Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Khai thác và sử dụng bài tập sáng tạo trong việc phát triển tư duy và năng lực sáng tạo của học sinh thông qua chương động lực học chất điểm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (807.07 KB, 23 trang )

222222222222222222222222222222222222222222222222222222
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
222222222222222222222222222222222222222222222222222222
TRƯỜNG THPT THẠCH THÀNH 1
222222222222222222222222222222222222222222222222222222
222222222222222222222222222222222222222222222222222222
222222222222222222222222222222222222222222222222222222
222222222222222222222222222222222222222222222222222222
222222222222222222222222222222222222222222222222222222
222222222222222222222222222222222222222222222222222222
222222222222222222222222222

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

KHAI THÁC VÀ SỬ DỤNG BÀI TẬP SÁNG TẠO TRONG
VIỆC PHÁT TRIỂN TƯ DUY VÀ NĂNG LỰC SÁNG TẠO CỦA
HỌC SINH
( Thông qua chương Động lực học chất điểm – Vật lý 10 CB)

Người thực hiện: Hoàng Thị Tuyến
Chức vụ: Giáo viên
SKKN môn: Vật Lí

THANH HOÁ, NĂM 2019


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
1. HS : Học sinh
2. GV : Giáo viên
3. BTST: Bài tập sáng tạo.
4. TN: Thực nghiệm


5. ĐC: Đối chứng.


MỤC LỤC
Nội dung
1. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.1.1.Bài tập sáng tạo
2.1.2. Các dấu hiệu của bài tập sáng tạo
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.3. Các giải pháp đã áp dụng để giải quyết vấn đề.
2.3.1. Xây dựng hệ thống bài tập sáng tạo chương động lực học
chất điểm
2.3.2. Thực nghiệm sư phạm
2.4. Hiệu quả
3. Kết luận- kiến nghị.
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị

Trang

1
1
1
1

1
2
2
2
2
4
4
4
10
17
18
18
18


1. Mở đầu.
1.1. Lí do chọn đề tài.
Trong quá trình dạy học ngoài việc giảng dạy nội dung lý thuyết thì việc
hướng dẫn học sinh vận dụng các kiến thức và rèn luyện phát triển tư duy cho
học sinh là một vấn đề hết sức quan trọng. Việc vận dụng các kiến thức giúp học
sinh nhớ kỹ và nhớ lâu các kiến thức đã học, tìm các mối liên hệ giữa các kiến
thức mà các em đã được học với thực tiễn, vận dụng các kiến thức các em được
học vào cuộc sống và kỹ thuật, rèn luyện cho các em các kỹ năng, kỹ xảo về thí
nghiệm thực hành.
Bài tập sáng tạo Vật lý có tác dụng phát triển tư duy cho học sinh, sử
dụng bài tập sáng tạo vào dạy học Vật lý là một yêu cầu tất yếu của việc đổi mới
phương pháp giảng dạy . Bài tập sáng tạo đóng một vai trò hết sức quan trọng
trong việc luyện tập cho các em vận dụng các kiến thức và rèn luyện các kỹ
năng. Bài tập sáng tạo còn có thể đưa vào quá trình dạy học dưới nhiều hình
thức khác nhau như đặt vấn đề dạy một bài mới, củng cố kiến thức sau khi học

xong một bài học, có thể đưa vào các tiết học tự chọn, các buổi ngoại khóa hay
bồi dưỡng học sinh giỏi ... Thực tế việc sử dụng bài tập sáng tạo vào giảng dạy
ở trường THPT được thực hiện rất ít. Có chăng thì giáo viên cũng chỉ sử dụng
những bài tập riêng lẻ trong giảng dạy mà chưa xây dựng được thành hệ thống
bài tập. Vì chưa xây dựng được hệ thống bài tập trong quá trình giảng dạy sẽ
làm giảm đi những tính năng quan trọng mà bài tập sáng tạo có thể góp phần
phát triển tư duy của học sinh. Hơn nữa, hiện nay các tiết dạy thực hành ở
trường THPT đang được xem nhẹ.
Vì các lý do nói trên tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài: Khai thác và sử
dụng bài tập sáng tạo trong việc phát triển tư duy và năng lực sáng tạo của
học sinh thông qua chương Động lực học chất điểm – Vật lí 10 CB.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Tôi tiến hành nghiên cứu đề tài với mục đích :
- Xây dựng, khai thác và sử dụng hệ thống bài tập sáng tạo vào giảng dạy
chương “ ĐỘNG LỰC HỌC CHẤT ĐIỂM ” nhằm phát triển tư duy vật lý của
học sinh.
- Vận dụng các kiến thức các em được học vào cuộc sống và kỹ thuật, rèn luyện
cho các em các kỹ năng, kỹ xảo về thí nghiệm thực hành
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu: Học sinh lớp 10 trường THPT Thạch Thành 1- huyện
Thạch Thành – Thanh Hóa.
- Học sinh học đến chương “ Động lực học chất điểm ” – Vật lý 10 ( Cơ bản).
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi đã sử dụng kết hợp nhiều phương
pháp nghiên cứu khác nhau, như:
1


- Phương pháp nghiên cứu lý luận:
+ Nghiên cứu cơ sở lý luận có liên quan đến đề tài.

+ Nghiên cứu nội dung chương trình sách giáo khoa Vật lý 10, Cơ bản.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
+ Điều tra cơ bản: Tìm hiểu, đánh giá thực trạng ở trường, lớp.
+ Tổng kết kinh nghiệm giáo dục: Trao đổi tổng kết kinh nghiệm dạy học.
+ Thực nghiệm sư phạm: Nhằm xác định hiệu quả của nội dung đề xuất.
- Phương pháp thống kê, xử lí số liệu.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm.
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.1.1. Bài tập sáng tạo.
Bài tập vật lý sáng tạo có thể được mô tả theo mô hình
sau đây:

Bài tập luyện tập
- Có angôrit giải

Bài tập sáng tạo
- Đi tìm angôrit giải

- Áp dụng các kiến thức xác định đã biết - Vận dụng linh hoạt, sáng tạo từ
để giải
những kiến thức cũ
- Dạng bài tập theo khuôn mẫu nhất định

- Không theo khuôn mẫu nhất định

- Tình huống quen thuộc

- Tình huống mới

- Có tính tái hiện


- Có tính phát hiện

- Không yêu cầu khả năng đề xuất, đánh - Yêu cầu khả năng đề xuất, đánh
giá
giá
Ví dụ bài tập luyện tập:

Ví dụ bài tập sáng tạo:

Một khẩu súng đồ chơi trẻ con thường
dùng để bắn viên đạn bằng nhựa. Viên
đạn bắn theo phương xiên góc  và có
tầm bay xa là L em hãy xác định vận tốc
ban đầu của viên đạn.

Môt khẩu súng đồ chơi trẻ con
thường dùng để bắn viên đạn bằng
nhựa. Em hãy thiết kế phương án
để đo vận tốc viên đạn khi vừa rời
khỏi nòng súng, nếu các phương
án thực hiện và cách xác định kết
quả.

