Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Kỹ thuật dạy học tích cực bằng cách thảo luân nhóm và trò chơi trong môn ngữ văn THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (396.11 KB, 17 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1 Lí do chọn đề tài:
Ngữ văn là một môn học kết tinh nhiều tinh hoa văn hóa của nhân loại. Nó
gắn bó mật thiết đối với đời sống của mỗi con người. Từ thuở lọt lòng, khi còn
nằm trong vòng tay âu yếm ta đã được tiếp cận và bồi dưỡng văn chương qua
những câu chuyện cổ tích bằng giọng kể đầm ấm của bà, qua lời hát ru ngọt
ngào sâu lắng của mẹ. Nó như là “một thứ khí giới thanh cao và đắc lực” tác
động sâu sắc, mạnh mẽ đến đời sống tâm hồn tư tưởng, tình cảm cảm xúc của
con người.
Hơn bất cứ hoạt động ý thức tinh thần nào, văn học nghệ thuật có khả năng
đặc biệt trong việc phát hiện và diễn tả sự bí ẩn, huyền diệu và vô tận của đời
sống tâm linh, số phận và tính cách con người. Văn học chân chính giúp con
người sống sâu sắc hơn với nhân vật, với tác giả, từ đó trang bị cho chúng ta vốn
sống và hướng tới đỉnh cao của Chân- Thiện -Mĩ.
Có thể nói, Văn học có tầm quan trọng to lớn đối với mỗi con người cũng
như đối với sự phát triển của đất nước. Song trong thực tế hiện nay một số phụ
huynh và HS có xu hướng xem nhẹ những môn học xã hội nói chung, môn Ngữ
văn nói riêng. Một số người còn quan niệm:“văn chương hạ giới rẻ như bèo”
hoặc Văn học không cần thiết đối với đời sống nên đã định hướng cho con em
mình say mê những môn học mang xu hướng thời cuộc như Toán, Anh…dẫn
đến tình trạng HS không yêu thích môn văn và ngại học Văn. Trong giờ học các
em luôn có những biểu hiện tiêu cực như ít phát biểu ý kiến, kĩ năng đọc bài
kém thậm chí còn “vô cảm” trước những tác phẩm Văn học; làm bài thì lủng
củng, thiếu mạch lạc và hành văn không mang tính văn chương. Dẫn đến chất
lượng học Văn có chiều hướng giảm sút nghiêm trọng. Hiện thực ấy đã khiến
cho bao GV tâm huyết với nghề phải trăn trở: Làm sao để giúp các em có hứng
thú trong giờ học Văn? Làm sao để các em mong chờ, yêu thích khi học môn
Văn? Làm sao để chất lượng giờ học Văn được nâng cao và có hiệu quả?
Với những yêu cầu trên.Tôi luôn ý thức là giáo viên trong giai đoạn hiện
nay phải không ngừng học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ thì
mới đáp ứng được yêu cầu giảng dạy đó chính là đổi mới phương pháp và kĩ


thuật dạy học.
Qua những năm trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn ở Trung học cơ sở , và
được tham gia lớp tập huấn các chuyên đề triển khai dạy và học tích cực một số
phương pháp và kỹ thuật dạy học ; dạy học và kiểm tra, đánh giá kết quả học
tập theo định hướng phát triển năng lực học sinh. Bằng những kinh nghiệm ít ỏi
tích lũy tôi mạnh dạn đưa ra sáng kiến: “Kĩ thuật dạy học tích cực bằng cách
thảo luận nhóm và trò chơi trong môn Ngữ văn THCS ” ở phạm vi ngữ văn
THCS, áp dụng các kỹ thuật dạy học cụ thể phù hợp vào từng bài để đạt hiệu
quả tốt trong học tập môn ngữ văn.
1


1.2 Mục đích nghiên cứu:
Xây dưng các kỹ thuật dạy hoc cụ thể cho tiết học, bài học trong chương
trình ngữ văn 6,7,8,9 Trung học cơ sở.
Vân dụng hệ thống các các phương pháp và kỹ thuật dạy học chương trình
ngữ văn cấp trung học cơ sở nhằm phát triển năng lực và tăng hứng thú học tập
bộ môn văn cho học sinh. . Điều đó đã thôi thúc tôi tìm đến với đề tài :
“Kĩ thuật dạy học tích cực bằng cách thảo luận nhóm và trò chơi trong
môn Ngữ văn THCS” với mong muốn được góp phần nhỏ bé của mình vào việc
đổi mới phương pháp dạy-học Ngữ văn hiện nay và phục vụ cho công tác giảng
dạy của bản thân.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu trên đối tượng học sinh lớp 9 của trường THCS . Do năm học
học 2017- 2018 tôi được ban giám hiệu phân công giảng dạy Ngữ văn 9. Chính
vì thế phạm vi nghiên cứu của Sáng kiến kinh nghiệm này không chỉ gói gọn ở
đối tượng học sinh khối 9 mà có thể áp dụng cho các khối 6,7,8 của trường
trong năm học 2018- 2019 vầ các năm học tiếp theo
Nội dung áp dụng một số bài học cụ thể trong chương trình ngữ văn của
lơp 6, 7, 8, 9

