Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Một số phương pháp phát triển hoạt động tự học và nhận thức độc lập sáng tạo, nhất là tư duy của học sinh trong dạy học địa lí, với chủ đề hoàng sa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (752.55 KB, 15 trang )

1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Những năm gần đây chúng ta thường nói nhiều đến việc dạy học nhằm
phát triển hoạt động nhận thức độc lập nhất tư duy học sinh. Đây là một tư
tưởng, một quan điểm, một cách tiếp cận mới về hoạt động dạy học. Quan điểm
này được hiểu là khi học Địa lí, quá trình nhận thức của học sinh đi từ tri giác tài
liệu đến tạo biểu tượng rồi phân tích, so sánh, đối chiếu... để tìm ra dấu hiệu bản
chất thì phải kích thích đuợc tư duy. Hay nói cách khác, trong hoạt động nhận
thức của học sinh tư duy có vai trò quan trọng. Bởi nếu không có tư duy, thì học
sinh không nhận thức bản chất của các, hiện tượng của Địa lí tự nhiên hoặc kinh
tế -xã hội. Mặt khác, do đặc trưng của việc nhận thức trong học Địa lí quá trình
nhận thức những điều đã diễn ra trong quá khứ để hiểu về hiện tại và chuẩn bị
cho đổi mới trong tương lai. Địa lí không thể không quan quan sát, không thể
không khắc phục. Dạy Địa lí cũng như dạy bất cứ môn học khác “đòi hỏi người
thầy phải khêu gợi cái thông minh chứ không phải là bắt buộc trí nhớ làm việc,
bắt nó ghi chép rồi trả lại”[4].
Hơn thế nữa, hiện nay do nhu cầu đổi mới phương pháp dạy học Địa lí
cần tích cực hóa hoạt động của người học chính là nói tới vấn đền tổ chức hoạt
động lĩnh hội sáng tạo của học sinh trên cơ sở tư duy độc lập. Trong dạy học Địa
lí ở trường trung học phổ thông hiện nay vì vậy để phát triển tư duy cho học
sinh, giáo viên kết hợp hai loại lĩnh hội tái tạo và lĩnh hội sáng tạo. Song đặc
biệt chú ý tới hoạt động lĩnh hội sáng tạo ở học sinh. Đúng như Lép Tôn – xtôi
đã viết “kiến thức chỉ thực sự trở thành kiến thức khi nó là thành quả của tư duy
chứ không phải trí nhớ”.
Quán triệt quan điểm trên, trong quá trình học tập Địa lí thì trong một giờ
học, để phát huy tính tích cực đặc biệt là tư duy của học sinh, đòi hỏi người giáo
viên phải kết hợp nhiều phương pháp, kỉ thuật dạy học để gây sự chú ý và hứng
thú cho học sinh. Môn Địa lí có vị trí hết sức quan trọng ngay đối với sự phát
triển của xã hội loài người, Địa lí cho ta thấy được sự thay đổi của tự nhiên, sự
phát triển của xã hội và những dấu ấn của lịch sử đề lại. Đặc biệt, trong bối cảnh
hiện nay khi đất nước ta đang đổi mới thì việc giảng Địa lí còn góp phần hình


thành ở học sinh thế giới quan khoa học, giáo dục lòng yêu quê hương, đất nước,
niềm tự hào dân tộc, tình đoàn kết quốc tế. Đồng thời học Địa lí còn bồi dưỡng
năng lực tư duy, hành động và thái độ ứng xử đúng đắn trong cuộc sống xã hội
trong thời kì đổi mới và những bằng chứng lịch sử hào hùng đã để lại.
Địa lí với những cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ, những cảnh quan của mẹ
thiên nhiên đem lại và những dấu ấn lịch sử thiêng liêng với hàng nghìn đảo lớn
nhỏ cuả biển đảo Việt Nam. Biển đảo nước ta có vị trí chiến lược hết sức quan
trọng,liên quan trực tiếp đến chủ quyền, toàn vện lãnh thổ, đến sự nghiệp xây
dựng và phát triển đất nước. Vùng biển nước ta chứa đựng nhiều giá trị kinh tế,
la trục giao thông đường biển quốc tế từ Thái Bình Dương sang Đại Tây Dương
chứa đựng tiềm năng kinh tế - du lịch biển to lớn. Nhìn từ góc độ an ninh quốc
phòng, biển đảo nước ta là không gian chiến lược quan trọng, là tuyến phòng thủ
1


nhiều tầng, nhiều lớp, là điểm tựa, những pháo đài tiền tiêu, là lá chắn vững chắc
từ hướng biển. Lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta cho thấy trong số 14 lần
kẻ thù tấn công xâm lược nước ta thì có 10 lần chúng bắt đầu từ hướng biển.
Nhớ lại lịch sử để chúng ta cảm nhận được câu thơ của nhà thơ Nguyễn Việt
Chiến: “Thương đất nước trên ba ngọn đảo/Suốt ngàn năm bóng giặc vẫn chập
chờn.” Với vị trí chiến lược quan trọng như vậy, việc bảo vệ và gìn giữ biển đảo
trở thành nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược bảo vệ Tổ Quốc ngàn năm yêu
dấu. [1]. Nằm trong chương trình Địa lí lớp 12 cơ bản. Đây là nội dung kiến
thức khó, nhiều sự kiện nhưng nếu tổ chức một cách hiệu quả sẽ tạo ra hứng thú
học tập, khơi dậy đam mê, phát huy tính tích cực, chủ động. Nó lại phục vụ thiết
thực cho các em, khơi dậy cho các em lòng yêu quê hương đất nước, niềm tự
hào về dân tộc ta.
Vì những lí do trên, tôi đã mạnh dạn nghiên cứu đề tài “Một số biện
pháp phát triển hoạt động tự học và nhận thức độc lập, sáng tạo nhất là tư
duy của học sinh trong dạy học Địa lí với chủ đề “Hoàng Sa, Trường Sa

