Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

luận án nghiên cứu xây dựng và sử dụng thí nghiệm theo hướng tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh trong dạy học vật lý ở trường trung học cơ sở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (563.46 KB, 67 trang )

-1-

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chúng ta đang sống trong những năm đầu của thế kỷ XXI, thế kỷ mà
tri thức con người được coi là yếu tố quyết định đến sự phát triển của xã hội.
Để đáp ứng sự phát triển ngày càng cao của xã hội, nền giáo dục nước nhà
phải có một sự đổi mới mạnh mẽ về PPDH theo hướng tích cực hóa hoạt động
nhận thức của HS, nâng cao hơn nữa chất lượng thông tin.
Thực trạng giáo dục ở nước ta qua nghiên cứu cho thấy việc giảng dạy
kiến thức khoa học cho HS nói chung và kiến thức vật lý nói riêng vẫn chưa
coi trọng khai thác phương tiện, thí nghiệm trong các giờ học. GV vẫn còn
thiết tha duy trì các PPDH truyền thống, nặng về truyền thụ kiến thức bài
giảng, ít chú ý rèn luyện cách học, cách suy nghĩ cho HS. Thực tế dạy học
như vậy đòi hỏi phải có những thay đổi có tính chiến lược và toàn cục về
PPDH bộ môn ở trường THCS. Vấn đề này đã được chỉ rõ trong Nghị quyết
Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
khóa VIII: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục và đào tạo, khắc phục
lối truyền thụ một chiều, rèn luyện nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng
bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào trong
quá trình dạy học, bảo đảm điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho
học sinh..." [13].
Điều 28 Luật Giáo Dục qui định: "Phương pháp giáo dục phổ thông
phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù
hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học,
khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực
tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh".
[50]. Đổi mới PPDH theo hướng tích cực hóa hoạt động nhận thức của HS là


-2biện pháp tối ưu nhằm nâng cao chất lượng đào tạo của ngành giáo dục trong


giai đoạn hiện nay.
Trong những năm qua, ngành Giáo dục nước ta đã có những biện pháp
cụ thể trong việc nâng cao chất lượng dạy học ở trường THCS. Các cấp quản
lý giáo dục đã không ngừng đổi mới nội dung, chương trình, SGK, STK và
tập trung nhiều nhất cho việc đổi mới PPDH ở các cấp học, bậc học. Nội dung
chương trình, SGK đã có chú ý đến việc tổ chức các hoạt động của HS trong
giờ học, nhưng chưa vận dụng một cách hiệu quả quan điểm dạy học hiện đại
về việc tổ chức hoạt động nhận thức theo hướng phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của HS.
Vật lý học là một khoa học thực nghiệm, tuy nhiên hai hoạt động sáng
tạo là đề xuất giả thuyết/dự đoán và thiết kế phương án thí nghiệm vật lý vẫn
chưa được chú ý đúng mức trong dạy học. Vì vậy, sử dụng thí nghiệm vật lý
theo hướng tích cực hóa hoạt động nhận thức của HS trong nhà trường là một
khâu quan trọng có tính quyết định trong việc nâng cao chất lượng dạy học
theo quan điểm đổi mới PPDH hiện nay. Việc dạy học bộ môn vật lý ở trường
THCS cần phải được tiến hành thông qua việc tăng cường phối hợp sử dụng
các thí nghiệm vật lý. Sự cần thiết phải sử dụng thí nghiệm vật lý trong quá
trình dạy học còn được quy định bởi tính chất của quá trình nhận thức của HS
dưới sự hướng dẫn của GV, nó có tác dụng rất lớn trong việc tích cực hóa hoạt
động nhận thức của HS trong giờ học vật lý ở trường THCS.
Nội dung chương trình, SGK vật lý THCS hiện tại đã chú trọng đến
việc phát huy vai trò quan trọng của thí nghiệm trong dạy học. Thế nhưng, thí
nghiệm vật lý trong các trường THCS hiện nay vẫn chưa có một vị trí thích
đáng. Một số bài học trong SGK chưa đưa ra được tiến trình hợp lý để giúp
GV phát triển năng lực sáng tạo của HS thông qua việc sử dụng các thí
nghiệm. Thiết bị thí nghiệm vật lý được trang bị cho các trường THCS chưa
đồng bộ, việc "dạy chay" đã diễn ra trong một thời gian khá dài nên kỹ năng


