Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Giải pháp nâng cao chất lượng môn tiếng việt cho học sinh lớp 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (329.78 KB, 35 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THẠCH THÀNH

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG MÔN
TIẾNG VIỆT CHO HỌC SINH LỚP 1

Người thực hiện: Quách Thị Yến
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học thị trấn Kim Tân
Huyện: Thạch Thành
SKKN thuộc môn: Tiếng Việt

THANH HÓA, NĂM 2019


Mục
1.
1.1
1.2
1.3
1.4
2.
2.1
2.2
3
3.1
3.2
3.3
3.4


3.5
3.6
3.7
3.8
3.9
3.10
3.11
4
1.
2.

MỤC LỤC
Nội dung
Mở đầu
Lí do chon đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu
Nội dung
Cơ sở lí luận
Thực trạng
Các giải pháp pháp tổ chức thực hiện
Tìm hiểu tình hình học tập của học sinh. Rèn cho học sinh thói
quen và phương pháp học tập tốt.
Kiểm tra phân loại đối tượng học sinh.
Kích thích nhu cầu nhận thức, tạo niềm tin trong học tập cho
các em.
Sử dụng đồ dùng dạy học trong tiết dạy một cách hợp lí.
Làm việc với sách giáo khoa, bảng con và các đồ dùng phục vụ
cho tiết học.

Phát huy tính tích cực, tự giác cho học sinh trong giờ học
Tổ chức trò chơi học tập trong các tiết học.
Tổ chức phong trào “Đôi bạn cùng tiến”.
Phát động phong trào “Giữ vở sạch – Viết chữ đẹp”
Phối kết hợp giữa giáo viên chủ nhiệm với cha mẹ học sinh
Tăng thời lượng dạy học môn Tiếng Việt nhằm củng cố kiến
thức cho học sinh một cách vững chắc vào các buổi chiều trong
tuần.
Kết luận, kiến nghị
Kết luận
Kiến nghị

Trang
2
2
2
3
3
3
3
3
6
6
7
7
10
11
11
12
12

13
13
14
14
14
15

2


1. Mở đầu
1.1 Lí do chọn đề tài
Chúng ta biết rằng học sinh ở bậc Tiểu học là nhân vật trung tâm của nhà
trường. Một bậc học rất quan trọng cho việc đặt nền móng trong việc hình thành
nhân cách của học sinh sau này, trên cơ sở cung cấp những tri thức khoa học ban
đầu về tự nhiên và xã hội.
Với lứa tuổi tiểu học thì hoạt động chủ đạo của các em là hoạt động học, mà
yêu cầu trước hết để các em thực hiện tốt hoạt động này là các em phải biết đọc
thông, viết thạo, biết tính toán, một yêu cầu tưởng chừng như đơn giản nhưng lại
rất quan trọng đối với các em. Bản thân tôi là một giáo viên chưa có kinh nghiệm
dạy lớp Một, tôi tự thấy rằng nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt là vấn
đề được đặt ra, phải thực hiện có hiệu quả trong năm học 2018 - 2019. Để đạt
được điều đó tất cả các lớp cần phải quan tâm đến từng đối tượng học sinh. Mục
tiêu trước mắt của giáo viên là làm sao đó nâng cao chất lượng dạy và học. Đặc
biệt là chất lượng môn Tiếng Việt.
Riêng đối với lớp 1 là lớp đầu tiên của bậc Tiểu học, nó có vị trí vô cùng quan
trọng, là lớp tạo nền móng cho những lớp trên, cấp học trên.
Song trong thực tế, trong một lớp chất lượng học sinh không đồng đều, có em
đọc tốt nhưng chữ viết xấu hoặc chữ viết đẹp thì khả năng tiếp thu bài lại chậm.
Do đâu? Vì sao? Đó là những băn khoăn của bản thân tôi trong quá trình giảng

dạy, làm thế nào để học sinh tiếp thu một cách có hiệu quả. Nhận thức được tầm
quan trọng của vấn đề này, bản thân tôi mạnh dạn đưa ra “giải pháp nâng cao
chất lượng môn Tiếng Việt cho học sinh lớp 1C” trong năm học 2018 – 2019.
1.2 Mục đích nghiên cứu
- Dạy học nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt cho học sinh lớp 1 giúp học sinh
luyện tập, củng cố, vận dụng các kiến thức và thao tác thực hành, rèn luyện kĩ
năng học tập có hiệu quả, đồng thời từng bước tập vận dụng kiến thức và kĩ năng
thực hành vào thực tiễn học tập và đời sống.
- Nâng cao chất lượng dạy học là nguồn thông tin ngược giúp giáo viên nhìn rõ
hiệu quả của việc dạy học, từ đó điều chỉnh quá trình dạy học cho phù hợp.
- Nâng cao chất lượng dạy học, giáo viên có điều kiện dạy học sinh đạt được các
kiến thức, kĩ năng cơ bản, tối thiểu của môn học, các hoạt động giáo dục. Từ đó,
phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp và rèn luyện kĩ năng suy luận,

3


khêu gợi và tập dượt khả năng quan sát, phỏng đoán, tìm tòi.
1. 3 Đối tượng nghiên cứu
Dạy học nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt cho học sinh lớp 1C do tôi chủ
nhiệm.
1.4 Các phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp điều tra, khảo sát, thực nghiệm.
- Phương pháp mô tả.
- Phương pháp đối chiếu.
- Phương pháp phân tích.
- Phương pháp tổng hợp.
- Sử dụng phương pháp thực hành ở lớp trực tiếp phụ trách giảng dạy.
- Nghiên cứu qua thực tế giờ dạy, qua dự giờ, trao đổi kinh nghiệm.
2. Nội dung