những bằng chứng lịch sử và pháp lý ” lồng ghép mục 2 - Bài 42 địa lí 12 cơ
bản
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.2.1. Đối với giáo viên
Trên cơ sở lí luận phương pháp dạy học Địa lí, đề tài đi sâu vào đề xuất
một số biện pháp nhằm phát triển tính tích cực, độc lập trong nhận thức, đặc biệt
là trong tư duy học sinh trong hoạt động dạy học tự học với “Chủ đề Hoàng
Sa,Trường Sa những bằng chứng lịch sử và pháp lý” lồng ghép với bài 42:
Vấn đề phát triển kinh tế, an ninh quốc phòng ở Biển Đông và các đảo và quần
đảo, chương trình Địa lí lớp 12 ban Cơ bản.
1.2.2. Đối với học sinh
Vận dụng các con đường, biên pháp phát triển tính tích cực, độc lập trong
nhận thức, đặc biệt là tư duy giúp các em lĩnh hội sâu sắc và nhớ lâu kiến thức,
từ đó khơi gợi những xúc cảm lịch sử, kích thích hứng thú học tập và rèn luyện
ngôn ngữ cho các em.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Tìm hiểu những lí luận dạy học nói chung, dạy học Địa lí nói riêng để lí
giải rõ nội hàm khái niệm phát triển tính tích cực độc lập trong nhận thức đặc
biệt là trong tư duy của học sinh.
- Nghiên cứu chương trình sách giáo khoa Địa lí lớp 12 Bài 42 ở mục 2:
Các đảo và quần đảo có ý nhĩa chiến lược trong phát triển kinh tế và bảo
vệ an ninh vùng biển.
- Đề xuất một số biện pháp sư phạm nhằm phát huy phát triển tính tích cực
độc lập trong nhận thức đặc biệt là trong tư duy của học sinh trong dạy học
phần. Mục 2: Các đảo và quần đảo có ý nhĩa chiến lược trong phát triển
kinh tế và bảo vệ an ninh vùng biển bài 42 Địa lí 12 cơ bản.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Về lí thuyết:
2



+ Đề tài sử dụng nhiều phương pháp khác nhau, trong đó chủ yếu là những
phương pháp Địa lí, logic trên cơ sở nắm vững được vị trí chiến lược hết sức
quan trọng, liên quan trực tiếp đến độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, đến sự
nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Vùng biển nước ta chứa đựng nhiều giá
trị về kinh tế, là trục giao thông đường biển quốc tế từ Thái Bình Dương sang
Đại Tây Dương, chứa đựng tiềm năng kinh tế - du lịch biển to lớn
+ Phương pháp nghiên cứu tổng hợp để tiếp cận nghiên cứu, đi sâu vào
các vấn đề về lí luận dạy học nói chung, dạy học Địa lí nói riêng để lí giải rõ nội
hàm khái niệm phát triển tính tích cực độc lập trong nhận thức đặc biệt là trong
tư duy của học sinh .
+ Phương pháp so sánh để tìm ra những nét chung và những nét nổi trội
khi vận dụng các biện pháp nhằm phát triển tính tích cực độc lập trong nhận
thức đặc biệt là tư duy học sinh so với phương pháp truyền thống trước đây.
Đồng thời, sử dụng phương pháp này sẽ góp phần nhận diện đặc trưng cửa việc
đổi mới phương pháp dạy học Địa lí hiện nay.
- Về thực tiễn:
+ Dự giờ đồng nghiệp dạy cùng khối 12 chương trình ban cơ bản.
+ Thực nghiệm sư phạm: thực nghiệm đề tài vào giảng dạy tự học của học
sinh với nội dung Địa lí với “Chủ đề Trường Sa, Hoàng Sa những bằng
chứng lịch sử và pháp lý ” do bản thân trực tiếp đứng lớp ở trường Trung học
phổ thông Vĩnh Lộc.
+ Chọn hai lớp có năng lực tiếp thu bài tương đương nhau: một lớp có vận
dụng triệt để các biện pháp phát triển hoạt động nhận thức độc, sáng tạo nhất là
tư duy của học sinh trong giờ dạy, một lớp chỉ sử dụng chung chung, trong hệ
thống phương pháp dạy học nhằm kiểm chứng những biện pháp mà đề tài nêu ra
từ đó rút ra các kết luận khoa học và khẳng định tính khả thi của đề tài.
+ Sử dụng phương pháp toán học thống kê trên cơ sở so sánh các giá trị
thu được giữa lớp thực nghiệm và lớp đối chứng để đánh giá hiệu quả của những
biện pháp dạy học mà đề tài đưa ra.

2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận
Xuất phát từ quan điểm “dạy chữ để dạy người”, quan niệm đồng bộ, toàn
diện hiệu quả.Giờ học Địa lí đuợc xác định không chỉ hình thành kiến thức, mà
còn là kết quả của việc giáo dục và phát triển tư duy, kĩ năng, kĩ xảo, tính tích
cực học tập của học sinh. Để đạt đuợc điều này, một trong những biện pháp quan
trọng để nâng cao chất lượng dạy học là phải chú trọng đến vai trò của người
học, coi học sinh là chủ thể của quá trình dạy học.
Các nhà tâm lí học đã khẳng định: tư duy là một trong những năng lực
nhận thức của con người nói chung và học sinh nói riêng. Trong cuốn Tâm lí học
của tác giả Phạm Minh Hạc cũng cho rằng “Tư duy là quá trình nhận thức phản
ánh những thuộc tính bản chất, những mối quan hệ có tính quy luật của sự vật và
hiện tượng trong hiện thực khách quan mà ta chưa biết”[10]. Quá trình tư duy là
một hành động trí tuệ trong đó bao gồm các thao tác như phân tích, tổng hợp, so
3


sánh, trừu tượng hóa, khái quát hóa. Như vậy tính tích cực độc lập là phẩm chất
của hoạt động nhận thức hay nói cách khác muốn có tính độc lập phải tích cực
nhận thức. Điều này đuợc thể hiện việc tự giác, độc lập trong nhận thức và hành
động.
Vận dụng quan điểm trên, trong học tập Địa lí, quá trình nhận thức của
học sinh được bắt đầu bằng quan sát (tri giác) tài liệu, từ đó nhớ, hình dung lại
để hình thành những mối liên hệ tạm thời tương ứng (biểu tượng). Biểu tượng là
dấu ấn ghi lại trong ý thức các em những hình ảnh về sự kiện, hiện tượng đã
được lịch sử lưu lại. Song để hiểu sự kiện, hiện tượng quá khứ, phải tìm ra bản
chất của chúng, Muốn làm được việc này phải thông qua việc kích thích các thao
tác tư duy như: đối chiếu, so sánh, phân tích, tổng hợp...vạch ra dấu hiệu bản
chất. Như vậy, trong các hoạt động nhận thức Địa lí của học sinh (tri giác, nhớ,
hình dung, tưởng tượng, tư duy...) thì tư duy có vai trò quan trọng. Nếu không có