1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp quan sát thực tế của bản thân khi giảng dạy bộ môn Ngữ văn
9 THCS
Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin
Phướng pháp nghiên cứu thực hành cụ thể vào từng bài, từng lớp học.
Phương pháp ghi chép và tổng hợp.
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm :
Với đề tài “Kĩ thuật dạy học tích cực bằng cách thảo luận nhóm và trò
chơi trong môn Ngữ văn THCS ” . Đây là phương pháp dạy học theo quan
điểm phát triển năng không chỉ chú ý tới tích cực hóa học sinh về hoạt đọng trí
tuệ mà còn chú ý tới rèn luyện năng lực giải quyết vấn đề gắn với những tình
huống của cuộc sống và nghề nghiệp, đồng thời gắn hoạt động trí tuệ với hoạt
động thực hành, thực tiễn . Tăng cường việc học tập trong nhóm, đổi mới quan
hệ giáo viên – học sinh theo hướng cộng tác có ý nghĩa quan trọng nhằm phát
triển nặng lực giải quyết các vấn đề trong cuộc sống .
Tăng cường phối hợp học tập cá thể với học tập hợp tác theo phương châm
“Tạo điều kiện cho học sinh nghĩ nhiều hơn, làm nhiều và thảo luận nhiều hơn
” .Điều đó có nghĩa ,mỗi học sinh vừa cố gắng tự lực độc lập , vừa hợp tác chặt
chẽ với nhau trong quá trình tiếp cận, phát hiện và tìm tòi kiến thức mới . Lớp
học trở thành môi trường giao tiếp thầy – trò và trò - trò nhằm vận dụng sự hiểu
biết và kinh nghiệm của từng cá nhân, của tập thể trong giải quyết các nhiệm vụ
học tập chung .
2


2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
2.1 Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Tạo hứng thú cho học sinh trong việc học tập môn Ngữ văn cũng chính là
đang góp phần thực hiện thành công nhiệm vụ trong Nghị quyết hội nghị lần II
BCH TW Đảng khoá VIII đã nêu: Đổi mới phương pháp giáo dục đào tạo, khắc

phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người
học; phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng
tạo của người học, bồi dưỡng lòng say mê học tập và ý chí vươn lên..
Ước muốn dạy văn sao cho hay, học văn sao cho giỏi, viết văn sao cho tốt
là ước muốn của rất nhiều GV và HS. Tuy vậy, để giờ học đạt kết quả cao người
GV phải biết tư duy, tìm tòi làm mới bài giảng của mình và với cách tổ chức cho
HS thảo luận nhóm, tham gia các trò chơi trong dạy học Văn sẽ giúp HS cảm
thấy hứng thú tích cực trong học tập và nâng cao chất lượng bộ môn Ngữ văn
trong trường THCS.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
2.2.1 Thực trạng .
* Về phía giáo viên:
Hầu hết GV đều có trình độ chuyên môn vững vàng, tâm huyết với nghề.
Song để tìm ra và tiếp cận những phương pháp đổi mới trong dạy-học Ngữ văn
thì không phải GV nào cũng làm được. Vì vậy mà một số GV vẫn còn thấy lúng
túng trong phương pháp giảng dạy, không biết làm thế nào để tạo sự hứng thú
cho HS trong học tập, nắm bắt được những kiến thức trọng tâm của bài học một
cách nhẹ nhàng và sinh động từ đó khiến HS trở nên yêu thích học Văn.
Một số tiết dạy vẫn còn rập khuôn máy móc theo trình tự các bước lên lớp.
Nó làm cho giờ học thiếu sự phóng khoáng, trở nên nhạt nhẽo, làm tê liệt sự hào
hứng của HS. GV chỉ dùng một phương pháp thuyết trình là chủ yếu, không có
sự linh hoạt trong việc kết hợp các phương pháp. Bên cạnh đó là việc sử dụng
giáo án mẫu, thiết kế bài giảng một cách rập khuôn làm mất đi sự cảm thụ sáng
tạo của riêng bản thân.
*Về phía hoïc sinh
- Thuận lợi :
Một số HS vẫn có niềm đam mê, yêu thích môn Văn (tuy số này không
nhiều) và vẫn còn có HS giỏi Văn với những bài văn hay và giàu cảm xúc.
- Khó khăn:
Tồn tại lớn nhất ở HS là thói quen thụ động, quen nghe,quen chép, ghi nhớ

và tài hiện lại một cách máy móc, rập khuôn những gì GV đã giảng mà chưa có
thói quen chủ động tìm hiểu khám phá bài học, lười suy nghĩ và chỉ biết suy
nghĩ, diễn đạt bằng những ý vay mượn, bằng những lời có sẵn; lẽ ra phải làm
3


chủ tri thức thì lại làm nô lệ của sách vở. HS chưa có hào hứng và chưa mạnh
dạn bộc lộ những suy nghĩ, tình cảm của mình trước tập thể cho nên càng ngày
các em càng thấy chán học Văn. Các em tâm sự rằng: Mỗi khi đến giờ Văn là em
lại thấy ngao ngán, em rất sợ và chẳng có hứng thú gì với nó cả.
HS hiện nay cũng rất lười soạn bài. Khi GV hỏi thì có em thản nhiên trả
lời: “Em để quên vở soạn ở nhà”, hay là “tối qua em bị mệt”... Thầy cô bảo về
lấy thì các em lấy lý do là nhà ở xa…Cũng có em soạn bài mang tính chất đối
phó bằng cách chép từ các sách “học tốt” nhưng khi hỏi thì không hiểu gì, thậm
chí trả lời những câu không hề có trong sách. Ngồi trong lớp thì không chú ý
nghe giảng, thích cười đùa nói chuyện làm việc riêng. Vở ghi chép lung tung, có
bài ghi một phần rất nhỏ xong để đấy. Đó chính là một rào cản lớn đối với quá
trình đổi mới phương pháp dạy - học môn Văn.
Nổi bật là tình trạng chán học văn ở HS, rất ít HS đọc sách, tìm tòi tài liệu
để thấy được cái hay, cái đẹp của văn chương, biết rung động trước những tác
phẩm văn học hay. Vì vậy khi làm bài HS thường suy luận một cách chủ quan,
thô tục hóa văn chương, chỉ chăm chú nhìn vào sách mẫu. Ngoài những lỗi trên
thì tình trạng HS làm bài sai kiến thức cơ bản vẫn chiếm tỷ lệ lớn. Đó là tình
trạng “râu ông nọ cắm cằm bà kia”, viết sai tên tác giả tác phẩm, nhầm tác phẩm
của nhà văn này với nhà văn khác…điều đó cũng lí giải là tại sao ngày càng xuất
hiện những bài văn có cách cảm thụ,cách viết lạ lùng chẳng giống ai.
Phụ huynh HS cũng không tha thiết với việc học Văn của con em mình, sẵn
sàng đầu tư vào các môn: Toán, Anh…thậm chí cho con học thêm hai ba thầy
nhưng với môn Văn lại rất coi thường, không cho con đi thi học sinh giỏi Văn,
ngay cả cho vào đội tuyển học sinh giỏi cũng không muốn.