2.1.2. Các dấu hiệu của bài tập sáng tạo.
Dấu hiệu 1: Bài tập có nhiều cách giải:
Khi giải các bài tập vật lí cho học sinh phải dựa vào các đại lượng đã cho trong
bài tập. Mỗi đại lượng vật lý có nhiều mối liên hệ với các đại lượng khác, khi
thực hiện giải các bài tập loại này làm cho học sinh biết nhìn nhận vấn đề ở
nhiều góc độ khác nhau. Điều này giúp cho các em có thể phát triển được tính

2


mềm dẻo và linh hoạt khi đứng trước một bài tập hay một vấn đề thực tiễn và có
thể chọn được phương án giải quyết vấn đề nhanh nhất.
Dấu hiệu 2: Bài tập có hình thức tương tự nhưng có nội dung biến đổi:
Loại bài tập này thường có nhiều câu hỏi, ở câu hỏi thứ nhất thường là một bài
tập luyện tập, các câu hỏi tiếp theo có hình thức tương tự, nếu vẫn áp dụng
phương pháp tương tự như trên sẽ dẫn đến bế tắc vì nội dung câu hỏi đã có sự
biến đổi về chất.
Dấu hiệu 3: Bài tập thí nghiệm:
Bài tập về thí nghiệm vật lý gồm bài tập thí nghiệm định tính và bài tập thí
nghiệm định lượng. Bài tập thí nghiệm định tính yêu cầu thiết kế thí nghiệm
theo một mục đích cho trước, thiết kế một dụng cụ ứng dụng vật lý hoặc yêu cầu
làm thí nghiệm theo chỉ dẫn quan sát và giải thích hiện tượng xảy ra. Bài tập thí
nghiệm định lượng gồm bài tập đo đạc các đại lượng vật lý, minh hoạ lại quy
luật vật lý bằng thực nghiệm.
Dấu hiệu 4: Bài tập thiếu hoặc thừa dữ kiện
Trong bài tập loại này có tác dụng phát huy những ý tưởng độc đáo của học sinh
trong việc nhìn nhận các vấn đề trong bài tập. Để giải quyết được vấn đề của bài
tập loại này học sinh cần phải có sự phát hiện ra những điều chưa hợp lý và có
được sự lý giải cần thiết. Bài tập này còn gặp trong trường hợp học sinh cần có ý
tưởng để đề xuất hoặc thiết kế vận dụng kiến thức để đạt được yêu cầu nào đó
của cuộc sống hay kỹ thuật.
Dấu hiệu 5: Bài tập nghịch lí, ngụy biện
Đây là bài tập trong đề bài chứa đựng một sự nguỵ biện nên dẫn đến nghịch lý:
kết luận rút ra mâu thuẫn với thực tiễn hay mâu thuẫn với nguyên tắc, định luật
vật lý đã biết. Các dấu hiệu d và e có tác dụng bồi dưỡng tư duy phê phán, phản
biện cho học sinh; giúp cho tư duy có tính độc đáo, nhạy cảm.
Dấu hiệu 6: Bài tập hộp đen

Theo M.Bun-xơ-man bài toán hộp đen gắn liền với việc nghiên cứu đối
tượng mà cấu trúc bên trong là đối tượng nhận thức mới (chưa biết), nhưng có
thể đưa ra mô hình cấu trúc của đối tượng nếu cho các dữ kiện “đầu vào”, “đầu
ra”. Giải bài toán hộp đen là quá trình sử dụng kiến thức tổng hợp, phân tích mối
quan hệ giữa dự kiện “đầu vào”, “đầu ra” để tìm thấy cấu trúc bên trong của hộp
đen. Tính chất quá trình tư duy của học sinh khi giải bài toán hộp đen tương tự
với quá trình tư duy của người kỹ sư nghiên cứu cấu trúc chiếc đồng hồ mà
không có cách nào tháo được chiếc đồng hồ đó ra; anh ta phải đưa ra mô hình
cấu trúc của đồng hồ, vận hành mô hình đó, điều chỉnh mô hình cho đến khi
hoạt động của mô hình giống như chiếc đồng hồ thật, thì khi đó mô hình sáng
tạo của người kỹ sư phản ánh đúng cấu tạo của chiếc đồng hồ thật. Chính vì vậy
bài toán hộp đen ngoài chức năng giáo dưỡng còn có chức năng bồi dưỡng năng
lực sáng tạo.
3


Dấu hiệu 7: Bài tập nghiên cứu, thiết kế
Học sinh có thể sử dụng các kiến thức đã học ở trường THPT để tiến hành
nghiên cứu, thiết kế, chế tạo những những ứng dụng đơn giản vào cuộc sống
khoa học kỹ thuật. Đối với các bài tập loại này học sinh phải vừa vận dụng các
kiến thức đã học và kiến thức thực tiễn để thiết kế chế tạo các thiết bị, dụng cụ
ứng dụng trong thực tiễn. Các em phải tiến hành tính toán để thiết kế và chế tạo,
trong các phương án có được các em phải lựa chọn phương pháp tối ưu để đạt
được kết quả tốt nhất. Đây là loại bài tập có đặc điểm rèn luyện cho học sinh
tính thực tiễn cao, có tác dụng tốt trong việc phát triển tư duy cho học sinh.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
2.2.1. Về tài liệu dạy học tập.
Nhìn chung trong quá trình dạy học Vật lý trong trường phổ thông giáo
viên chủ yếu dạy nội dung trong sách giáo khoa và sách BTVL 10, một số giáo
viên kết hợp giữa sách giáo khoa trong chương trình nâng cao và sách giáo khoa

chương trình cơ bản. Tuy nhiên theo ý kiến của giáo viên thì nội dung dạy lý
thuyết trong sách giáo khoa là tương đối đủ, nhưng số lượng bài tập ở chương
này trong sách giáo khoa và sách bài tập BTVL còn ít so với yêu cầu mục tiêu
dạy học của chương.
2.2.2. Về số lượng bài tập:
- Bài tập sáng tạo, bài tập định tính: rất ít, chủ yếu giáo viên đưa ra khi
củng cố bài tập (mỗi tiết bài mới dùng 2 - 3 bài).
- Bài tập định lượng: Chiếm đại đa số.
2.2.3. Về nhận thức và phương pháp giảng dạy của giáo viên:
- Tư tưởng của GV chưa coi trọng bài tập sáng tạo, nếu GV sử dụng bài
tập sáng tạo chỉ là qua loa không dành nhiều thời gian cho HS suy nghĩ, xây
dựng lập luận.
- Trang thiết bị trong các nhà trường phổ thông tuy có trang bị nhưng về
chất lượng chưa đảm bảo đáp ứng cho việc dạy học của GV.
- GV ngại sử dụng thí nghiệm vì phải mất nhiều thời gian ; năng lực và kỹ
năng thực hành của GV còn nhiều hạn chế ; một số dụng cụ thí nghiệm không
chính xác, thiếu thốn nên để làm được thí nghiệm đôi khi GV phải tự tìm kiếm,
lắp ráp hoặc đồ để lâu không dùng được.
2.2.4. Về phía học sinh :
- Việc học sinh học vật lý ở trên lớp thì học sinh rất thụ động. Chỉ có một
số em học khá và say mê học vật lý thì tìm tòi mày mò đọc thêm tài liệu để bổ
sung kiến thức. Trong khi đó, còn đại đa số thì chỉ trông chờ vào bài giảng của
giáo viên
Một số HS lười học lí thuyết, đôi khi chỉ cần dùng định luật, khái niệm…
để áp dụng mà chưa kịp hiểu bản chất.
- HS ít có khả năng suy luận logic, chưa có ý thức tự học.
- Khả năng nhận biết các hiện tượng vật lý còn yếu.
4



