Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5 6 tuổi ở trường mầm non đông vệ thành phố thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (232.25 KB, 23 trang )

1. Mở đầu.
1.1. Lý do chọn đề tài.
Giáo dục kỹ năng sống là một quá trình tác động sư phạm có mục đích, có
kế hoạch nhằm hình thành năng lực hành động tích cực, có liên quan tới kiến
thức và thái độ, giúp cá nhân có ý thức về bản thân, giao tiếp, quan hệ xã hội,
thực hiện công việc, ứng phó hiệu quả với các yêu cầu thách thức của cuộc sống
hàng ngày…
Giáo dục kỹ năng sống giúp cho trẻ phát triển nhân cách, thể chất, tình
cảm, giao tiếp, ngôn ngữ, tư duy một cách toàn diện, là nền tảng rất quan trọng
và cần thiết để trẻ tự tin bước trường tiểu học.
Kỹ năng sống được hình thành theo nhiều cách khác nhau, tùy vào môi
trường sống và giáo dục…Đó là những hoạt động tích cực, hướng vào những
hoạt động cá nhân hoặc một nhóm trẻ với mục đích giúp trẻ có thể ứng phó hiệu
quả với các tình huống, thách thức trong cuộc sống hàng ngày. Định hướng của
giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là giúp trẻ làm chủ bản thân, ứng xử phù hợp với
cộng đồng và xã hội, thích nghi, học tập hiệu quả, nâng cao sức khỏe tinh thần
và thể chất, ứng phó tích cực trong các tình huống của cuộc sống.
Kỹ năng sống luôn gắn bó với các giá trị, các giá trị sống đúng đắn là kết
tinh được truyền lại như sự tôn trọng, sống trách nhiệm, yêu thương, sự tự tin,
sự sáng tạo, lòng ham hiểu biết… các giá trị này được truyền lại nhằm giáo dục
giúp cho con người sống có chuẩn mực và góp phần vào sự tiến bộ của xã hội.
Thúc đẩy sự phát triển cá nhân, cộng đồng, nâng cao chất lượng cuộc sống và
giúp cho con người xây dựng một xã hội có văn hóa. Các kỹ năng sống có được
thông qua rèn luyện và chỉ được hình thành thông qua giáo dục, đào tạo và rèn
luyện. Các kỹ năng sống có liên quan và hỗ trợ cho nhau.
Ví dụ: Kỹ năng tư duy sáng tạo giúp cho con người tăng khả năng giải
quyết vấn đề và đưa ra các quyết định.
Về thể chất: Giáo dục kỹ năng sống giúp cho trẻ tăng cường thể chất, sự
kiên trì, bền bỉ, tháo vát… thông qua các bài học và các hoạt động vận động
trong quá trình dạy kỹ năng sống. Trẻ sẽ được rèn luyện sự dẻo dai, khéo léo,
kiên trì, giúp cho trẻ nhanh thích ứng với các điều kiện sống thay đổi.


Về tình cảm: Giáo dục kỹ năng sống giúp trẻ biết lắng nghe, chia sẻ, sống
có trách nhiệm, biết yêu thương, biết ơn công lao của cha mẹ.
Về giao tiếp - ngôn ngữ: Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ giúp trẻ tự tin,
giao tiếp hiệu quả, đặc biệt rèn luyện cho trẻ biết lắng nghe, nói chuyện lễ phép,
hòa nhã.
Về nhận thức: Giáo dục kỹ năng sống giúp cho trẻ có một nền tảng kiến
thức, ham mê hiểu biết, khám phá, xây dựng cho trẻ niềm ham mê học tập suốt
đời. Việc hình thành kỹ năng sống cho mọi người nói chung và trẻ em nói riêng
đang trở thành nhiệm vụ quan trọng. Giáo dục kỹ năng sống phải được đo bằng
1


sự vận dụng những kỹ năng đó trong cuộc sống mỗi các nhân để sống tích cực,
sống hạnh phúc, sống có ý nghĩa.
Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ nhằm giúp trẻ phát triển hài hoà, toàn diện
về nhân cách. Giáo dục kỹ năng sống không phải là nói cho trẻ biết thế nào là
đúng, thế nào là sai như ta thường làm. Các phương pháp cổ điển như bài giảng
đi theo những chuẩn mực, cô hỏi trẻ thụ động trả lời sẽ hoàn toàn thất bại vì
chúng chỉ cung cấp thông tin, mà từ thông tin và nhận thức đến thay đổi hành vi
thì khoảng cách còn rất lớn.
Giáo dục kỹ năng sống là giúp trẻ nâng cao năng lực để tự lựa chọn
những giải pháp khác nhau, cung cấp cho trẻ kiến thức cần thiết về kỹ năng sống
để các em sống sao cho lành mạnh và có ý nghĩa. Giúp trẻ biến những kiến thức
về kỹ năng sống được cung cấp thành hành động cụ thể trong quá trình hoạt
động thực tiễn với bản thân, với người khác, với xã hội, ứng phó trước nhiều
tình huống, học cách giao tiếp, ứng xử với mọi người, giải quyết mâu thuẫn
trong mối quan hệ và thể hiện bản thân một cách tích cực. Có thể nói việc trang
bị kỹ năng sống cho trẻ em là một phương pháp giáo dục cần thiết để trẻ bớt thụ
động trong việc học và giao tiếp xã hội.
Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ không đơn giản là việc dạy, rèn cho trẻ

những kỹ năng cơ bản cần thiết như tự chăm sóc bản thân; phòng tránh và ứng
xử với các nguy hiểm thường gặp, biết hòa đồng,… Giáo dục kỹ năng sống cho
trẻ cần phải được nhìn một cách toàn diện. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ phải
là giáo dục sớm, phù hợp với thời điểm trẻ có khả năng tiếp thu các kiến thức,
kỹ năng tốt nhất. Giai đoạn vàng hay còn gọi là cửa sổ cơ hội của trẻ là từ 0 - 6
tuổi. Các nghiên cứu khoa học về bộ não của trẻ đã chỉ ra: khi lọt lòng mẹ, trọng
lượng não của trẻ sơ sinh đã bằng 25% não người trưởng thành; 1 tuổi đạt 50%,
2 tuổi đạt 75%; 3 tuổi đạt 90% não người trưởng thành và 6 tuổi hầu như hoàn
thiện về cấu trúc. Đây là giai đoạn cung cấp những kích thích để tạo thành nhiều
kết nối thần kinh trên não bộ giúp trẻ đạt được tiềm năng tối đa, giúp trẻ phát
triển của trẻ cả về thể chất lẫn tinh thần.
Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ phải bắt đầu từ bố mẹ và phải có sự kết
hợp hài hòa, đồng bộ trong phương pháp với nhà trường, thầy cô giáo. Trẻ được
giáo dục kỹ năng sống đúng cách không chỉ được trang bị những kỹ năng sống
cơ bản mà còn phát triển được những kỹ năng cực kỳ quan trọng giúp tạo ra sự
khác biệt, giúp tạo ra thành công cho trẻ trong cuộc đời. Mục tiêu của giáo dục
mầm non là chuẩn bị cho trẻ có được một hành trang kiến thức và kỹ năng tốt
nhất để trẻ tự tin bước vào cuộc sống.
Việc giáo dục kỹ năng sống từ sớm giúp trẻ có khả năng thích nghi với sự
thay đổi môi trường sống, khả năng hòa nhập nhanh. Giúp trẻ có bước đệm
chuẩn bị sẵn sàng cho giai đoạn tiểu học. Qua một thời gian tìm tòi nghiên cứu,
nhận thức được sâu sắc, ý nghĩa vai trò quan trọng của kỹ năng sống đối với sự
phát triển của trẻ đã thôi thúc tôi lựa chọn thực hiện đề tài: “Một số biện pháp
2


giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi ở trường mầm non Đông
Vệ Thành phố Thanh Hóa” để nghiên cứu.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Khảo sát thực trạng kỹ năng sống của trẻ 5 - 6 tuổi ở trường mầm non

Đông Vệ. Xây dựng một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 5 – 6 tuổi
thông qua các hoạt động.
Đề xuất một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 5 – 6 tuổi trong
trường mầm non Đông Vệ nhằm nâng cao chất lượng giáo dục ở trường mầm
non Đông Vệ trong hiện tại và những năm tiếp theo.
Qua đó giúp trẻ phát triển toàn diện về mọi mặt, hình thành cho trẻ những
phẩm chất cơ bản, bước đầu đặt nền móng cho sự phát triển giúp trẻ tự tin khi
bước chân vào trường tiểu học.
1.3. Đối tượng nghiên cứư.
Nghiên cứu “Một số biện pháp giáo dục Kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo
5-6 tuổi trường mầm non Đông Vệ”.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp xây dựng cở sở lý thuyết nhằm xây dựng cơ sở lý luận cho
việc giáo dục Kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi lớp Lá 1, trường mầm
non Đông Vệ”.
Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
Phương pháp quan sát, kiểm tra, đánh giá các biểu hiện, hành vi, kỹ năng
của trẻ thông qua ngôn ngữ và hoạt động hàng ngày.
Phương pháp đàm thoại. Đàm thoại với các đồng nghiệp trao đổi kinh
nghiệm hay trong giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Đàm thoại với phụ huynh tìm
hiểu đặc điểm của trẻ khi ở gia đình. Đàm thoại trực tiếp với trẻ trong quá trình
thực hiện các biện pháp giáo dục kỹ năng sống.
Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Phương pháp nghiên cứu và tổng kết kinh nghiệm
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1 Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
Câu thành ngữ: “Tiên học lễ, hậu học văn” của ông cha ta từ ngàn xưa đã
để lại đến bây giờ vẫn không thể thiếu trong các trường học. Lễ phép là nét đẹp
văn hoá được đặt lên hàng đầu khi đánh giá về một con người. Trong thời đại
hiện nay, sự phát triển của kinh tế - xã hội đang đặt ra những yêu cầu càng cao