2.1 Cơ sở lí luận
Trong hệ thống giáo dục quốc dân, bậc tiểu học là bậc học vô cùng quan trọng.
“Bậc Tiểu học là bậc học nền tảng vì nó là bậc học đầu tiên có nhiệm vụ xây
dựng toàn bộ nền móng cho hệ thống giáo dục quốc dân để đặt cơ sở vững chắc
cho sự phát triển toàn diện con người Việt Nam Xã hội chủ nghĩa”[1]. Nếu học
sinh không đạt được kết quả tốt ở bậc Tiểu học thì cũng khó tiến bộ được trong
những bậc học tiếp theo.
Với học sinh lớp 1 yêu cầu rèn cho học sinh những kỹ năng cơ bản ban đầu,
giúp các em làm quen với bậc học mới, đặc biệt lớp 1 yêu cầu phải đọc thông viết
thạo, làm tính tốt. Nâng cao chất lượng văn hóa, rèn luyện và giáo dục kĩ năng
sống tốt cho học sinh sẽ hạn chế học sinh chưa hoàn thành chương trình môn học.
Do đó sự giúp đỡ của giáo viên đối với học sinh là rất quan trọng, làm sao cho
các em từng bước học tập có kết quả, từ đó xây dựng lòng tự tin, hứng thú, cố
gắng học tập. Những học sinh phát triển bình thường đều có khả năng tiếp thu
chương trình học tập và đạt yêu cầu quy định.
2.2 Thực trạng
Trường Tiểu học thị trấn Kim Tân là trường chuẩn quốc gia đầu tiên của huyện
và là một trong những trường nằm trong tốp đầu xếp loại về chất lượng giáo dục
của huyện Thạch Thành. Cơ sở vật chất của nhà trường tương đối đầy đủ, tạo
điều kiện cho học sinh học tập tốt các môn học nói chung và môn Tiếng Việt nói

4


riêng. Song chất lượng đầu vào luôn là nỗi trăn trở đối với các giáo viên phụ
trách lớp Một. Điều đó một phần do nguyên nhân khách quan như: Đa số học
sinh có bố mẹ đi làm ăn xa, phải ở nhà với ông bà hoặc học sinh từ nơi khác
chuyển về để ở lại bán trú. Mặt khác số học sinh thuộc Liên Sơn – Thành Kim
theo học ở Tiểu học Thị trấn, đây là số học sinh đa số thuộc con em gia đình nông
nghiệp hoặc buôn bán nhỏ, không có điều kiện để quan tâm đến việc học của con

cái. Điều đó cũng ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng của nhà trường và khó
khăn cho việc dạy học của giáo viên. Hơn ai hết, giáo viên chủ nhiệm và đặc biệt
là giáo viên chủ nhiệm lớp Một thực hiện nhiệm vụ quản lí lớp học, là người chủ
chốt dìu dắt, giáo dục học sinh, xây dựng cho các em thói quen học tập, giáo dục
Kĩ năng sống cho các em thành con ngoan trò giỏi.
Được Ban giám hiệu phân công lớp Một, là lớp đầu cấp và cũng là năm học
thứ năm tôi giảng dạy lớp Một. Mặc dù có nhiều lo lắng, trăn trở nhưng tôi đã cố
gắng hết mình, qua thời gian giảng dạy tôi thấy được một số vấn đề sau:
- Khả năng tiếp thu và đạt các yêu cầu đặt ra chưa đồng đều, vẫn còn nhiều học
sinh đạt kết quả thấp.
- Sự phát triển nhận thức của học sinh cùng lứa tuổi không đồng đều, hoạt động
tư duy có nhiều nét riêng.
- Việc lĩnh hội kiến thức trước đó có nhiều lỗ hổng.
- Thái độ học tập chưa tốt, chưa được định hướng rõ.
- Do một số em khi đã học qua lớp mẫu giáo nhưng các em nhận thức còn non
nớt, tiếp thu bài còn gặp rất nhiều khó khăn. Có thể các em chưa quen với cách
học mới ở trường Tiểu học.
- Cách cầm bút và tư thế ngồi viết của một số học sinh chưa đúng do thói quen
cầm bút màu, vẽ màu ở bậc học mầm non.
Do đó, tác động của một số yếu tố trên mà một số học sinh hứng thú học tập
kém, thiếu tự tin, thiếu cố gắng vươn lên trong học tập, kết quả học tập kém,
không ổn định. Quan sát tôi thấy từ những nguyên nhân đó mà học sinh yếu có
những biểu hiện sau:
- Tư duy thiếu linh hoạt.
- Sự chú ý, óc quan sát, trí tưởng tượng đều phát triển chậm.
- Diễn đạt bằng ngôn ngữ khô khan, lúng túng, nhiều chỗ còn lộn xộn.
- Biểu hiện bề ngoài là thờ ơ với thái độ học tập, giáo viên giảng bài hỏi lại học