2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
2.3.1. Xây dựng hệ thống bài tập sáng tạo chương “ ĐỘNG LỰC HỌC
CHẤT ĐIỂM ”.
Trong phạm vi giới hạn của sáng kiến tôi trình bày một số bài tập sáng tạo:
2.3.1.1. Bài tập có nhiều cách giải
Bài 1: Cho một tấm ván dài và một miếng gỗ, em hãy tìm các cách xác định hệ
số ma sát trượt giữa tấm ván và miếng gỗ. Bố trí thí nghiệm trong từng trường
hợp và các tính toán kết quả?
Bài 2:Môt khẩu súng đồ chơi trẻ con thường dùng để bắn viên đạn bằng nhựa.
Em hãy thiết kế phương án để đo vận tốc viên đạn khi vừa rời khỏi nòng súng,
nếu các phương án thực hiện và cách xác định kết quả.
Gợi ý: Học sinh vận dụng kiến thức đã học về bài toán chuyển động của vật bị
ném (ném xiên, ném ngang, ném thẳng đứng) để tính vận tốc viên đạn. Với các
kiến thức đã học các em lập phương án thí nghiệm, đo số liệu tính toán và xử lý
kết quả.
Bài 3: Một vật có khối lượng m1 đã biết hãy tìm cách xác định khối lượng của
vật m2 chưa biết. Dụng cụ thí nghiệm tuỳ ý chọn, nêu phương pháp thực nghiệm
để xác định khối lượng m2.
Gợi ý: Ở bài này các em có thể chế tạo ra dụng cụ tương tự cân đòn để xác định
khối lượng của vật chưa biết (Thực chất là đã áp dụng quy tắc mô men lực). Đối
với bài này các em cũng có thể cho hai vật tương tác với nhau (nén lò xo cho hai
vật tương tác với nhau) trên sàn nằm ngang. Trong trường hợp hai vật chuyển
động trên sàn cùng hệ số ma sát học sinh có thể đo quãng đường đi của của hai
vật sau đó các em dùng định luật 2 và 3 của Niu tơn để xác định khối lượng vật
chưa biết.
2.3.1.2. Bài tập có hình thức tương tự nhưng nội dung biến đổi.
Bài 4: Một vật đặt trên sàn có khối lượng m = 10kg, hệ số ma sát nghỉ bằng hệ
số ma sát trượt có giá trị  = 0, 1. Hỏi lực ma sát tác dụng lên vật và gia tốc của
vật là bao nhiêu nếu tác dụng lên vật một lực theo phương nằm ngang có độ lớn:
a. 15N

b. 5N
c. 10N
Gợi ý: Trong bài tập này các ý a, b, c nội dung câu hỏi đã biến đổi đòi hỏi sự
vận dụng linh hoạt của học sinh. Ở câu a lực ma sát là lực ma sát trượt nhưng ở
câu b và c thì lực ma sát lại là lực ma sát nghỉ.
Bài 5: Một khúc gỗ có khối lượng là 2kg, kéo khúc gỗ bởi lực F = 10N dọc theo
phương chuyển động của khúc gỗ. Tìm gia tốc của khúc gỗ trong các trường hợp
sau:
5


a. Khúc gỗ chuyển động không ma sát trên sàn nằm ngang
b. Khúc gỗ chuyển động trên sàn nằm ngang có hệ số ma sát k = 0,1
c. Khúc gỗ chuyển động xuống mặt phẳng nghiêng không có ma sát
d. Khúc gỗ chuyển động xuống mặt phẳng nghiêng có hệ số ma sát k = 0,1
e. Khúc gỗ được kéo lên mặt phẳng nghiêng không có ma sát
g. Khúc gỗ kéo chuyển động lên mặt phẳng nghiêng với hệ số ma sát k = 0,1
Gợi ý: Bài tập này các ý a, b, c, d, e, g nội dung câu hỏi đã biến đổi giúp khắc
sâu kiến thức học sinh trong từng trường hợp. Bài tập có tác dụng tránh suy nghĩ
máy móc của học sinh khi giải bài tập vật lý.
Bài 6: Một ô tô có trọng lượng P M =50000N chuyển động với vận tốc không đổi
v = 10m/s qua cầu. Tìm áp lực của ô tô tác dụng lên cầu khi ô tô đi qua điểm
giữa cầu trong các trường hợp:
a. Cầu phẳng nằm ngang
b. Cầu vồng lên với bán kính cong r = 50m
c. Cầu lõm xuống với bán kính r = 50m
d. Ô tô chuyển động tròn đều trên đường tròn nằm ngang bán kính r = 50m với
vận tốc v = 10m/s. Tìm lực ma sát của mặt đường tác dụng lên ô tô.
2.3.1.3. Bài tập thí nghiệm
Bài 7: Em hãy trình bày phương pháp để có thể đo hệ số ma sát trượt, ma sát

nghỉ giữa bánh xe ô tô và mặt đường
Gợi ý: Em hãy nêu các trường hợp để giữa bánh xe và mặt đường xuất hiện lực
ma sát trượt? Ma sát nghỉ? Em hãy thiết kế thí nghiệm để đo lực ma sát trượt,
ma sát nghỉ giữa bánh xe và mặt đường?
Chẳng hạn:



+ Để đo hệ số ma sát trượt ta cho xe ô tô chuyển động với vận tốc v sau đó
phanh cho bánh xe trượt trên mặt đường đến khi dừng. Dựa vào độ dài quãng
đường ô tô trượt đến khi dừng và vận tốc ban đầu của xe, tính toán suy ra hệ số
ma sát trượt.
+ Để đo hệ số ma sát nghỉ ta có thể cho xe chuyển động trên vòng tròn nằm
ngang bán kính R và tăng dần vận tốc của ô tô. Đến khi bánh xe ô tô đạt vận tốc


v thì bánh xe bắt đầu trượt khỏi vòng tròn. Xác định vận tốc v và bán kính R
để suy ra hệ số ma sát nghỉ.
Bài 8: Tiến hành thí nghiệm chứng tỏ lực ma sát nghỉ có giá trị, phương, chiều
phụ thuộc vào ngoại lực tác dụng. Cho dụng cụ là một lực kế, một mẫu gỗ hình
hộp, một sợi dây.
Gợi ý: Em hãy nêu điều kiện xuất hiện lực ma sát nghỉ và phương, chiều và độ
lớn của lực ma sát nghỉ?