-3sử dụng thiết bị dạy học của GV còn hạn chế. Bên cạnh đó, các trường THCS

vẫn chưa nhận thức một cách đầy đủ và đúng đắn về vai trò của thí nghiệm
vật lý trong dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động nhận thức của HS.
Chính vì vậy, một trong những mấu chốt của vấn đề cần giải quyết
trong công cuộc đổi mới phướng pháp dạy học bộ môn vật lý là phát huy hơn
nữa vai trò của thí nghiệm. Vấn đề cơ bản là cần phải phát huy đúng thế mạnh
của thí nghiệm mới có thể thực hiện được ý đồ đổi mới PPDH, nghĩa là cần
phải xây dựng một hệ thống các thí nghiệm và các biện pháp sử dụng thí
nghiệm theo hướng phát huy hiệu quả vai trò của thí nghiệm trong dạy học
vật lý ở các trường THCS hiện nay.
Trên tinh thần đó, chúng tôi tiến hành lựa chọn đề tài "Nghiên cứu
xây dựng và sử dụng thí nghiệm theo hướng tích cực hóa hoạt động nhận
thức của học sinh trong dạy học vật lý ở trường trung học cơ sở".

2. Mục đích nghiên cứu
Nâng cao chất lượng dạy học vật lý ở trường THCS thông qua việc
xây dựng một số thí nghiệm vật lý và xác định được các biện pháp sử dụng thí
nghiệm theo hướng tích cực hóa hoạt động nhận thức của HS.

3. Giả thuyết khoa học
Nếu xây dựng được những thí nghiệm vật lý thích hợp, đảm bảo tính
khoa học và có được các biện pháp sử dụng thí nghiệm phù hợp trong dạy học
vật lý theo hướng tích cực hóa hoạt động nhận thức của HS THCS thì sẽ phát
huy được tính tự lực và năng lực sáng tạo của HS, do đó sẽ nâng cao chất
lượng học tập của HS.

4. Đối tượng nghiên cứu
Nội dung chương trình, SGK vật lý THCS, các PPDH và việc xây
dựng, sử dụng các thí nghiệm vật lý theo hướng tích cực hóa hoạt động nhận
thức của HS.



-4-

5. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu xây dựng một số thí nghiệm vật lý và các biện pháp sử
dụng thí nghiệm trong chương trình vật lý lớp 7, lớp 8 THCS.

6. Nhiệm vụ nghiên cứu
6.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc tổ chức dạy học vật lý theo
quan điểm lý luận dạy học hiện đại, làm cơ sở cho việc soạn thảo tiến trình
dạy học một số kiến thức vật lý THCS.
6.2. Nghiên cứu vị trí, vai trò của thí nghiệm vật lý trong việc tích cực
hóa hoạt động nhận thức của HS THCS, làm cơ sở cho việc xây dựng và sử
dụng thí nghiệm vật lý trong tiến trình dạy học các kiến thức vật lý cụ thể.
6.3. Đề xuất các biện pháp sư phạm trong dạy học vật lý theo hướng
tích cực hóa hoạt động nhận thức của HS THCS.
6.4. Xây dựng một số thí nghiệm vật lý và đề xuất một số biện pháp
sử dụng thí nghiệm vật lý theo hướng tích cực hóa hoạt động nhận thức của
HS trong dạy học vật lý ở trường THCS.
6.5. Soạn thảo tiến trình dạy học một số bài học trong chương trình vật
lý THCS có sử dụng thí nghiệm theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động
và năng lực tư duy sáng tạo của HS.
6.6. Tiến hành thực nghiệm sư phạm ở các trường THCS để đánh giá
tính khả thi, hiệu quả của tiến trình dạy học các kiến thức vật lý với việc sử
dụng các thí nghiệm vật lý đã xây dựng.