5



sinh trả lời ngập ngừng không tin ở chính mình, thái độ tiếp thu thụ động.
- Nghịch ngợm, có tính ham chơi, lười học dẫn đến học kém và rất ngại học.
- Nhiều em có bố mẹ đi làm ăn xa, phải ở nhà với ông bà hoặc bác ( Bảo An, Gia
Hào, Quang Hào, Khánh Linh, Thu Hoài….). Do đó, các em được nuông chiều vì
nghĩ rằng các em thiếu thốn tình cảm, dẫn đến việc không sát sao hoặc không
nghiêm khắc để các em hoàn thành nhiệm vụ học tập. Mặt khác, nếu quan tâm thì
phụ huynh lại không biết cách hướng dẫn các em học tập, nhất là hướng dẫn viết
chữ không đúng mẫu (thiếu về độ cao hoặc không đúng về độ rộng), cách đánh
vần không đúng (ví dụ đánh vần tiếng “hồng” hờ - ô – hô –ngờ - hông – huyền –
hồng).
Qua khảo sát chất lượng đầu năm học 2018 – 2019, kết quả cụ thể như sau:
Sĩ số học sinh
29 em

Chất lượng đọc
Đạt
Chưa đạt
15 = 51,7%

14 = 48,3%

Chất lượng viết
Đạt
Chưa đạt
10 = 34,4%

19 = 65,6%

Sau khi kiểm tra khảo sát chất lượng, tôi thấy số học sinh nhớ được bảng chữ

cái thì tương đối cao nhưng khi vào các bài học, các em thường không biết ghép
tiếng, từ (đánh vần). Một số em đọc được nhưng lại đọc sai do tiếng địa phương,
hoặc do còn nói ngọng. Tuy nhiên, có những em biết đọc nhưng khi viết thì tay
yếu, viết không đúng mẫu, không đúng ô li, dòng kẻ, cách cầm bút không đúng,
ngồi sai tư thế. Đứng trước thực tế đó, tôi băn khoăn và tự đặt ra câu hỏi là: Phải
làm gì và làm như thế nào để giúp học sinh học tập tốt hơn? Với trách nhiệm của
người giáo viên chủ nhiệm tôi không thể nào yên tâm được, tôi nghĩ rằng nếu để
tình trạng này kéo dài thì chất lượng của lớp tôi sẽ kém đi không đạt được yêu
cầu về chất lượng mà lớp cũng như nhà trường đề ra, nhất là sẽ ảnh hưởng tới
toàn bộ quá trình tiếp thu kiến thức của học sinh.
Thông qua quá trình dạy học, qua việc tìm hiểu nguyên nhân và những biểu
hiện của học sinh yếu, tôi đã mạnh dạn cải tiến tìm ra những biện pháp giáo dục
phù hợp với nhận thức của từng đối tượng, từng học sinh. Chính vì vậy, việc
“Nâng cao chất lượng Môn Tiếng Việt” cho học sinh ở lớp 1C – Trường Tiểu học
Thị trấn Kim Tân là cần thiết.
Từ thực trạng trên, để nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt cho học sinh lớp
1C đạt kết quả tốt hơn, tôi mạnh dạn đưa ra các giải pháp sau:
3. Các giải pháp tổ chức thực hiện
6


3.1. Tìm hiểu tình hình học tập của học sinh, từ đó rèn luyện cho học sinh có
những thói quen và phương pháp học tập tốt.
Để rèn luyện cho học sinh có những thói quen và phương pháp học tập tốt, đáp
ứng với yêu cầu đặt ra, giáo viên phải tìm ra những biện pháp phù hợp, kết hợp
với lòng yêu nghề mến trẻ, hiểu được tâm lí của trẻ và bản thân phải nhiệt tình
trong công tác giáo dục, phải thật sự là người mẫu mực, là tấm gương sáng cho
học sinh noi theo.
Giáo viên phải nắm bắt được hoàn cảnh, tình hình học tập của từng em, nắm rõ
được những em học yếu, yếu ở mức độ nào? Do đâu? Từ đó tìm ra những phương

pháp giáo dục để thu hút tuyệt đối sự chú ý của các em, cố gắng tạo niềm tin
trong lúc học không để các em nhàm chán.
Ví dụ: Trường hợp của em Trần Khánh Linh, gia đình sống ở miền Nam, bố mới
mất, Khánh Linh được mẹ đưa về ở nhà với bác. Vào đầu năm học tôi thấy Linh
có phần nhút nhát, ít giao tiếp với thầy cô, bạn bè. Khi tôi hỏi bài hoặc trao đổi
vấn đề khác ngoài giờ học thì trả lời rất nhỏ có vẻ sợ sệt hoặc ngồi im. Tìm hiểu
được nguyên nhân do em chưa quen nói tiếng Bắc (vì học Mầm Non trong Nam),
một phần vì nhớ mẹ và em, phải sinh hoạt và học tập ở môi trường mới nên em tự
ti, mặc cảm. Từ những nguyên nhân này, tôi đã cử một số học sinh có cá tính
mạnh mẽ, nhanh nhẹn trong mọi hoạt động, cởi mở với bạn bè tiếp xúc và giúp
đỡ Linh trong giờ ra chơi, kể cả trong giờ học. Ngoài ra, tôi thường cởi mở hỏi
thăm, tổ chức sinh nhật tại lớp ....Từ đó, Linh có nhiều tiến bộ về mọi mặt, giao
tiếp với thầy cô, bạn bè mạnh dạn, cởi mở hơn.
Đó có thể là phương pháp tốt mà tôi đã áp dụng đầu tiên bằng cách luôn động
viên khuyến khích các em kịp thời. Do đặc điểm tâm sinh lí của các em là hiếu
động thích vui chơi. Mọi cái đối với các em đều gò bó vì ở nhà các em được
chiều chuộng, chưa quen với nề nếp học tập ở Tiểu học, thích gì đều được hay
nhõng nhẽo, nhưng khi đến lớp với tôi lại rất nghiêm khắc nhưng lại vừa nhẹ
nhàng động viên gần gũi các em.
Ví dụ: Trong giờ học, sau câu trả lời của các em tôi thường khen ngợi ngay “Em
rất cố gắng, cô luôn hi vọng vào em rất nhiều” hay “Lần này bạn rất giỏi cả lớp
khen bạn nào”. Hoặc “ Cô nhận thấy em có ý trả lời hay cần cố gắng nhé!”.
Hoặc: “Em làm bài đúng rồi nhưng lần sau cô muốn em hoàn thành bài nhanh
hơn, chúc em thành công”