6


Dùng lực kế
móc vào vật (vật được đặt trên sàn nằm ngang) tác dụng vào


vật một lực nhỏ F theo phương nằm ngang sao cho vật vẫn đứng yên. Lúc này
có những lực nào tác dụng vào vật?
Em hãy cho biết phương, chiều và độ lớn của lực ma sát nghỉ tác dụng
lên vật trong trường hợp này?
Vẫn dùng lực kế ta dụng lên vật lực có phương như cũ nhưng tăng dần
lực kéo (sao cho vật vẫn đứng yên). Em hãy nhận xét về độ lớn của lực ma sát
nghỉ?
Làm lại thí nghiệm nhưng thay đổi phương lực tác dụng của lực kế trong mặt
phẳng ngang, nêu ý kiến nhận xét?
Bài 9: Một vật có chiều cao lớn hơn nhiều so với chiều rộng của đáy, tác dụng
lên vật một lực F theo phương nằm ngang ở độ cao h so với mặt sàn hãy tìm
phương án xác định hệ số ma sát giữa vật và sàn
Bài 10:
a. Tại sao có thể dùng lực kế để đo khối lượng của vật?
k1
b. Khi cân khối lượng của một vật người ta thấy kim lực
kế vượt ra ngoài bảng chia độ. Vì vậy người ta phải dùng
hai lực kế, có thể mắc chúng theo hai cách như hình vẽ
k2
không? Hỏi cách mắc nào đúng và số chỉ của mỗi lực kế là k1
k2
bao nhiêu?
Gợi ý: Khi treo vật cân bằng ở đầu lực kế có những lực
nào tác dụng lên vật? Từ đó suy ra khối lượng của vật?
m
m
So sánh trọng lượng của vật và số chỉ lực kế ở hình 1 và ở
hình 2?
Hình 1
Hình 2

2.3.1.4. Bài tập cho thiếu hoặc thừa dự kiện
Bài 11: Em hãy thiết kế một gia tốc kế để đo gia tốc của ô tô?
Gợi ý: Học sinh có thể dùng con lắc đơn treo trên ô tô hoặc con lắc lò xo.
TH1: Bố trí con lắc lò xo đặt sao cho vật m có thể chuyển động không ma sát
trên giá đỡ nằm ngang và trục lò xo cùng phương gia tốc của ô tô. Khi ô tô

chuyển động với gia tốc a lò xo biến dạng l ta có kl=ma=>a= kl/m
TH2: Treo con lắc đơn trên trần ô tô, khi ô tô chuyển động dây treo nghiêng góc
 so với phương thẳng đứng. Áp dụng định luật 2 Niu tơn cho vật ta suy ra gia
tốc ô tô là a=gtan.
Bài 12: Em hãy thiết kế sơ bộ về các kích thước của một xe cần cẩu có thể nâng
được một vật có khối lượng 2 tấn biết cần cẩu có độ cao 5 mét. Giả thiết rằng xe
sau khi thiết kế có thể nâng vật nói trên cả khi cần cẩu nằm ngang. Cho biết xe
có dạng hình hộp chữ nhật đồng chất làm bằng thép có khối lượng riêng là .
Giả thiết khối lượng của cánh tay cần cẩu là không đáng kể.
Gợi ý: Học sinh cần nghiên cứu thiết kế sao cho khi nâng vật thì xe cần cẩu vẫn
cân bằng. Các em cũng cần chú ý thiết kế để đảm bảo một hệ số an toàn để đảm
bảo an toàn khi cần cẩu hoạt động.
7


2.3.1.5. Bài tập nghịch lí, ngụy biện
Bài 13: Ở hình a và hình b có 2 viên bi giống nhau chuyển động qua hai chiếc
cầu có cùng kích thước do quán tính. Chiếc cầu ở hình a lồi lên và chiếc cầu ở
hình b lõm xuống. Hai viên bi chuyển động theo quán tính vận tốc lúc bắt đầu
qua cầu và lúc đã qua cầu đều là v. Hỏi trong hai
v
v
viên bi ở hình vẽ trường hợp nào viên bi đến B
B

trước.
Hình a
A
v
v
Gợi ý: Có thể nhận thấy ở hình a vận tốc trung
bình của xe nhỏ hơn v, ở hình b vận tốc trung bình
B
A
của xe lớn hơn v. Do đó ở trường hợp hình b hòn
Hình b
bi đến B trước.
Bài 14: Một con ngựa kéo một chiếc xe, theo định luật 3 Niu tơn thì lực do ngựa
tác dụng vào xe cũng bằng lực do xe tác dụng vào ngựa. Em hãy giải thích tại
sao ngựa lại có thể kéo được xe chuyển động.
Gợi ý: Đầu tiên giáo viên có thể gọi học sinh trình bày thử về phương án giải
bài toán, sau đó giáo viên nhận xét về phương án trả lời của học sinh. Sau đó
giáo viên có thể đặt câu hỏi cho học sinh trả lời:
Em hãy xác định các lực tác dụng vào xe và lực tác dụng vào ngựa?
Trong các lực tác dụng vào xe và ngựa thì lực nào đóng vai trò lực phát
động?
Nếu học sinh không trả lời được giáo viên có thể hỏi thêm:
Trong chuyển động của ô tô thì lực nào đóng vai trò lực phát động?
Bài 15: Một sợi dây chịu được lực căng tối đa là 80N, hỏi sợi dây có bị đứt
không trong các trường hợp sau.
a. Hai người cầm hai đầu sợi dây mỗi người kéo với lực là 50N
b. Một đầu dây buộc vào cây và hai người cầm một đầu dây mỗi người kéo với
lực 50N.
Gợi ý:
a. Bài này có tác dụng tránh sai lầm của học sinh, một số em học sinh thường

nghĩ nếu hai người cầm hai đầu sợi dây mỗi người kéo với lực 50N thì lực căng
của sợi dây là 100N thực chất lực căng sợi dây chỉ 50N.
b. Ở câu a dây không đứt có những em không biết ở câu b dây có đứt không.
Tuy nhiên em nhanh ý sẽ thấy được lúc này gốc cây cũng sinh ra lực kéo giống
2 người và lực căng là 100N nên dây đứt.
Bài 16: Có thể dùng một nam châm như
hình vẽ để làm ô tô chuyển động được
không? Giải thích?
Gợi ý: Bài này tránh suy nghĩ sai lầm của
học sinh là nam châm có thể kéo cho ô tô
chuyển động. Ô tô và nam châm có thể xem là một vật, lực tương tác giữa ô tô
và nam châm là nội lực không làm hệ chuyển động.
8