đối với hệ thống giáo dục, đòi hỏi nền giáo dục phải đào tạo ra những con người
“Phááát triển về trí tuệ, cường tráng về thể lực, phong phú về tinh thần, trong
sáng về đạo đức”. Trong đó giáo dục kỹ năng sống là bộ phận hữu cơ của quá
trình giáo dục, là một bộ phận có tính cốt lõi, nền tảng của công tác giáo dục trẻ.
3


Xã hội hiện đại nảy sinh những vấn đề phức tạp và bất định đối với con người.
Nếu con người không có năng lực ứng phó vượt qua những thách thức đó thì rất
dễ gặp rủi ro. Giáo dục kĩ năng sống cho người học đang trở thành một nhiệm
vụ quan trọng đối với giáo dục các nước. Kỹ năng sống giúp con người làm chủ
cuộc sống, sống an toàn, lành mạnh và có chất lượng trong một xã hội hiện đại
với văn hoá đa dạng và nền kinh tế phát triển.
Kỹ năng sống như những nhịp cầu giúp con người biến kiến thức thành
thái độ, giá trị, hành vi và thói quen lành mạnh. Vì vậy cần giáo dục kỹ năng
sống cho trẻ ngay từ khi còn thơ bé, sẽ giúp trẻ tự biết chăm sóc và bảo vệ bản
thân tránh khỏi những nguy hiểm. Trẻ có thể hoà nhập nhanh với cuộc sống
xung quanh, biết cách phát triển các mối quan hệ với mọi người, với thiên nhiên
từ đó học hỏi và làm giàu có thêm vốn kiến thức, kinh nghiệm cũng như các kĩ
năng của bản thân. Nếu thiếu các kĩ năng sống cần thiết, trẻ sẽ khó tránh khỏi
những lúng túng, sai phạm thậm chí gặp nguy hiểm khi phải giải quyết các tình
huống xảy ra trong cuộc sống hàng ngày. Việc trang bị những kỹ năng sống phù
hợp giúp trẻ có cơ hội phát triển nhân cách đầy đủ và đúng hướng. Có rất nhiều
định nghĩa về kỹ năng sống, tùy theo góc độ tiếp cận, lý thuyết ứng dụng, đối
tượng được giáo dục kỹ năng sống. Dựa vào những quan điểm của các nhà
nghiên cứu, có thể hiểu kỹ năng sống là những năng lực tâm lý – xã hội, là hành
động tích cực, có liên quan đến kiến thức và thái độ, trực tiếp hướng vào hoạt
động của cá nhân, hoặc tác động vào người khác, hoặc hướng vào những hoạt
động làm thay đổi môi trường xung quanh, giúp mỗi cá nhân ứng phó có hiệu
quả với các yêu cầu, thách thức của cuộc sống hằng ngày.

Theo Bộ giáo dục và đào tạo, thống nhất qua điểm với UNICEF, kỹ năng
sống là cách tiếp cận giúp thay đổi hoặc hình thành hành vi mới. Các nhóm kỹ
năng sống có thể quản lý cảm xúc, nhóm kỹ năng giao tiếp, nhóm kỹ năng đảm
nhận trách nhiệm, nhóm kỹ năng lãnh đạo. Trong quá trình phát triển nhân cách
nếu trẻ được sớm hình thành và tôn vinh các giá trị đích thực của mình thì các
em sẽ có một nhân cách phát triển toàn diện, bền vững có khả năng chống chọi
với mọi biến động xã hội biết tự khẳng định mình trong cuộc sống. Bên cạnh đó
trẻ em đang trong giai đoạn học tiếp thu, lĩnh hội những giá trị sống để phát triển
nhân cách do đó cần giáo dục kỹ năng sống cho trẻ để trẻ có nhận thức đúng và
hành vi ứng xử phù hợp ngay từ khi còn nhỏ. Kỹ năng sống thay đổi theo nền
văn hóa và hoàn cảnh xã hội vì vậy trong quá trình dạy kỹ năng sống cho trẻ cần
phải xem xét các yếu tố văn hóa xã hội có ảnh hưởng đến việc ra quyết định hay
lựa chọn hành động. Các kỹ năng được học tốt nhất thông qua các hoạt động
tích cực. Đối với trẻ mầm non thường học các hành vi bắt chước, nhập tâm qua
thực hiện luyện tập hàng ngày lâu dần trở thành kỹ năng của trẻ
Hiện nay, việc phát triển kỹ năng sống cho trẻ được các bậc phụ huynh và
nhà trường quan tâm rất nhiều. Những cụm từ như “Kỹ năng sống”, “Giáo dục
ky năng sống cho trẻ” được nghe rất rất nhiều. Vậy kỹ năng sống cho trẻ là gì?
Thông thường kỹ năng sống được hiểu là những kỹ năng cơ bản mà con người
cần có để có cuộc sống khoẻ mạnh, an toàn với chất lượng cao.
4


Tuy nhiên, theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đánh giá, kỹ năng sống
không chỉ là những kỹ năng cơ bản như vậy mà còn là những kỹ năng tâm lý xã
hội và kỹ năng giao tiếp mỗi cá nhân cần có để tương tác với người khác một
cách hiệu quả hoặc ứng phó với những vấn đề, những thách thức của cuộc sống
hàng ngày. UNICEF cũng cho rằng kỹ năng sống là tập hợp rất nhiều kỹ năng
tâm lý xã hội và giao tiếp cá nhân giúp cho con người đưa ra những quyết định
có cơ sở rõ ràng, giao tiếp hiệu quả hơn, phát triển được kỹ năng tự xử lý và

quản lý bản thân từ đó giúp họ có một cuộc sống lành mạnh và có hiệu quả.
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phát động phong trào “Xây dựng trường học
thân thiện- học sinh tích cực”, với yêu cầu tăng cường sự tham gia một cách
hứng thú của trẻ trong các hoạt động giáo dục trong nhà trường và tại cộng đồng
với thái độ tự giác, chủ động và ý thức sáng tạo. Trong năm nội dung thực hiện
có nội dung rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ mầm non.
Về phía các bậc cha mẹ trẻ em luôn quan tâm đến việc làm sao để kích
thích tính tích cực học tập của trẻ, ai cũng muốn con mình được học đọc và học
viết ngay trong những năm tháng học ở mẫu giáo, đặc biệt là các bậc cha mẹ có
con chuẩn bị vào lớp một.
Nghiên cứu gần đây về sự phát triển của não trẻ cho thấy rằng khả năng
giao tiếp với mọi người, khả năng biết tự kiểm soát, thể hiện các cảm giác của
mình, biết cách ứng xử phù hợp với các yêu cầu, biết giải quyết các vấn đề một
cách cơ bản, một cách tự lập có những ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành
nhân cách và kết quả học tập của trẻ. Giáo dục kỹ năng sống là giáo dục cách
sống tích cực, xây dựng những hành vi lành mạnh và thay đổi những hành vi,
thói quen tiêu cực giúp trẻ có được những nhận thức, kiến thức, hành vi, thái độ
và kỹ năng thích hợp.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Năm học 2018 - 2019 tôi được nhà trường phân công dạy lớp mẫu giáo
lớn 5 – 6 tuổi với tổng số cháu là 45 cháu. Qua tìm hiểu, nghiên cứu thực trạng
giáo dục kỹ năng sống cho trẻ tôi đã chọn lọc một số biện pháp giáo dục phù
hợp. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện tôi gặp những thuận lợi và khó khăn
sau:
* Thuận lợi
Với tinh thần nhiệt tình trách nhiệm cao, yêu nghề mến trẻ. Được sự quan
tâm của các cấp lãnh đạo về cơ sở vật chất. Ban giám hiệu luôn quan tâm tới
chuyên môn, bồi dưỡng phương pháp, đổi mới hình thức tổ chức hoạt động giáo
dục mầm non, tạo mọi điều kiện giúp tôi thực hiện tốt chương trình giáo dục
mầm non. Giáo viên trong lớp đoàn kết cùng đưa ra các biện pháp giáo dục kỹ

năng sống phù hợp với khả năng nhận thức của trẻ.
Bản thân tôi là một giáo viên lâu năm được đào tạo đại học chính quy nên
việc nắm bắt và vận dụng kiến thức cơ bản về chăm sóc giáo dục trẻ có nhiều
5


thuận lợi. Đặc biệt luôn có sự đam mê đối với việc giáo dục kỹ năng sống cho
trẻ.
Phụ huynh luôn quan tâm đồng tình ủng hộ, bản thân tôi cũng thường
xuyên dành thời gian trao đổi với phụ huynh để cùng thực hiện việc giáo dục kỹ
năng sống cho trẻ.
* Khó khăn:
Trong lớp có một số trẻ chưa qua lớp 3,4 tuổi trẻ chưa có nề nếp các cháu
còn bỡ ngỡ và nhút nhát, khả năng tiếp thu bài chậm.
Không gian lớp hẹp nên còn khó khăn trong việc tổ chức các hoạt động.
Trẻ bị ảnh hưởng bởi cuộc sống hiện đại như: Internet, tivi, các trò chơi
điện tử...sống trong môi trường quá bao bọc khiến trẻ quen dựa dẫm, không có
tính tự lập, ích kỷ, lãnh cảm với môi trường xung quanh chưa có những kỹ năng
sống cần thiết phù hợp theo độ tuổi.
* Khảo sát thực trạng trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Khảo sát đầu năm của lớp tôi với tổng số trẻ là 45 cháu (Trong đó có 25
nam, 20 nữ) và cho kết quả như sau:
T
T

Nội dung khảo sát

1

Kỹ năng tự tin, tự lập, tự phục vụ.