7


Sau mỗi lần khen là tôi đã gây được lòng tin cho các em. Có những lúc các em
viết chưa đúng, đọc chưa đúng, tôi không phê bình mà vẫn khen động viên

khuyến khích rằng “Em cần cố gắng hơn nữa”, hay “Em chắc chắn sẽ đạt thành
tích cao trong học tập nếu em chăm chỉ học tập”, tránh có thái độ lời nói chạm
lòng tự ái hoặc mặc cảm đối với các em. Qua đó, sau mỗi lần kiểm tra kết quả
học tập cũng như gọi các em đọc bài, tôi thấy học sinh tự tin và mạnh dan hơn.
3.2. Kiểm tra phân loại đối tượng học sinh
Tôi phân loại học sinh ra nhiều đối tượng: Đọc kém, viết kém. Khi đã nắm được
điểm yếu kém của học sinh tôi lập ngay kế hoạch theo dõi thường xuyên cụ thể
kết quả học tập, kết quả kiểm tra thật chặt chẽ. Tôi phân loại học sinh theo hai
khả năng: Đọc và viết.
+ Với những em trí tuệ chậm thì bản thân tôi luôn phải kiên trì, thật kiên trì và
tìm nhiều biện pháp thích hợp khắc sâu kiến thức cho các em.
Ví dụ: Trường hợp em Trịnh Thị Thu Hoài, bố mẹ bỏ nhau, mẹ đi làm xa phải ở
nhà với ông bà nội. Thu Hoài đọc kém, chưa nhớ hết bảng chữ cái, viết phải nhìn
từng nét. Tôi thiết nghĩ trường hợp này phải tích cực rèn đọc. Ngoài việc kèm cặp
vào các giờ ra chơi, tôi giao cho cán bộ lớp kèm trong giờ sinh hoạt 15 phút. Mặt
khác, tôi động viên gia đình giúp đỡ cháu trong thời gian ở nhà. Đến đầu học kì
2, Thu Hoài có tiến bộ nhưng đọc chậm, tôi đã thưởng cho em những quyển
truyện tranh, khích lệ em đọc để tìm hiểu truyện nói về ai? Về vấn đề gì? Kết
thúc câu chuyện ra sao? Đến thời điểm này, Hoài có sự tiến bộ rõ rệt, đọc thông
và viết thạo, tự tin trong học tập và luôn tìm kiếm sự hỗ trợ từ cô giáo và bạn bè.
+ Với những học sinh không nắm chắc kiến thức, trong tiết dạy ôn luyện tôi phải
tìm hiểu các em thường đọc sai, làm sai ở những phần nào? Thuộc mảng kiến
thức nào? Từ đó tôi có biện pháp kèm cặp và gọi các em đọc, viết, trả lời các câu
hỏi, luyện nói theo chủ đề. Chỉ sau một học kì 1, nhiều em đã tiến bộ cả về đọc
và viết, mạnh dạn, tự tin khi hơn khi trả lời về nội dung bài đọc.
3.3. Kích thích nhu cầu nhận thức tạo niềm tin trong học tập cho các em
Tổ chức các hoạt động dạy học trên lớp linh hoạt, kết hợp với tổ chức giáo dục
ngoài giờ lên lớp, tăng cường kĩ năng giao tiếp cho học sinh. Ngoài một số hoạt
động như múa hát, kể chuyện hoặc các phong trào thi đua: giữ vở sạch, viết chữ
đẹp, ngàn hoa việc tốt, đôi bạn cùng tiến...càng giúp các em tự tin, mạnh dạn đạt

kết quả tốt trong học tập.

8


Giáo viên nên tạo ra niềm vui trong học tập cho các em thông qua trò chơi để
các em tiếp thu bài, khắc sâu kiến thức dễ dàng hơn (vì khi đọc đã kém các em
thường hay chán nản, ít có hứng thú học tập không chú ý nghe giảng).
Hoặc đối với các giờ học vần: Tổ chức cho các em viết vần mới, tiếng mới vào
hai mảnh giấy cắt hình bông hoa để trên bàn sau đó gọi hai em cùng lên chơi trò
chơi “Hái hoa” bạn nào hái được bông nào thì thì đọc to cho cả lớp vần, tiếng
mới đó. Ai đọc đúng thì cả lớp cùng khen ngợi.
Đối với những bài dạy trên lớp (không phải giờ ôn luyện) tôi luôn tìm tòi biện
pháp giảng dạy thích hợp, có trọng tâm như tự điều chỉnh nhịp độ bài giảng, tổ
chức việc học tập bằng phương pháp phát huy tính tích cực chủ động của học
sinh. Tổ chức hướng dẫn dìu dắt các em để các em được tiếp cận, chiếm lĩnh
hoàn toàn tri thức không áp đặt, các câu hỏi được sắp đặt rõ ràng, có hệ thống
trong từng bài, từng đối tượng cụ thể trong kế hoạch bài dạy.
Trong khi giảng bài tôi thường xuyên theo dõi sự chú ý của những học sinh yếu
để kiểm tra kịp thời sự tiếp thu bài của học sinh.
Ví dụ: Khi đọc xong vần mới nên hỏi: Hôm nay ta vừa học vần gì? Vần gồm mấy
âm? Âm nào đứng trước? Âm nào đứng sau? Đối với những câu hỏi như thế tôi
dành phần trả lời cho một số em chậm hơn, khi các em trả lời được tôi thường
khen ngay trước lớp, như vậy sẽ giúp các em thấy phấn khởi và có hứng thú để
học tập.
Phần hướng dẫn bài tập cần cụ thể hơn với học sinh kém, bài tập có nội dung
yêu cầu rõ ràng. Khi giao nhiệm vụ tôi kiểm tra cụ thể để phân tích và sửa chữa
kịp thời nếu các em còn lúng túng. Có thể tôi sẽ làm riêng việc đó với từng học
sinh, khuyến khích động viên đúng lúc khi các em tiến bộ hoặc khi đạt một số kết
quả dù chưa cao, đồng thời động viên nhằm khích lệ một số em có thái độ thờ ơ