7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Nghiên cứu cơ sở lý luận tâm lý học, giáo dục học và lý luận dạy học
bộ môn theo hướng tích cực hóa hoạt động nhận thức của HS THCS.



-5Nghiên cứu các văn kiện của Đảng, chính sách của Nhà nước cùng với
các chỉ thị của Bộ Giáo dục và Đào tạo về vấn đề đổi mới PPDH hiện nay ở
các cấp học, bậc học mà cụ thể ở cấp THCS.
Nghiên cứu mục tiêu, nội dung và nhiệm vụ dạy học bộ môn vật lý ở
trường THCS hiện nay.
Nghiên cứu vai trò của thí nghiệm vật lý, cơ sở lý luận và các PPDH
mới để phát huy vai trò của thí nghiệm vật lý trong việc tích cực hóa hoạt
động nhận thức của HS THCS.
7.2. Phương pháp điều tra, quan sát
Thăm dò, trao đổi ý kiến với GV các trường THCS để nắm bắt thực
trạng việc sử dụng thí nghiệm trong dạy học vật lý ở các trường THCS.
Xây dựng các mẫu, phiếu điều tra vấn đề đổi mới PPDH vật lý hiện
nay ở các trường THCS. Tìm kiếm những biện pháp sử dụng thí nghiệm vật lý
trong dạy học cho phù hợp.
7.3. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Tiến hành thực nghiệm sư phạm ở các trường THCS có đối chứng để
kiểm tra tính khả thi của thí nghiệm vật lý đã được xây dựng và các biện pháp
sử dụng thí nghiệm đã được đề xuất trong việc tích cực hóa hoạt động nhận
thức của HS THCS trong các giờ học vật lý.
7.4. Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng phương pháp thống kê mô tả và thống kê kiểm định để trình
bày kết quả thực nghiệm sư phạm và kiểm định giả thuyết thống kê về sự
khác biệt trong kết quả học tập của hai nhóm đối chứng và thực nghiệm.

8. Đóng góp của luận án
8.1. Về mặt cơ sở lý luận
Góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận về vai trò của thí nghiệm vật lý
trong việc tích cực hóa hoạt động nhận thức của HS THCS theo quan điểm

dạy học hiện đại.


-6Đề xuất 05 biện pháp sư phạm và 06 biện pháp sử dụng thí nghiệm
theo hướng tích cực hóa hoạt động nhận thức của HS trong dạy học vật lý ở
trường THCS.
Hình thành các bước để thiết kế bài dạy học vật lý THCS theo hướng
tích cực hóa hoạt động nhận thức của HS.
8.2. Về mặt nghiên cứu ứng dụng thực tiễn
Xây dựng 10 thí nghiệm cần thiết cho một số bài dạy theo hướng tích
cực hóa hoạt động nhận thức của HS THCS.
Thiết kế một số bài học vật lý THCS theo hướng khai thác triệt để thí
nghiệm mà SGK THCS đang triển khai.
Đề xuất tiến trình dạy học một số bài học có sử dụng thí nghiệm đã
được xây dựng theo hướng tích cực hóa hoạt động nhận thức của HS.

9. Cấu trúc luận án
Dung lượng luận án 159 trang nội dung và 50 trang phụ lục, gồm:
MỞ ĐẦU (06 trang)

Chương 1: Cơ sở lý luận của việc sử dụng thí nghiệm theo hướng
tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh THCS trong quá trình dạy học
vật lý (61 trang)

Chương 2: Xây dựng và sử dụng thí nghiệm trong dạy học vật lý ở
trường THCS theo chương trình và SGK mới (62 trang)

Chương 3: Thực nghiệm sư phạm (15 trang)
KẾT LUẬN (04 trang)
CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ CÔNG BỐ (01 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO (10 trang)
PHỤ LỤC (50 trang)


