tượng. Qua đó, hiểu biết của trẻ về đối tượng
được củng cố và chính xác hơn ngôn ngữ được phát triển.
Cẩm Châu là một xã vùng cao nằm ở phía tây nam huyê ̣n Cẩm Thủy,
cuô ̣c sống của bà con nhân dân trong xã chủ yếu làm nghề nông nghiê ̣p với trên
90% dân số là người dân tộc thiểu số dân tộc mường và dân tô ̣c Dao. Trẻ mẫu
giáo ở nhà với ông bà, bố, mẹ, chủ yếu là giao tiếp bằng “Tiếng dân tôc̣ Dao,
1


Tiếng dân tôc̣ Mường” và khi trẻ đến trường trẻ nói được tiếng phổ thông,
nhưng sử dụng trong giao tiếp nói còn ngọng, chưa rõ ràng, trẻ thường nói trống
không nói chưa đủ thành phần ngữ pháp không đủ từ trong câu, có trẻ còn nói

tiếng dân tộc, nhất là trong quá trình đặt câu hỏi và trả lời câu hỏi sắp xếp từ trong
câu lộn xộn không đúng nghĩa, nên gă ̣p rất nhiều khó khăn trong viê ̣c giao tiếp và
tiếp thu kiến thức của trẻ.
Đối với trẻ em mầm non nói chung và trẻ 5- 6 tuổi nói riêng, trẻ rất nhạy
cảm với ngôn giao tiếp. Hoạt động khám phá khoa học là một quá trình tiếp xúc,
tìm tòi tích cực từ phía trẻ, nhằm phát hiện những cái mới, những cái ẩn dấu
trong sự vật, hiện tượng xung quanh. Chính vì vậy so với “làm quen” thì
“khám phá” bao gồm các hoạt động đa dạng, tích cực hơn, nội dung khám phá
cũng phong phú sâu sắc hơn.
Muốn nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ, trước hết phải giúp trẻ
tạo điều kiện cơ bản để các hoạt động hàng ngày trong trường mầm non được tổ
chức đạt hiệu quả cao nhất là hoạt động giao tiếp thường xuyên giữa cô và trẻ
cũng như hoạt động trẻ khám phá khoa học và trải nghiệm cùng bạn bè, nhất là
việc giúp giao tiếp, đặc biệt và việc giúp trẻ nói rõ ràng mạch lạc nói đủ câu từ
bằng tiếng Việt, khắc phục được việc nói trống không khi giao tiếp, hay nói chưa
đủ câu của trẻ đây là điều kiện cần thiết giúp trẻ trong việc giao tiếp với mọi
người xung quanh mạnh dạn, tự tin chuẩn bị tốt các điều kiện vào lớp 1 sau này
Vậy làm như thế nào để học sinh khi đến trường có thể giao tiếp với cô,
với bạn và với những người xung quanh bằng ngôn ngữ giao tiếp một cách
thành thạo, đủ từ trong câu, khắc phục được việc nói trống không, nói tiếng dân
tộc đặc biệt là giúp trẻ biết sử dụng tiếng việt bằng những từ ngữ mang tính giáo
dục từ suy nghĩ đó tôi đã chọn đề tài " Một số biện pháp dạy trẻ mẫu giáo 5- 6
tuổi là người dân tộc thiểu số nói rõ ràng, mạch lạc thông qua hoạt động
khám phá khoa học " để thực hiện trong năm học tìm ra các biện pháp tổ chức
hoạt động có hiệu quả khắc phục các tồn tại trong quá trình tổ chức hoạt động
dạy trẻ mẫu giáo 5- 6 tuổi là người dân tộc thiểu số biết sử dụng tiếng việt rõ
ràng mạch lạc trong giao tiếp.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Với đề tài này mục đích nghiên cứu nhằm để tìm ra các biện pháp tổ chức
phát triển ngôn ngữ giao tiếp cho trẻ dân tộc thiểu số lớp mẫu giáo 5- 6 tuổi

trường mầm non Cẩm Châu đạt hiệu quả.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Tổng hợp một số biện pháp dạy trẻ Mẫu giáo 5- 6 tuổi người dân tộc thiểu
số phát triển ngôn ngữ giao tiếp mạch lạc thông qua tiêt dạy khám phá khoa học.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Nghiên cứu tài liệu chuyên đề liên quan đến dạy trẻ phát ngôn ngữ mạch
lạc cho trẻ người dân tộc thiểu số, nghiên cứu tài liệu cho trẻ mầm non khám phá
2


môi trường xung quanh và các tài liệu liên quan đến công tác chăm sóc giáo dục
trẻ trong trường mầm non
Phương pháp điều tra khảo sát trẻ thực tế của lớp.
Phương pháp thống kê chất lượng của trẻ trước - trong và sau một thời
gian thực hiện. Để so sánh kết quả.
Phương pháp thực hành
Phương pháp trưc quan

3


2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Ở lứa tuổi mầm non đây là lứa tuổi trẻ học nói, chính vì vậy việc cung cấp
vốn từ tiếng Việt cho trẻ, đặc biệt là các trẻ dân tộc thiểu số hay sử dụng tiếng
mẹ đẻ của trẻ nên việc cho trẻ tiếp nhận tiếng phổ thông là vô cùng quan trọng.
Vì vậy việc cung cấp vốn từ tiếng phổ thông cần được quan tâm, nhằm hình
thành phát triển những kỹ năng cần thiết cho trẻ sau này.
Qua quá trình nghiên cứu về ngôn ngữ của trẻ dân tộc thiểu số, cho thấy
việc làm quen tiếng Việt và chuẩn bị tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số có tác