Chương trình, nội dung dạy với nhiều bài không còn phù hợp với cuộc
sống hiện đại, xa lạ với học sinh gây khó hiểu.
Từ thực trạng đó mà phần lớn học sinh chưa có hứng thú học môn Văn,
ngại học Văn dẫn đến chất lượng dạy - học chưa cao.
2.2.2 Kết quả và hiệu quả của thực trạng.
Để thấy rõ thực trạng học tập ngữ văn và tâm trạng của các em khi học môn
Văn tôi đã tiến hành điều tra bằng một câu hỏi: “Em có thích học văn không?”
đối với HS lớp 7 và 9 ở Trường THCS năm học 2017 – 2018 và thu được kết
quả như sau:
* Về sự yêu thích đối với tiết học:
Thích học
Muốn học
Lớp
Sĩ số
SL
%
SL
%

Không yêu thích
SL

%

7

30

3


10

15

50

12

40

9

35

5

14

10

29

20

57
4


* Về kết quả khảo sát chất lượng đầu năm học:
Lớp Sĩ số


Giỏi

Khá

TB

Yếu

Kém

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%


7

30

0

0

3

10

22

73

5

17

0

0

9

35

0


0

5

14

24

69

4

11

2

6

Theo điều tra ở trên số lượng HS ham thích học môn Ngữ văn là 12,3%.
Đây là kết quả mà đáng để mỗi GV dạy Văn phải suy nghĩ, trăn trở về tầm quan
trọng của môn Văn và năng lực dạy môn Ngữ văn của mình. Từ thực trạng trên,
tôi nhận thấy rằng đổi mới phương pháp giúp HS yêu thích học môn Ngữ văn,
nâng cao chất lượng dạy-học môn Ngữ văn là điều tất yếu. Vì vậy tôi đã mạnh
dạn nghiên cứu đề tài: “Kĩ thuật dạy học tích cực bằng cách thảo luận nhóm
và trò chơi trong môn Ngữ văn THCS” và ứng dụng trong giảng dạy. Sau một
thời gian áp dụng số HS yêu thích học Văn đã nhiều hơn và kết quả về HS khá
giỏi đã tăng lên rõ rệt.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề:
2.3.1 .Giải pháp:

*Đối với giáo viên:
Từ những thực trạng nêu cho thấy rằng phương pháp giảng dạy của GV
cực kì quan trọng. Điều này đã thôi thúc tôi tìm tòi, học hỏi, nghiên cứu để tìm
giải pháp giúp HS khắc phục tình trạng trên. Trong quá trình tìm tòi, giảng dạy
tôi đã mạnh dạn áp dụng các giải pháp chính sau đây:
- Phân loại đối tượng HS một cách cụ thể để biết được khả năng tiếp thu
kiến thức cũng như trình độ kiến thức của HS.
- Gần gũi, quan tâm động viên, khích lệ HS trong học tập môn Ngữ văn
- Tìm tòi, nghiên cứu kỹ nội dung bài học để đề ra những tình huống thảo
luận, những trò chơi phù hợp với từng bài học, chuẩn bị đồ dùng dạy học trực
quan, sinh động và có hiệu quả.
- Mỗi khi lên lớp GV không nên áp đặt cách hiểu của mình cho HS. HS là
người chủ động, lĩnh hội kiến thức, cảm thụ tác phẩm nên GV chỉ gợi ý bằng vài
câu hỏi, HS thảo luận, trả lời câu hỏi ra giấy sau đó đại diện một em trong nhóm
trả lời. Giáo viên cho thuyết trình khi muốn chốt lại vấn đề.
- Dự giờ thăm lớp thường xuyên để học hỏi kinh nghiệm đồng nghiệp
trong việc dạy học đặc biệt là về cách tạo hứng thú cho HS trong phương pháp
giảng dạy.
5


- Có kế hoạch trao đổi với tổ, với đồng nghiệp để tổ chức những giờ dạy
thực nghiệm áp dụng những hình thức thảo luận nhóm và trò chơi trong giờ học
hoặc giờ ngoại khoá.
* Đối với học sinh :
- Trước khi lên lớp phải soạn bài đầy đủ và cẩn thận.
- Có tinh thần tự học tự tìm tòi nghiên cứu sách vở, tài liệu tham khảo và
trau dồi năng lực cảm thụ Văn học cho bản thân.
- Chuẩn bị đầy đủ những tư liệu, đồ dùng, dụng cụ có liên quan đến bài học.
2.3.2. Tổ chức triển khai thực hiện:

2.3.2.1 Hình thức tổ chức thảo luận nhóm:
Trong học tập không phải bất kì một nhiệm vụ học tập nào cũng có thể
được hoàn thành bởi những hoạt động thuần túy cá nhân . Có những bài tập
những câu hỏi những vấn đề được đặt ra khó và phức tạp đồi hỏi phải có sự hợp
tác giữa các cá nhân nên bên cạnh hình thức học tập cá nhân cần tổ chức học
sinh học tập hợp tác trong các nhóm . Trong các nhóm mỗi cá nhân được phân
công thực hiện một phần công việc và toàn nhóm phải phối hợp với nhau hoàn
thành nhiệm vụ chung . Vì vậy hình thức này không chỉ phát huy cao độ sự suy
nghĩ của mỗi cá nhân, mà còn tạo điều kiện để học sinh được nói được trao đổi
nhiều hơn, hình thành mối quan hệ giao tiếp trò – trò .thông qua sự hợp tác tìm
tòi, nghiên cứu, thảo luận tranh luận trong nhóm, ý kiến mỗi cá nhân được bộc
lộ, được điều chỉnh, khẳng định hay bác bỏ qua đó người học nâng mình lên một
trình độ mới, hứng thú và tự tin hơn trong học tập và cuộc sống . Vì vậy nên
người dạy và người học cần hiểu rõ quy trình cách thức tổ chức dạy học theo
nhóm .
* Đối với giáo viên: Cần nắm vững quy trình tổ chức dạy học theo nhóm
qua các bước sau :
Bước 1: Thành lập nhóm:
Cách hình thành nhóm ở đây rất linh hoạt. Tùy thuộc vào từng tiết học,
phạm vi của vấn đề, thời gian được trao đổi mà số lượng đơn vị nhóm có cơ cấu
khác nhau. Khi phân nhóm, GV cần chú ý đến tâm sinh lí, giới tính và sức học
của các thành viên trong nhóm. Khi nhóm được hình thành, GV cho nhóm tự
bầu nhóm trưởng. Nhiệm vụ của nhóm trưởng là đôn đốc các thành viên trong
nhóm, tổng hợp ý kiến và cử thành viên trình bày; vị trí này không nhất thiết
phải cố định để tạo sự phấn đấu chung của cả nhóm.
Bước 2: Định hướng hoạt động nhóm:
Mục đích của hoạt động nhóm là để HS cùng trao đổi tìm tòi, học tập lẫn
nhau. Để đạt hiệu quả, GV cần định hướng cho nhóm hoạt động theo yêu cầu
công việc được giao. GV có thể phát phiếu học tập hoặc nêu yêu cầu cho nhóm,
ấn định thời gian làm việc, các nhóm nhận nhiệm vụ tập trrung giải quyết vấn

đề. Đối với phần văn học, dây là phần dễ tạo ra sự hứng thú, hấp dẫn. GV định
6


hướng cho HS sưu tầm tranh ảnh, tư liệu…có liên quan đến văn bản sẽ học. Đưa
ra câu hỏi để cùng tìm tòi, trao đổi và cả những suy nghĩ, bài học rút ra từ văn
bản.
- Bước 3: Kiểm tra quá trình chuẩn bị của học sinh
Trong khi học sinh làm việc, GV nên đến từng nhóm hỗ trợ, động viên
nhắc nhở để các nhóm làm việc đều tay, đảm bảo thời gian. Mục đích để đôn đốc
thái độ hợp tác tích cực của các thành viên, tránh tình trạng dựa dẫm, chỉ một cá
nhân làm việc. Mặt khác thông qua quá trình kiểm tra để gợi mở cho HS, hướng
vấn đề thảo luận đi vào trọng tâm.
- Bước 4: Báo cáo kết quả khi các nhóm hoàn thành công việc.
GV điều khiển từng nhóm lên báo cáo kết quả bằng trình bày trên giấy
lớn hoặc rình bày miệng. Các nhóm khác nhận xét, bổ sung, thống nhất ý kiến.
- Bước 5: Kết luận vấn đề
GV tóm tắt kết quả đạt được, giúp HS tự nhận xét, đánh giá quá trình làm việc.
* Quản lí lớp học:
GV có trách nhiệm hướng dẫn và quản lí học sinh làm việc theo nhóm
nhằm đạt được mục tiêu nội dung bài học. Để đạt được điều này, trước hết GV
phải chuẩn bị rất kĩ phần thiết kế bài học, lựa chọn vấn đề cần làm theo nhóm.
Trong quá trình thiết kế giáo án, GV cần chọn vấn đề cho việc tổ chức hoạt động
nhóm và đặt ra các tinh huống thảo luận.
* Đối với học sinh:
Trong phương pháp dạy học tích cực người học vừa là đối tượng của hoạt
động dạy, vừa là chủ thể của hoạt động học, được cuốn hút vào những hoạt động
học tập do GV tổ chức và chỉ đạo, thông qua đó tự lực khám phá ra những điều
chưa biết chứ không phải là thụ động tiếp thu những tri thức đã được sắp đặt
sẵn.

Để quá trình hoạt động chung đạt hiệu quả, tất yếu mỗi thành viên cần có
ý thức tìm tòi, nghiên cứu, có sự thống nhất và phân công hợp lí, cụ thể. Để tiết
kiệm thời gian, trưởng nhóm phân công mỗi thành viên phụ trách một mảng, sau
đó cùng tổng hợp, thống nhất ý kiến, xây dựng phần cấu trúc trình bày của
nhóm. Việc phân công càng cụ thể, hiệu quả càng cao.Với môi trường tập thể lớp học, HS phải luôn hướng đến thái độ hợp tác trao đổi tích cực.
2.3.2.2: Cách tổ chức dạy học theo nhóm:
* Vận dụng các kiểu loại nhóm vào giờ học
Với phân môn văn học, dạy một văn bản, khó nhất là có được hệ thống
câu hỏi, bài tập giúp mọi HS chủ động tích cực học tập, một vấn đề đưa ra phải
tác động đến nhiều đối tượng HS, phải có nhiều HS suy nghĩ và trình bày ra điều
mình nghĩ. Chính vì vậy trong một tiết học GV cần suy nghĩ để chọn phần nào,
câu hỏi nào giành cho việc hoạt động nhóm, không nên quá lạm dụng hình thức
này, dẫn đến nhàm chán, rơi vào bệnh hình thức nhóm
7