hoạt động của tư duy thì không thể nhận thức được bản chất của sự kiện, hiện
tượng lịch sử. Trên cơ sở hoạt động tư duy độc lập học sinh lĩnh hội kiến thức
một cách vững chắc, sâu sắc hay còn gọi là lĩnh hội sáng tạo. Điều này hoàn
toàn khác so với lĩnh hội tái tạo trên cơ sở nhớ lại những hiểu biết về kiến thức
có sẵn.[4]
Việc phát huy hoạt động nhận thức tích cực, tự học, độc lập đặc biệt là
trong tư duy có ý nghĩa quan trọng
Việc phát triển các hoạt động nhận thức tích cực, độc lập, đặc biệt là tư
duy độc lập của học sinh có ý nghĩa to lớn đối với việc nâng cao chất lượng dạy
học, giáo dục và phát triển toàn diện học sinh.
Trước hết, tích cực, độc lập trong nhận thức đặc biệt là trong tư duy sẽ
đảm bảo cho các em lĩnh hội sâu sắc và nhớ lâu kiến thức.
Thứ hai, phát triển tính tích cực, độc lập trong nhận thức, đặc biệt trong tư
duy là phương tiện tốt để hình thành kiến thức, khơi dậy những xúc cảm, ý thức,
kích thích hứng thú học tập, tạo cơ sở để giáo dục tư tưởng, tình cảm học sinh.
Thứ ba đây là phương thức tốt góp phần phát huy các năng lực nhận thức,
năng lực thực hành, kĩ năng, kĩ xảo của học sinh nói chung và rèn luyện các thao
tác cũng như chất lượng của tư duy nói riêng.
Cuối cùng việc phát triển tính tích cực độc lập nhận thức, đặc biệt là tư
duy còn góp phần phát triển hứng thú học tập và rèn luyện tính tự lập cho học
sinh. Bởi vì sự phong phú sinh động của nhiều nguồn kiến thức, kết hợp với việc
khôn khéo gợi mở, hướng dẫn của giáo viên sẽ lôi cuốn học sinh tham gia xây
dựng bài.[3]
2.2. Thực trạng vấn đề
Bộ môn Đại lí ở trường phổ thông với nhiệm vụ cung cấp một khối lượng
kiến thức tương đối phong phú về Đia lí tự nhiên, kinh tế- xã hội. Mặt khác
giảng dạy môn địa lí trong trường phổ thông hiện nay cũng còn gặp nhiều khó
khăn khi truyền tải thông tin vẫn con mang nặng lý thuyết chưa có nhiều thiết bị
hổ trợ và không có khả năng cho học sinh thăm quan để nhìn nhận vấn đề một
cách sâu rộng hơn.

4


Những năm gần đây, việc dạy học địa lí ở trường phổ thông đã có nhiều
tiến bộ về nhận thức, nội dung và phương pháp dạy học, đa số giáo viên đã có sự
say mê, tâm huyết với nghề, nhiều học sinh đã yêu thích môn địa lí . Nhưng nhìn
chung, bộ môn địa lí vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của sự đổi mới của nước ta
hiện nay.
- Học sinh học bài chủ yếu theo cách học thuộc lòng, học vẹt, học đổi
phó, học để thi. Khi giáo viên kiểm tra kiến thức cũ thì học sinh không nắm
được trong khi đó làm bài kiểm tra còn chưa có tinh thần tự giác, kiểm tra đối
phó để lấy điểm.Vẫn còn nhiều học sinh không thích học, không biết phân tích
bản đồ, nhận xét biểu đồ, bảng số liệu, tranh ảnh...Trong giờ học giáo viên đặt
câu hỏi phát vấn học thường rất ít em phát biểu, các em nhìn hiện tượng, sự vật
các vấn đề xung quanh mình một cách thực sự mơ hồ
- Giáo viên giữ vai trò độc quyền trong đánh giá, do đó người học ít có cơ
hội phát triển, thể hiện năng lực sáng tạo của mình.
Ngoài những nguyên nhân nêu trên, theo bản thân tôi còn có yếu tố từ tâm
lí phụ huynh và học sinh. Đó là lâu nay vẫn quan niệm môn Địa lí là môn phụ,
không quan trọng. Do đó mục đích của các em có học chỉ đối phó với giáo viên
và qua các giờ kiểm tra, còn phụ huynh chỉ mong con học cốt sao cho qua tốt
nghiệp. Từ thực tiễn trên cho thấy một điều việc học sinh không thích học địa lí,
chưa tích cực trong hoạt động học tập ngoài yếu tố khách quan như xu hướng
nghề nghiệp, tâm lí xã hội... thì nguyên nhân chính xuất phát từ phương pháp
dạy học của giáo viên. Thiết nghĩ để giải quyết bài toán học sinh quay lưng với
Địa lí, ngại học Địa lí đòi hỏi giáo viên phải đổi mới phương pháp dạy học trong
đó cần chú ý hơn nữa đến cần phải đổi mới phương pháp dạy học chuyển từ “lấy
giáo viên làm trung tâm” sang dạy học theo hướng “lấy học sinh làm trung
tâm”[2] giúp học sinh phát huy tính tích cực, chủ động đặc biệt là tư duy học
sinh