động rất lớn đối với sự phát triển toàn diện nhân cách trẻ sau này.
Quá trình học tiếng Việt của trẻ dân tộc thiểu số phụ thuộc rất nhiều vào
giáo viên. Vì trong mỗi chủ đề chủ điểm giáo viên sẽ dạy trẻ cái gì và cần dạy
như thế nào để trẻ dễ hiểu, dễ nhớ, hứng thú tham gia vào các hoạt động, phát
huy được tính tích cực chủ động sáng tạo ở trẻ.
Ngôn ngữ cho trẻ giao tiếp là một chủ thể tích cực, là tiền đề để trẻ tích
cực giao tiếp với bạn bè và chủ động giao tiếp. Trong cuộc sống hằng ngày,
chúng ta sử dụng lời nói để trò chuyện, đàm thoại, thảo luận, trình bày những
hiểu biết, suy nghĩ, giải thích một vấn đề nào đó trong cuộc sống như: Miêu tả
lại được sự việc, câu chuyện đã được nghe, được chứng kiến, hay tự mình nghĩ
ra, sáng tạo ra. Trẻ cần tập nghe, hiểu lời nói của cô của những người xung
quanh. Sau đó tập trình bày suy nghĩ và sự hiểu biết của mình theo ngôn ngữ
tiếng Việt.
Muốn phát triển ở trẻ kỹ năng, hiểu và nói được ngôn ngữ tiếng Việt,
trước hết phải cuốn hút trẻ tham gia vào hoạt động phát triển ngôn ngữ qua trò
chuyện, đàm thoại, và đặc biệt hơn để phát tiển ngôn ngữ cho trẻ dân tộc thiểu
số cho trẻ học thông qua khám phá khoa học là vô cùng quan trọng nhưng hình
thành như thế nào đây mới thật là điều không phải dễ.
Trẻ em mẫu giáo dân tộc thiểu số bắt đầu học tiếng Việt trên cơ sở kinh
nghiệm tiếng mẹ đẻ không phải là tiếng Việt. Môi trường giao tiếp tiếng Việt
của trẻ em mẫu giáo dân tộc thiểu số thu hẹp cả về mặt không gian lẫn thời gian
(trong phạm vi trường lớp mầm non).Việc học tiếng Việt của trẻ mẫu giáo dân
tộc thiểu số chịu ảnh hưởng của ngôn ngữ thứ nhất và sự giao thoa ngôn ngữ
giữa tiếng mẹ đẻ với tiếng Việt.
Sự khác biệt về văn hóa giữa các dân tộc, trong đó có khía cạnh ngôn ngữ
cũng ảnh hưởng tới việc học tiếng Việt của trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số. Sự khác
biệt về điều kiện sống của các dân tộc thiểu số có tác động nhất định đối với
việc học tiếng Việt của trẻ em mẫu giáo dân tộc thiểu số.
Một số dân tộc sống ở khu vực gần nơi có nhiều người Kinh sinh sống,
tiếng Việt trở thành ngôn ngữ giao tiếp chung giữa các dân tộc trong cộng đồng

4


đó nên việc học tiếng việt của trẻ có nhiều thuận lợi. Một số dân tộc sống ở vùng
sâu, điều kiện sống tách biệt, hoặc khu vực chỉ có một dân tộc thuần túy, không
có nhu cầu giao tiếp giữa các dân tộc với nhau và tiếng Việt không phải là ngôn
ngữ giao tiếp chung trong cộng đồng, chỉ sử dụng tiếng mẹ đẻ để giao tiếp nên
trẻ em ở môi trường này chỉ có duy nhất kinh nghiệm ngôn ngữ trong phạm vi
tiếng mẹ đẻ.
Bằng cách tiếp xúc với môi trường xung quanh mở ra cho trẻ cuộc sống
với xã hội và thiên nhiên các mối quan hệ xã hội qua lại của con người những
hình tượng đó giúp trẻ nhận thức được tính rõ ràng, chính xác của từ ngữ trong
khi trẻ khám phá.
Với nhiệm vụ khơi dậy tính tò mò ham hiểu biết của trẻ về khám phá thế
giới xung quanh thông qua cách cho trẻ học “chơi mà học và học bằng chơi”,
“Thế giới xung quanh”, “Lăng kính chủ quan” của trẻ tất cả đều mới lạ “Với biết
bao điều kì diệu”...luôn là những câu hỏi thắc mắc, là những điều trẻ luôn khao
khát muốn biết, muốn tìm hiểu và khám phá..
Chính vì vậy để chuẩn bị cho trẻ vào trường phổ thông thì ngay từ khi còn
ở trường mầm non phải trang bị cho trẻ phát triển ngôn ngữ đặc biệt là ngôn ngữ
giao tiếp mạch lạc.
2.2. Thực trạng vấn đề.
* Thuận lợi.
Bản thân là giáo viên là người dân tộc thiểu số lại là người dân tộc dao
hiểu được ngôn ngữ của trẻ vì ngôn ngữ của trẻ trong lớp toàn bộ là trẻ dân tộc
dao và dân tộc mường nên cô hiểu rất rõ về trẻ, đó cũng là một thuận tiện rất lớn
cho cô khi trẻ nói tiếng dân tộc trong những giờ học, giờ chơi thì cô có thể sữa
sai cho trẻ kịp thời, bản thân cô cũng có trình độ trên chuẩn về chuyên môn,
nhiệt tình yêu nghề mến trẻ, ở lớp trẻ có cùng một độ tuổi.
Được sự quan tâm tạo điều kiện của ban giám hiệu nhà trường, đầu tư về

cơ sở vật chất tương đối đầy đủ cho lớp .
Được sự quan tâm tín nhiệm và tin cậy sự phối hợp tích cực của phụ
huynh.
Được sự quan tâm của phòng giáo dục tổ chức lớp tập huấn chuyên đề
“Phát triển ngồn ngữ cho trẻ mầm non”
* Khó khăn.
Năm học 2017 - 2018 được sự phân công chủ nhiê ̣m lớp 5- 6 tuổi trẻ là
người dân tô ̣c Dao và dân tô ̣c Mường trẻ đã sử dụng tiếng phổ thông nhưng khi
giao tiếp trẻ thường nói trống không, nói thiếu thành phần ngữ pháp, nói lắp
không rõ ràng còn lẫn lộn giữa tiếng mẹ đẻ với tiếng phổ thông, dẫn đến giao
tiếp gă ̣p khó khăn.
Khi ở lớp trẻ chưa tự tin khi giao tiếp với cô giáo và các bạn.
5