* Một số hình thức nhóm và cách chia nhóm:
- Chia nhóm theo số lượng: quy mô nhóm tùy thuộc vào nhiệm vụ sẽ giao
cần đến ít hay nhiều người.
+ Nhóm nhỏ: nhóm theo từng cặp HS, thường hình thành bàng cách các
em ngồi cạnh nhau quay mặt vào nhau.
+ Nhóm lớn: nhóm 1-2 bàn học, thường hình thành bằng cách bàn trên
quay xuống bàn dưới.
- Chia nhóm theo tính chất:
+ Nhóm ngẫu nhiên: được chia theo một cách ngẫu nhiên, không tính đến
đặc điểm của người trong nhóm.
+ Nhóm hỗn hợp: gồm những em có điều kiện năng lực khác nhau
(thường chia theo tổ) tạo điều kiện cho các em hỗ trợ lẫn nhau khi làm việc.
+ Nhóm tình bạn và nhóm kinh nghiệm: HS tự lựa chọn bạn cùng sở
thích, có sở trường hoặc kinh nghiệm về một lĩnh vực nào đó tạo thành một

nhóm.( GV thường cho học sinh thực hiện ở nhà)
Tùy theo yêu cầu của câu hỏi kiến thức bài học, của vấn đề GV đưa ra để
nhóm làm việc nên hướng tới mục tiêu, yêu cầu, kết quả cần đạt và quy định
thời gian làm việc.
Nếu vấn đề nhỏ thì chỉ thảo luận trong nhóm nhỏ khoảng 2-3 học sinh
(theo từng cặp hoặc từng bàn) trong thời gian ngắn.
* Chuẩn bị của giáo viên:
+ Bảng phụ, phiếu học tập,…chuẩn bị nội dung câu hỏi thảo luận.
+ Câu hỏi thảo luận nên chia nhỏ, câu hỏi khó phải có câu hỏi gợi mở.
+ Nội dung câu hỏi phải rõ ràng, phù hợp với đối tượng HS.
+ Câu hỏi phải phát huy khả năng tư duy, kích thích khả năng sáng tạo
cho HS.
+ Các câu hỏi chỉ nên xoay quanh nội dung chính của bài học.
+ Thời gian thảo luận không quá ngắn HS không kịp định hình, cũng
không quá dài ảnh hưởng tới thời gian tiết học.
+ Phân nhóm cho HS thảo luận không nên quá ít mà cũng không quá
đông.
+ HS thảo luận xong, GV gọi ít nhất hai nhóm trả lời, còn lại thu bài về
nhà chấm và sửa hôm sau phát lại (tránh mất nhiều thời gian của tiết học).
+ Phân công một HS nhanh nhẹn làm trưởng nhóm, một HS ghi nhanh
làm thư ký.
8


+ Việc sử dụng hình thức thảo luận nhóm thì có thể sắp xếp bất kì khoảng
thời gian nào trong tiết dạy.
* Chuẩn bị của học sinh:
+ Đọc kĩ các câu hỏi trong phần bài học.
+ Ghi ý kiến của bản thân về các câu hỏi cho là khó.
+ Mạnh dạn trình bày ý kiến trước nhóm, trước lớp lớp.

2.3.2.3. Một số ví dụ minh hoạ:
*Khi dạy tiết 53: “Tiếng gà trưa”( Xuân Quỳnh- Ngữ văn 7) GV có thể
đưa ra câu hỏi và yêu câu các nhóm trả lời: Trong bài thơ “Tiếng gà trưa” từ việc
gợi lại những kỉ niệm đẹp của tuổi thơ và tình bà cháu tác giả Xuân Quỳnh
muốn gửi tới người đọc thông điệp gì?
*GV cũng có thể đưa ra những câu hỏi thảo luận về vấn đề: Bé Hồng đã
có thái độ như thế nào trước câu hỏi của người cô? (“Trong lòng mẹ”- Nguyên
Hồng- Ngữ văn 8)
*Khi dạy văn bản “Chuyện người con gái Nam Xương” – Ngữ văn 9)
GV có thể dùng một số câu hỏi thảo luận như sau:
- Lời trăn trối của bà mẹ chồng giúp ta hiểu thêm điều gì về nàng Vũ
Nương ?
- Theo em, nguyên nhân dẫn đến nỗi oan của Vũ Nương là gì? Em hãy chỉ
rõ và phân tích những nguyên nhân đó
- Theo em, có cách nào để kết cục cuộc đời của những con người như Vũ
Nương, Thị Kính không rơi vào bi kịch mà không cần đến sức mạnh thần bí ?
*Trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều :
- Nếu đặt tên cho văn bản này, em sẽ đặt như thế nào ?
* Trong bài Nghị luận trong văn bản tự sự, GV cho 2 nhóm tìm hiểu
đoạn trích trong bài học theo những gợi ý dưới đây:
- Nội dung của mỗi đoạn trích là gì ?
- Yếu tố lập luận trong đoạn trích: Vấn đề cần lập luận, luận cứ, luận
chứng,…
- Từ ngữ, kiểu câu dùng trong lập luận (đặc biệt ở đoạn trích 1).
*Văn bản Những ngôi sao xa xôi, thảo luận về ý nghĩa của tên truyện:
- “Những ngôi sao xa xôi” có ý nghĩa gì ?
+ GV nêu câu hỏi, chia nhóm, thảo luận nhanh, có thể không ghi ra giấy
sau đó gọi 1 đại diện nhóm trả lời, các nhóm khác chú ý lắng nghe, nhận xét,
bổ sung.
+ Giáo viên nhận xét, đúc kết, ghi bảng