đối với nhiệm vụ được giao.
Ngay từ đầu năm học, tôi hướng dẫn cho các em về khái niệm đường kẻ dọc,
đường kẻ ngang, ô, li. Khi hướng dẫn viết, để học sinh viết đúng tôi luôn nhắc
nhở các em không được viết thiếu nét của các con chữ, nét nối giữa các con chữ
sao cho đúng về khoảng cách và kĩ thuật. Vì một số học sinh khi viết hay tùy tiện,
có thói quen dựa vào đường kẻ dọc nên chữ viết thường sai mẫu, không đúng về
khoảng cách và độ rộng của con chữ. Tôi luôn chú ý đến điểm đặt bút và dừng
bút giữa các nét, các con chữ, vị trí của dấu phụ và dấu thanh. Mặc dù chữ viết

9


của học sinh trong thời gian nửa đầu học kì 1 còn run nét, chưa mượt mà. Song
các em viết đúng mẫu, nét chữ ngay ngắn thì nhìn bắt mắt hơn, dễ có cảm tình
với bài viết hơn.
Ví dụ: Khi viết con chữ M các em thường viết hai nét móc xuôi và nét móc hai
đầu dựa vào đường kẻ dọc. Nhưng khi hướng dẫn tôi nhắc nhở các em khoảng
cách giữa các nét là 1 ô rưỡi, vì vậy nét móc xuôi thứ hai phải viết vào giữa ô,
tiếp đến là nét mọc hai đầu độ rộng một ô rưỡi nên phải dựa vào đường kẻ dọc và
điểm dừng bút là ở góc liền kề bám đường kẻ thứ 2.

Hình 1: Hướng dẫn học sinh viết đúng chữ m
Hoặc khi viết các chữ có nét khuyết trên các em thường viết sai, nét chữ thường
lép hoặc to quá. Tôi hướng dẫn các em cách tìm góc tương ứng, dựa vào góc có
thể viết nét khuyết đẹp hơn.

10


Hình 2: Hướng dẫn học sinh viết đúng nét khuyết

Sau khi được hướng dẫn tỉ mỉ cách viết nét khuyết, từ điểm đặt bút cho đến
gọc đưa nét và điểm kết thúc. Mỗi lần viết các con chữ có nét khuyết trên như con
chữ: b, h, l, k tôi không phải dành nhiều thời gian để hướng dẫn lại mà các em đã
tự viết chính xác và đẹp như nét chữ mẫu.
Khi học sinh đã học gần hết phần vần, tôi khuyến khích học sinh nâng cao kĩ
năng đọc bằng cách thưởng cho các em những cuốn truyện tranh khi các em đạt
một thành tích nào đó, cho các em đọc và tìm hỏi về nội dung câu truyện. Như
vậy các em sẽ không bị nhàm chán như khi đọc bài trong sách giáo khoa.
3.4. Sử dụng đồ dùng dạy học trong các tiết dạy một cách hợp lí
Việc sử dụng đồ dùng dạy học trong các tiết dạy một cách hợp lí là thu hút
được sự chú ý của học sinh đặc biệt là những học sinh yếu. Để làm được điều đó
đạt hiệu quả, trước khi lên lớp tôi nghiên cứu kĩ bài dạy và đặc biệt chú ý đến đồ
dùng dạy học cho các hoạt động một cách hợp lí, tham khảo tìm mượn thư
viện.Vì đồ dùng dạy học rất phong phú, có nhiều các loại tranh ảnh, mô hình đa
dạng rất thuận lợi cho học sinh trong quá trình tiếp thu kiến thức. Đồ dùng dạy
học đảm bảo cho học sinh lĩnh hội tốt các biểu tượng, khái niệm, qui ước; hình

11


thành các kĩ năng, giúp các em nắm vững bài học từ sự hứng thú đó. Giáo viên sử
dụng bộ dạy học vần giúp học sinh ghép tiếng, từ và đọc nhanh hơn. Hay sử
dụng bộ tranh truyện hoặc tranh luyện nói sẽ giúp học sinh phát triển lời nói một
cách tự nhiên và mạnh dạn hơn.
Ví dụ: Cho học sinh cài vần ai, yêu cầu học sinh phân tích vần ai gồm mấy âm
ghép lại, hướng dẫn cách đọc, viết dựa vào trực quan để phân tích: vần ai có
trong tiếng gái, trong từ bé gái. Có thể giáo viên cho các em hình thành tiếp các
vần tiếp theo.
3.5. Làm việc với sách giáo khoa, bảng con và các đồ dùng học tập phục vụ
cho tiết học