Đồ dùng trực quan phục vụ cho quá trình khám phá khoa học chưa phong
phú, hấp dẫn về chủng loại, màu sắc, chưa đáp ứng được nhu cầu của trẻ.
Phụ huynh phần lớn là làm nông nghiệp, nên gặp rất nhiều khó khăn về
việc hỗ trợ đóng góp kinh phí để mua sắm đồ dùng trực quan cho trẻ được thực
hành, trải nghiệm.
Sân trường còn hẹp cho trẻ tham gia các hoạt động nên hạn chế nhiều
trong việc cho trẻ thực hành , trải nghiệm.
* Kết quả khảo sát thực trạng đầu năm.
TT

Tiêu chí

Đạt

Tổng

số trẻ

Chưa đạt

Số trẻ

%

Số trẻ

%

1

Nói thành thạo tiếng phổ thông

25

15

60%

10

40%

2

Trẻ thích khám phá khoa học


25

14

56%

11

44%

3

Trẻ thể hiện được ngôn ngữ nói
rõ ràng mạch lạc

25

13

52%

12

48%

Nhìn vào kết quả kháo sát số trẻ biết sử dụng tiếng phổ thông khi giao tiếp
còn hạn chế rất nhiều
2.3. Các biện pháp tổ chức thực hiện.
2.3.1. Biện pháp 1: Xây dựng môi trường cho trẻ được KPKH sử
dụng ngôn ngữ nói tiếng việt.

Xây dựng môi trường cho trẻ hoạt động là rất cần thiết, đặc biệt là môi
trường cho trẻ được thường xuyên tiếp xúc với môi trường xung quanh bằng vật
thật thông qua các hoạt động thực tiễn nhằm giúp trẻ phát tiển ngôn ngữ tiếng
Việt chính xác hơn.
Như chúng ta đều biết: Trẻ mầm non nói chung và đặc biệt là trẻ 5- 6 tuổi
nói riêng, môi trường học tập có vị trí to lớn trong việc nhận thức của trẻ, vì môi
trường học tập là nơi để trẻ tiếp xúc hằng ngày, hàng giờ. Bởi vậy, tôi đã tổ chức
xây dựng môi trường có tác động mạnh mẽ lên trẻ, tạo cho trẻ hứng thú, thích
thú, thích tò mò, thích tìm hiểu khám phá thế giới xung quanh trẻ. Từ đó giúp trẻ
sử dụng ngôn ngữ tiếng việt, vận dụng vào việc học tốt môn học.
Thực tế lớp tôi đã được nhà trường trang bị đồ dùng đồ chơi song vẫn còn
thiếu một số đồ dùng như: đồ dùng để thí nghiệm,....Các mẫu đồ chơi chưa hấp
dẫn trẻ góc thiên nhiên còn nghèo số cây ít, các loại cây chưa phong phú nhất là
các đồ dùng cho trẻ làm thí nghiệm thực hành, không gian để trẻ thực hành còn
chật hẹp….Trước yêu cầu thực tế trong quá trình giảng dạy môn khám phá khoa
học tôi luôn băn khoăn trăn trở muốn giờ học đạt kết quả cao thì yêu cầu giáo
viên phải có đầy đủ đồ dùng học tập và tạo ra môi trường học tập của trẻ phải
6


thật tốt từ đó tôi đã đặt ra cho mình kế hoạch làm đồ dùng đồ chơi phục vụ cho
giảng dạy bằng các biện pháp sau:
Ngay từ đầu năm học tôi mạnh dạn đề xuất với ban giám hiệu nhà trường
trang bị thêm cho các lớp các thiết bị đồ dùng dạy học như ti vi, bảng, tranh ảnh
lô tô, và một số các mô hình mô phỏng để phục vụ dạy học. Tôi đã thay đổi lại
môi trường học tập trong lớp tạo ra môi trường đẹp hấp dẫn trẻ bằng cách tôi tìm
hiểu yêu cầu của các chủ đề căn cứ vào cấu trúc phòng học của lớp mình đặc
điểm tâm sinh lý của lứa tuổi 5- 6 tuổi để tạo môi trường đẹp xung quanh trẻ. Để
gây ấn tượng cho trẻ tôi sưu tầm thiết kế các hình ảnh ngộ nghĩnh đáng yêu có
mầu sắc đẹp, bố cục hợp lý và đặt tên thật ngộ nghĩnh phù hợp với tâm lý của trẻ.

Ví dụ: Mảng chủ đề tôi trang trí ở vị trí chính để trẻ dễ nhìn thấy, nội
dung của các mảng chủ đề thường tổng hợp các hình ảnh về chủ như chủ đề gia
đình. Mở đầu chủ đề tôi chuổn bị các điều kiện trang trí nhóm lớp ở các góc, tạo
điều kiện cho trẻ được quan sát khám phá tôi chú ý đặt các câu hỏi cho trẻ trả lời
bằng tiếng phổ thông, có thể trẻ tự khám phá, quan sát miêu tả sự vật tôi chú ý
sửa sai cho trẻ để trẻ phát âm tiếng việt rõ ràng mạch lạc.

Hình ảnh cô và trẻ trong tiết học khám phá các thành viên trong gia đình

Ví dụ: Khi trẻ quan sát tranh ảnh về" gia đình" trong chủ điểm gia đình
trẻ dân tộc mường hay gọi bố là “ Pác” cô sữa sai ngay cho trẻ phát âm từ
“Pác" thành từ “Bố” nhé, bố con làm nghề gì? nghề đấy tạo ra sản phẩm gì?
Hay cô chỉ vào hình ảnh người mẹ thì các trẻ dân tộc dao hay nói đó là “ Ông
mạ” nghĩa là “Mẹ” cô sữa được các từ trẻ hay dùng ở nhà để trẻ tránh được
7


trong khi trẻ đàm thoại với cô, tương tự các chủ điểm khác cô cũng có các bức
tranh về chủ đề chủ điểm để trẻ được tự quan sát miêu tả phát âm tiếng việt rõ
ràng mạch lạc.