2

Tổng
số trẻ

Đạt

Chưa đạt

Số
trẻ

Tỉ
%

lệ Số
trẻ

Tỉ
%

lệ

45

23

51,1% 22


48,9%

Kỹ năng hợp tác

45

25

55,6% 20

44,4%

3

Kỹ năng giao tiếp

45

26

57,8% 19

47,2%

4

Kỹ năng xử lí tình huống

45


21

46,7% 24

53,3%

5

Sự tò mò và khả năng sáng tạo.

45

22

48,9% 23

51,9%

6

Kỹ năng giữ an toàn cá nhân.

45

24

53,3% 21

46,7%


Qua khảo sát thực trạng trên lớp và được sự giúp đỡ của ban giám hiệu
nhà trường và các đồng nghiệp. Tôi nhận thấy kỹ năng sống của học sinh lớp
mẫu giáo 5 - 6 tuổi Lá 1 do tôi phụ trách còn nhiều bạn rất kém. Vì vậy tôi đã
học hỏi, tìm hiểu từ đồng nghiệp, các tài liệu báo chí…và mạnh dạn đưa ra một
số biện pháp nhằm giáo dục kỹ năng sống cho trẻ:
2.3. Các biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
Biện pháp 1: Tìm tòi, tự bồi dưỡng bản thân, chia sẻ với đồng nghiệp
Để thực hiện tốt “Một số biện pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ 5-6 tuổi ở
trường mầm non Đông Vệ” trước hết giáo viên mầm non không chỉ nghiên cứu
nắm vững mục đích yêu cầu của hoạt động mà giáo viên còn cần phải nắm chắc
được các phương pháp và biện pháp thực hiện giúp trẻ lĩnh hội kiến thức một
cách nhẹ nhàng, không bị gò bó, áp đặt, giúp trẻ hiểu bài sâu và vận dụng những
6


điều đã học vào thực tế hàng ngày của trẻ. Vì vậy, để giúp trẻ 5 – 6 tuổi lớp tôi
có được những kỹ năng sống cơ bản đó thì sự nhiệt tình, sáng tạo và yêu nghề
đòi hỏi tôi phải không ngừng đọc và nghiên cứu kỹ chương trình chăm sóc và
giáo dục trẻ mầm non 5 - 6 tuổi. Tham gia học tập đầy đủ các lớp chuyên đề do
phòng giáo dục và đào tạo Thành phố, nhà trường và tổ chuyên môn tổ chức, có
ý thức học tập, nghiên cứu nghiêm túc các module trong kế hoạch bồi dưỡng
thường xuyên. Tìm đọc tham khảo biện pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ trên sách
báo, tạp chí mầm non; Sách hướng dẫn các hoạt động phát triển ngôn ngữ và
giao tiếp cho trẻ mầm non; Sách giáo dục giá trị sống và kỹ năng sống cho trẻ
mầm non (Nhà xuất bản đại học quốc gia); Sách bé thực hành các tình huống
giáo dục kỹ năng sống dành cho trẻ mẫu giáo. Sách các hoạt động phát triển kĩ
năng xã hội dành cho trẻ mẫu giáo. Sách phương pháp giáo dục giá trị kỹ năng
sống… Xem các chương trình truyền hình như quà tặng cuộc sống, cuộc sống
quanh ta trên các kênh truyền hình như VTV3 vào tối chủ nhật hàng tuần…
Trên thực tế hiện nay ở trường mầm non Đông Vệ chúng tôi, đội ngũ giáo

viên chưa được đồng đều. Nhiều giáo viên đã có tuổi tuy nắm vững phương
pháp nhưng việc vận dụng còn hạn chế còn các cô giáo trẻ thì lại chưa có nhiều
kinh nghiệm trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ.
Qua kiểm tra, đánh giá đầu năm có rất nhiều trẻ còn chưa biết chào cô,
chào khách, chưa có kỹ năng giao tiếp, chưa có kỹ năng tự phục vụ…Hoạt động
dạy kỹ năng sống cho trẻ ở trường tôi nói chung và ở lớp tôi nói riêng chưa thực
hiện tốt
Tôi nhận thấy đây là một vấn đề quan trọng vì nó quyết định đến nhân
cách của trẻ sau này. Chính vì vậy qua việc tự bồi dưỡng bản thân, học hỏi qua
truyền thông, báo đài, tài liệu cũng như xem các phương tiện thông tin hiện đại,
tôi đã nắm vững được các phương pháp để dạy trẻ một số kỹ năng cơ bản nhất.
Qua các buổi họp sinh hoạt chuyên môn của khối tôi chia sẻ với đồng nghiệp về
các biện pháp “Dạy kỹ năng sống cho trẻ”. Để dạy trẻ được những kỹ năng
sống thì việc đầu tiên cô giáo phải là tấm gương mẫu mực về hành vi, lời ăn,
tiếng nói, cách ứng sử, cách giải quyết vấn đề…để trẻ soi vào, để trẻ học làm
người. Không phương pháp nào hiệu quả bằng phương pháp “Dùng nhân cách
để giáo dục nhân cách”. Đây là yêu cầu rất cao đòi hỏi các cô giáo cũng luôn
phải tự rèn luyện mình để công tác giáo dục trẻ hiệu quả hơn đó là:
- Không nói dài và nói nhiều.
- Không luôn đưa ra lời đáp có sẵn mà để trẻ tự tìm tòi
- Không vội vàng phê phán đúng, sai mà phải kiên trì giúp trẻ tranh luận
và kết luận.
Ví dụ: Khi cô nhìn thấy bé này đẩy bé khác cô hãy nói với bé bị đẩy, nói
một cách cương quyết, nhưng phải ôn tồn với bạn mình như: “Mình không thích
bạn xô đẩy mình như vậy, bàn tay là để chơi đàn, để viết chữ đẹp, để sáng tạo
ra nhiều tranh đẹp, không phải là để đẩy nhau”.
7


- Không mớm ý cho trẻ phát biểu ý kiến mà người lớn trông đợi.

- Không bắt trẻ hoạt động liên tục mà phải để dành thời gian và khoảng
trống cho trẻ suy nghĩ.
- Thỉnh thoảng cô giáo có thể tổng kết, kết luận nhưng với thái độ thư
giãn, thoải mái, gợi mở: “Các con đã tự mình làm được nhiều việc mà không
phụ thuộc vào người khác, các con rất giỏi, xứng đáng nhận được một tràng
pháo tay”. Điều này sẽ giúp cho trẻ tự tin, tìm tòi, suy nghĩ giám đưa ra ý kiến
của mình.
Quả thật việc thay đổi nếp cũ là rất khó, nhưng trong những buổi sinh
hoạt tôi thường đưa những giá trị của việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ như:
- Tin tưởng vào trẻ và năng lực của trẻ.
- Kiên nhẫn và có kỹ năng lắng nghe tốt.
- Ý thức về bản thân và sẵn sàng học những kỹ năng mới.
- Có kinh nghiệm sống và biết soi xét
- Tôn trọng ý kiến của trẻ, không áp đặt ý kiến của mình lên trẻ.
- Thực hành tư duy sáng tạo và khai phá
- Biết sắp xếp phòng, nhóm lớp tạo bầu không khí hấp dẫn
- Biết chủ động phương pháp giáo dục.
- Tác động kịp thời khi nhóm bế tắc
- Biết tạo bầu không khí trò chuyện sôi nổi.
Ví dụ: Các con ơi cô con mình vừa hoạt động ngoài trời về, bây giờ sẽ đến
hoạt động gì các con?
- Nào chúng ta cùng chuẩn bị bắt đầu.
- Biết nắm phản hồi của nhóm khi hoạt động kết thúc…
Biện pháp 2: Lập kế hoạch giáo dục kỹ năng sống qua các hoạt động.
* Giáo dục kỹ năng sống thông qua lĩnh vực phát triển ngôn ngữ.
Hoạt động làm quen văn học: chuyện “Hai anh em”, “Cây tre trăm đốt”
Tôi kể cho trẻ nghe, đặt câu hỏi đàm thoại để trẻ trả lời, Cho trẻ nhập vai các
nhân vật trong câu truyện. giáo dục trẻ làm việc theo nhóm, không tham lam ích
kỷ, biết lắng nghe ý kiến của người khác, tôn trọng hợp tác với bạn bè, với
những người xung quanh.

Qua câu chuyện: “Người bạn tốt” cô đàm thoại cùng trẻ:
- Mai và Minh là đôi bạn như thế nào?
- Khi Mai gặp nạn thì Minh sẽ làm gì?
- Con học tập được đức tính gì ở hai bạn?
8


Cô giáo dục trẻ tình đoàn kết, yêu thương giúp đỡ bạn bè, biết nói những
lời cảm ơn chân tình khi được người khác giúp đỡ mình.
Hoạt động làm quen chữ cái: Tôi dạy trẻ phát âm đúng, nói rõ ràng, biết
sắp xếp đồ dùng học tập gọn gàng, ngăn nắp.
* Thông qua lĩnh vực phát triển thẩm mỹ.
- Hoạt động âm nhạc: Như nhảy múa, ca hát, vẽ tranh…Tôi sẽ kích thích
trẻ bộc lộ những suy nghĩ, bộc lộ tình cảm, khả năng tưởng tượng và sáng tạo
của mình.
Ví dụ: Vận động múa minh họa bài “Cô giáo miền xuôi ”
+ Trẻ nói: Cô ơi con không biết múa.
+ Cô: Thế con có yêu quý các cô giáo của mình không nào? À con yêu
quý cô giáo của mình, vậy cô và con mình cùng múa nhé. Từ những lời động
viên khích lệ đó trẻ sẽ có hứng thú và tự tin hơn, mạnh dạn hơn trong hoạt động
để từ đó trẻ sẽ mạnh dạn, chủ động, tự tin trong những giờ hoạt động khác…
+ Bài hát: “Rửa mặt như mèo” giáo dục trẻ thói quen tự vệ sinh thân thể
sạch sẽ. Ngoài ra lớp tôi còn tổ chức giờ học biểu diễn văn nghệ tại lớp để giúp
trẻ tự tin hơn khi đứng trước đám đông.
Thông qua giáo dục trực quan trên thiết bị hiện đại, những bài học về tinh
thần đồng đội, giao tiếp, thuyết trình, tư duy được khái quát bằng hình ảnh, từ có
vần điệu, những bài đồng dao, ca dao phù hợp với chủ đề được đưa vào để trẻ dễ
dàng tiếp thu trong quá trình học tập. Bên cạnh đó giáo viên đóng vai trò là
người hỗ trợ giúp trẻ phát huy khả năng, thế mạnh của mình từ đó phát triển
những ứng xử tích cực và tự tin trong cuộc sống.