2.3. Một số biện pháp phát triển hoạt động nhận thức độc lập, sáng tạo
nhất là tư duy của học sinh trong dạy học Địa lí với chủ đề Trường Sa,
Hoàng Sa những bằng chứng lịch sử và pháp lý ” lồng ghép với bài 42 : mục
2: Các đảo và quần đảo có ý nhĩa chiến lược trong phát triển kinh tế và bảo
vệ an ninh vùng biển.
2.3.1. Trao đổi, đàm thoại
Trao đổi, đàm thoại là công việc trong đó giáo viên nêu câu hỏi để học
sinh trả lời. Đồng thời các em có thể trao đổi với nhau dưới sự chỉ đạo của giáo
viên. Qua đó đạt được mục đích dạy học [7].
Trong dạy học địa lí có thể vận dụng nhiều dạng trao đổi, đàm thoại căn
cứ vào nội dung của từng bài học cụ thể như .Trao đổi tái hiện nhằm gợi lại kiến
thức cũ để tiếp thu kiến thức mới. Trao đổi đàm thoại phân tích, khái quát hóa
nhằm hướng học sinh tìm ra bản chất của sự việc.
Theo bản thân tôi để hình thành kiến thức trên cơ sở hoạt động tư duy tích
cực, độc lập của học sinh thì việc trao đổi, đàm thoại rất có ưu thế. Qua hoạt
động này rèn luyện cho các em những phẩm chất cần thiết của hoạt động nhận
5


thức như tính tích cực, độc lập, sáng tạo, óc phê phán, đặc biệt tính kiên nhẫn
trong học tập. Hơn nữa trao đổi đàm thoại còn có tác dụng tạo không khí lớp học
sôi động, cuốn hút, hứng thú của học sinh từ đó việc lĩnh hội kiến thức cũng dễ
dàng và sâu sắc hơn.
Khi dạy mục 2: Các đảo và quần đảo có ý nhĩa chiến lược trong phát
triển kinh tế và bảo vệ an ninh vùng biển.
Tiếp đó giáo viên yêu cầu học sinh đọc sách giáo khoa trang 191 và bản
đồ, xem video, tranh ảnh về vùng biển cũng như các đảo và quần đảo để làm nổi
bật lên được vai trò và ý nghĩa của các đảo và quần đảo trong chiến lược phất
triển kinh tế và bảo vệ an ninh vùng biển.


Biển đảo là một hệ thống tiền tiêu để bảo vệ đất liền, hề thống căn cứ để
giúp chúng ta tiến ra biển và đại dương, khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên
biển đảo. Là cơ sở để khảng định chủ quyền của nước ta đối với vùng biển và
thềm lục địa quanh đảo.[9].
Ngoài ra chúng ta cũng khải khảng định rằng chúng ta phát triển tổng hợp
kinh tế biển bởi tiềm năng của biển chúng ta vô cung phong phú, phát triển kinh
tế vùng biển chúng ta giàu lên từ biển và mạnh lên cũng từ biển.

Như vậy muốn lôi cuốn các em vào bài giảng của giáo viên và trả lời
được những câu hỏi của giáo viên đưa ra, học sinh phải chăm chú nghe giảng,
nghiên cứu sách giáo khoa, độc lập suy nghĩ và đặt trong bối cảnh của vấn đề để
nhận xét.
6


Với việc cung cấp những thông tin ở mục 2: Các đảo và quần đảo có ý
nghĩa chiến lược trong phát triển kinh tế và bảo vệ an ninh vùng biển. Giáo
viên lồng ghép chủ đề “Trường Sa, Hoàng Sa những bằng chứng lịch sử và
pháp lý” để giảng dạy bằng phương pháp dạy học nêu vấn đề và phương
pháp nghiên cứu học tập.
2.3.2.Dạy học nêu vấn đề
Dạy học nêu vấn đề không phải là một phương pháp dạy học cụ thể mà là
nguyên tắc chỉ đạo việc tiến hành nhiều phương pháp dạy học. Nó được vận
dụng trong tất cả các khâu của giờ học và là mọi kiểu dạy học. Trong giờ học
theo dạy học nêu vấn đề có ý nghĩa đặc biệt đối với việc hình thành kiến thức
trên cơ sở hoạt động tư duy độc lập của học sinh. Dạy học nêu vấn đề khác hẳn
với cách giảng dạy nhồi nhét, học sinh chỉ biết nghe, ghi, nhớ, mà lười suy nghĩ,
lười tư duy [7].
Cũng như các dạng trình bày khác như thông báo, tường thuật, miêu tả...
trình bày nêu vấn đề phải dựa trên tính khoa học. Ngoài ra nó còn có thêm các

thành tố như khơi gợi, quyết định hoạt động tư duy độc lập của học sinh. Cần
lưu ý rằng khi trình bày nêu vấn đề giáo viên cần đặt học sinh trước tình huống
cần giải quyết một vấn đề mới chưa biết. Từ đó học sinh trên cơ sở kiến thức,
trình bày giáo viên, kĩ năng, kĩ xảo tự tìm ra bản chất sự kiện, hiện tượng, độc
lập rút ra các kết luận cần thiết. Với chủ đề “Hoàng Sa, Trường Sa những
bằng chứng lịch sử và pháp lý ” để giảng dạy bằng phương pháp dạy học
nêu vấn đề và phương pháp nghiên cứu học tập giáo viên phải đưa ra cho học
sinh những bằng chứng cụ thể và sát thực để khảng định cho học sinh thấy được
Hoàng Sa và Trường Sa là một phần máu thịt không tách rời. “Trường Sa, Hoàng
Sa của Việt Nam – Những bằng chứng lịch sử và pháp lý quan trọng, lồng ghép
giảng dạy nhằm góp phần nâng cao nhận thức, tinh thần đoàn kết, ý thức trách
nhiệm của học sinh, đặc biệt là tầng lớp thanh niên trong việc bảo vệ và khẳng
định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa
thông qua các tư liệu lịch sử được công bố.
Bằng những bằng chứng cụ thể, đã chứng minh được từ thời xa xưa chủ
quyền của quần đảo “Hoàng Sa, Trường Sa” là của Việt Nam không một quốc
gia nào có quyền xâm phạm.
Đây là những bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền của
Việt Nam đối với hai Quần đảo Trường Sa Hoàng Sa
Giáo viên cũng khảng định cho học sinh thấy được trong suốt 22 thế kỷ, từ các
đời Tần Thủy Hoàng, Hán Vũ Đế, Tống Thần Công, Minh Thành Tổ đến giữa
thế kỷ XX (1951) “ Hoàng Sa và Trường Sa” đã chưa bao giờ cho thấy chủ
quyền củaTrung Quốc đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (mà họ gọi
là Tây Sa và Nam Sa) trên Biển Đông của Việt Nam (mà họ gọi là Biển Hoa
Nam), họ không đưa ra được cơ sở pháp lý hay một bằng chứng lịch sử nào
đáng tin cậy cho thấy họ có chủ quyền hợp pháp trên các quần đảo này. Ngoài ra
còn có một số tư liệu, ấn phẩm do các nước phương Tây biên soạn, xuất bản từ
7