Hình ảnh một số đồ dùng trong gia đình

Ví dụ: Cũng ở chủ điểm gia đình bản thân tôi cũng đã làm thêm đồ dùng tự
tạo để bổ sung vào các góc và các tiết dạy khám phá khoa học với những đồ dùng
tự tạo này tôi đã vận dụng vào tiết dạy khám phá một số loại đồ dùng trong gia
đình: Khi khám phá một số loại đồ dùng trong gia đình cô đưa ra câu hỏi:
Đây là cái gì?(cái nồi)
Trẻ dao trả lời: “ Nom xoang” cô sửa sai ngay cho trẻ đọc từ “nom xoang”
từ tiếng mẹ đẻ thành từ “Cái nồi” của tiếng phổ thông các con nhé.

Và cô lại hỏi : Cái nồi dùng để làm gì?(Nấu cơm)
Trẻ dân tộc dao trả lời: “Chấu hẳng” cô sửa sai ngay cho trẻ phát âm từ
“Chấu hẳng” thành từ “Nấu cơm” khi trẻ nói như vậy thì tôi sửa lại và cho cá
nhân trẻ và cả lớp đọc lại để trẻ khắc sâu từ ngữ tiếng việt. Ngoài ra các đồ
dùng, đồ chơi tôi cũng gắn các từ tiếng việt vào để giúp trẻ nhận biết các chữ cái
đã học gắn với từ tiếng việt, với các loại đồ dùng cô đã gắn từ thì cô chỉ hướng
dẫn một hai lần tên đồ dùng, thì lần sau trẻ sẽ tự tìm được đồ dùng mà cô yêu
cầu và trẻ sẽ nói cho nhau biết về tên đồ dùng đó. Tạo cho trẻ giao tiếp với nhau
bằng tiếng việt dễ dàng.
Với các chủ đề khác tôi cũng làm như vâ ̣y và đã phát huy được khả năng sử
dụng tiếng viê ̣t của trẻ đạt kết quả cao góp phần làm cho trẻ em dân tô ̣c thiểu số
và đă ̣c biê ̣t là trẻ em người dân tộc “Dao” ở quê tôi không còn lạ lẫm với tiếng
8


phổ thông khi giao tiếp với mọi người xung quanh như ông bà, bố mẹ và mọi
người xung quanh, mà trẻ tự tin hơn, mạnh dạn hơn, để trả lời bằng tiếng phổ
thông (tiếng việt)
Để tạo cho trẻ có môi trường và không gian tiếp xúc với các sự vật hiện
tượng một cách tốt nhất tôi đã chú trọng đến việc xây dựng góc thiên nhiên cho
trẻ. Cho trẻ được hoạt động chăm sóc cây, nhặt cỏ, tưới nước, lau lá cây làm các
thí nghiệm… Tôi đã sưu tầm các loại cây để cô và trẻ trồng như: Cây hoa, rau,
các chậu cây cảnh …và lớp tôi đã trồng được các loại cây và hoa như cây hoa
cúc, hoa đồng tiền, cây hoa dừa… Hàng ngày cô hướng dẫn trẻ chăm sóc cây
tưới nước, lau lá cây
Ví dụ: Khi hướng dẫn trẻ chăm sóc cây cô hỏi: Đây là cây hoa gì? Trẻ dân
tộc Dao trả lời “Trùng đẻng” cô sửa sai cho trẻ và phát âm từ “trùng đẻng”
thành từ “cây hoa cúc” cô cho trẻ phát âm lại để trẻ khắc sâu từ ngữ tiếng việt.
Nhà bạn nào trồng hoa như thế này? Trẻ dân tộc Dao trả là “chuổng” có
nghĩa là “trồng” cô sửa sai phát âm từ “chuổng” thành từ “trồng” và cho trẻ

phát âm lại bằng tiếng việt.
Trồng hoa để làm gì? Trẻ dân tộc Dao trả lời “pun ruội” có nghĩa là “làm
cảnh” cô cũng sửa sai và phát âm lại cho trẻ bắt trước theo cô
Qua góc thiên nhiên này tôi thấy trẻ được trực tiếp với các sự vật trẻ hứng
thú học tập và nhận thức sâu sắc về các hiện tượng từ đó vốn từ của trẻ được mở
rộng hơn.

Hình ảnh: Cô và trẻ chăm sóc cây ở góc thiên nhiên

2.3.2. Biện pháp 2: Chuẩn bị đầy đủ các điều kiện trong giờ hoạt động
khám phá khoa học.
9


Với đặc điểm tâm lý “Học bằng chơi, chơi mà học”. Trẻ 5- 6 tuổi tư duy
của trẻ là tư duy trực quan hành động, trẻ tri giác dưới đồ vật, sự vật qua các
hình ảnh, vật thật và nếu tổ chức cho trẻ tri giác quan sát các sự vật dưới nhiều
hình thức khác nhau thì trẻ hứng thú học tập và tiếp thu bài học tôt hơn, bằng
kinh nghiệm giảng dạy của bản thân tôi thấy nếu một tiết học đơn thuần cô chỉ
cung cấp kiến thức cô đưa tranh ra cho trẻ quan sát, đàm thoại và cung cấp kiến
thức cho trẻ thì tiết học trẻ học buồn chán, trẻ không tập trung, nhưng cũng tiết
học đó mà thay đổi hình thức dạy dưới các dạng trò chơi hay các hình thức thi
đua trẻ học tốt hơn nhất là môn khám phá khoa học thì yêu cầu cần phải chuẩn
bị tốt các điều kiện như đồ dùng dạy học và các không gian để để trẻ được thực
hành và trải nghiệm nhiều. Xuất phát từ tình hình trên tôi luôn luôn đặt ra cho
mình là phải luôn đổi mới các hình thức tổ chức và các thủ thuật khác nhau khi
cho trẻ làm quen khám phá khoa học. Tuỳ vào mỗi yêu cầu bài dạy tôi tổ chức
các dạy tiết học dưới các hình thức khác nhau. Như với bài cho trẻ quan sát các
con vật, các cây, các loại hoa quả thì tôi có thể chuẩn bị bằng vật thật hoặc tranh
ảnh và tổ chức dưới các dạng trò chơi để trẻ vừa chơi vừa quan sát tri giác các