9


Nếu vấn đề thảo luận liên quan đến kiến thức toàn bài thì nhóm có số
lượng thành viên và thời gian nhiều hơn (theo 1-2 bàn học)
Trên đây chỉ là một vài ví dụ cụ thể về việc áp dụng hình thức thảo luận
theo nhóm trong dạy học Văn. Trong chương trình Ngữ văn THCS còn có rất
nhiều bài học có thể áp dụng một cách linh hoạt hình thức này.
2.3.3. Hình thức sử dụng trò chơi
2.3.3.1 Cách thức tổ chức:
Khi tổ chức cho HS chơi trò chơi trong các tiết dạy GV cần phải chú ý lựa
chọn trò chơi sao cho phù hợp với từng nội dung bài dạy và thời gian của tiết
học. Có thể trò chơi “Tiếp sức”, “Rung chuông vàng”, “Giải ô chữ”, …
Ví dụ: Khi dạy các bài Tiếng Việt, có thể tổ chức trò chơi “Tiếp sức”. Dạy
các văn bản những tác phẩm truyện, chúng ta có thể tổ chức cho HS chơi trò
chơi “giải ô chữ” bằng cách kẽ sẵn các ô chữ trên bảng phụ và đưa ra các câu
hỏi gợi ý để tìm ra nội dung, nghệ thuật chính của truyện. GV cũng có thể tổ
chức trò chơi “Rung chuông vàng” ở cuối tiết học bằng cách phân chia lớp thành
nhiều nhóm và và đưa ra những câu hỏi trắc nghiệm để HS thảo luận…Tuy
nhiên, khi tổ chức trò chơi GV cần phải nêu thể lệ trò chơi và qui định thời gian
cho HS biết để thực hiện. Và đặc biệt phải chú ý kết hợp với các phương pháp
khác để có hiệu quả cao trong tiết dạy. Khi đưa ra câu hỏi trong trò chơi “Giải ô
chữ”, GV cần chuẩn bị sẵn những câu hỏi gợi mở để HS nhanh chóng tìm ra ô
chữ, không để làm ảnh hưởng đến tiết học.
2.3.3.2 Một số ví dụ minh hoạ:
*Khi dạy tiết 39 “Từ trái nghĩa” (Ngữ văn 7) GV có thể cho HS chơi trò
chơi “Tiếp sức” bằng cách chia lớp thành 4 nhóm. Sau khi thảo luận thành viên
trong nhóm sẽ lần lượt lên vẽ đường biểu thị quan hệ trái nghĩa từ cột A với cột
B. Nhóm nào xong trước và chính xác nhóm đó sẽ chiến thắng.
A


B

bắt đầu
yêu
nhớ
trắng
sống
chăm chỉ

chết
quên
lười biếng
đen
ghét
kết thúc

*Khi dạy tiết 43 - “Từ đồng âm” - Ngữ văn 7 GV có thể tổ chức cho HS
tham gia trò chơi “đoán ô chữ”.
Trò chơi này giúp cho HS có hứng thú trong giờ dạy – học Ngữ văn. GV đưa
ra ô chữ và gợi ý để HS tìm ra từ hàng ngang, từ đó các em suy ra từ hàng dọc
10


Đầu tiên GV chia lớp thành 2 nhóm để thi đua. Trong quá trình thực hiện,
GV chỉ định từng đối tượng HS tham gia: Giỏi, Khá, Trung bình, Yếu, Kém.
Khi HS giải được trên 70% từ hàng ngang thì có quyền đoán từ hàng dọc.
Khi HS trả lời GV đánh giá đúng, sai. Nếu đúng GV mở ô chữ bị che.
GV giới thiệu: Từ hàng dọc có 9 chữ cái tương ứng với nó là 9 từ hàng
ngang.

Hàng ngang số 1 : Có 9 chữ cái, những từ "gian san, hoài cổ" thuộc loại
từ nào?
Hàng ngang số 2:Có 11 chữ cái, Những cặp từ: "khinh-trọng; nam - nữ;
đầu - cuối" thuộc loại từ nào?
Hàng ngang số 3:. Có 7 chữ cái, Tìm từ Hán-Việt đồng nghĩa với "năm học
Hàng ngang số 4: Có 4 chữ cái, Đây là từ Hán-Việt có nghĩa là "người”
Hàng ngang số 5: Có 8 chữ cái, Câu "Bà tôi la con la" sử dụng loại từ gì?
Hàng ngang số 6: Có 2 chữ cái, Đây là từ Hán-Việt trái nghĩa với "ra đi".
Hàng ngang số 7: Có 7 chữ cái. Đây là từ đồng nghĩa với "siêng năng"
Hàng ngang số 8:Có 5 chữ cái, Đây là từ có yếu tố Hán-Việt là "hồi"
Hàng ngang số 9:Có 5 chữ cái, Đây là từ Hán-Việt có nghĩa là "nghìn".

2

5

7

C

T

T

U

U

1


T

Ư

H

A

N

V
A

T

R

A

I

N

G

H

I

3


N

I

E

N

H

O

C

4

N

H

A

N

N

G

A


M

6

V

E

D

O

H

A

M

C

H

I

8

T

R


O

V

E

9

T

H

I

E

I

E

T

N

*Khi dạy Tiết 94: Bài:"Hịch tướng sĩ"(Ngữ văn 8)
Thời điểm vận dụng ở cuối tiết để dặn dò chuẩn bị bài học mới.
GV giới thiệu: Từ hàng dọc có 3 chữ cái, tương ứng với nó là 3 từ hàng
ngang.
11



Hàng ngang số 1: Hãy hoàn thành câu nói của Trần Quốc Tuấn trong văn
bản: "Ta thường tới bữa quên ăn, nữa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước
mắt đầm đìa, chỉ.......... chưa xả thịt lột da..."
Hàng ngang số 2: Sau khi nêu mối quan hệ chủ-tướng, tác giả làm gì đối
với các hành động sai trái của tướng sĩ?
Hàng ngang số 3: Nhân vật nào chìa lưng chịu giáo, che chở cho Cao
Vương?

P

H

Ê

P

C

Ă

H

Á

N

D


O

V

M

T



C

U

Sau khi tìm được từ "Cáo", giáo viên nhắc học sinh chuẩn bị văn bản"
Nước Đại Việt ta''- Trích "Bình Ngô đại cáo" của Nguyễn Trãi ở tiết sau.
* Khi dạy bài “ Thuật ngữ” GV cho HS chơi trò chơi tìm thuật ngữ bằng
cách
chia lớp thành hai nhóm, sau đó cho chủ đề để hai nhóm thảo luận và lần
lượt lên bảng viết các thuật ngữ tìm được. Nhóm nào tìm được nhiều thuật ngữ
và chính xác nhất thì nhóm đó sẽ được khen thưởng bằng một tràng pháo tay của
cả lớp.
* Khi dạy tiết TLV: Người kể chuyện trong văn bản tự sự, GV có thể sử
dụng trò chơi giải ô chữ để tìm ra ngôi kể thứ nhất và vai trò của ngôi kể thứ
nhất.
*Phần thành ngữ trong bài Tổng kết từ vựng, GV Chia lớp thành hai đội, một
đội sẽ tìm thành ngữ về động vật, một đội sẽ tìm thành ngữ về thực vật. Trong
thời gian 3 phút đội nào tìm được nhiều thành ngữ và chính xác, đội đó sẽ chiến
thắng. Cùng bài GV cũng có thể cho HS giải thích các thành ngữ đã cho và thao
tác tương tự như trên.