thế kỷ XVIII đến thế kỷ XIX liên quan đến chủ quyền của Việt Nam đối với hai
quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Bên cạnh đó là bộ sưu tập gồm 65 bản đồ
chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa và quần đảo
Hoàng Sa, do Việt Nam, phương Tây công bố từ thế kỷ XVII đến nay. ”[6].
Một số bản tư liệu quý giá khẳng định Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam.
Bản đồ Đông Dương với Hoàn Sa và Trường Sa có gió bảo từ Biển Đông hồi
tháng 11trung bình của các năm 1911-1929
Đại nam thực lục chính biên (đệ nhị kỷ, quyển 165, tờ 24,25) chép việc vua
Minh Mạng sai thủy quân suất đội Phạm Hữu Nhật đem binh thuyền đi khảo sát,
cắm mốc chủ quyền ở Hoàng Sa năm 1836.

Đại Nam Nhất thống toàn đồ do vua Minh Mạng cho vẽ vào năm 1838 có thể
hiện 2 địa danh Hoàng Sa và Vạn lý Trường Sa bằng chữ Hán.
Trong lịch sử, Việt Nam đã phải trãi qua nhiều cuộc chiến tranh chống
ngoại xâm. Phần lớn thư tịch cổ quốc gia trong các giai đoạn đó bị xâm lược tiêu
hủy với mục tiêu xóa sach văn hóa Việt để dễ đồng hóa. Tuy nhiên chỉ với
những tài liệu chính sử còn lại đến ngày nay cũng để chứng minh người Việt
Nam đã có chủ quyền lịch sử từ rất lâu đời trên hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa hoàn toàn phù hợp với tập quán cũng như luật pháp quốc tế về việc
xác lập và khẳng định chủ quyền lãnh thổ. [11]
Quần đảo Hoàng sa và quần đảo Trường Sa của Việt Nam gồm nhiều đảo
đá san hô rất nhỏ ở giữa Biển Đông. Hiện nay hai quần đảo là tâm điểm tranh
chấp phức tạp giữa một số nước ven Biển Đông. Về việc giải quyết tranh chấp
chủ quyền đối với lãnh thổ, pháp luật quốc tế đã hình thành nguyên tắc xác lập
chủ quyền là nguyên tắc chiếm hữu thật sự là thực hiện quyền lực Nhà nước một
8


cách thật sự, liên tục và hòa bình. Nguyên tắc này đã được các nước và các cơ
quan tài phán quốc tế áp dụng để giải quyết nhiều vụ tranh chất về chủ quyền

lãnh thổ trên thế giới.
Áp dụng nguyên tắc nói trên của pháp luật quốc tế vào trường hợp hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, các bằng chứng chứng lịch sử và pháp lý đều
cho thấy rằng Nhà nước Việt Nam đã chiếm hữu thật sự hai quần đảo này hàng
trăm năm qua. Nói chính xác nhà nước Việt Nam trong lịch sử cho đế ngày nay
thực thi chủ quyền ở đây ít ra từ thế kỷ XVII khi hai quần đảo chưa hề thuộc chủ
quyền của bất cứ nước nào. Từ đó Việt Nam đã thực hiện việc xác lập và thực
thi chủ quyền với hai quần đảo Hoàng Sa và Hoang Sa một cách liên tục và hoàn
bình.[5]
Từ những hình ảnh giáo viên đưa ra và các ý kiến khác nhau để học sinh
tự phân tích, đánh giá, nhìn nhận vấn đề một cách tổng quát và đúng nhất .
Giáo viên cũng có thể đặt câu hỏi sau đó giao nhiệm vụ cho các em để
các em trả lời với sự hướng dẫn của giáo viên.
+ Bằng những bằng chứng về tài liệu cô đưa ra các em có nhận xét gì về
Trung Quốc cho hai quân đảo là của họ?
+ Các em có vai trò gì trong việc bảo vệ chủ quyền của hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa?
Để trả lời câu hỏi này học sinh bắt buộc phải suy nghĩ, theo dõi sách giáo
khoa, phân tích rút ra ý kiến đúng.
Thứ nhất, từ những bằng chứng lịch sử để lại chúng ta khảng định lại một
lần nữa “ Trường Sa, Hoàng Sa” là một phần máu thịt của Việt Nam không thể
chia cắt, không đất nước nào có quyền xâm phạm.
Thứ hai, là một học sinh trung học phổ thông các em cần học tập thật tốt
đề tuyên truyền cho nhân dân, bạn bè quốc tế thấy rằng “ Trường Sa, Hoàng Sa”
là của đất nước Việt Nam, với lời lẽ đày sức thuyết phục và những bằng chứng
pháp lý không thể chối cãi.Tuy nhiên khi lồng ghép chủ đề “Trường Sa, Hoàng
Sa những bằng chứng lịch sử và pháp lý ” cần đảm bảo yêu cầu sau:
Thứ nhất, bài tập hải tập trung vào nội dung cơ bản của bài, của chương
hay cả khóa trình Địa lí là những điều học sinh chưa biết, cần giải quyết trong
giờ học đó và đòi hỏi các em phải tích cực, độc lập làm việc.