sự vật hiện tượng một cách tôt nhất. Hay tổ chức cho trẻ làm các thí nghiệm thì
tôi chia trẻ về các nhóm để trẻ cùng nhau làm và khi tiến hành làm thí nghiệm
tôi cho trẻ dự đoán hiện tượng gì sẽ sảy ra trước, trong và sau khi làm thí
nghiệm. Như thế sẽ phát huy được tính mò, chủ động, khả năng tích cực hoạt
động và lòng ham hiểu biết của trẻ từ đó trẻ được giao tiếp với nhau và vốn từ
tiếng việt của trẻ được mở rộng.
Ví dụ: Đề tài tìm hiểu một số con vật sống dưới nước tôi chuẩn bị tạo một
ao cá nhỏ ngoài trời bằng cách tôi xếp các viên gạch thành hình tròn tạo độ sâu
khoảng 35cm sau đó kiếm một tấm bạt trải chùm bao bọc hình tròn sau đó đổ
nước vào cô đã có một ao cá nhỏ có các con vật như: con cua, con ốc, con cá
thật đang bơi dưới bể nước kèm theo một số con cá bằng nhựa để cho trẻ chơi
câu cá.

10


Hình ảnh : Trẻ vừa chơi vừa học khám phá một số con vật sống dưới nước.

Ví dụ: Trong tiết dạy khám phá một số con vật sống dưới nước tôi tổ chức
dưới dạng vừa chơi vừa học bên cạnh ao cá nhỏ như hình ảnh trên cho trẻ thi đố
vui hai đội ra câu đố cho nhau và giải câu đố của đội bạn
“ Nhà hình xoắn, ở dưới ao
Chỉ có một cửa ra vào mà thôi
Mang nhà đi khắp mọi nơi
Không đóng cửa nghỉ ngơi một mình”
Là “Con ốc” nhưng trẻ dân tộc dao lại gọi là “Nom quây” cô cần sữa
ngay bằng cách cho trẻ phát âm lại là đây là “Con ốc ” và sau đấy cho các trẻ
khác phát âm lại để tránh các trẻ khác lại phát âm sai.
“ Con gì đầu bẹp
Hai ngạnh hai bên

Râu ngắn vểnh lên
Mình trơn bóng nhờn”
“Con cá trê” cô đố con gì trẻ dân tộc Dao lại gọi là “Tàu beo”, trẻ dân
tộc Mường lại gọi là “Cà khiên” Khi nghe trẻ trả lời như vâ ̣y tôi sẽ cho 1 trẻ
khác nói lại bằng tiếng phổ thông 1- 2 lần tôi sẽ củng cố lại sau đó tôi cho cả lớp
11


nhắc lại bằng tiếng phổ thông “Con cá trê’’ và trực tiếp cho những trẻ nói sai
phát âm lại 3 lần
Tuy trẻ đọc câu đố rất vui vẻ hào hứng và trả lời bằng ngôn ngữ dân tộc
mình một cách hồn nhiên không hiểu được mình phát âm sai hay đúng. Cô luôn
là người gợi mở giải thích để trẻ hiểu, khám phá kích thích tư duy và giúp trẻ
phát âm đúng tiếng phổ thông phong phú vốn từ cho trẻ.
Ví dụ: Chủ đề thế giới thực vật, nhánh một số loài hoa Cô cho trẻ khám
phá một số loại hoa: Cô đặt các câu hỏi để trẻ nhận biết tên hoa, màu sắc, tác
dụng của hoa. Khi trẻ trả lời một số trẻ trả lời bằng tiếng dân tộc thì cô cũng sửa
sai ngay cho trẻ như: Trẻ dân tộc dao gọi tên hoa và một số đặc điểm của hoa
bằng tiếng dân tộc của mình thì cô yêu cầu trẻ nhắc lại các từ bằng tiếng việt
như: trẻ nói “Nom pèm” cô yêu cầu trẻ nhắc lại đây là “Hoa hồng” và yêu cầu
cả lớp nhắc lại đồng thời cho một số trẻ có khả năng nói được tiếng việt trình
bày các đặc điểm của các loài hoa mà cô đang cho trẻ khám phá để kích thích
các trẻ khác thích được nói giống như bạn. Thực hiện như vậy sẽ rèn được khả
năng nói tiếng việt cho trẻ

Hình ảnh: Cô và trẻ trong giờ học khám phá một số loại hoa

Thông qua việc chuẩn bị đầy đủ các điều kiện trong giờ hoạt động khám
phá khoa học tôi thấy tiết học có hiệu quả hơn tiết học trở nên sôi nổi và trẻ
hứng thú học bài hơn. Cùng với việc linh hoạt, sáng tạo trong hình thức tổ chức,

đổi mới và nâng cao chất lượng trong phương pháp giảng dạy, tôi nhận thấy cần
tạo điều kiện cho trẻ được tiếp xúc nhiều hơn với môi trường xung quanh, để
12


cho trẻ được giao tiếp với nhau, qua các tiết dạy đó cô giúp trẻ phát triển ngôn
ngữ nói rõ ràng mạch lạc.
2.3.3. Biện pháp 3. Tổ chức cho trẻ khám phá khoa học mọi lúc, mọi
nơi nhằm tăng vốn từ tiếng việt cho trẻ.
Không chỉ dừng lại ở việc cho trẻ khám phá những sự vật, hiện tượng xung
quanh cuộc sống bằng những phương pháp thực hiện trên tiết học mà tôi tận
dụng tất cả các hình thức ở mọi lúc mọi nơi mà tôi cảm thấy hợp lí để giúp trẻ
khắc sâu hơn, hiểu sâu hơn các sự vật hiện tượng mà trẻ chưa được khám phá và
trải nghiệm cụ thể :
Tạo điều kiện cho trẻ thường xuyên tiếp xúc với các sự vật hiện tượng
chính là cho trẻ thường xuyên hoạt động với các sự vật hiện tượng xung quanh
một cách trực tiếp như nhìn, sờ, nắn, ngửi, nếm, nghe, chơi với chúng…Trong
quá trình hoạt động đó trẻ được bộc lộ mình vừa được hình thành và phát triển
tâm lý, khi tiếp xúc với các sự vật hiện tượng xung quanh trẻ được lĩnh hội
những kinh nghiệm xã hội của loài người chứa trong các sự vật hiện tượng, các
mối quan hệ của con người trẻ học được cách gọi tên, cách sử dụng, biết được
các đặc điểm thuộc tính, mối quan hệ của các sự vật hiện tượng rộng phát triển
mở mở rộng vốn từ của trẻ. Xuất phát từ đặc điểm trên trong quá trình giảng dậy
hàng ngày tôi luôn tạo cho trẻ các cơ hội để trẻ được tiếp xúc với các sự vật hiện
tượng một cách tốt nhất thông qua các hoạt động hàng ngày của trẻ như giờ đón
trả trẻ, giờ dạo chơi thăm quan, hoạt động ngoài trời và các hoạt động khác bằng
các hình thức cho trẻ quan sát vật thật, tranh ảnh, băng hình, hoặc thăm quan
trưc tiếp như trong giờ đón trẻ, trả trẻ tôi trò chuyện với trẻ về các công viêc
hàng ngày của trẻ ở nhà, những người thân trong gia đình, công việc của bố mẹ
của cô giáo, các phương tiện hàng ngày bố mẹ đưa trẻ đến lớp. hàng tháng tôi tổ