Dạy kỹ năng sống cho trẻ không phải gò ép trong hoạt động học chính
thức mà phải kết hợp qua các hoạt động vui chơi của trẻ.
- Hoạt động tạo hình: Đề tài “Vẽ ngôi nhà của bé”. Cô giáo dục trẻ biết
yêu quý ngôi nhà của mình ở, biết quét dọn ngôi nhà của mình sạch sẽ, sắp xếp
đồ dùng trong gia đình ngăn nắp gọn gàng….
* Thông qua lĩnh vực nhận thức.
- Hoạt động khám phá khoa học. Trẻ được lĩnh hội những kiến thức về thế
giới xung quanh, từ đó hình thành cho trẻ những kỹ năng như kỹ năng giao tiếp,
kỹ năng bảo vệ an toàn cho bản thân…
Tôi dạy trẻ kỹ năng giao tiếp qua đề tài: Gia đình bạn, gia đình tôi.
Trẻ biết chia sẻ thông tin về gia đình, kể về các thành viên trong gia đình,
những việc mà trẻ thường làm ở nhà.
Kỹ năng sống trẻ học được là: Giao tiếp cởi mở với bạn, lắng nghe bạn
nói và chờ đến lượt bạn nói. Biết nói rõ ràng để bạn hiểu và chơi cùng bạn.
9


Chủ đề “Bản thân” tôi cho trẻ trải nghiệm với các giác quan của mình,
những trải nghiệm trong cuộc sống hằng ngày của trẻ.
Chủ đề “Thế giói động vật” Đề tài Một số động vật sống trong rừng “Hổ,
báo, cừu, khỉ, voi”… Trẻ biết đặc điểm riêng của từng con vật từ những câu hỏi
cô đưa ra như: Các con có biết con voi có mấy chân và con voi sống ở đâu? Con
voi thích ăn gì các con nhỉ?... Trẻ trả lời “thưa cô con voi thích ăn cỏ ạ” cứ như
vậy trong một tiết học với hàng loạt câu hỏi cô đưa ra thì trẻ nào cũng được
tham gia, với trẻ ít nói cô gọi nhiều và thường xuyên hơn.
- Hoạt động làm quen với toán. Đề tài “ Sắp xếp theo quy tắc” tôi sử dụng
trò chơi gắn các dụng cụ của nghề sắp xếp theo quy tắc, đội nào gắn đúng nhanh
đội đó sẽ chiến thắng. Như vậy buộc trẻ phải thảo luận với nhau, hợp tác mới
hoàn thành bài tập và trong giờ học nào tôi cũng sưu tầm những đồ dùng sáng
tạo. Thông qua chủ đề gia đình tôi cho trẻ chia sẻ những thông tin về gia đình,

cho trẻ kể về những thành viên trong gia đình mình, những việc mà trẻ thường
làm ở nhà, qua đó giáo dục trẻ kỹ năng giao tiếp, lắng nghe người khác nói, nói
rõ ràng để bạn hiểu.
* Thông qua lĩnh vực phát triển thể chất
Tôi cùng các giáo viên khác tổ chức cho trẻ các vận động như: Bò qua
chướng ngại vật, đi trên ghế thể dục, chuyền bóng, bật qua vật cản, Nhảy từ độ
cao 45cm, ném trúng đích thẳng đứng, Bò zíc zắc qua 7 điểm, Đi nối gót, …qua
đó dạy trẻ biết các kỹ năng nhanh nhẹn, mạnh dạn, tự tin, khéo léo khi tham gia
vận động, siêng năng rèn luyện để cơ thể khoẻ mạnh, trẻ biết trong khi tập phải
xếp hàng theo thứ tự không chen lấn xô đẩu nhau. Trẻ biết tự lấy đồ dùng, dụng
cụ thể dục của mình. Biết hợp tác với bạn để chơi trò chơi.
*Thông qua hoạt động góc.
Vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ mẫu giáo, trẻ được chơi với đồ vật,
được trải nghiệm thực tế, là cơ sở vững chắc để hình thành và phát triển, rèn
luyện và giáo dục kỹ năng sống. Trẻ nhập vai vào nhiều nhân vật để có thể giải
quyết nhiều tình huống có thể xảy ra, giáo viên cần bao quát kịp thời và can
thiệp để điều chỉnh hành vi, giúp trẻ có thói quen tốt, biết được cái nào nên làm,
cái nào không. Lâu dần những thói quen tốt, những hành vi đẹp sẽ được tích lũy
và trở thành kỹ năng sống đối với trẻ.
Độ tuổi 5-6 tuổi trẻ bắt đầu quan tâm đến bạn trong nhóm. Tình bạn ổn
định bắt đầu nảy sinh. Chúng sẵn sàng chia sẻ với bạn và tình bạn trở nên quan
trọng với trẻ. Bằng các trò chơi, câu chuyện, bài hát giáo viên giúp trẻ học cách
cùng làm việc với bạn, đây là một công việc không nhỏ đối với trẻ lứa tuổi này.
Khả năng hợp tác sẽ giúp trẻ biết cảm thông và cùng làm việc với các bạn. Ở kỹ
năng này tôi sử dụng trò chơi để dạy trẻ:
Ví dụ: Góc phân vai: Trò chơi “Gia đình”, khi tôi đóng giả một người lạ
đến gõ cửa  khi trẻ ở nhà một mình, thì trẻ biết nhắc nhau “Đừng mở cửa, phải
đợi bố mẹ về đã”. Hoặc tôi cho trẻ ở nhóm gia đình cùng đi siêu thị và đưa ra
10



tình huống: “Con bị lạc bố mẹ ở siêu thị” thì trẻ biết ra nhờ cô bán hàng gọi điện
thoại cho bố mẹ, cháu đóng vai người bán hàng cũng nhắc trẻ: “Cháu chờ ở đây
với cô đợi bố mẹ đón”. Tôi đóng một vai làm người đi đường và rủ bé: Đi cùng
cô để cô dắt về với mẹ. Các trẻ trong nhóm đã nhắc nhau: “Đừng đi, nếu không
sẽ bị bắt cóc đấy”. Hoặc với trò chơi “Đi ô tô” tôi cũng chú ý xem cách thể hiện
của trẻ để có những gợi mở kịp thời như: Các bác đã thắt dây an toàn chưa, đừng
thò đầu, thò tay ra ngoài khi xe đang chạy nhé.
Trò chơi “Nấu ăn”, tôi cũng lưu ý đến những thao tác mà trẻ thể hiện vai
của mình như: Bắc nồi lên bêp ga đặt đã đúng giữa bếp chưa nếu không sẽ dễ đổ
và xảy ra tai nạn, nấu xong phải nhớ tắt bếp, bắc nồi phải dùng cái lót tay để
không bị bỏng. Với cách dạy trẻ bằng nhiều hình thức khác nhau, lúc thông qua
nội dung các bài thơ, bài hát, câu chuyện để lồng vào giáo dục trẻ kỹ năng sống
giúp trẻ ghi nhớ một cách thoải mái, nhớ lâu và không gò bó áp đặt trẻ.
Đặc biệt với hình thức đặt ra các tình huống cho trẻ được toạ đàm, nói lên
cách sử lý của mình sau đó cô sẽ giúp trẻ tổng hợp lại và tìm ra phương pháp tối
ưu nhất. Chính hình thức này giúp trẻ mạnh dạn, tự tin, phát triển ngôn ngữ và
giao tiếp cho trẻ. Với cách  thảo luận, mỗi cá nhân đưa ra cách  giải quyết cho
phù hợp giúp trẻ biết vận dụng vốn hiểu biết, kiến thức của mình đã có để giải
quyết vấn đề. Đó cũng chính là một kỹ năng sống rất cần thiết cho trẻ trong cuộc
sống hiện tại cũng như sau này.
Trò chơi “bán hàng” thông qua trò chơi này ngoài việc trẻ hiểu được công
việc của người bán hàng và mua hàng trẻ còn phải biết thưa gửi lễ phép. Giai
đoạn đầu trẻ còn chưa mạnh dạn trong khi chơi, tôi nhập vai làm người bán hàng
khi cháu mua hàng tôi chủ động hỏi trẻ “Bác ơi bác mua gì nào? Trẻ nói mua
rau - trả tiền”. Tôi phải sửa ngay cho trẻ. Khi mua hàng con phải hỏi “Bác ơi
bao nhiêu tiền một mớ rau, bán cho tôi một mớ ạ”, nếu trẻ đã biết thưa gửi lễ
phép tôi sẽ gắn cho trẻ một bông hoa vào áo và cuối ngày nhận xét trước lớp.
Với hình thức này các cháu rất thích.
Góc chơi xây dựng trong chủ đề “Giao thông” trong khi xây dựng thì tất

cả trẻ trong nhóm phải cùng nhau thảo luận, phân công công việc cho nhau và
cùng làm công việc được giao cuối cùng trẻ hoàn thành công trình đã xây dựng.
Đó là một cách hợp tác cùng làm việc…
*Thông qua góc tạo hình: Tôi thường xuyên sưu tầm những đồ dùng,
những phế liệu, những lá cây khô, dây trang kim, nhũ màu, màu nước… Để trẻ
tự tạo nên những bức tranh, những con vật. Từ đó trẻ có những kỹ năng cầm kéo
và cắt khóe léo, kỹ năng tô màu, kỹ năng vẽ, kỹ năng phân công công việc cho
bạn trong nhóm mình…
* Thông qua góc chơi học tập: Mỗi trẻ sẽ được phân công theo nhóm để
nhận nhiệm vụ: bạn nào đồ chữ, bạn nào xếp chữ bằng hột hạt, bạn nào học thẻ
số, thẻ chữ… Từ đó trẻ sẽ học và làm việc cùng nhau theo nhóm và biết tuân thủ
theo mệnh lệnh của nhóm trưởng.
11