Bài 17 : Một quả cầu nặng được treo bởi một sợi dây mảnh và phía dưới quả cầu
cũng được buộc bởi sợi dây giống như sợi dây treo quả cầu, khi làm thí
nghiệm cho thấy kết quả như sau.
- Nếu kéo từ từ sợi dây phía dưới quả cầu thì sợi dây treo quả cầu bị đứt
- Nếu giật mạnh dây dưới quả cầu thì dây dưới quả cầu bị đứt
Hãy giải thích hiện tượng trên.
Gợi ý: Kéo từ từ quả cầu chuyển động từ từ phần trên chịu tác dụng lực
kéo của người và trọng lượng của quả cầu nên chịu lực căng lớn hơn do
đó dây trên đứt. Giật mạnh do quả cầu, do có quán tính quả cầu chưa kịp
chuyển động vì vậy dây trên chưa tăng lực căng nên dây dưới căng hơn
và đứt trước.
2.3.1.6. Bài tập “hộp đen”
Bài 18: Em hãy làm thí nghiệm để xác định cấu trúc bên trong của con lật đật?
Không được tháo nó ra.
Gợi ý: Học sinh có thể dùng phương pháp treo con lật đật ở 2 vị trí khác nhau để

xác định trọng tâm của con lật đật. Khi xác định được trọng tâm của con lật đật
các em có thể dự đoán được cấu trúc của con lật đật.
Bài 19: Trong một bình cầu thủy tinh kín có một bọt khí hình cầu. Hãy tìm cách
xác định đường kính của bọt không khí (không được phá vỡ bình cầu đó).
Gợi ý: Giáo viên hướng dẫn học sinh: Xác định khối lượng riêng của thủy tinh
(dùng bảng khối lượng riêng), đo thể tích của bình cầu. Suy ra phần thể tích lỗ
hổng.
Bài 20: Các nhà địa lí khi thăm dò địa chất tại một khu vực tiến hành thí nghiệm
như sau. Người ta tiến hành đo gia tốc rơi tự do tại các vị trí khác nhau trên trái
đất (ở cùng một độ cao). Khi nơi nào có gia tốc rơi tự do của các vật đột nhiên
tăng thì phía dưới (trong lòng đất) thường có các mỏ kim loại nặng, ở những nơi
có gia tốc rơi tự do của các vật đột nhiên giảm trong lòng đất thường có mỏ các
chất nhẹ như thạch cao, dầu mỏ. Em hãy giải thích hiện tượng trên.
Gợi ý: Học sinh đã biết gia tốc trọng trường phụ thuộc vào vị trí địa lý, phụ
thuộc vào độ cao và độ sâu của một điểm so với mực nước biển. Nếu ở một
vùng rộng trong lòng đất khối lượng riêng của lớp vật chất thay đổi nhiều cũng
ảnh hưởng đến gia tốc rơi tự do. Những nơi trong lòng đất có những vùng lớn
vật chất có khối lượng riêng nhỏ làm gia tốc trọng trường ở đó giảm, những nơi
trong lòng đất có những vùng vật có nhiều vật chất khối lượng riêng lớn gia tốc
trọng tăng.
2.3.1.7. Bài tập nghiên cứu, thiết kế
Bài 21: Xe lao xuống dốc (nơi đường dốc, núi) nếu bị hỏng phanh sẽ rất nguy
hiểm. Hãy đề xuất giải pháp cứu nạn cho xe tại những nơi như vậy.Tìm hiểu về
đường cứu nạn trong thực tế.
Bài 22: Cho hệ như hình vẽ m1=500g, =300 các
số ma sát trượt và nghỉ giữa m1 và mặt phẳng

hệ
m
1


m
2

9


nghiêng là n=t=0,2. Mặt phẳng nghiêng được giữ cố định. Hãy tính gia tốc
của m1, m2 và lực ma sát giữa m1 và mặt phẳng nghiêng trong các trường hợp:
a. m2= 500g;
b. m2=200g
Gợi ý: Đối với bài tập này giáo viên (học sinh) có thể xuất phát từ bài tập tổng
quát, khi xét điều kiện chuyển động của các vật trong trường hợp tổng quát cho
kết quả:
TH1: Để m1 đi lên: P2>P1sin+P1cos (1)
TH2: Để m1 đi xuống: P2Các điều kiện (1) và (2) giáo viên (học sinh) có thể áp dụng định luật 2 Niu tơn
cho từng vật rồi suy ra. Ta có thể thấy rằng bài toán chỉ xảy ra 3 trường hợp m1
đi lên, m1 đi xuống và hệ đứng yên như vậy những trường hợp ngoài TH1 và
TH2: là hệ đứng yên.
TH3: Hệ đứng yên P1sin-P1cos≤ P2 ≤P1sin+P1cos (3)
Sau khi xác định được điều kiện m2 để thỏa mãn các trường hợp các em có thể
giải bài toán dễ dàng. Đối với bài tập này nếu giáo viên đã trình bày trước
phương pháp giải trở thành bài tập algorit nhưng nếu giáo viên cho học sinh về
nhà làm thì đó là một bài tập sáng tạo.
2.3.2. Thực nghiệm sư phạm.
2.3.2.1. Mục đích của thực nghiệm sư phạm.
Tiến hành thực nghiệm sư phạm để xác định khả năng sử dụng bài tập
sáng tạo vào giảng dạy Vật lý ở trường THPT với mục đích:
- Áp dụng bài tập sáng tạo vào giảng dạy với mục đích phát triển tư duy vật lý

của học sinh.
- Kiểm tra, đánh giá về tính khoa học và tính thực tiễn của đề tài.
- Kiểm tra đánh giá hệ thống bài tập sáng tạo phần động lực học được xây dựng
cho chương “ Động lực học chất điểm ” để có điều kiện chỉnh lý và bổ sung.
2.3.2.2. Đối tượng thực nghiệm.
- Đối tượng chọn 2 lớp 10 thuộc Trường THPT Thạch Thành 1 giảng dạy là
10C2 làm thực nghiệm (TN) và lớp 10C3 là đối chứng (ĐC) cho đề tài này.
- Nội dung giảng dạy lí thuyết ở 2 lớp thực nghiệm và đối chứng là như nhau
theo chương trình SGK vật lý 10 CB THPT hiện hành.
- Ở lớp TN: Chúng tôi tiến hành cho HS sử dụng hệ thống BTST trong tình
huống nhận thức, tích cực hóa hoạt động nhận thức trong tiết học. Trong quá
trình giảng dạy GV lồng ghép BTST mang tính định tính vào phần mở bài. Sau
đó đưa ra các bài tập về nhà có BTST trong hệ thống bài tập của đề tài có kèm
theo những gợi ý. Trong tiết bài tập, chúng tôi sử dụng lồng ghép BTST nhằm
tích cực hóa hoạt động của HS. Trong quá trình giảng dạy GV sử dụng một số
10


thí nghiệm và máy vi tính hỗ trợ trong các giờ dạy. Tùy thuộc vào tình hình cụ
thể về cơ sở vật chất mà chúng tôi chọn hình thức sử dụng các phương tiện dạy
học cho phù hợp.
- Ở lớp đối chứng: GV giảng dạy theo phương pháp thông thường, không sử
dụng BTST gây tình huống nhận thức. Sau đó ra bài tập về nhà nhưng không có
BTST. Các tiết dạy được tiến hành theo đúng tiến độ được qui định bởi PPCT
của bộ GD & ĐT.
2.3.2.3. Tiến hành thực nghiệm
Trong quá trình tiến hành thực nghiệm chúng tôi đã triển khai giáo án
thực nghiệm vận dụng bài tập sáng tạo cho lớp thực nghiệm:
GIÁO ÁN : THỰC HÀNH ĐO HỆ SỐ MA SÁT
I. MỤC TIÊU