Thứ hai, bài tập giáo viên đưa ra phải thể hiện sự khó vừa đủ và tính vừa
sức đối với học sinh.
Thứ ba, bài tập thể hiện mối tương quan và hiệu quả của nó đối với các
khâu của quá trình dạy học.
Thứ tư, bài tập phải đa dạng, phải lôi cuốn, hấp dẫn làm cho học sinh
hứng thú giải quyết vấn đề.
2.3.3. Phương pháp nghiên cứu học tập
Trong quá trình dạy học, giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh làm quen
với phương pháp nghiên cứu Địa lí bằng cách đưa ra cho các em tìm hiểu những
vấn đề đã đuợc giải quyết thậm chí chưa đuợc giải quyết. Từ đó các em thấy
đuợc mối liên hệ giữa bằng chứng lịch sử để lại cho dân tộc với những thành
9


quả mà ông cha ta để lại cho các thế hệ mai sau, chúng ta phải gìn giữ, lưu
truyền, bên cạnh đó chúng ta giáo dục tình yêu quê hương, đất nước cho các thế
hệ mai sau. Tuy nhiên khi sử dụng biện pháp này phải đảm bảo tính vừa sức đối
với học sinh.
2.3.4 Minh chứng cụ thể bằng một phần của giáo án lồng ghép chủ đề
“ Hoàng Sa, Trường Sa những bằng chứng lịch sử và pháp lý ” ở mục 2:
Các đảo và quần đảo có ý nghĩa chiến lược trong phát triển kinh tế và bảo vệ
an ninh vùng biển.
Tiết 47 - Bài 42: VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ, AN NINH QUỐC
PHÒNG Ở BIỂN ĐÔNG VÀ CÁC ĐẢO, QUẦN ĐẢO.
I. MỤC TIÊU BÀI HỌC
Sau bài học, HS cần
1. Kiến thức
- Đánh giá được tổng quan về các nguồn lợi biển đảo của nước ta.
- Hiểu được vai trò của hệ thống đảo trong chiến lược phát triển kinh tế biển và
bảo vệ chủ quyền vùng biển, thềm lục địa, vùng đặc quyền kinh tế của nước ta.

- Trình bày được các vấn đề chủ yếu trong khai thác tổng hợp các tài nguyên
vùng biển và hải đảo.
2.Kĩ năng
-Xác định được trên bản đồ sự phân bố các nguồn lợi biển chủ yếu
- Xác định được trên bản đồ các đảo quan trọng, các huyện đảo của nước ta.
3.Thái độ
- Ý thức được sự cần thiết phải bảo vệ chủ quyền, môi trường biển, đảo.
4. Định hướng hình thành năng lực - tư duy, so sánh, tổng hợp tài liệu...
II. CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH
1. Chuần bị của giáo viên: Thiết bị dạy học và máy chiếu.
- Bản đồ địa lí tự nhiên Việt Nam; Lược đồ các vùng kinh tế giáp biển.
- Bản đồ kinh tế Việt Nam; Tranh ảnh, phim, tư liệu về biển và đảo Việt Nam.
2. Chuần bị của học sinh : Sưu tầm tài liệu.
III. HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP
A. Tình huống xuất phát
1. Mục tiêu: Biết vai trò của biển Đông và vấn đề phát triển tổng hợp kinh tế
biển, đảo và quần đảo.
2. Phương thức: Làm việc cá nhân.
3. Hoạt động:
- Bước 1: Giáo viên giao nhiệm vụ: Biển Đông có vai trò gì trong phát triển kinh
tế và an ninh, quốc phòng?
- Bước 2: Học sinh thực hiện nhiệm vụ cá nhân. Giáo viên quan sát.
- Bước 3: Trao đổi thảo luận: Giáo viên gọi học sinh trả lời nhanh kết quả làm
việc lên bảng. Học sinh khác bổ sung. Trên cơ sở thảo luận và bổ sung của học
sinh, giáo viên dẫn dắt vào nội dung của bài mới.
- Bước 4: GV đánh giá quá trình thực hiện và đánh giá kết quả cuối cùng của
học sinh.
10



B. Hình thành kiến thức mới
*Hoạt động 2:
a. Các đảo và quần đảo có ý nghĩa chiến lược trong phát triển kinh tế và bảo vệ
an ninh vùng biển .
Thời gian: 4 phút
1. Mục tiêu:- Học sinh biết nước ta có nhiều đảo, quần đảo và ý nghĩa của nó
trong phát triển kinh tế và bảo vệ an ninh vùng biển.
2. Phương thức: cá nhân.
3. Hoạt động:
- Bước 1: Giao nhiệm vụ: Xác định các đảo và quần đảo sau đây: đảo Cái Bầu,
quần đảo Cô Tô, đảo Cát Bà, đảo Bạch Long Vĩ, đảo Hòn Mê, Hòn Mắt, Cồn
Cỏ, Lí Sơn, Phú Quý, Côn Đảo, Phú Quốc, Hòn Khoai, quần đảo Nam Du,
Trường Sa, Hoàng Sa trên bản đồ. [9]

Bản đồ Địa lí tự nhiên.
+ Nêu ý nghĩa của các đảo và quần đảo nước ta trong chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội và an ninh quốc phòng.
- Bước 2: Học sinh thực hiện nhiệm vụ cá nhân. Giáo viên quan sát.
- Bước 3: Trao đổi thảo luận: Giáo viên gọi học sinh trả lời nhanh kết quả làm
việc. Học sinh khác bổ sung. Trên cơ sở thảo luận và bổ sung của học sinh, giáo
viên chốt kiến thức:
* Chốt kiến thức.
2.Các đảo và quần đảo có ý nghĩa chiến lược trong phát triển kinh tế và bảo
vệ an ninh vùng biển:
- Thuộc vùng biển nước ta có khoảng 3000 hòn đảo lớn nhỏ và 12 huyện đảo
- Ý nghĩa của các đảo, quần đảo trong chiến lược phát triển KT-XH và an ninh
quốc phòng
+ Phát triển ngành đánh bắt và nuôi trồng hải sản; ngành công nghiệp chế biến
11