* Thông qua trò chơi vận động: Biện pháp này giúp tôi tập hợp các trò
chơi vận động, tạo nguồn tư liệu phong phú để sử dụng giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ.Tôi đã sưu tầm các trò chơi vận động, phân loại các trò chơi theo tác
dụng của chúng đối với việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Sau đó tôi lưu lại để
sau này sử dụng.
- Kỹ năng tự tin, tự lập. tự phục vụ: Một trong những kỹ năng đầu tiên mà
giáo viên cần chú tâm là phát triển sự tự tin trong trẻ. Nghĩa là giúp trẻ cảm nhận
được mình là ai, cả về trong cá nhân và trong mối quan hệ với người khác.
Không ai sinh ra đã có ngay sự tự tin. Đó là một đức tính chỉ có thể có được nhờ
vào việc rèn luyện và học hỏi. Sự tự tin lớn dần lên nhờ vào cảm giác được yêu
thương, tôn trọng và thấy mình có giá trị. Một trẻ tự tin sẽ duy trì được khả năng
học hỏi, khám phá trong học tập và luôn sẵn sàng đón nhận những thách thức
mới, mong muốn được yêu quý và đón nhận chính là khởi đầu tuyệt vời để trẻ
gần gũi hơn với mọi người.
Qua các trò chơi vận động tôi thấy trẻ học được rất nhiều kỹ năng như sự

tự tin, cách hợp tác với bạn để hoàn thành công việc, cách xử lí tình huống và tôi
thấy trẻ lớp tôi tự tin, khéo léo hơn rất nhiều
- Kỹ năng hợp tác: Đây là một đức tính cần thiết đối với trẻ ở lứa tuổi này.
Có những việc chúng ta không thể tự làm được, nếu được người khác giúp đỡ
thì ta sẽ hoàn thành được việc ta muốn làm, đó chính là sự hợp tác. Sự hợp tác
giúp ta hoàn thành nhiệm vụ của mình nhanh chóng và dễ dàng hơn là tự mình
làm lấy.
Trò chơi: “Bắt cá trong chum”.
Cách chơi: Mỗi đội có 2 trẻ. Trẻ trong đội một tay quàng qua vai bạn của
đội mình, tay kia khoắng trong chum phối hợp với nhau để cùng bắt được cá.
Trong một khoảng thời gian nhất định, đội nào bắt được nhiều cá nhất đội đó
giành chiến thắng.
Trò chơi: “ Khiêu vũ cùng bóng”
Cách chơi: Mỗi đội có 2 trẻ. Trẻ trong đội phải dùng chân giữ bóng và 2
tay đan vào nhau khi có tiếng nhạc thì hai bạn phải khiêu vũ theo tiếng nhạc,
nhạc nhanh thì khiêu vũ nhanh, nhạc chậm thì khiêu vũ chậm, nhạc dừng thì
phải dừng đội nào vẫn giữ được bóng thì đội đó thắng cuộc.
Biện Pháp 3: Giáo dục trẻ kỹ năng sống qua các hoạt động khác.
Ngoài hoạt động chung, hoạt động vui chơi ra tôi còn hướng dẫn dạy trẻ
kỹ năng sống thông qua các hoạt động khác như:
- Trong giờ đón trả trẻ: Tôi cùng các giáo viên khác trò chuyện với trẻ,
giáo dục trẻ kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tự cất giầy dép, ba lô đúng nơi quy định
ngoài ra tôi còn dạy trẻ biết chào hỏi, biết nói lời xin lỗi, biết nói cảm ơi, không
nói leo khi người khác nói, không tự tiện lấy đồ và sử dụng đồ của người khác…
12


- Trong giờ thể dục sáng: Dưới sân trường tôi kết hợp kỹ năng đi lên,
xuống cầu thang cho trẻ đi đúng theo bước chân, chân nào trước, chân nào sau,
đi theo hàng lối, không chen lấn xô đẩy bạn

- Trong giờ vệ sinh: Tôi dạy trẻ các kỹ năng tự phục vụ như: Rửa mặt, rửa
tay bằng xà phòng, cách trải tóc, cách gấp quần áo và đi vệ sinh đúng nơi quy
định…
- Trong giờ ăn cũng vậy tôi cùng các giáo viên khác dạy trẻ những nghi
thức văn hóa trong ăn uống qua đó dạy trẻ những kỹ năng tự lao động phục vụ,
rèn tính tự lập như biết tự đi lấy bát thìa theo số lượng của tổ mình và biết được
lần lượt ngày trực nhật của mình theo tổ, khi ăn, biết ăn uống lịch sự, không nói
chuyện trong khi ăn, và chỉ ăn uống tại bàn ăn của mình, biết cách sử dụng
những đồ dùng, vật dụng trong ăn uống một cách đúng đắn, biết ăn hết xuất,
không làm rơi vãi khi ăn, khi ăn nhai nhỏ nhẹ không gây tiếng ồn, ngậm miệng
khi nhai thức ăn, biết mời trước khi ăn, biết tự dọn, cất bát thìa đúng nơi quy
định, biết giúp người lớn dọn dẹp, ngồi ngay ngắn không làm ảnh hưởng đến
người khác…
Biện pháp 4: Tạo cơ hội cho trẻ trải nghiệm, sử dụng tình huống giải
quyết vấn đề.
Hoạt động trải nghiệm giúp hình thành kiến thức mới tạo cho trẻ có niềm
say mê tìm hiểu, thích khám phá và biết cách lĩnh hội những kiến thức mới, cách
hình thành kỹ năng mới. Ngoài ra, nó còn giúp trê thấu hiểu ý nghĩa của sự lao
động, sáng tạo khi làm ra một sản phẩm nào đó. Giáo dục trải nghiệm đòi hỏi trẻ
phải có nhu cầu, hứng thú, sự tò mò với đối tượng trải nghiệm. Sự hứng thú, tò
mò sẽ trở thành động lực thúc đẩy trẻ tham gia vào quá trình trải nghiệm và tự
trải nghiệm để tìm hiểu thế giới xung quanh. Cùng với trẻ, giáo viên là người
dẫn dắt, hướng trẻ vào môi trường trải nghiệm, đồng thời là người quan sát, giúp
đỡ và kiểm tra, hướng dẫn, hệ thống lại những kiến thức mà trẻ thu được quá trải
nghiệm. Môi trường trải nghiệm phải khai thác được hết kinh nghiệm của trẻ;
đảm bảo an toàn, đầy đủ đối tượng trải nghiệm để trẻ có thể chủ động, tích cực
tương tác với môi trường.
Trong năm học này tôi đã tổ chức cho trẻ đi tham quan một số khu vực ở
gần trường phù hợp với thời điểm và với chủ đề đang học.
Ví dụ: Chủ đề “Tết và mùa xuân” tôi cho trẻ đi tham quan khu vực quầy

bán hàng tết, bán các loại hoa, cây cảnh xung quanh khu vực hồ Đông Vệ.
Tổ chức cho trẻ được gói bánh chưng và lồng ghép câu chuyện “Sự tích
bánh chưng, bánh giầy”, cho trẻ làm thiệp chúc mừng năm mới, ngày mùng 8 3 chúc mừng bà, mẹ, cô và các bạn gái.
Thông qua biện pháp này tôi thấy trẻ trưởng thành và tự tin khi đứng
trước đám đông rất nhiều. Hoạt động này rất cần thiết để giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ.
13


Ngày tết Hàn thực tôi tổ chức cho trẻ trải nghiệm nặn bánh trôi tại lớp.
Tôi đã cho trẻ nặn bánh trôi màu trắng, màu đỏ và màu xanh. Trước khi nặn tôi
đã khơi gợi trí tò mò của trẻ bằng cách cho trẻ đoán xem làm cách nào để vỏ
bánh có màu đỏ và màu xanh. Tôi hỏi trẻ làm thế nào để cho nhân vào bánh và
làm sao để bánh có dạng hình tròn. Khi đó trẻ sẽ tò mò và đoán. Sau đó tôi cho
trẻ tự làm bánh và cho trẻ thưởng thức luôn những viên bánh do mình làm ra.
Được thưởng thức sản phẩm do chính tay mình tạo ra trẻ rất thích thú.
Khi cho trẻ chơi tự do trong hoạt động ngoài trời, tôi vừa quan sát trẻ
chơi, vừa hướng dẫn trẻ cách chơi an toàn, hướng dẫn trẻ cách kiên trì chờ đến
lượt mình chơi, tuyệt đối không xô đẩy, tranh giành đồ chơi, chỗ chơi với bạn.
Nhà trường cũng tổ chức cho trẻ đi tham quan và xem kịch tại nhà hát
Lam Sơn. Trước ngày đi tham quan tôi kích thích sự tò mò, hứng thú tìm hiểu,
khuyến khích trẻ hãy chia sẽ cảm xúc và sự vui thích của trẻ về chuyến tham
quan sắp tới với các bạn. Và tôi đã ghi lại được nhũng cuộc đối thoại giữa các
trẻ như sau:
+ Lần này chúng mình được đi ô tô đấy.
+ Cậu có say xe không?
+ Say xe thì phải uống thuốc vào. Mẹ tớ bảo thế.
+ Cậu được vào nhà hát Lam Sơn bao giờ chưa?
+ Ở trong đấy có gì không nhỉ? Tớ không biết.
+ Tớ chưa đến đấy bao giờ…