-7-

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC SỬ DỤNG THÍ NGHIỆM THEO
HƯỚNG
TÍCH CỰC HÓA HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC CỦA HỌC
SINH THCS
TRONG QUÁ TRÌNH DẠY HỌC VẬT LÝ
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Thực chất của việc đổi mới PPDH nói chung và dạy học vật lý nói
riêng đã được đề cập nhiều từ những năm trước. Vấn đề đổi mới PPDH đã
được thực hiện theo nhiều hướng khác nhau, phần nào đã phát huy được tính
tích cực trong hoạt động nhận thức của HS trong các giờ học vật lý hiện nay.
Trong sự phát triển nhảy vọt của khoa học kỹ thuật ở thế kỷ XIX, vấn
đề nghiên cứu đổi mới PPDH nhằm phát triển tính tích cực, năng lực tư duy
sáng tạo của HS đã trở thành một yêu cầu cơ bản, cấp bách của mục tiêu giáo
dục. PPDH phát triển mạnh mẽ nhất từ đầu thế kỷ XX dựa trên cơ sở thành
công của tâm lý học. Sự nghiên cứu và thực nghiệm của các nhà sư phạm đã
làm nảy sinh nhiều PPDH mới, được vận dụng rộng rãi ở nhiều nước, gọi
chung là các PPDH tích cực. Đây là giai đoạn xuất hiện nhiều công trình
nghiên cứu và vận dụng kiến thức vào thực tiễn giáo dục.
Muốn phát huy tính tích cực, tự lực, sáng tạo của HS trong dạy học,
tốt hơn hết là hãy tổ chức cho HS hoạt động nhận thức theo con đường sáng
tạo của các nhà khoa học của chính bộ môn. Đó là ý kiến đề xuất của các nhà
khoa học sư phạm trong hướng tìm tòi các PPDH tích cực.

Trong những năm qua, các cấp quản lý giáo dục trong nước đã có
nhiều biện pháp tạo ra sự chuyển biến rõ rệt trong dạy học nói chung và dạy
học vật lý nói riêng. Điều kiện học tập đã được chú ý đúng mức. Các cơ sở


-8giáo dục đã triển khai nghiên cứu, tiến hành thí điểm việc đổi mới PPDH theo
hướng tích cực hóa hoạt động nhận thức của HS và bước đầu đã đạt được một
số kết quả nhất định. Đã có các đề tài nghiên cứu cơ sở lý luận về việc tích
cực hóa hoạt động nhận thức của HS trong dạy học vật lý.
Viện Khoa học Giáo dục (nay là Viện Chiến lược và Chương trình
Giáo dục) đã nghiên cứu và phát hành cuốn sách“Đổi mới phương pháp dạy
học ở trường trung học cơ sở” do Trần Kiều chủ biên và được dùng làm tài
liệu tham khảo bổ ích cho GV THCS trong giảng dạy.
Những vấn đề cơ bản, bức xúc trong giáo dục hiện nay và biện pháp
giải quyết, đã được tác giả Thái Duy Tuyên thể hiện trong cuốn sách “Những
vấn đề cơ bản của giáo dục học hiện đại” [100].
Trong “Dạy học vật lý ở trường phổ thông theo định hướng phát triển
hoạt động tích cực, tư duy, sáng tạo và tư duy khoa học” [93], tác giả Phạm
Hữu Tòng đã đề cập đến vấn đề cơ bản của hoạt động dạy học theo yêu cầu
phát triển hoạt động học tích cực của HS ở mức độ cao: tổ chức, định hướng
hoạt động, tìm tòi sáng tạo, giải quyết vấn đề và tư duy khoa học của HS.
Nguyễn Đức Thâm và Nguyễn Ngọc Hưng trong “Tổ chức hoạt động
nhận thức cho học sinh trong dạy học vật lý ở trường phổ thông” [80] đã phân
tích việc sử dụng phương pháp thí nghiệm lý tưởng trong dạy học vật lý để tổ
chức hoạt động nhận thức của HS theo hướng tích cực, chủ động, sáng tạo.
Nguyễn Đức Thâm và Nguyễn Ngọc Hưng trong cuốn “Phương pháp
dạy học vật lý ở trường THCS” [82] đã giúp GV vận dụng một cách sáng tạo
các PPDH trong việc tổ chức các hoạt động nhận thức tích cực, tự lực của HS
trong dạy học vật lý THCS.
Nguyễn Thượng Chung với cuốn “Bài tập thí nghiệm vật lý THCS”.