* Bài Luyện tập phân tích và tổng hợp, phần Thực hành phân tích một
vấn đề, GV có thể chuyển thành trò chơi “Thi hùng biện”.
* Bài Ôn tập phần thơ, phần Thống kê phân loại các tác phẩm thơ hiện
đại Việt Nam đã học trong SGK Ngữ văn 9, trên cơ sở HS đã chuẩn bị bảng
thống kê theo mẫu ở SGK Ngữ văn 9 tập 2 trang 89, GV cho HS chơi trò chơi
“Chọn người uyên bác” :
- GV ghi ra 11 phiếu (tương ứng với 11 tác giả, tác phẩm học trong
chương trình), mỗi phiếu hai dòng thơ của một tác phẩm thơ trữ tình. Photo mỗi
phiếu đó tương ứng với số người tham gia chơi (4 – 5 em).
- Tiến hành: 5 người chơi ngồi trên ghế quay mặt xuống lớp. Trên bàn,
trước mặt GV đặt 5 tờ phiếu (đã ghi cùng một câu thơ) gấp lại để giữ bí mật.
12


Quản trò hô “bắt đầu”, 5 người chơi mở tờ phiếu, xác định câu hỏi và giơ tay xin
trả lời. Ai nhanh nhất sẽ được trả lời. Trả lời đúng mỗi lượt sẽ được điểm tối đa,
trả lời chưa đúng thì những người chơi còn lại sẽ giơ tay xin bổ sung. Sau 11
lượt chơi, cộng ai nhiều điểm nhất được chọn làm “Người uyên bác”.
* Hoặc tổ chức ngoại khoá trò chơi “Giải ô chữ” để ôn tập một số kiến
thức về văn học trung đại mà HS đã học bằng một số câu hỏi gợi ý như sau:
+ Hàng 1 gồm 6 chữ cái: “Truyện Kiều” là loại truyện thơ viết bằng…
+ Hàng 2 gồm 7 chữ cái: Nhân vật chính trong truyện “Chuyện người con
gái Nam Xương”
+ Hàng 3 ồm 13 chữ cái: Tuỳ bút viết trong những ngày mưa
+ Hàng 4 gồm 6 chữ cái: Ngoài biện pháp ước lệ, đoạn trích “Chị em
Thuý Kiều” còn sử dụng biện pháp nghệ thuật nào để miêu tả chị em TK ?
+ Hàng 5 gồm 15 chữ cái: Một nhà thơ lớn của dân tộc sớm phải chịu
cảnh mù loà ở tuổi 27
+ Hàng 6 gồm 6 chữ cái: Tác phâm “Hoàng Lê nhất thống chí” của Ngô
Gia văn phái viết bằng chữ gì ?

+ Hàng 7 gồm 8 chữ cái: Tác giả truyện “Chuyện người con gái nam
Xương”
+ Hàng 8 gồm 14 chữ cái:Thể văn ghi chép những điều kì lạ vẫn được lưu
truyền
C H
V Ũ N Ư Ơ
V

Ũ T

Đ Ò N B
N G U
C H Ữ H
N G U Y Ễ
T

Ữ N Ô M
N G
R U N G T Ù Y B Ú T
Ẩ Y
Y Ễ N Đ Ì

N H C H I

Ể U

Á N
N D Ữ
R U Y Ề N K Ì


Từ chìa khoá là: Đây là một đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới
2.4. Hiệu qủa của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường:
* Đối với bản thân :
Từ thực tiễn giảng dạy qua nhiều năm tôi thấy “Kĩ thuật dạy học tích cực
môn Ngữ văn THCS bằng cách tổ chức thảo luận nhóm và trò chơi” “mà tôi
13


đã áp dụng ở trường THCS là một biện pháp cần thiết nó đã kích thích sự hứng
thú đối với học sinh và giúp các em học sinh tích cực học tập và sôi nổi hơn
trong giờ học môn Ngữ văn.
Nếu như các tiết học trước đây trầm lắng, tẻ nhạt, chỉ có thầy hỏi trò trả
lời thì bây giờ các em cảm thấy thoải mái hứng thú hơn. Trong giờ học các em
sôi nổi thảo luận với nhau, tích cực đối thoại, tranh luận và đưa ra các ý kiến của
mình. Đặc biệt các em cũng rất hăng say tham gia hoạt động nhóm và chơi trò
chơi dường như các em đã mạnh dạn hơn vượt qua sự nhút nhát, rụt rè tự ti để
hòa mình vào tập thể khiến tiết học trở nên sôi nổi và có hứng thú đối với mọi
đối tượng HS Tù đó mà tỉ lệ học sinh yêu thích môn Văn so với điều tra theo
dõi ban đầu là vượt trên 60 0/0, tỉ lệ HS khá giỏi về bộ môn cũng đạt kết quả khả
quan. Có thể thấy qua bảng so sánh sau:
* Về sự yêu thích đối với tiết học:
Lớp

Sĩ số

7
9

Thích học


Muốn học

Không yêu thích

SL

%

SL

%

SL

%

30

8

26,7

17

56,7

5

16,7


35

11

31,4

17

48,6

7

20

* Về kết quả khảo sát chất lượng đầu năm học và kết quả khi áp dụng
phương pháp dạy học này :
Lớp/ SL/
Sĩ số %