+ Nhớ mang mũ với đi dép quai hậu nữa.
+ Mọi lần đi tham quan cô đều dặn nhu thế.
+ Đi ô tô cậu không được thò đầu, thò tay ra ngoài đâu, như thế nguy
hiểm lắm đấy.
Nghe câu chuyện trẻ kể với nhau tôi cảm thấy niềm vui và tự hào về
những gì tôi đã làm được cho trẻ. Trẻ biết trao đổi với nhau về một vấn đề, biết
chia sẻ kinh nghiệm và hiểu biết với nhau, biết phải làm những gì để chuẩn bị
cho chuyến đi và biết những quy tắc mà mình cần thực hiện cho phù hợp với
chuyến đi đó.
Để tránh lạc trẻ trong chuyến tham quan, tôi đánh máy cho mỗi trẻ một
chiếc đồng hoa đeo tay do cô và trẻ tự làm. Tôi hướng dẫn trẻ từng thông tin
được đánh trên đó và cách sử dụng biển tên trong trường hợp cần thiết. Nhờ đó
tôi đã cung cấp thêm cho trẻ kỹ năng bảo vệ an toàn cá nhân thông qua chuyến
tham quan này.
Trong cuộc sống có vô vàn các tình huống xảy ra đòi hỏi con người phải
giải quyết, ứng phó. Con đường cho trẻ đi tham quan là một “con đường màu
mỡ” về các tình huống thực tế xảy ra trong cuộc sống cần con người giải quyết.
14


Đó là nơi trẻ được cọ xát với rất nhiều tình huống thực tế giúp trẻ bồi dưỡng kỹ
năng xử lý tình huống rất hiệu quả.
Với những nội dung dạy trẻ nhận biết một số nguy cơ không an toàn và
cách phòng tránh thì giáo viên thường giáo dục trẻ với những lời dặn dò nhắc
nhở đơn giản thông qua  nội dung các bài thơ, câu chuyện, bài hát có nội dung
giáo dục dạy trẻ.
Song  trên thực tế, trong chương trình có rất ít bài hát, bài thơ, câu chuyện
có nội dung đó. Vì vậy, trong năm học này, tôi nghiên cứu lựa chọn  những tình
huống bất trắc thường xảy ra đưa ra những tình huống cụ thể để dạy trẻ có kỹ
năng ứng biến khi gặp tình huống khó khăn, biết cách suy nghĩ và giải quyết với

tình huống “Khi bé bị lạc mẹ trong siêu thị - bé sẽ làm gì?
Tôi đã cho trẻ suy nghĩ, mỗi trẻ đưa ra một cách giải quyết của riêng trẻ.
Lắng nghe ý kiến của trẻ, cho trẻ suy nghĩ và trả lời theo ý kiến của mình, gợi
mở cho trẻ bằng các câu hỏi: Theo con làm như vậy có được không? Tại sao?
Sau đó, cô giúp trẻ rút ra phương án tối ưu nhất: Khi bị lạc mẹ, bé hãy bình tĩnh,
không khóc và chạy lung tung mà hãy đứng yên tại chỗ  chờ. Vì bố, mẹ sẽ quay
lại chỗ đó để tìm bé.
Hoặc bé có thể  đến chỗ chú bảo vệ, cô bán hàng  trong siêu thị ở gần chỗ
đó để nhờ gọi điện thoại, hoặc thông báo lên loa để tìm bố mẹ. Tuyệt đối không
đi theo người lạ dù người đó có hứa sẽ đưa về với bố mẹ. Vì có thể đó sẽ là  kẻ
xấu lợi dụng cơ hội đó bắt cóc hoặc làm hại bé. Với tình hình phức tạp trong xã
hội hiện nay, nhiều tình huống bất trắc có thể xảy ra đối với trẻ như bị bắt cóc,
xâm hại .. Tôi đã đưa ra những tình huống để dạy trẻ như: “Nếu có người không
quen biết cho bé quà bé nên làm như thế nào?”
Ở tình huống này, với lứa tuổi của trẻ trên thực tế trẻ rất thích khi được
cho quà và sẽ không biết tại sao không được nhận. Khi trẻ thảo luận tôi đưa ra
những giả thiết, những tình huống xấu “Nếu đó là kẻ xấu thì sẽ rất nguy hiểm
cho bé”. Tôi phân tích, giải thích cho trẻ và giúp trẻ có phương án giải quyết đó
là: Tuyệt đối không nhận quà, ăn bánh kẹo của người lạ vì có thể bị người xấu
tẩm thuốc mê và trúng mưu của kẻ xấu. Khi gặp trường hợp này bé nên nói
“Cháu cám ơn, nhưng bố mẹ cháu không cho nhận quà của người lạ”.
Tôi đưa tình huống trẻ biết tránh những mối nguy hiểm khác như: “Nếu
con đang ở nhà một mình, có người đến gọi mở cửa con sẽ làm gì?” Trong khi
thảo luận với trẻ tôi gợi mở. Cũng có trường hợp kẻ xấu có thể gây hại cho bé
hoặc lấy trộm đồ của gia đình cũng chính là người thu tiền điện, nước hoặc
chính là người quen biết với bố mẹ bé để giúp trẻ suy đoán tìm cách giải quyết.
Sau đó cô giúp trẻ rút ra phương án tối ưu nhất trong trường hợp này: Tuyệt đối
không mở cửa, kể cả đó có thể là người quen của bố mẹ, người thu tiền điện,
nước. Nếu có người lớn ở trên gác chưa biết thì gọi xuống, còn nếu không có ai
ở nhà thì hẹn họ nhắn lại gì hoặc tối đến gặp bố mẹ. Trong thời gian gần đây,

cháy nổ là hiểm hoạ luôn rình rập với tất cả mọi nhà. Chính vì vậy, với trẻ mẫu
giáo tuy trẻ còn nhỏ tuổi song tôi nghĩ rằng cũng cần dạy cho trẻ một số kỹ năng
15


ứng biến nếu chẳng may có điều đó xảy ra. Tôi đã đưa tình huống: “Nếu bé thấy
có khói, hoặc cháy ở đâu đó bé sẽ phải làm thế nào?”. Qua tình huống này tôi
dạy trẻ: “Khi thấy có khói hoặc cháy ở đâu, trước hết bé phải chạy xa chỗ cháy,
hét to để báo với người nhà và những người xung quang có thể nghe thấy. Nếu
không có người ở nhà thì chạy báo cho hàng xóm”
Ví dụ: Chủ đề “Thế giới động vật”: Khi cho trẻ quan sát con kiến xong tôi
tạo tình huống cô Nhung bị ong đốt. Tôi cuống quýt hỏi trẻ cần xử lý tình huống
này như thế nào? Tôi cho các trẻ nêu ý kiến và cùng thảo luận để đưa ra giải
pháp tốt nhất. Cuối cùng trẻ cũng đi đến một quyết định đó là gọi cô y tế để giúp
cô Nhung. Điều đó chứng tỏ trẻ đã biết cách mạnh dạn đưa ra ý kiến, cùng hợp
tác với nhau để lựa chọn ra hướng giải quyết tốt nhất, biết tìm đúng người cho
đúng đối tượng cần giúp đỡ.
Ví dụ: Trên đường đi tham quan tôi sắp xếp 1 tình huống cho trẻ giải
quyết. Các bạn đang đứng cùng nhau có 1 người lạ đến hỏi chuyện trẻ rồi rủ trẻ
đi chơi. Khi xảy ra tình huống đó tôi thấy trẻ lớp tôi nhất quyết không đi cùng
người lạ và các bạn biết gọi cô để cô giúp. Qua hoạt động này, tôi thấy trẻ lớp
tôi đã “trưởng thành” hơn hẳn. Trẻ độc lập, chủ động giải quyết các tình huống
có vấn đề và hơn hết là biết giải quyết cùng nhau, biết bàn luận, mạnh dạn đưa
ra ý kiến của mình, lắng nghe ý kiến của bạn và lựa chọn giải pháp phù hợp.
Biết bảo về an toàn cho bản thân mình.
Tóm lại, giáo dục trải nghiệm, sử dụng tình huống giải quyết vấn đề là
việc giáo viên tổ chức cho trẻ tương tác với đối tượng, trong đó đặc biệt nhấn
mạnh đến vai trò của "trí óc" và "đôi tay". Quá trình tổ chức trải nghiệm sử dụng
tình huống giải quyết vấn đề đó cần được thiết kế dựa trên vốn kinh nghiệm của
trẻ và khơi gợi sự hứng thú, trí tò mò thúc đẩy trẻ tham gia vào hoạt động góp