chức cho trẻ thăm quan các công việc của bác cấp dưỡng của cô giáo. Tổ chức
cô trẻ cùng nhau lao động lau chùi dồ dùng đồ chơi, chăm sóc góc thiên nhiên
trẻ biết tác dụng của đất và nước đối với cây, giúp đỡ bạn khi bạn gặp khó khăn.
Qua các công việc này trẻ rất hứng thú tham gia qua đó giúp trẻ hiểu sâu sắc về
con người lao động: Đó là ai? làm gì? ở đâu? Trẻ phải có thái độ như thế nào với
người đó và sản phẩm của họ. Trong hoạt động ngoài trời đây là cơ hội trẻ được
tiếp xúc với các sự vật hiện tượng và được trải nghiệm nhiều nhất ở hoạt động
này tôi luôn chuẩn bị tốt các đồ dùng cho trẻ quan sát trực tiếp hoặc qua tranh ảnh
Ví dụ : Thông qua giờ đón trẻ:

13


Hình ảnh giờ đón trẻ

Thông qua giờ đón, phụ huynh đưa trẻ đến lớp trẻ dân tộc mường chào cô:
“Con cháo cô dào” Khi cô nghe trẻ chào cô như vậy thì cô cần nói lại cho trẻ
học theo bằng tiếng việt: “Con chào cô giáo”, và nhắc trẻ hôm sau khi đến lớp
các con phải sử dụng đúng từ ngữ tiếng việt để chào cô nhé .
Ví dụ: Khi thực hiện về chủ điểm thực vật tôi cho trẻ đi thăm quan khu
vườn trường tạo cơ hội cho trẻ được quan sát và tri giác các loại cây, hoa, rau
trong vườn trường qua các buổi học tôi đều đặt ra cho trẻ các nhiệm vụ và yêu
cầu cho trẻ như trẻ phải nêu được tên gọi, đặc điểm của các loại cây, hoa, sự
giống và khác nhau của các cây, hoa… Sau khi giao nhiệm vụ tôi thấy các cháu
chú ý nhìn quan sát và sờ, ngửi.. sau đó trả lời các câu hỏi một cách tích cực và
hứng thú học tập giờ học đạt kết quả cao. Trong các buổi chơi cũng là cơ hội
giúp trẻ tiếp xúc và quan sát, tri giác rất nhiều các sự vật các công việc làm, mối
quan hệ của con người trong xã hội như thông qua trò chơi phân vai, hoăc trò
chơi học tập như chiếc túi kỳ lạ hoặc trò chơi “ Hoa nào quả ấy ” trẻ quan sát và
đoán tên hoặc chọn quả tương ứng hay trò chơi “tôi là ai” tập cho trẻ tả bạn trai

hay bạn gái dựa vào việc quan sát và trả lời của bạn…
Qua việc tạo các điều kiện cho trẻ tiếp xúc các sự vật hiện tượng và môi
trường xunh quanh trẻ tôi thấy nhận thức của trẻ được mở rộng, khả năng quan
sát, tri giác của trẻ phát triển tốt đa số trẻ thể hiện được tính tích cực chủ động
khi quan sát đối tượng trong quá trình quan sát trẻ tỏ ra nhanh nhẹn linh hoạt và
phát triển nhiều vốn kinh nghiệm và nhất là vốn từ của trẻ trở nên phong phú
hơn khả năng diễn đạt tổt hơn.

14


Ví dụ : Khi dạy trẻ quan sát “Vườn rau xà lách’’ cô tiến hành các bước
như cho trẻ hát bài hát : Đi chơi, cho trẻ đi một vòng quanh vườn rau xà lách, cô
đưa ra câu hỏi, các con xem chúng ta đang đứng trước vườn rau gì đây? Vườn
rau xà lách ạ, có bạn dân tộc Dao thì lại nói từ “Rau xà lách ” là “Lày nhiêm”,
cô sửa sai các con phải đọc đây là “Rau xà lách”, và cho cả lớp phát âm lại, bạn
nào có nhận xét gì về rau xà lách nào? Một số trẻ dân tộc Mường hiếu động hay
nói truyện với nhau “Sâu xà lách” có nghĩa là “Rau xà lách” khi cô nghe như
vậy thì cô cần nói lại cho trẻ học theo, trong vườn có nhiều rau hay ít rau thì trẻ
thấy cả vườn rau nên trẻ sẽ trả lời nhiều rau, từ đó cô yêu cầu các trẻ phát âm lại
“Ôi có rất nhiều rau” cô vừa nghe một số bạn sử dụng tiếng mường để nói trong
vườn nhiều rau đấy các con phải sử dụng đúng từ ngữ tiếng việt khi đến lớp.