[9] đã đề cập đến lĩnh vực hoạt động theo hướng nâng cao chất lượng học tập,
tăng cường hứng thú, kích thích tính tích cực, tự lực sáng tạo và tháo vát…


-9của từng HS để xây dựng phương án, lựa chọn phương tiện và điều kiện tiến
hành thí nghiệm.
Năm 2004, Hà Văn Hùng và Lê Cao Phan giới thiệu các thí nghiệm tự
làm trong cuốn “Tổ chức hoạt động thí nghiệm vật lý tự làm ở trường
THCS”.[34].
Một số luận án Tiến sĩ trong những năm qua cũng đã đặt ra mục đích
nghiên cứu theo hướng cải tiến việc giảng dạy vật lý ở trường THCS theo
hướng phát huy tính tích cực, tư duy sáng tạo trong học tập của HS.
Ngô Diệu Nga [52] đã nghiên cứu xây dựng các tình huống dạy học
theo hướng phát triển năng lực tự chủ, chiếm lĩnh tri thức và tư duy khoa học
kỹ thuật của mình khi dạy phần Quang học 8 THCS.
Việc tổ chức các tình huống có vấn đề và hướng dẫn học sinh tích cực,
tự lực giải quyết vấn đề trong quá trình dạy học đã được Trần Văn Nguyệt.
[54] giải quyết trong đề tài của mình ở chương “Áp suất của chất lỏng và
chất khí” lớp 7 THCS.
Đối với chương trình vật lý THCS mới đang tiến hành, đã có các luận
án Tiến sĩ đề cập, cụ thể như: Vương Đình Thắng [85] với đề tài “Nghiên cứu
sử dụng máy vi tính với Multimedia thông qua việc xây dựng và khai thác
Website dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn vật lý lớp 6 ở
trường trung học cơ sở”, Đồng Thị Diện [10] với đề tài “Xây dựng và sử
dụng thí nghiệm đơn giản trong dạy học cơ học lớp 6 theo hướng phát triển
hoạt động nhận thức tích cực, sáng tạo của học sinh”, Lê Minh Luân [49] với
đề tài “Phương pháp sử dụng phần mềm dạy học theo hướng tích cực hóa
hoạt động nhận thức của học sinh trong dạy học các môn khoa học tự nhiên ở
trường trung học cơ sở”. Tuy nhiên, các tác giả chưa đề cập một cách đầy đủ,
sâu sắc đến việc sử dụng thí nghiệm theo hướng tích cực hóa hoạt động nhận

thức của HS trong dạy học vật lý ở trường THCS. SGK vật lý THCS mới đã
khai thác theo hướng thí nghiệm nhưng vấn đề tiến hành thí nghiệm như thế


- 10 nào, áp dụng vào điều kiện cụ thể của từng địa phương, vùng, miền là việc
cần phải nghiên cứu để phát huy tính tích cực của HS, nhằm nâng cao chất
lượng dạy học vật lý THCS hiện nay. Đây là một trong những nguyên nhân
dẫn đến sự đổi mới PPDH hiện nay vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của đất
nước trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đi tìm hướng giải quyết vấn đề này cũng đã có nhiều nhà nghiên cứu
giáo dục trong nước đề cập đến với nhiều khía cạnh khác nhau, cốt lõi là làm
sao để cho giờ học được trở nên sinh động hơn, hoạt động của HS được tích
cực hơn và chất lượng học tập sẽ được nâng cao hơn. Thế nhưng, tất cả cũng
chỉ dừng lại ở nghiên cứu lý thuyết là chính, và chỉ khi xuất hiện SGK vật lý
THCS viết theo hướng khai thác triệt để thí nghiệm thì mới có cơ sở để tích
cực hóa hoạt động nhận thức của HS trong các giờ học vật lý. Nhìn chung,
mỗi đề tài giải quyết vấn đề nâng cao hiệu quả dạy học vật lý thông qua thí
nghiệm theo hướng tích cực hóa hoạt động nhận thức của HS THCS dưới một
góc độ, theo một khía cạnh riêng nào đó.
Đối với các nước phát triển trên thế giới, người ta đã phát huy tốt vai
trò của thí nghiệm trong dạy học nói chung và dạy học vật lý nói riêng. Phải
nhìn nhận vấn đề một cách sâu hơn là các nước trên đã sử dụng các thiết bị
dạy học một cách đầy đủ, SGK ổn định trong một thời gian dài nên đã phát
huy tốt vai trò của thí nghiệm trong dạy học. Một trong những tổ chức lớn
nhất là “Les petits débrouillards”, lúc đầu hình thành ở Canada, sau đó phát
triển đến 15 nước khác như: Mỹ, Pháp, Trung Quốc, Rumani … Tổ chức này
đưa ra chủ trương tạo điều kiện tốt nhất cho HS làm các thí nghiệm vật lý, hóa
học bằng những vật liệu đơn giản, rẻ tiền. Những người đi đầu trong lĩnh vực
này ở Ai cập là GS.Kamel Was Sef; ở Pháp là Albert Jacquard; ở Italia là
GS.Marid Depar; ở Đức là H.J.Wilke [112]. Các tác giả D.K.Nachtigall,