phần vào sự phát triển toàn diện của trẻ (trí tuệ, đạo đức, thẩm mĩ, thể chất).
Biện pháp 5. Tuyên truyền, phối kết hợp với phụ huynh:
Hiểu rõ được vai trò của các bậc phụ huynh cũng góp phần không nhỏ
trong việc giáo dục các kỹ năng sống cho trẻ. Vì vậy ngay từ đầu năm khi tổ
chức họp phụ huynh tôi đã đưa sáng kiến và ý tưởng về ý nghĩa giáo dục kỹ
năng sống của mình áp dụng vào trẻ. Và thống nhất với các phụ huynh về những
biện pháp giáo dục ở nhà để cùng bàn luận và cùng uốn nắn trẻ kịp thời.
Nhiều phụ huynh cho rằng con mình còn quá bé để hiểu được những điều
đó cũng như nghĩ rằng trẻ mẫu giáo vẫn được sống trong sự bao bọc, bảo vệ
tuyệt đối của bố mẹ. Nhưng trên thực tế , không phải lúc nào cha mẹ cũng ở bên
con khi có tình huống xấu. Thời gian gần đây, có nhiều trẻ em bị lạm dụng, xâm
hại thủ phậm lại chính là người thân quen như bạn bố mẹ, hàng xóm quen biết.
Chính vì vậy, người lớn phải khéo léo, tế nhị kể cho con nghe những tình huống
xấu có thể gây hại cho bé và giúp con biết cần xử lý như thế nào. Cô giáo phối
hợp cùng phụ huynh khéo léo dạy trẻ cách giữ gìn và bảo vệ các cơ quan, bộ
phận trên cơ thể. Giúp trẻ chủ động, cảnh giác với tình huống khi có người quan 
16


tâm thái quá đến cơ thể của trẻ. Dạy trẻ một số cách phản kháng và bảo vệ bản
thân. 
Trong cuộc sống hàng ngày, nên dạy trẻ cách xử lý những tình huống bất
trắc mà trẻ có thể gặp phải dưới hình thức trò chuyện, tạo tình huống, gợi mở
giúp trẻ tìm ra cách giải quyết. Không áp đặt, cấm đoán trẻ. Thay vì “Con không
được làm thế này, thế kia“ thì ta nên đưa ra các tình huống cụ thể thông qua thực
tế giúp trẻ hiểu tại sao không được làm như thế, nếu xảy ra thì sẽ phải làm như
thế nào? Chính từ những suy nghĩ tìm cách xử lý ở các tình huống cụ thể đó
giúp trẻ dần có kỹ năng suy đoán, biết áp dụng những kiến thức kinh nghiệm
mình đã có để tìm cách giải quyết.
Từ đó trẻ có thể vận dụng với những tình huống khác trong thực tế hàng

ngày mà trẻ gặp. Dần hình thành cho trẻ những kinh nghiệm, những kỹ năng
biết bảo vệ mình trong cuộc sống sau này. Để có thể yên tâm hơn về con khi ra
ngoài. Trong khi dạy kỹ năng sống cho bé 5 - 6 tuổi bố mẹ hãy cho con biết về
tên, số điện thoại, địa chỉ nhà cho trẻ. Bên cạnh đó, yêu cầu phụ huynh phối hợp
cùng cô giáo trong việc thống nhất phương pháp giáo dục trẻ:
- Tin tưởng vào trẻ và năng lực của trẻ.
- Tôn trọng ý kiến của trẻ, không áp đặt ý kiến của mình.
- Không nói dài và nói nhiều
- Không đưa lời giải đáp có sẵn mà hãy đưa câu hỏi để trẻ tự tìm tòi.
- Không vội vàng phê phán đúng -  sai mà kiên trì giúp trẻ  biết tranh luận
và có thể đưa ra kết luận của mình.
Ví dụ: Một số kỹ năng phối hợp cùng cô giáo dạy trẻ kỹ năng cất dép, kỹ
năng cất quần áo. Vậy muốn trẻ làm tốt được những kỹ năng này tôi phối hợp
với phụ huynh hướng dẫn và quan sát trẻ khi con ở nhà. Cha mẹ cần có niềm tin
với sự hướng dẫn của giáo viên và năng khiếu bẩm sinh của trẻ bên cạnh đó cha
mẹ cần dạy trẻ từ từ để trẻ hiểu và cha mẹ chính là tấm gương sáng để trẻ noi
theo.
Ví dụ: Cha hãy mẹ cho phép trẻ vui chơi bày biện đồ chơi theo theo ý
thích của trẻ, đừng bao giờ cấm đoán hay la mắng. Điều quan trọng là hãy để trẻ
tự thu dọn đồ chơi sau khi chơi xong. Cha mẹ có thể cùng con thu dọn nhưng
tuyệt đối không bao giờ được làm thay trẻ.
Việc dạy trẻ những kỹ năng đó phải là một quá trình. Tôi cũng tuyên
truyền với phụ huynh quan sát những biểu hiện của trẻ trong điều kiện và tình
huống tự nhiên hàng ngày như: Quan sát xem trẻ có tự tin và tự nhiên khi giao
tiếp với mọi người hay không? Trẻ có thích tham gia dã ngoại hay tham gia các
nhóm sinh hoạt không? Trẻ có tự nhiên sáng tạo khi chơi với đồ chơi không?
Trẻ có lễ phép trong cách nói năng với người lớn hay không?… để từ đó có biện
pháp rèn luyện và giáo dục trẻ thêm. Nhờ có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa giáo
17



viên với cha mẹ trẻ mà tôi thấy trẻ lớp tôi rất mạnh dạn, tự tin và hầu hết trẻ có
kỹ năng sống cần thiết theo độ tuổi.
2.4 Hiệu quả của sáng kiếm kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
Qua quá trình áp dụng “ Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ
mẫu giáo 5-6 tuổi trường mầm non Đông Vệ Thành phố Thanh Hóa” kết quả đạt
đuợc như sau:
Tổng
số trẻ

Đạt

Chưa đạt

T
T

Nội dung khảo sát

1

Kỹ năng tự tin, tự lập, tự phục vụ.

45

45

100%


0

0

2

Kỹ năng hợp tác

45

45

100%

0

0

3

Kỹ năng giao tiếp

45

42

93,3% 3

6,7%


4

Kỹ năng xử lí tình huống

45

43

95,6% 2

4,4%

5

Sự tò mò và khả năng sáng tạo.

45

43

95,6% 2

4,4%

6

Kỹ năng giữ an toàn cá nhân.

45


45

100%

0

Số
trẻ

Tỉ lệ
%

Số
trẻ

0

Tỉ lệ
%

* Đối với bản thân
Có thể khẳng định rằng qua việc áp dụng một số biện pháp giáo dục kỹ
năng sống cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi tại nhà trường đã giúp trẻ tích lũy được
nhiều kinh nghiệm sống cho bản thân. Việc lựa chọn, sử dung các trò chơi thiết
kế và sưu tầm phải phù hợp với mục đích, nội dung giáo dục đặt ra trong mỗi
bài học, trong mỗi hoạt động hoặc giai đoạn thực hiện chủ đề, phù hợp với vốn
hiểu biết và khả năng nhận thức của trẻ để đảm bảo tính phát triển. Đó chính là
những lợi ích về lâu dài để các bậc phụ huynh ngày nay quan tâm nhiều hơn đến
việc trang bị kỹ năng sống cho con ngay từ tuổi mầm non.
Kết hợp chặt chẽ với phụ huynh, tạo uy tín tiềm năng đối với phụ huynh

và với trẻ, được phụ huynh tín nhiệm. Mạnh dạn giám nghĩ, giám làm, khắc
phục mọi khó khăn để giúp trẻ có được những kỹ năng sống ngay từ khi còn
nhỏ. Điều khiến tôi cảm thấy rất hài lòng là trong quá trình thực hiện một số
biện pháp đổi mới, tôi luôn nhận được sự đồng thuận của tập thể cán bộ giáo
viên trong nhà trường. Có thể nói, sau khi đã sử dụng “Một số biện pháp giáo
dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi ở trường mầm non Đông Vệ
Thành phố Thanh Hóa” tôi thấy trẻ đã có nhiều kỹ năng với những kết quả khả
quan như vậy tôi thấy mình cần phải phát huy hơn nữa, nghiên cứu tài liệu và
tích cực hơn nữa trong việc tiếp tục giáo dục và rèn kỹ năng sống cho trẻ để làm
tốt nhiệm vụ trồng người của mình.
* Đối với hoạt động giáo dục và đồng ngiệp.
18


Giáo viên cần hiểu rõ tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng sống cho
trẻ. Không ngừng học tập để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tự rèn
luyện nâng cao phẩm chất đạo đức tác phong nghề nghiệp để thực hiện tốt
nhiệm chăm sóc giáo dục trẻ. Bản thân giáo viên phải là tấm gương sáng cho trẻ
noi theo. Có kiến thức vững vàng nắm vững đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi.
Giáo viên luôn tạo các tình huống, không khí vui tươi, thoải mái cho trẻ,
động viên trẻ đi học đều, tạo điều kiện quan tâm đến những trẻ nhút nhát, giành
thời gian gần gũi, trò chuyện với trẻ để trẻ mạnh dạn, tự tin, tự lập, tự phục vụ
và tham gia các hoạt động tập thể
Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường để giáo viên nắm
vững đặc điểm tâm sinh lý của trẻ để từ đó có kế hoạch giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ. Tạo nhiều tình huống, kích thích sự tò mò, khả năng sáng tạo. Rèn luyện
kỹ năng hợp tác, giao tiếp và xử lý tình huống tốt khi tham gia các hoạt động.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận.
Trẻ em được giáo dục kỹ năng sống tốt thì khả năng thích nghi và thành