Kết quả khảo sát đầu năm
Giỏi Khá

TB

Yếu Kém

Kết quả sau khi áp dụng phương
pháp
Giỏi


Khá

TB

Yếu

Kém

7

SL

0

3

22

5

0

1

6

23

0


0

30

%

0

10

73

17

0

3

20

77

0

0

9

SL


0

5

24

4

2

3

5

27

0

35

%

0

14

69

11


6

8,5

14

77,5

0

* Đối với đồng nghiệp và nhà trường :
Đề tài này được các đồng nghiệp và nhà trường đánh giá rất cao . vì nó
không chỉ có hiệu quả đối với bộ môn văn mà có hiệu quả đối với nhiều môn
học khác . Vì đề tài này tạo tâm lí thoải mái, nhẹ nhàng cho cả người dạy và
người học, nó không hề gò ép, khiên cưỡng, giúp học sinh được khơi gợi hứng
thú, say mê học tập sáng tạo tự tin trong giờ học đem lại hiệu quả cao về chất
lượng dạy và học .
14


3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ:
3.1 Kết luận:
Với bản thân tôi, dù kinh nghiệm và năm công tác chưa được gọi là có bề
dày. Nhưng qua việc thực hiện phương pháp đổi mới với hình thức thảo luận
nhóm và lồng ghép trò chơi trong dạy học môn Ngữ văn ở THCS tôi thấy thực
sự có hiệu quả hơn so với những năm trước.Và khi tôi thực hiện kĩ thuật này đã
có sự chuyển biến rõ rệt. Trong mỗi giờ học tất cả HS đều tham gia và muốn
tham gia vào quy trình dạy –học. Các em không còn thụ động ngồi nghe GV
giảng bài mà cảm thấy hứng thú hơn; hăng say phát biểu, hiểu bài hơn, tích cực

giao lưu với thầy cô giáo hơn….Chưa nói về thành tích cụ thể mà trên lớp HS
của tôi đã thực sự yêu thích và chăm chú dõi theo từng giờ dạy của tôi với niềm
say mê thích thú. Đó chính là niềm vui và phần thưởng lớn nhất mà tôi nhận
được trong những năm dạy học của mình. Tôi còn thực sự mong muốn có được
những trải nghiệm nhiều hơn thế nữa để đóng góp một phần nhỏ thắp sáng niềm
đam mê văn học trong các em.
Tuy nhiên đây chưa phải là phương pháp tối ưu nhất bởi không phải tiết
dạy văn nào chúng ta cũng áp dụng được các trò chơi một cách hiệu quả. Chính
vì vậy khi dạy bất kì một tiết học nào GV cũng cần kết hợp rất nhiều phương
pháp khác nhau để đạt hiệu quả cao trong quá trình giảng dạy của mình
Qua nghiên cứu và tìm hiểu thực tế, từ nhu cầu của việc học Văn, từ thực
trạng của tiết học như đã nêu trên bản thân tôi đã rút ra được những bài học kinh
nghiệm thiết thực và bổ ích là :
Muốn thành công trong công tác giảng dạy trước hết yêu cầu người giáo
viên phải có tâm huyết với công việc của mình, phải đam mê tìm tòi học hỏi,
tổng hợp các kinh nghiệm áp dụng vào bài giảng của mình. Từ đó kích thích trí
tò mò, thông minh, sáng tạo của các em.
Tổ chức tốt một giờ học Văn là một việc làm cần thiết đối với mọi GV. Nó
vừa có ý nghĩa cấp bách vừa mang tính lâu dài trong công cuộc giáo dục toàn
diện nhân cách HS trong thời đại mới. Tuy nhiên để có giờ học đạt hiệu quả cao
thì phụ thuộc rất nhiều vào kiến thức, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kĩ năng
và nghệ thuật sư phạm của GV. Người GV phải không ngừng học hỏi, tìm tòi để
đạt được những tiến bộ cao hơn.
Dạy học là cả một vấn đề nghệ thuật. Người dạy là giáo viên đồng thời là
người nghệ sĩ. Khi chọn nghề dạy học, mỗi chúng ta đều có ít nhiều chất nghệ sĩ
trong tâm hồn. Một khi kiến thức đã hóa thành máu thịt, thành lẽ sống thì GV
dạy hết mình, “cháy hết mình” cho tiết dạy; dạy sinh động, hấp dẫn thì tiết dạy
nhất định sẽ thành công.
15



3.2 Kiến nghị:
Qua thực trạng trên tôi xin đề xuất một số ý kiến sau:
- Luôn duy trì hằng năm các lớp học chuyên đề để nâng cao trình độ
chuyên môn và có ý thức trong việc đổi mới phương pháp dạy học.
- Tăng cường đầu tư trang thiết bị phục vụ cho môn học
Trên đây là một chút kinh nghiệm nhỏ của tôi trong quá trình dạy học Ngữ
văn. Kinh nghiệm này có những thành công nhất định nhưng trong quá trình thể
nghiệm và viết lý thuyết cũng không tránh khỏi những hạn chế và thiếu xót nên
tôi rất mong được sự góp ý, chỉnh sửa của lãnh đạo nhà trường cũng như của các
đồng nghiệp để kinh nghiệm này được hoàn thiện hơn nhằm góp phần nâng cao
chất lượng dạy và học môn Ngữ văn nói riêng và chất lượng giáo dục nói chung
ngày càng tiến xa hơn nữa.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Cẩm Thủy, ngày 16 tháng 02 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Người viết SKKN

Phạm Thị Khanh

16


MỤC LỤC
TT

I

2

Nội dung
MỞ ĐẦU

1

1.1 Lí do chọn đề tài

1

1.2 Mục đích nghiên cứu

2

1.3. Đối tượng nghiên cứu

2

1.4. Phương pháp nghiên cứu

2

1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm

2

NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:


3

2.1 Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm

3

2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh
nghiệm

3

2.2.1.Thực trạng

3

2.2.2. Kết quả và hiệu quả của thực trạng

4

2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề

3

Trang

5

2.3.1. Giải pháp


5

2.3.2. Tổ chức triển khai thực hiện

6

2.3.3. Hình thức sử dụng trò chơi

10

2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động
giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường

13

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ:

15

3.1. Kết luận:

15

3.2. Kiến nghị

16

17




×