Hình ảnh: Cô và trẻ quan sát vườn rau trường

Biện pháp dạy tiếng việt bằng việc lồng ghép các hoạt động khác và ở mọi
lúc mọi nơi cũng là trong những biện pháp mang lại hiệu quả cao cho tiết dạy
Trong quá trình trò truyện với trẻ cô chú ý sửa ngay cho trẻ để trẻ sử dụng
ngôn ngữ đúng
Qua cách làm này, bước đầu tôi đã thành công trong việc thực hiện dạy

khám phá khoa học sử dụng ngôn ngữ nói tiếng việt rõ ràng mạch lạc, miệng nói
tai nghe, tay sử dụng, thông qua trả lời các câu hỏi cô đưa ra.
2.3.4. Biện pháp 4: Phối kết hợp với phụ huynh.
Để nâng cao chất lượng hoạt động của trẻ trong trường mầm non để có sự
giáo dục toàn bộ giữa gia đình và nhà trường là một việc làm hết sức cần thiết
tôi thấy rằng tất cả mọi khó khăn trong học tập không thể thiếu được vai trò giải
quyết khó khăn của phụ huynh vì thế ngay từ đầu năm học để phụ huynh hiểu
15


thêm về các hoạt động của trẻ trong trường mầm non trường tôi đã tổ chức họp
phụ huynh và tuyên truyền đến các bậc phụ huynh.

Hình ảnh: Cô tuyên truyền với phụ huynh

Trong cuộc họp phụ huynh đầu năm tôi nên quan tâm về lĩnh vực phát
triển ngôn ngữ cho trẻ, trong các tiết học khám phá khoa học, nhờ phụ huynh
giúp trẻ khám phá thêm ở nhà. Hàng tháng tuyên truyền với phụ huynh thông
qua các biểu bảng nêu trên lên nội dung về chủ điểm, về các tiết dạy của cô và
trẻ. Qua đó phụ huynh thấy được ngôn ngữ của trẻ phát triển như thế nào và có
biện pháp kích thích sự phát truyển ngôn ngữ cho trẻ tại gia đình .
Bản thân tôi là một cộng tác viên tuyên truyền của nhà trường ngoài việc
tuyên truyền các chuyên đề của nhà trường giao về lớp tôi đã làm tốt công tác
tuyên truyền tới các bậc phụ huynh như thường xuyên trao đổi về tình hình sức
khoẻ của trẻ, tình hình học tập của trẻ đặc biệt qua các buổi đón, trả trẻ tôi đã
trao đổi với các bậc phụ huynh về trang thiết bị đồ dùng đồ chơi mà nhà trường
đã cấp nhu cầu lớp còn thiếu những gì từ đó vận động các bậc phụ huynh cùng
tham gia đóng góp thêm các loại đồ dùng như có phụ huynh đã sưu tầm các loại
tranh ảnh về các con vật, hoa quả, một số lanh lan thắng cảnh để ủng hộ, có bậc
phụ huynh đã ủng hộ các cây cảnh, cây hoa và một số loại cây ăn quả để trồng ở

vườn trường và góc thiên nhiên. Qua tìm hiểu về nghề nghiệp của bố mẹ trẻ tôi
đã nắm được nghề của bố mẹ trẻ từ đó tôi có kế hoạch gặp gỡ và trao đổi nhờ
các bậc phụ huynh sưu tầm những vật liệu hỏng bỏ đi để gom lại mang về làm
đồ chơi như bố cháu Vân Anh làm thợ mộc nhờ bác sưu tầm các khối gỗ để làm
đồ chơi xếp nhà, xếp ô tô...Hàng ngày trước khi dạy một bài tìm hiểu nào tôi
thường xuyên trao đổi với các bậc phụ huynh về bài học ngày hôm nay về nhà
16


các bậc phụ huynh cùng trò chuyện với trẻ về bài học hoặc có thể cung cấp cho
trẻ một số kiến thức để cho trẻ học tập tốt hơn.
Tôi đã vận động các bậc phụ huynh mang các loại vỏ chai nhựa, hộp sữa,
các lon nước ngọt hay lon bia, các lọa nắp chai, các loại hột hạt.....Để cô dùng
làm đồ chơi tự tạo thêm đồ dùng đồ chơi bổ sung vào các giờ học khám phá
khoa học cho trẻ thêm phong phú.
Như vậy với biện pháp trên tôi đã giúp phụ huynh nhận thức đúng đắn về
tầm quan trọng của việc cho trẻ khám phá khoa học từ đó tôi đã khuyến khích
phụ huynh mang các loại phế thải bằng nhựa đến để cô làm đồ dùng, đồ chơi
phục vụ cho các tiết học khám phá khoa học.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
Qua quá trình nghiên cứu và thực hiên các biện pháp trên dạy lớp mẫu
giáo 5-6 tuổi phát triển ngôn ngữ giao tiếp qua Khám khoa học cho trẻ tôi rút ra
những bài học kinh nghiệm sau:
* Đối với trẻ:
Kết quả khảo sát thực hiện đến cuối năm đạt được kết quả như sau:
Stt

Tiêu chí

Tổng

số

Đạt

Chưa đạt

Strẻ

%

Strẻ

%

1

Nói thành thạo rõ ràng tiếng
phổ thông

25

25

100%

0

0

2


Trẻ thích khám phá khoa học

25

25

100%

0

0

3

Trẻ thể hiện ngôn ngữ nói
mạch lạc

25

25

100%

0

0

Kết quả cho thấy cuối năm học trẻ đã sử dụng thành thạo ngôn ngữ nói
tiếng việt (tiếng phổ thông) khi giao tiếp, thích tìm tòi, khám phá các sự kiện và

hiện tượng mà trẻ được học theo sự tưởng tượng của trẻ, khả năng sử dụng câu
đủ thành phần khi giao tiếp với mọi người được thực hiện thường xuyên, ngôn
ngữ nói rõ ràng, mạch lạc được sử dụng nhiều để trẻ giao tiếp với cô và với mọi
người gần gũi xung quanh một cách mạnh dạn tự tin hơn. Đó cũng là tiền đề tốt
cho trẻ chuẩn bị lên lớp 1.
* Đối với cô
Cô giáo phải đi sâu nghiên cứu để tạo ra được môi trường sống tốt cho trẻ hoạt
động một cách tích cực nhất, biết tạo ra các tình huống có vấn đề để trẻ được
khám phá.
Thường xuyên trò chuyện với trẻ, tạo cơ hội cho trẻ được khám phá thế
giới xung quanh, để trẻ giao tiếp cô quan sát giúp trẻ sửa sai kịp thời.