Đây là việc hết sức quan trọng đối với các em lớp đầu cấp, nên trong giờ học
tôi đã dành thời gian để các em được xem hình vẽ, mô hình minh họa.
Ví dụ: Trong giờ học vần các em thực hiện phần luyện nói theo tranh, học sinh có
thể quan sát vào tranh minh họa để tự nói một câu về tranh đó. Đặc biệt tôi luôn
khuyến khích các học sinh yếu được nói nhiều hơn trong giờ học, mặc dù có thể
các em nói chưa hay, chưa đúng trọng tâm nhưng đó cũng là một yếu tố giúp các
em cố gắng trong học tập.
Dựa vào tranh phóng to phần luyện nói theo chủ đề Bữa cơm. Khi tôi yêu cầu
học sinh quan sát tranh sách giáo khoa thì đa phần các em không phát huy hết
tính tích cực, nhưng khi cho các em quan sat tranh phóng to thì các em tỏ ra thích
thú. Dựa vào tranh các em thảo luận và đưa ra các câu hỏi thú vị như: Bạn thấy
trong tranh vẽ gì? Một ngày nhà bạn ăn mấy bữa cơm? Mỗi bữa ăn thường có
những món gì? Nhà bạn ai nấu cơm? Mỗi bữa bạn ăn mấy bát? Bạn thích ăn món
gì nhất?....
Hoặc khi học sinh viết bảng con, viết vào vở, tôi có thể kiểm tra và sửa sai cho
học sinh một cách tương đối nhiều, bao quát nhanh những học sinh viết chưa
đúng, chưa đẹp để kịp thời uốn nắn.
3.6. Phát huy tính tích cực, tự giác của học sinh trong giờ học
Khắc phục được hiện tượng một số học sinh không làm việc trong giờ học, đó
là những học sinh không có đủ đồ dùng học tập, không thích ứng với nhịp độ bài
giảng. Tôi thường tranh thủ hướng dẫn thêm cho các em đọc kém, viết kém vào
những giờ ra chơi hay những buổi học ôn luyện. Giáo viên cần lôi cuốn học sinh
bằng cách nhắc lại câu hỏi của cô hay câu trả lời của bạn, đưa ra hệ thống câu hỏi

12


trong mỗi bài thật cụ thể vừa phải với mọi đối tượng học sinh, tránh tình trạng
không cho các em tham gia hoạt động học tập vì không được giao nhiệm vụ.
Để làm tốt biện pháp này tôi phải tìm hiểu hoàn cảnh gia đình của những học

sinh yếu. Vì hầu hết ở lớp tôi thường học sinh yếu lại rơi vào những gia đình có
hoàn cảnh khó khăn, bố mẹ đi làm ăn xa con cái ở nhà với ông bà già yếu, hoặc
bố mẹ trước đây đều chưa học hết cấp Tiểu học. Sự quan tâm đến việc học của
con cái có hạn. Vì thế tôi nhờ đến ban đại diện hội phụ huynh của lớp đến động
viên các em đó hoặc bản thân tôi đến tận gia đình các em cũng là tạo ấn tượng tốt
cho các em để các em có niềm tin ở trường, lớp, thầy cô, bạn bè từ đó có ý chí
phấn đấu vươn lên trong học tập.
3.7. Tổ chức trò chơi học tập trong các tiết học
Khích lệ, động viên tinh thần học tập bằng lồng ghép tổ chức các trò chơi trong
các tiết học Tiếng Việt nhằm nâng cao vốn kiến thức Tiếng Việt cho các em.
Ngoài những biện pháp trên tôi còn thường xuyên tổ chức các trò chơi, văn
nghệ, kể chuyện và những hoạt động khác vào tiết học, có thể trò chơi được tổ
chức đầu tiết, giữa tiết hoặc cuối tiết học để tạo dựng nơi các em lòng tin yêu
trường lớp, tha thiết học tập, thích gần gũi với thầy cô, bạn bè... Để tổ chức trò
chơi có hiệu quả, giáo viên cần nêu rõ phương thức chơi, luật chơi một cách rõ
ràng, trò chơi phải phù hợp với đối tượng học sinh và nội dung tiết học.
Ví dụ: GV tổ chức cho học sinh chơi trò chơi “ Ai nhanh, ai đúng” trong tiết Học
vần – Bài 42: ưu, ươu. Đây là một trong những vần khó đọc và học sinh ít gặp
tiếng chứa vần (ươu). Khi học xong vần mới và đọc từ ứng dụng, để học sinh tìm
được tiếng chứa vần vừa học, tôi đã tổ chức trò chơi bằng cách cho hai học sinh
đại diện cho hai tổ có nhiệm vụ lựa chọn tiếng có chứa vần vừa học ưu, ươu để
gắn lên bảng, bạn nào tìm đúng và gắn đúng trong thời gian ít hơn thì thắng cuộc.
Trò chơi này giáo viên cần tổ chức cho học sinh thực hiện vào phần củng cố
bài, nhằm giúp các em có hứng thú trong học tập, giúp các em nhớ lâu kiến thức.
Từ đó các em luôn chấp hành tốt nhiệm vụ và kỉ luật của buổi học.
3. 8 Tổ chức phong trào “Đôi bạn cùng tiến”:
Tổ chức cho học sinh khá giỏi thường xuyên giúp đỡ học sinh yếu bằng cách
bố trí cho học sinh khá giỏi ngồi gần học sinh yếu kém, hay đọc sai, đọc chậm.
Tôi thường cho những học sinh yếu kém đó ngồi đầu bàn để các em dễ chú ý và
giáo viên cũng tiện thường xuyên giúp đỡ các em kịp thời hơn. Khi những học