hải sản, giao thông vận tải biển, du lịch. Giải quyết việc làm, nâng cao đời sống
cho nhân dân các huyện đảo.
+ Khẳng định chủ quyền các đảo đó thuộc chủ quyền huyện đảo nào của nước ta
- Bước 4: Giáo viên đánh giá quá trình thực hiện và đánh giá kết quả cuối cùng
của học sinh.
b.Lồng ghép chủ đề “Trường Sa, Hoàng Sa những bằng chứng lịch sử và pháp
lý ”
Thời gian: 5 phút
1. Mục tiêu: Học sinh biết “Trường Sa, Hoàng Sa những bằng chứng lịch sử và
pháp lý ”
2. Phương thức: cá nhân.
3. Hoạt động:
- Bước 1: Giáo viên cho học sinh xem một số bằng chứng lịch sử khảng định
quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa là của Việt Nam và giao nhiệm vụ cho học
sinh bằng sự hiểu biết của mình hãy kể tên một số bài hát hoặc bài thơ về hai
quần đảo Trường Sa – Hoàng Sa và nêu ý nghĩa lịch.
- Bước 2: Học sinh thực hiện nhiệm vụ cá nhân. Giáo viên quan sát.
- Bước 3: Trao đổi thảo luận: Giáo viên gọi học sinh trả lời nhanh kết quả làm
việc. Học sinh khác bổ sung. Trên cơ sở thảo luận và bổ sung của học sinh, giáo
viên chốt kiến thức.
Thư Cổ Tịch Việt Nam: Tư liệu 19 và 20
Văn bản hành chính, hình ảnh thời kỳ thuộc Pháp và Việt Nam Cộng Hòa;
Không gian Bản Đồ Việt Nam, Trung Quốc, Phương Tây.
Bản đồ Việt Nam đầu thế kỷ XIX đường biên giới Trung Quốc và Việt Nam
được phân định rõ ràng.
Bước 4:Giáo viên đánh giá quá trình thực hiện và đánh giá kết quả cuối cùng của
học sinh..
Trong lịch sử, Việt Nam đã phải trải qua nhiều cuộc chiến tranh chống
ngoại xâm. Phần lớn thư tịch cổ quốc gia trong các giai đoạn đó đã bị quân xâm

lược tiêu hủy với mục tiêu xóa sạch văn hóa Việt để dễ bề đồng hóa. Tuy nhiên,
chỉ với những tài liệu chính sử còn lại đến nay cũng đủ để chứng minh người
Việt Nam đã có chủ quyền lịch sử từ rất lâu đời trên hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa, hoàn toàn phù hợp với tập quán cũng như luật pháp quốc tế về việc
xác lập và khẳng định chủ quyền lãnh thổ “Cơ sở pháp lý khẳng định chủ quyền
Trường Sa và Hoàng Sa” của Việt Nam .[5] và như lời bài hát: Nơi Đảo Xa của
Nhạc sĩ Thế Song: Ca từ giản dị, nhưng đằng sau đó là cả một tình cảm da diết,
mãnh liệt: “Nơi anh đến là biển xa, nơi anh tới ngoài đảo xa/Từ mảnh đất quê ta
giữa đại dương mang tình thương quê nhà/Đây Trường Sa, kia Hoàng Sa/Ngàn
bão tố phong ba, ta vượt qua, gần quá/Lướt sóng con tầu mang tín hiệu trong
đất liền/Mắt em nhìn theo con tầu đi xa mãi ”. Còn đối với nhạc sĩ: Hồng Đăng,
12


Nhắm mắt rồi chậm rãi rắng nghe Biển hát chiều nay, thật kỳ lạ khi hình ảnh
biển đảo đẹp đẽ, bình yên, chan hòa lại dần hiện ra trước mắt với “Chân trời rất
xanh gọi nắng xôn xao/Con thuyền rất vui, và gió hát ngọt ngào/Môi cười rất
xinh lung linh màu áo/Mây trắng gợn lên những cánh chim hải âu ”. “Ơi biến
Việt Nam, ơi sóng Việt Nam!/Qua bao nhiêu thăng trầm mà chiều nay vẫn dịu
dàng/Vùi sâu dưới đáy những gì đau thương/Biển lại hát tình ca biển kể chuyện
quê hương”.Vẫn còn mãi vang vọng với thời gian.[8]
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục.
Với việc sử dụng một số biện pháp nhằm phát triển các hoạt động nhận
thức độc lập, tư duy, tự học, tự tìm hiểu tại trường trường trung học phổ thông
Vĩnh Lộc, đã đạt được một số kết quả như sau:
Đối với chất lượng giảng dạy và giáo dục học sinh.
+ Học sinh hứng thú hơn trong mỗi giờ học, không khí của lớp học sôi
nổi, thoải mái. Các em không còn mơ hồ và khó hiểu, khó hình dung về những
trang bản đồ thể hiện qua nhiều thế kỷ về ranh giới trên biển Việt Nam, các em
ham học hỏi và có phần rất thích thú với những tiết dạy Địa lí.

+ Học sinh chủ động, tích cực, tự giác trong quá trình lĩnh hội kiến thức, các em
đã biết chủ động khai thác kiến thức trong sách giáo khoa, vận dụng những kiến thức đã
học vào thực tế để giải quyết những câu hỏi, bài tập mà giáo viên đưa ra.
+ Học sinh đã biết liên kết các sự kiện lịch sử, xâu chuỗi những kiến thức
theo các chuyên đề, chuyên mục, khái quát, tổng hợp kiến thức, đối chiếu so
sánh để rút ra bản chất của sự việc. Các em không chỉ hiểu, biết được bằng
chứng lịch sử để lại trong quá trình hình thành và phát triển lãnh thổ, những cơ
sở và pháp lý khảng định chủ quyền biển đảo của chúng ta mà các em còn vận
dụng kiến thức đã học vào cuộc sống.
+ Làm thay đổi cơ bản quan niệm và cách học của học sinh trước đây là
chỉ lệ thuộc vào sự truyền giảng kiến thức của giáo viên sang phương pháp học
mới lấy người học làm trung tâm. Qua đó, phát huy được tư duy độc lập, khả
năng quan sát, óc sáng tạo cũng như hình thành cho học sinh những kĩ năng, kĩ
xảo đặc thù cần thiết khi học bộ môn học .
Đối với bản thân và đồng nghiệp.
+ Bản thân thông qua việc tìm hiểu đã nắm vững lí luận dạy học, từ đó
triển khai các biện pháp phát triển các hoạt động nhận thức độc lập, sáng tạo
nhất là tư duy học sinh vận dụng có hiệu quả vào thực tiễn giảng dạy ở trường
trung học phổ thông Vĩnh Lộc.
+ Trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm thông qua thực tiễn giảng dạy ở đơn vị
cho đồng nghiệp, đúc rút nhiều kinh nghiệm nhằm nâng cao hiệu quả và vị thế
môn Địa lí ở trường phổ thông.
+ Xây dựng nhiều chủ đề có thể lồng ghép nhằm nâng cao nhận thức cho
học sinh, củng cố kiến thức và xây dựng cho các em một cách nhìn khái quát và
tổng hợp về những cái của chúng ta đang có, đã có và những bằng chứng lịch
sưt vẫn mãi theo thời gian.
Đối với Nhà trường.
13