17


Khuyến khích trẻ nói những ý nghĩ của trẻ qua nội dung hay chủ điểm
nào đó nhằm giúp trẻ luyện cách trình bày, diễn đạt theo nội dung khám phá.
Cho trẻ tham quan, hướng dẫn tự quan sát sự vật, hiện tượng nhằm mở
rộng vốn hiểu biết cho trẻ, kết hợp đàm thoại để trẻ hiểu sâu bản chất của sự vật
hiện tượng và nói lên nhận xét của mình.
Mở rộng vốn hiểu biết cho trẻ và khuyến khích cho trẻ sử dụng vốn từ
tiếng việt cho trẻ học được trong các hoạt động khác nhau, đặc biệt qua các tiết
học khám phá khoa học, trò chuyện, đàm thoại giữa cô và trẻ, trẻ với trẻ.
Phát truyển ngôn ngữ nói tiếng việt cho trẻ qua hoạt động khám phá khoa
học là một viêc rất thiêt thực nhất trong chương trình đổi mới hiện nay, đòi hỏi
cô giáo phải có sự sáng tạo linh hoạt khi dạy trẻ, phải có sự kiên trì rèn luyện
giữa cô và trẻ thì sẽ đem lại kết quả cao.
*Đối với phụ huynh:
Thông qua việc ủng hộ nguyên vật liệu, kết hợp với cô để làm đồ dùng,
đồ chơi phục vụ cho các tiết học phụ huynh cũng nhận thấy con em mình đã

được mở rộng thêm rất nhiều về vốn từ tiếng việt khi giao tiếp với mọi người
xung quanh
  Phụ huynh rất phấn khởi khi nhận thấy con em mình đã có nhiều tiến bộ
trong học tập cũng như giao tiếp. Từ đó họ có tầm nhìn đúng đắn về cách giáo
dục con em mình, trang bị những hiểu biết về thế giới xung quanh mọi lúc mọi
nơi, người lớn có thể quan tâm chơi cùng trẻ nhiều hơn cùng trẻ khám phá mọi
vật và hiện tượng thông qua vật thật từ đó có cách giáo dục hiệu quả nhất.

3. KÉT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:
Phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ qua các hoạt động dạy trẻ khám phá
khoa học là một viêc rất thiêt thực nhất trong chương trình đổi mới hiện nay, đòi
hỏi cô giáo phải có sự sáng tạo, linh hoạt khi dạy trẻ, phải có sự kiên trì rèn
luyện giữa cô và trẻ thì sẽ đem lại kết quả cao.
Kết quả cho thấy cuối năm học trẻ đã sử dụng ngôn ngữ nói rõ ràng, mạch
lạc khi học các tiết học khám phá khoa học và khi giao tiếp, thích được quan
sát,khám phá các sự vật và hiện tượng mà trẻ được quan sát theo sự tưởng tượng
18


của trẻ khả năng sử dụng ngôn ngữ nói tiếng việt câu đủ thành phần khi giao tiếp
với mọi người được thực hiện thường xuyên một cách lưu loát hơn.
3.2. Kiến nghị.
* Đối với nhà trường:
Cần làm tốt hơn nữa về công tác xã hội hóa giáo dục để tạo điều kiện hỗ
trợ thêm về cơ sở vật chất, xây dựng thêm phòng học, mở rộng khuôn viên nhà
trường, mua sắm thêm đồ dùng trực quan, đồ dùng, đồ chơi… Để phục vụ cho
các hoạt động của cô và trẻ ở trường.
* Đối với phòng giáo dục:
Cung cấp thêm tài liệu có liên quan đến nội dung, phương pháp, hình

thức giáo dục phát triển ngôn ngữ cho trẻ trong trường mầm non, để giáo viên
nghiên cứu tìm hiểu thêm trong quá trình tự học, tự bồi dưỡng.
Tiếp tục mở các lớp chuyên đề phát triển ngôn ngữ cho trẻ dân tộc thiểu
số để tất cả giáo viên nghiên cứu tìm hiểu thêm trong quá trình tự học.
Trên đây là môt số kinh nghiệm "Dạy lớp mẫu giáo 5-6 tuổi là người dân
tộc thiểu số nói rõ ràng, mạch lạc thông qua hoạt động khám phá khoa học"
Tôi đã áp dụng đạt hiệu quả cao tại lớp mẫu giáo 5-6 tuổi trường mầm non Cẩm
Châu - Cẩm Thủy.
Cẩm châu, ngày 10 tháng 03 năm 2018
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
Người viết sáng kiến

Triệu Thị Thơ

Tài liệu tham khảo
1. Chương trình giáo dục mầm non (Nhà xuất bản giáo dục)
2. Nhứng vấn đề chung về phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non
3. Nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục phát triển ngôn ngữ cho trẻ trong
trường mầm non.
4. Chuyên đề tăng cường tiếng Việt cho trẻ vùng dân tộc thiểu số

19


Ý KIẾN NHẬN XÉT XẾP LOẠI CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC
TRƯỜNG MẦM NON CẨM CHÂU

……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
20


……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………

Xếp loại:………………

Ý KIẾN NHẬN XÉT XẾP LOẠI CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC
PHÒNG GD & ĐT CẨM THỦY
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
21


……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………

Xếp loại:………………

Ý KIẾN NHẬN XÉT XẾP LOẠI CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC
SỞ GD & ĐT THANH HÓA
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
22


……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………

Xếp loại:………………

23


SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

PHÒNG GD & ĐT CẨM THUỶ


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP DẠY TRẺ MẪU GIÁO 5-6 TUỔI LÀ
NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ NÓI RÕ RÀNG, MẠCH LẠC
THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG KHÁM PHÁ KHOA HỌC

Người thực hiện: Triệu Thị Thơ
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Mầm Non Cẩm Châu
SKKN thuộc lĩnh vực: Chuyên môn

THANH HÓA NĂM 2018
24


×