13


sinh yếu có sự tiến bộ dù là ít nhưng tôi luôn thưởng nóng các em, kể cả những
học sinh được giao kèm cặp bạn yếu một số đồ dùng học tập như quyển vở, cái
bút, thước kẻ, quyển truyện tranh.... nhằm khích lệ các em tích cực giúp đỡ lẫn
nhau. Sau khi được giao nhiệm vụ, những học sinh học tốt cũng cảm thấy phấn
khởi, tự hào về bản thân và có trách nhiệm với bạn của mình. Phong trào “ Đôi
bạn cùng tiến” còn giúp các em gần gũi và thân thiện với nhau hơn.
3.9 Phát động phong trào “Giữ vở sạch – Viết chữ đẹp”
Vào đầu năm học, tôi hướng dẫn học sinh cách giữ gìn vở sạch. Tôi mua bìa kê
tay để kẹp một số quyển vở, sử dụng bìa kê tay có tác dụng giữ vở không bọ quăn
mép, không long bìa, vở luôn sạch sẽ. Ngoài ra còn hướng dẫn học sinh lót tay
khi viết bằng tờ giấy nhỏ để tránh mồ hôi quệt ra vở. Hàng tháng, tôi phát động
phong trào “Giữ vở sạch – Viết chữ đẹp”, tôi luôn xếp loại vở sạch, chữ đẹp hàng
tháng nhằm khuyến khích học sinh thi đua, có ý thức rèn chữ viết và giữ vở cẩn
thận hơn. Sau khi tham gia trưng bày vở sạch chữ đẹp cấp huyện, lớp 1C của tôi
đạt 100% vở loại A và đặc biệt có 5 em đạt danh hiệu cá nhân về “ Giữ vở sạch –
Viết chữ đẹp”
3.10. Phối kết hợp giữa giáo viên chủ nhiệm với cha mẹ học sinh
Công tác tuyên truyền thông qua thông tin điện thoại, sổ liên lạc điện tử hoặc
trao đổi trực tiếp, qua buổi họp phụ huynh đầu năm và cuối học kì 1. Từ đó, nâng
cao nhận thức cho phụ huynh trong việc quan tâm, chăm sóc, hỗ trợ cùng với
giáo viên chủ nhiệm nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt cho học sinh. Kêu gọi
phụ huynh cùng tham gia các phong trào do nhà trường, Đội thiếu niên tổ chức.
Phối hợp chặt chẽ giữa giáo viên chủ nhiệm với gia đình, bằng cách thông tin
qua sổ liên lạc hay trao đổi trực tiếp với phụ huynh để gia đình tạo điều kiện mua
sắm đầy đủ đồ dùng học tập cho các em, đôn đốc các em thực hiện tốt kế hoạch ở
trường, ở nhà. Thậm chí có những phụ huynh khi đọc lời nhận xét của giáo viên

trong vở học sinh thì khó hiểu. Ví dụ: Em cần viết đúng độ cao của nét khuyết
hoặc Cần chú ý điểm đặt bút của nét móc hai đầu em nhé. Như vậy phụ huynh
chưa hiểu như thế nào là nét móc hai đầu, nét khuyết... trong trường hợp như thế
tôi đã hướng dẫn để phụ huynh hiểu để cùng con em học một cách dễ dàng hơn.
Ngoài ra tôi luôn kêu gọi phụ huynh cùng hưởng nhiệt tình các phong trào do nhà
trường, Đội thiếu niên tổ chức nhằm khuyến khích phụ huynh cùng chỉa se những
kết quả mà lớp đạt được, từ đó tạo điều kiện để tôi gần gũi phụ huynh hơn, có

14


thời gian để trao đổi việc học tập cũng như trao đổi về nhu cầu của học sinh hơn.
3.11. Tăng thời lượng dạy học môn Tiếng Việt nhằm củng cố kiến thức
cho học sinh một cách vững chắc vào các buổi chiều trong tuần.
Bằng kinh nghiệm dạy học sinh lớp 1 nhiều năm. Để giúp học sinh học chắc
môn Tiếng Việt thì ngoài việc quan tâm, tập trung dạy học bằng thời lượng trên
lớp. Việc tăng thời lượng để rèn cho học sinh là rất cần thiết. Ngoài những buổi
học chính khóa, tôi đã tăng cường thời gian để kèm cặp thêm cho các em vào các
buổi chiều trong tuần, nhất là những học sinh còn đọc kém, viết chậm. Ngoài các
buổi học theo lịch, tôi đã tăng cường vào các buổi chiều thứ năm và thứ sáu trong
tuần. Hết học kì 1, các em có sự tiến bộ rõ rệt, đọc tốt, viết đúng tốc độ và đẹp
hơn. Hơn thế nữa bản thân tôi cũng đã gắn bó với học sinh, từng thấy trách
nhiệm của mình đối với học sinh là cả một bước quan trọng không thể nhìn sau
mỗi giờ học, buổi học, mà nhìn thấy học sinh của mình có nhiều em vẫn chưa
hiểu bài nên tôi đã tự cố gắng học hỏi, tìm tòi những phương pháp giảng dạy phù
hợp như đã nêu ở trên để ứng dụng và thực hiện với học sinh của mình.
Tóm lại, tùy vào từng đối tượng để giáo viên có biện pháp cụ thể thích hợp để
tổ chức dạy học chứ không theo phương pháp cứng nhắc, áp đặt. Đó là biện pháp
thiết thực nhất để nâng cao chất lượng học tập, hạn chế được tối đa học sinh chưa
hoàn thành môn học, không có học sinh lưu ban đẩy nhanh tiến độ theo kế hoạch