công trong cuộc sống sẽ dễ dàng hơn. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là một việc
làm hết sức quan trọng và cần thiết. Điều đó giúp cho trẻ tự tin, chủ động xử lý
linh hoạt các tình huống trong cuộc sống. Chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ
lứa tuổi mầm non chính là cơ sở giúp trẻ phát triển toàn diện về thể chất, tình
cảm, trí tuệ, thẩm mỹ là nền tảng cho quá trình học tập suốt đời của trẻ. Bên
cạnh những lời nói khích lệ, nêu gương, khuyến khích những hành vi, lời nói tốt
của trẻ. Các bậc làm cha mẹ, cô giáo, những người lớn cần nhẹ nhàng, khéo léo
khi giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, không nên hạ thấp khả năng của trẻ, không
doạ nạt hay bắt trẻ phải làm những việc quá sức của trẻ. Người lớn không nên
nuông chiều, bao bọc trẻ thái quá, không nên nhồi nhét lượng kiến thức quá mức
so với khả năng tiếp nhận từng lứa tuổi của trẻ. Người lớn cần sử dụng lời nói rõ
ràng, câu hỏi gợi mở phối hợp cùng các cử chỉ, điệu bộ phù hợp nhằm khuyến
khích trẻ tiếp xúc với môi trường xung quanh, bộc lộ, chia sẻ những cảm xúc với
người khác bằng lời nói và hành động cụ thể. Cũng cần nói thêm rằng trẻ nhỏ
chỉ có thể tích luỹ kỹ năng sống thông qua những trải nghiệm thực tế. Trong mỗi
đứa trẻ đều có những tài năng tiềm ẩn. Sự chuẩn bị kỹ càng từ lúc đầu đời chính
là chìa khoá thành công cho tương lai mỗi trẻ.
*Bài học kinh nghiệm.
Thông qua việc nghiên cứu đề tài cho thấy để giáo dục kỹ năng sống cho
trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi giáo viên phải xác định được mục đích, ý nghĩa và tầm
quan trọng của việc hình thành các kỹ năng sống cho trẻ trong mọi hoạt động.
Ngoài lòng yêu nghề mến trẻ, người giáo viên phải có năng lực sư phạm, trình
độ chuyên môn, biết vận dụng những lý luận vào thực tế và có lòng kiên trì, kiên
nhẫn trong công việc, có sự quan tâm đến đặc điểm của từng cá nhân trẻ. Giáo
viên cần phải là người có kỹ năng sống tốt và luôn là tấm gương sáng cho trẻ.
19


Giáo viên cần tích cực trau dồi, học hỏi, tự bồi dưỡng kiến thức qua sách
báo, phương tiện thông tin đại chúng, internet, qua bạn bè, đồng nghiệp để nâng

cao trình độ chuyên môn, làm phong phú vốn sống và vốn hiểu biết của mình về
nhiều lĩnh vực. Làm tôt công tác tuyên truyền phổ biến kiến thức cho cộng động,
vận động cộng đồng cùng chung tay giáo dục trẻ kỹ năng sống cho trẻ.
3.2. Kiến nghị.
* Đối với phòng giáo dục
- Về phía bản thân tôi luôn luôn mong muốn được sự quan tâm của các
cấp lãnh đạo phòng giáo dục, Uỷ ban nhân dân Thành phố Thanh Hóa đầu tư
thêm trang thiết bị, cơ sở vật chất cho trường tôi. Tiếp tục tạo điều kiện cho tôi
cùng các đồng nghiệp được tham gia học tập các chuyên đề của phòng cũng như
của trường để tôi và các đồng nghiệp được học hỏi nâng cao trình độ chuyên
môn nghiệp vụ hơn nữa.
* Đối với nhà trường
Tổ chức cho giáo viên được tham gia nhiều buổi học tập kinh nghiệm.
Thường xuyên xây dựng các hoạt động, dự giờ lồng ghép nội dung giáo dục kỹ
năng sống, kỹ năng tự phục vụ để tạo điều kiện cho giáo viên học tập và nâng
cao trình độ, năng lực chuyên môn hơn nữa.
Ban giám hiệu nhà trường cùng với tập thể giáo viên thường xuyên phát
động phong trào tổ chức các buổi tham quan, dạo chơi, ngoại khóa, tổ chức các
hoạt động tập thể để trẻ thường xuyên được học tập, vui chơi, trải nghiệm và
tích lũy được nhiều kinh nghiệm sống.
Trên đây là ”Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 5 – 6 tuổi
ở trường mầm non Đông Vệ Thành phố Thanh Hóa” tôi đã áp dụng thành
công và thu được kết quả tốt. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các
cấp lãnh đạo, chị em đồng nghiệp để bản thân tôi thực hiện tốt hơn trong những
năm học tiếp theo.
Xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ
TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 28 tháng 3 năm 2019

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
Người viết sáng kiến

Nguyễn Thị Hiền
Nguyễn Thị Hằng
20


MỤC LỤC
Stt

Phần mục lục

Trang

1

Lời mở đầu

1

1.1

Lý do chọn đề tài

1

1.2


Mục đích nghiên cứu

2

1.3

Đối tượng nghiên cứu

3

1.4

Phương pháp nghiên cứu

3

2

Nội dung sáng kiến kinh nghiêm

3

2.1

Cơ sở lý luận

3

2.2


Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm

5

Thuận lợi

5

Khó khăn

5

Khảo sát thực trạng

6

Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề

6

Biện pháp 1: Tìn tòi, tự bồi dưỡng bản thân, chia sẻ với đồng
nghiệp.

6

Biện pháp 2: Lập kế hoạch giáo dục Kỹ năng sống cho trẻ
qua các hoạt động

8


Biện pháp 3: Giáo dục Kỹ năng sống qua các hoạt động khác.

12

Biện pháp 4: Tạo cơ hội cho trẻ trải nghiệm, sử dụng tình
huống giải quyết vấn đề.

13

Biện pháp 5: Tuyên truyền, phối hợp với phụ huynh

16

2.4

Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm

18

3

Kết luận, kiến nghị

19

Kết luận

19

Bài học kinh nghiệm


19

Kiến nghị

20

2.3

21


T À I L IỆ U T H A M K H Ả O
T â m lý h ọ c trẻ e m - T á c g iả : N g u y ễ n Á n h T u y ế t - N g u y ễ n T h ị N h ư M a i Đ in h T h ị k im T h o a
H ư ớ n g d ẫ n tổ c h ứ c th ự c h iệ n c h ư ơ n g trìn h - T S . T rầ n T h ị N g ọ c T râ m - T S .
L ê T h u H ư ơ n g - P G S . T S . L ê T h ị Á n h T u y ế t - N h à X u ấ t B ả n G iá o D ụ c V iệ t N a m
C h ư ơ n g trìn h g iá o d ụ c m ầ m n o n – N h à x u ấ t b ả n g iá o d ụ c V iệ t n a m
T u y ể n tậ p trò c h ơ i, b à i h á t, th ơ c a , tru y ệ n , c â u đ ố th e o c h ủ đ ề 5 – 6 tu ổ i (
V iệ n c h iế n lư ợ c v à c h ư ơ n g trìn h g iá o d ụ c )
T à i liệ u b ồ i d ư ỡ n g th ư ờ n g x u y ê n g iá o v iê n m ầ m n o n .
T ạ p c h í g iá o d ụ c m ầ m n o n
N g u ồ n tư liệ u q u a c á c k ê n h c ủ a đ à i tru y ề n h ìn h c h ư ơ n g trìn h q u à tặ n g
c u ộ c s ố n g ; C u ộ c s ố n g q u a n h ta v à trê n m ạ n g in te rn e t.
S á c h h ư ớ n g d ẫ n c á c h o ạ t đ ộ n g p h á t triể n n g ô n n g ữ v à g ia o tiế p c h o trẻ m ầ m
n o n ( N h à x u ấ t b ả n g iá o d ụ c V iệ t N a m )
S á c h g iá o d ụ c g iá trị s ố n g v à k ỹ n ă n g s ố n g c h o trẻ m ầ m n o n (n h à x u ấ t b ả n
đ ạ i h ọ c q u ố c g ia );
S á c h b é th ự c h à n h c á c tìn h h u ố n g g iá o d ụ c k ỹ n ă n g s ố n g d à n h c h o trẻ m ẫ u
g iá o .( N h à x u ấ t b ả n g iá o d ụ c V iệ t N a m )
S á c h G iá o d ụ c tìn h c ả m v à k ĩ n ă n g x ã h ộ i ( N h à x u ấ t b ả n g iá o d ụ c V iệ t

N a m ).

22


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT
VÀ CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Nguyễn Thị Hằng
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên - Trường Mầm non Đông Vệ - Thành phố Thanh
Hóa
TT

Tên đề tài SKKN

Cấp đánh
giá xếp loại
(Phòng, Sở,
Tỉnh...)

Kết quả đánh
Năm học
giá xếp loại
đánh giá xếp
(A, B, hoặc C)
loại

1


Hướng dẫn trẻ mẫu giáo 5
tuổi hoạt động giáo dục âm
nhạc trường mầm non Đông
Vệ

Sở giáo dục
& Đào tạo
Thanh Hóa

C

2003-2004

2

Kinh Nghiệm tổ chức làm
quen với các biểu tượng tập
hợp và số lượng ở lớp mẫu
giáo 5 tuổi trường mầm non
Đông Vệ

Sở giáo dục
& Đào tạo
Thanh Hóa

C

2003-2004

3


Kinh nghiệm giáo dục môi
trường cho trẻ mầm non
Đông Vệ

Sở giáo dục
& Đào tạo
Thanh Hóa

C

2004-2008

4

Một số biện pháp nâng cao
chất lượng chuyên môn trong
trưòng mầm non Đông Vệ

Sở giáo dục
& Đào tạo
Thanh Hóa

C

2008-2013

5

Một số biện pháp nâng cao

chất lượng chuyên môn
trưòng mầm non Đông Vệ

Phòng giáo
dục & Đào
tạo Thanh
Hóa

B

2013-2014

6

Một số biện pháp nâng cao
chất lượng chuyên môn
trưòng mầm non Đông Vệ

Phòng giáo
dục & Đào
tạo Thanh
Hóa

A

2014-2015

7

Một số biện pháp Vệ sinh an

toàn thực phẩm và phòng
chống ngộ độc thực phẩm
trường mầm non Đông Vệ

UBND
Thành phố
Thanh Hóa

A

2015-2016

23



×