Thông qua việc vận dụng các biện pháp sư phạm nhằm phát triển hoạt
động nhận thức độc lập sáng tạo nhất là tư duy góp phần thực hiện đổi mới
phương pháp dạy học, chuyển từ dạy học lấy giáo viên làm làm trung tâm sang
dạy học theo quan điểm “lấy học sinh làm trung tâm”.
Kết quả môn học Địa lí của hai lớp học sinh khối 12 trong học kì II khi tôi
thực hiện đã đạt được kết quả khả quan sau:
Qua việc áp dụng kinh nghiệm của tôi vào thực tế tôi đã thu được kết quả
như sau.
Khối Lớp
Sĩ số Giỏi
Khá
Trung Bình
Yếu

12

SL

%

SL

%

SL

%

SL


%

12A1

47

7

16,6

35

74,4

5

9

0

0

12A2

48

6

12,5


32

66,6

8

16,6

2

4,3

Khả năng ứng dụng và triển khai của sáng kiến.
Tôi nhận thấy rằng khi áp dụng việc lồng ghép chủ đề “Trường Sa,
Hoàng Sa những bằng chứng lịch sử và pháp lý” ở mục 2: Các đảo và quần
đảo có ý nghĩa chiến lược trong phát triển kinh tế và bảo vệ an ninh vùng biển
vào trong giảng dạy, đã góp phần đồi mới được phương pháp dạy học một cách
sinh động và truyền tải được cho học sinh tiết dạy mang lại hiệu quả thiết thực,
gây hứng thú cho học sinh, học sinh nắm bắt thông tin bài dạy một cách dễ dàng
hơn, không còn có học sinh ngồi trong lớp gục mặt xuống bàn, hay học sinh lôi
các môn học khác ra học … là con đường ngắn nhất để học sinh có thể tiếp thu
và lĩnh hội kiến thức từ đơn giản đến phức tạp.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
Bộ môn Địa lí ở trường phổ thông có vị trí, chức năng và nhiệm vụ quan
trọng trong việc đào tạo và giáo dục thế hệ trẻ. Nhưng hiện nay học sinh lại chưa
chú trọng học môn này. Thực trạng đó do còn có nhiều nguyên nhân gây nên.
Ví dụ trong quá trình giảng dạy nhiều giáo viên môn địa lí không chú
trọng đến đổi mới phương pháp giảng dạy, không đầu tư nhiều cho tiết dạy của
mình, thầy lên lớp chỉ chú trọng làm sao chỉ đề truyền tải hết kiến thức trong

sách là được đôi khi thầy còn độc thoại một mình “ Thầy đọc, trò chép” không
có tính đổi mới và sáng tạo bên cạnh đó tâm lí học sinh ngại học thuộc lòng,
ngại chép bài... Từ đó có thể thấy việc xây dựng và phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo cho học sinh qua những giờ học Địa lí rõ ràng là một nhiệm vụ
hết sức quan trọng của người giáo viên dạy môn Địa lí. Như vậy ta có thể thấy
được tầm quan trọng của hoạt động nhận thức tích cực, độc lập đặc biệt là trong
tư duy có ý nghĩa quan trọng đối với việc nâng cao hiệu quả giảng dạy, giáo dục
và phát triển toàn diện học sinh.
Để giúp học sinh phát huy hoạt động nhận thức độc lập, sáng tạo trong
quá trình học tập môn Đại lí ở trường trung học phổ thông đòi hỏi giáo viên phải
14


sử dụng nhiều biện pháp sư phạm. Tuy nhiên trong dạy học Địa lí không có biện
pháp nào là vạn năng để phát huy tối đa tính tích cực, chủ động trong quá trình
học tập của các em. Việc sử dụng các biện pháp sư phạm nói trên chỉ thực sự
đem lại hiệu quả giáo dục khi được giáo viên sử dụng một cách linh hoạt, mềm
dẻo, tuỳ mục đích của bài và khả năng nhận thức của các em.
Sau một thời gian vận dụng sáng kiến kinh nghiệm này vào giảng dạy, bản
thân tôi đã nhận thấy rằng những kinh nghiệm này rất phù hợp với chương trình
sách giáo khoa và với những tiết dạy học theo hướng đổi mới. Học sinh có hứng
thú học tập hơn, tích cực chủ động sáng tạo để mở rộng vốn hiểu biết, đồng thời
cũng rất linh hoạt trong việc thực hiện nhiệm vụ lĩnh hội kiến thức và phát triển
kĩ năng. Không khí học tập sôi nổi, nhẹ nhàng và học sinh yêu thích môn học
hơn.
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của tôi trong quá trình giảng dạy môn
Địa lí ở trường trung học phổ thông. Trong quá trình làm đề tài hiểu chắc chắn
không tránh những sai sót, rất mong được sự góp ý chân thành của các đồng
nghiệp.
3.2. Kiến nghị.

* Đối với Nhà trường.
Nên có sự đầu tư khuyến khích giáo viên đổi mới phương pháp dạy học
dưới nhiều hình thức khác nhau.
* Đối với giáo viên.
Phải thường xuyên tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao năng lực chuyên môn,
nghiệp vụ sư phạm, đổi mới phương pháp dạy học. Hạn chế tối đa phương pháp dạy
học truyền thống lấy giáo viên làm trung tâm.
Phải luôn tìm tòi, sáng tạo để từng bước cải tiến phương pháp dạy học cho
phù hợp với từng tiết học, bài học với những đối tượng học sinh khác nhau.
XÁC NHẬN CỦA THỦ
Thanh Hóa, ngày 18 tháng 5 năm 2018
TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
(Ký và ghi rõ họ tên)

Nguyễn Thị Tuyên

15



×