năm học mà lớp đã đề ra.
4. Kết luận, kiến nghị
4.1 Kết luận
Qua một thời gian tìm tòi, nghiên cứu ra những biện pháp để thực hiện vào
việc dạy học nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt cho học sinh. Với lòng yêu
nghề mến trẻ và những kinh nghiệm ít ỏi của mình tôi đã mạnh dạn áp dụng trong
thời gian qua. Kết quả cho thấy rằng học sinh lớp tôi sau những lần kiểm tra
thường xuyên chất lượng tăng lên rõ rệt. Những học sinh từ không biết đọc, viết
xấu hoặc chưa đúng tốc độ bây giờ đã tiến bộ đáng khen ngợi. Kết quả kiểm tra
vào thời điểm cuối tháng ba như sau:
Sĩ số học sinh
29 em

Hoàn thành môn học
29 = 100%

Chưa hoàn thành môn học
0

Kết quả trên đã chứng minh được một số kinh nghiệm của tôi đã thực hiện
15


trong thời gian qua đã có hiệu quả. Học sinh hoàn thành môn Tiếng Việt đạt
100%, không có học sinh chưa đạt, các em đều đọc thông, viết thạo, trình bày
đẹp. Vinh dự hơn, tham gia dự thi trưng bày vở sạch, chữ đẹp cấp huyện lớp 1C
có 5 em đạt danh hiệu “Giữ vở sạch - Viết chữ đẹp” cấp huyện (đạt 100% số học
sinh tham gia). Xếp loại vở chung của lớp loại A đạt 100% cấp huyện. 100% học
sinh đọc thông viết thạo trong thời điểm giữa học kì 2, các em đều biết cách trình
bày bài trong vở. Tôi tiếp tục phát huy những mặt đã đạt được, khắc phục những

mặt còn tồn tại để nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt. Tiếp tục áp dụng các giải
pháp và biện pháp, thực hiện trong những năm học tiếp theo đạt hiệu quả cao.
Từ những kết quả đạt được trong quá trình giáo dục. Tôi tự thấy dạy học nâng
cao chất lượng môn Tiếng Việt ở những lớp đầu cấp là vô cùng quan trọng. Để
nâng cao chất lượng cho học sinh, giáo viên phải thực hiện tốt những yêu cầu
sau:
- Trước hết người giáo viên phải thực sự là người yêu nghề mến trẻ, phải hết
lòng vì nghề nghiệp, vì học sinh, tìm tòi phương pháp giảng dạy thích hợp, bồi
dưỡng vốn sống năng lực, nghiệp vụ chuyên môn cho bản thân.
- Giáo viên phải nắm được từng đối tượng để có phương pháp giáo dục cụ thể.
- Giáo viên phải gần gũi giúp đỡ các em vượt qua moi khó khăn để từ đó các em
có chỗ dựa vững chắc trong quá trình học tập.
- Trong quá trình giảng dạy giáo viên cần động viên, nhắc nhở kịp thời để các
em cố gắng khắc phục.
4.2. Kiến nghị
- Nhà trường, hội phụ huynh có biện pháp tuyên truyền tới từng phụ huynh
để phụ huynh quan tâm đến việc học của con cái, mua đầy đủ đồ dùng học tập tạo
điều kiện thuận lợi cho quá trình dạy và học được tốt hơn.
- Đối với Ban giám hiệu và Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh tiếp tục,
thường xuyên tổ chức các sân chơi trí tuệ, các hoạt động phong trào nhằm khích
lệ tinh thần học tập của học sinh.
Trên đây là kinh nghiệm tôi đã áp dụng trong việc dạy học nâng cao chất
lượng môn Tiếng Việt cho học sinh lớp 1C trong năm học 2018 - 2019. Đó là
những kinh nghiệm nhỏ xuất phát từ tình hình dạy học thực tế, tôi rút kinh
nghiệm cho bản thân mình và cũng mang lại những kết quả tốt đóng góp vào
công tác giảng dạy và giáo dục thế hệ trẻ. Kính mong sự góp ý và chỉ đạo của hội

16



đồng khoa học các cấp để quá trình giảng dạy của bản thân tôi đạt kết quả cao
hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thạch Thành, ngày 18 tháng 4 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của bản
thân, không sao chép nội dung của
người khác.

Người viết

Quách Thị Yến

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Luật Giáo dục năm 2005.

17


DANH MỤC
ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐƯỢC HỘI ĐỒNG CẤP PHÒNG
GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT CÔNG NHẬN

18


NĂM
HỌC


TÊN ĐỀ TÀI SKKN

Một số biện pháp bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ
2009-2010 lớp, kết hợp với các
lực lượng giáo dục để
xây dựng tập thể lớp
tiên tiến
Một số kinh nghiệm
dạy học nâng cao chất
lượng Phân môn Tập
2015-2016 đọc cho học sinh lớp 1
Một số kinh nghiệm
dạy học nâng cao chất
lượng Phân môn Tập
đọc cho học sinh lớp 1

XẾP LOẠI

A

CẤP CÔNG NHẬN
Hội đồng khoa học
Phòng GD&ĐT

A

Hội đồng khoa học
Phòng GD&ĐT


C

Hội đồng khoa học Sở
GD&ĐT

19


20


21


22


23


24


25


×