1. Kiến thức:
- Hiểu được cách tiến hành đo hệ số ma sát trong một số trường hợp đơn giản.
- Biết cách tiến hành đo hệ số ma sát và tính toán kết quả.
- Góp phần liên hệ kiến thức với thực tiễn.
2. Kỹ năng:
- Rèn luyện cho học sinh kỹ năng thiết kế phương án thí nghiệm.
- Kỹ năng tiến hành các bước thí nghiệm vật lý.
3. Thái độ: Rèn luyện cho học sinh có ý thức vận dụng các kiến thức đã học vào
thực tiễn.
4. Định hướng phát triển năng lực: Phát triển năng lực tư duy, sáng tạo; thiết
kế phương án thí nghiệm, tiến hành thí nghiệm,...
II. CHUẨN BỊ
1. Giáo viên
Chuẩn bị sẵn những dụng cụ cần thiết để ở cuối lớp, bao gồm:
- Mặt phẳng nghiêng ( MPN ) có gắng thước đo góc và dây rọi
- Nam châm điện gắn ở đầu (MPN) có hộp công tắc đóng ngắt hoặc thả
vật khi thực hiện thí nghiệm
- Giá đỡ có thể thay độ cao
- Trụ kim loại đường kính 3mm dài 3cm
- Đồng hồ hiện số
- Cổng quang điện E
- Thước thẳng có độ chia nhỏ nhất mm
- Miếng Ê ke dùng để xác định vị trí vật
- Khối gỗ hình chữ nhật, tấm ván phẳng
- Lực kế
- “Phao cứu trợ”( Báo cáo thực hành)
11


2. Học sinh

- Ôn lại các kiến thức đã học về lực ma sát.
- Ôn tập đặc điểm lực ma sát, định luật II Niu-tơn và phương pháp động lực học.
- Chuẩn bị trước những phương án có thể thiết kế được để đo hệ số ma sát nghỉ
cực đại và hệ số ma sát trượt.
III. TIẾN TRÌNH LÊN LỚP
1. Ổn định lớp, kiểm tra sĩ số:
2. Bài mới.
Hoạt động của giáo viên
?Trước khi vào bài học mới, cô và
các em cùng quan sát một hình ảnh
sau đây. Sau khi quan sát hình ảnh
thì các em hãy nói cho cô biết nhận
xét của các em về hình ảnh đó nhé.

Hoạt động HS
Nội dung
-Đó là hình I. Tình huống cần
ảnh một cây cầu. giải quyết
Trên cây cầu thì có
các phương tiện đang
lưu thông. Một đặc
điểm của cây cầu này
là khá dốc so với
những cây cầu bình
thường khác.

- Chúng ta đang quan sát hình ảnh
cây cầu Ejima Ohashi (Eshima
Ohashi) ở thành phố Matsue, Nhật
Bản, được biết đến là cây cầu dốc

đứng nhất thế giới. Nhiều người
cho rằng, việc xây dựng cầu này là
do một nhóm kỹ sư nghiệp dư,
không tính toán trước những khó
khăn gặp phải cho người đi đường.
Tuy nhiên, thực tế lại cho thấy lý
do cầu Ejima quá cao và dốc là bởi
nó cần dành không gian cho những
tàu lớn trên 500 tấn có thể đi bên
dưới.
- Ô tô không lăn và
?Yêu cầu đặt ra là những kĩ sư đó không trượt được khi
đã phải thiết kế cây cầu có đặc có lực ma sát nghỉ
điểm như thế nào (khi độ dốc là
12


không đổi), để khi có một ô tô
phanh trên cầu, bánh xe của nó
không tự lăn mà cũng không tự
trượt được?
Gợi ý: Các em hãy liên hệ kiến
thức bài trước, coi như một vật đặt
trên mặt phẳng nghiêng.
- Do góc nghiêng của cầu là không
đổi, để ô tô không bị lăn hay trượt
xuống thì lực ma sát nghỉ cực đại
sẽ phải lớn hơn hoặc bằng giá trị
xác định, từ đó các kĩ sư sẽ tính
toán được hệ số ma sát nghỉ cực

đại cần thiết. Họ sẽ phải chọn cách
chế tạo, tìm ra những vật liệu phù
hợp để làm mặt cầu sao cho hệ số
ma sát nghỉ giữa mặt cầu và bánh
xe ô tô lớn hơn hoặc bằng giá trị đã
tính. Vì vậy, các kĩ sư sẽ phải đo hệ
số ma sát nghỉ trong các trường
hợp khác nhau để tìm ra vật liệu
phù hợp, thỏa mãn yêu cầu đặt ra.
Vậy có những cách nào để đo hệ số
ma sát? Hôm nay chúng ta sẽ cùng
nhau tìm hiểu nhé.
BTST: Cho một tấm ván dài và
một miếng gỗ, em hãy tìm các
cách xác định hệ số ma sát trượt
giữa tấm ván và miếng gỗ. Bố trí
thí nghiệm trong từng trường hợp
và các tính toán kết quả?
? Nếu bây giờ vật không nằm yên
trên mặt phẳng nữa mà vật trượt
xuống thì sao? Khi đó, hệ số ma
sát trong trường hợp này là hệ số
ma sát gì? Và ta phải xác định hệ
số ma sát đó bằng cách nào?

tác dụng lên ô tô.
Tổng vecto các lực
tác dụng lên vật bằng
0.


- Là hệ số ma sát
trượt. Em sẽ tính
thêm gia tốc, áp
dụng định luật II
Niu-tơn và giải toán
bằng phương pháp
động lực học sẽ tính
được hệ số ma sát
nghỉ trong trường
hợp này.

- Lớp thảo luận.

II- Xác định hệ số
ma sát trượt
1, Thiết kế thí
nghiệm
Phương án 1: Xác
định hệ số ma sát
trượt
trên
mặt
phẳng nghiêng

- Đo góc nghiêng

.

13



- Xác định gia tốc a.
Trong đó,
+Đo thời gian t: cổng
quang điện.
+Đo quãng đường s:
góc máng có vạch chia độ.

- Cần đo
? Xét vật trượt không vận tốc ban nghiêng
đầu trên mặt phẳng nghiêng góc
- Cần đo gia tốc a
so với phương ngang. Em hãy
thiết lập biểu thức tính hệ số ma
Do vật trượt trên
sát trượt giữa vật và mặt phẳng mặt phẳng nghiêng
nghiêng?
nên chuyển động
* Lớp sẽ thảo luận theo nhóm 2 của vật là chuyển
bàn. Thời gian thực hiện nhiệm động nhanh dần đều
vụ là 3 phút. Sau khi hoàn thành mà vật trượt không
các nhóm sẽ trình bày kết quả lên vận tốc đầu
trên bảng.
=>
- Nhận xét kết quả
? Từ biểu thức, em hãy cho cô + Đo quãng đường
biết để xác định hệ số ma sát trượt s, thời gian chuyển
ta cần đo những đại lượng nào?
động t.
* Lưu ý: khi thực hành cần chú ý + Đồng hồ bấm giây

tới góc nghiêng đủ lớn sao cho + Cổng quang điện
vật có thể trượt không vận tốc ban
đầu. Góc nghiêng thích hợp vào
khoảng 20-300
? Để đo gia tốc a chúng ta phải - Học sinh thảo luận
tính thông qua biểu thức nào và
cần đo những đại lượng nào?
Cách tiến hành đo:
Cho vật chuyển động trên mặt
phẳng ngang
- Đặt vật lên tấm ván
- Một đầu lực kế cố định, đầu còn
lại gắn vào vật
- Kéo tấm ván đều
Fms = N = mg

Phương án 2: Xác
định hệ số ma sát
trượt
trên
mặt
phẳng ngang

- Dùng lực kế treo vật thẳng đứng
ta đo được trọng lực của vật ta đo
được trọng lực của vật P = mg
14


Suy ra hệ số ma sát trượt giữa vật

và ván:

=

Fms
P

? Vì sao số chỉ của lực kế lại chỉ
độ lớn lực ma sát. Em hãy chứng
minh cho cả lớp ý kiến của em?
* Biểu diễn vẽ các lực theo mô tả
của học sinh. Gọi tên vật là vật 1,
tấm ván là vật 2 để dễ kí hiệu lực
trên hình và cho học sinh dễ mô t

- Lưu ý cho học sinh: cần kéo tấm
ván đều. Chúng ta làm thế nào để
kiểm tra chuyển động đều của tấm
ván? (Gợi ý: Có bộ dụng cụ: băng
giấy và cần rung đã dùng ở bài đo
gia tốc rơi tự do của vật)
- GV chốt phương án và cách tiến
hành:

- Cách làm:
+ Đo khối lượng của
vật để tìm phản lực N
- Học sinh cùng giáo + Gắn lực kế
viên thống nhất các + Gắn băng giấy vào
bước làm.

tấm ván và liên kết
với bộ cần rung
+ Đặt vật tiếp xúc với
tấm ván trên mặt
phẳng ngang.
+ Kéo tấm ván đều
+ Thực hiện 3-4 lần
2. Xử lí số liệu
Phương án 1:
Trong đó,

- Phương án 2:

4. Củng cố bài học
Sau khi tiến hành thí nghiệm, mỗi học sinh viết 1 báo cáo thu hoạch.
2.3.2.4. Kết quả kiểm tra sau thực nghiệm.
15


2.3.2.4.1. Về kết quả kiểm tra đánh giá thực nghiệm sư phạm.
Xử lí kết quả thăm dò ý kiến HS
+ Có 96,6% trên tổng số 90 HS được hỏi ý kiến cho rằng học tập có sử dụng
BTST làm họ hứng thú và 3,4% HS cho rằng học tập có sử dụng BTST là không
hứng thú.
+ Có 100% HS được hỏi ý kiến cho rằng các thí nghiệm và hình ảnh trực quan
trong thực tế làm cho giờ học thêm sinh động và hấp dẫn.
+ Có 36,36% được hỏi ý kiến HS cho rằng giải BTST mất nhiều thời gian,
63,63% HS cho rằng giải BTST bình thường.
+ Có 91,83% được hỏi ý kiến HS cho rằng việc học tập với BTST giúp các em
củng cố niềm tin vào bài giảng của GV và tiếp thu vào bài giảng của mình, ý

kiến trái ngược là 1,36% và 7,28% HS cho rằng nó bình thường.
+ Có 46,66% HS được hỏi cho rằng học tập với BTST giúp các em bớt mệt mỏi
căng thẳng, có 18,18% ý kiến trái ngược và 35,22% cho rằng là bình thường.
+ Có 93,6% HS được hỏi ý kiến sự minh họa các hiện tượng trong thực tế giúp
các em hiểu rõ hơn, nắm chắc kiến thức mà mình lĩnh hội, ý kiến trái ngược là
6,4%.
+ Có 97,73%HS được hỏi ý kiến cho rằng học tập với BTST khuyến khích sự tò
mò, óc sáng tạo, lòng đam mê tìm tòi, khả năng suy luận, có 2,27% ý kiến trái
ngược.
+ Có 95,46% HS được hỏi cho rằng thích học những tiết mà GV có sử dụng
BTST và có 4,54% phản đối ý kiến trên.
- Đánh giá định tính
Qua quan sát, theo dõi những tiết học ở các lớp TN và ĐC, chúng tôi nhận thấy
+ Sử dụng BTST tạo được hứng thú cho HS, HS bị cuốn hút ngay vào trong bài
học. HS tranh luận sôi nổi, chú ý quan sát những hình ảnh, video clip hay thí
nghiệm trong bài tập. Đây chính là tiền đề quan trọng để tích cực hóa hoạt động
nhận thức của HS
+ Thường xuyên giải BTST giúp cho tư duy logic, ngôn ngữ vật lý của HS tiến
bộ hơn, trình bày một vấn đề nào đó chặt chẽ hơn. Đồng thời do nội dung của
nhiều BTST gắn liền với thực tế cuộc sống do đó giải BTST làm tăng khả năng
áp dụng kiến thức vật lý vào thực tiễn của HS.
- Đánh giá định lượng
Do số bài kiểm tra là hai nên chúng tôi tính điểm trung bình mỗi học sinh đạt
được theo công thức sau:
xi =

Trong đó:

x15   2.x1T 
3


x15 là điểm bài kiểm tra 15 phút
x1T là điểm bài kiểm tra 1 tiết

Bảng kết quả thực nghiệm

Lớ
p


số

Số học sinh đạt điểm xi
1

2

3

4

5

6

7

8

9


10
16


TN

45

0

0

100
%
45

0%

0%

0

0

0
0%
5

4


11

7

12

7

4

0

9%

24.4
%
15

15,5
%
10

26,6
%
4

15,5
%
2


9%

0%

1

0

8

ĐC

100 0% 0% 11,1 17,8 33,5 22.2 8,8% 4,4% 2,2. 0%
%
%
% %
%
%
Dựa vào số liệu tính toán ở trên tôi rút ra được những nhận xét sau đây
- Tỉ lệ học sinh kiểm tra đạt loại trung bình và yếu của lớp TN giảm đáng kể so
với lớp ĐC. Ngược lại số học sinh đạt loại khá, giỏi của lớp TN cao hơn lớp ĐC.
Như vậy, về mặt vận dụng kiến thức và giải bài tập của học sinh lớp thực
nghiệm cao hơn lớp đối chứng.
- Từ việc phân tích số liệu thực nghiệm tôi đi đến kết luận:
+ Giả thiết nêu trên đã được kiểm chứng là đúng đã kiểm nghiệm thông qua thực
nghiệm.
+ Việc tổ chức dạy học theo tiến trình đề xuất đã đem lại hiệu quả trong việc
nâng cao kiến thức cho học sinh.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với

bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Khi nghiên cứu về việc vận dụng các bài tập sáng tạo vào quá trình dạy
học vật lý tôi nhận thấy rằng bài tập sáng tạo có thể đưa vào tất cả các quá trình
dạy học Vật lý.
2.4.1. Bài tập sáng tạo đưa vào tiết dạy lý thuyết và củng cố kiến thức sau bài
học
Bài tập sáng tạo định tính hay các bài tập định lượng đơn giản có thể được
đưa vào tiết xây dựng dựng kiến thức. Bài tập sáng tạo dùng để đặt vấn đề trước
khi dạy bài mới giáo viên đưa ra như một tình huống có vấn đề, tình huống này
có thể giáo viên và học sinh cùng giải quyết từng phần trong tiết dạy để trả lời
câu hỏi đặt ra ban đầu. Cũng có trường hợp đến cuối tiết học thì vấn đề mà giáo
viên đưa ra trước tiết học mới được giải quyết.
2.4.2. Sử dụng bài tập sáng tạo trong dạy học tự chọn.
Dạy học tự chọn là hình thức trung gian giữa dạy học chính khoá và ngoại
khoá. Vì thế đưa bài tập sáng tạo vào quá trình dạy học có nhiều điều kiện thuận
lợi: tăng quỹ thời gian giải bài tập trên lớp, ở nhà, hoạt động giải bài tập sáng tạo
theo nhóm.
2.4.3. Sử dụng bài tập sáng tạo ngoài giờ chính khoá
Hình thức dạy học không chính khóa giáo viên có thể giao cho các em về
nhà làm các bài tập như tự nghiên cứu, thiết kế (có thể có sự gợi ý một phần của
giáo viên).
2.4.4. Hình thức ngoại khoá
17


Ở trường phổ thông ngoại khoá có thể kết hợp với câu lạc bộ học tập, câu
lạc bộ thí nghiệm vật lý để làm phong phú về hình thức và tạo được sự quan tâm
của nhiều học sinh. Vì vậy chúng ta có thể đưa vào các bài tập sáng tạo đây cũng
là một nội dung rất phù hợp với loại hình học tập ngoại khoá. Những bài tập
được thực hiện theo loại hình này giáo viên có thể chú trọng vào các bài tập định

tính hay các bài tập thí nghiệm.
2.4.5. Bồi dưỡng học sinh giỏi
Trong các kỳ thi học sinh giỏi có nhiều bài tập về thí nghiệm, thực hành,
bài tập đi sâu vào ý nghĩa vật lý của các hiện tượng. Vì vậy đối với bồi dưỡng
học sinh giỏi các bài tập sáng tạo đóng một vai trò hết sức quan trọng. Hệ thống
các bài tập sáng tạo trong bồi dưỡng học sinh giỏi cần được lựa chọn thành một
hệ thống đầy đủ đối với các kiến thức dự kiến thi của học sinh thì mới có thể đạt
hiệu quả cao.
2.4.6. Sử dụng bài tập sáng tạo trên báo tường, báo bảng
Đây là hình thức dành cho các học sinh yêu thích môn vật lý có thể tổ
chức theo định kỳ hàng tháng. Sử dụng hình thức này cần kết hợp với sự tổng
kết, khuyến khích, động viên sẽ có tác dụng khuyến khích nhiều học sinh tham
gia. Tổng kết, khuyến khích đối với những bài báo và lời giải hay sau mỗi số
báo. Sau các đợt thi đua ở nhà trường hoặc theo định kỳ từng học kỳ có thể kết
hợp và khen thưởng đối với những em có nhiều thành tích trong tham gia hình
thức này.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
Qua kết quả thực nghiệm sư phạm chúng tôi đã tiến hành đưa bài tập sáng
tạo vào dạy học ở trường THPT và tiến hành khảo sát, xử lý kết quả thực
nghiệm sư phạm cho thấy:
- Khi thực hiện việc giải các bài tập vật lý việc giáo viên định hướng để học sinh
phát huy tính tự lực khi tiến hành giải bài tập là hết sức quan trọng. Đây là hoạt
động đòi hỏi sự linh hoạt của giáo viên trong dạy học. Các định hướng của giáo
viên có thể thực hiện từ định hướng theo kiểu khái quát chương trình hoá, định
hướng tìm, định hướng algôrit.
- Đối với bài tập sáng tạo hệ thống các câu hỏi định hướng là hết sức quan trọng,
việc lựa chọn đúng bài tập, có hệ thống câu hỏi định hướng phù hợp và áp dụng
đúng với đối tượng học sinh sẽ có kết quả rõ rệt so với phương pháp dạy học
thông thường.

- Bài tập sáng tạo đã phát huy được kết quả thực sự trong quá trình dạy học, nó
phát huy được tính chủ động và sáng tạo trong việc phát triển tư duy vật lý của
học sinh.

18


- Việc đưa bài tập sáng tạo vào dạy học vật lý sẽ góp phần đẩy mạnh việc đối
mới về phương pháp giảng dạy hiện nay.
3.2. Kiến nghị.
+ Đối với công tác biên soạn sách giáo khoa, sách bài tập cần bổ sung thêm các
bài tập sáng tạo cho học sinh.
+ Đối với giáo viên cũng phải thay đổi nhận thức trong cách giảng dạy, không
nặng về lí thuyết mà phải có đồ dùng hay hình ảnh trực quan để hấp dẫn học
sinh học hơn . Giáo viên cần đầu tư thêm thời gian để tìm tòi, đầu tư công sức
sưu tầm tư liệu để xây dựng hệ thống bài tập sáng tạo cho có chiều sâu để phục
vụ cho công tác giảng dạy và tạo hứng thú cho học sinh.
+ Đối với nhà trường tạo điều kiện về tổ chức cũng như thời gian, cùng các
trang thiết bị cần thiết để giúp giáo viên và học sinh học tập tốt hơn. Đặc biệt
cần tổ chức thêm các hoạt động ngoại khoá về vật lí theo các chủ đề để gây
hứng thú cho học sinh.
Trong quá trình thực hiện sáng kiến kinh nghiệm này không tránh khỏi
những thiếu sót. Vì vậy tôi mong muốn được sự góp ý chân thành của các thầy
cô đồng nghiệp để sáng kiến kinh nghiệm của tôi hoàn thiện hơn.

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 20 tháng 5 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN do

mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.
Người thực hiện

Hoàng Thị Tuyến

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Những bài tập hay về thí nghiệm Vật lý. V. Langue NXBGD Hà Nội - 1998.
2. Tuyển tập các bài tập Vật lí nâng cao. Nguyễn Danh Bơ NXB Nghệ An
-2004.
3. Những bài toán nghịch lý và ngụy biện vui về Vật lý. M.E Tunchinxki
NXBGD Hà Nội - 1974.
4. Bài tập sáng tạo về vật lý ở trường trung học phổ thông (THPT). Phạm Thị
Phú - Nguyễn Đình ThướcTạp chí Giáo dục số 163- Kỳ 2, tháng 5- 2007.
5. Những BTST về vật lý THPT Nguyễn Đình Thước NXB Đại học quốc gia Hà
Nội tháng 4 năm 2010
6. Khơi dậy tiềm năng sáng tạo. Nguyễn Cảnh Toàn -Nguyễn Văn Lê - Châu An
NXBGD-2005.

20



×