J.Dieckhofer, G.Peter [110] đã nghiên cứu và tập hợp trong một cuốn sách về
các thí nghiệm đơn giản thuộc các phần Cơ, Nhiệt, Điện, Quang: “Qualitative


- 11 Experimente mit einfachen Mitteln”. V.Langué đã viết cuốn sách “Những bài
tập hay về thí nghiệm vật lý” [41] được Phạm Gia Thiều dịch, đã giới thiệu
khá đầy đủ các dạng bài tập thí nghiệm vật lý làm ở nhà, làm trong lúc dạo
chơi, làm bên hồ nước, làm trong lúc đi du lịch, làm trong phòng thí nghiệm
nhà trường và làm trong nhà máy. Ở Liên xô (cũ), vấn đề tự làm thiết bị
trường học là một trong những đề tài nghiên cứu của Viện Thiết bị trường học
và Phương tiện kỹ thuật dạy học. Khu vực Châu Á và Châu Đại Dương, vấn
đề tự làm đồ dùng dạy học đang được tiến hành dưới sự bảo trợ của UNESCO
trong “Chương trình Canh Tân giáo dục để phát triển” dưới tiêu đề “Phát
triển các thiết bị dạy học rẻ tiền”. UNESCO đã tổ chức nghiên cứu các
chuyên đề trên thông qua các nước hội viên và giúp đỡ các nước tổ chức
nhiều hội nghị quốc gia theo từng chủ để phù hợp [111].

1.2. Những đặc điểm tâm lý của HS THCS
HS THCS là một giai đoạn phát triển quan trọng, là nền tảng cho sự
phát triển ở các giai đoạn tiếp theo trong quá trình trưởng thành. Ở lứa tuổi
này, các em không hoàn toàn là trẻ con và cũng chưa phải là người lớn, đây là
giai đoạn đặc trưng với các dấu hiệu của tuổi dậy thì.
Thông qua việc thực hiện hoạt động học và các loại hình hoạt động
khác, HS THCS có sự phát triển tâm lý đạt trình độ mới so với giai đoạn trước
đó, một trình độ phát triển mà nếu không qua nhà trường thì sẽ không bao giờ
đạt được giai đoạn phát triển này, được tổ chức trong nền văn minh nhà
trường theo hai giai đoạn nhỏ bởi sự khác nhau về trình độ hình thành hoạt
động học và những đặc điểm tâm lý của HS [53].
Trong giai đoạn đầu của bậc THCS, các em thực hiện bước chuyển từ
cách dạy và cách học ở trường tiểu học, khác căn bản với trường THCS nên

cần được chú ý. Không phải tất cả HS đều thích nghi ngay lập tức với hình
thức dạy học mới (mỗi GV dạy một môn với phong cách, trình độ tri thức,


- 12 cách giao tiếp của riêng mình) này. Mối quan hệ giữa GV và HS thường hời
hợt, xa cách hơn so với bậc tiểu học [49].
Ở lớp 8, HS bước tiếp con đường đã đi với hành trang cần thiết đã
được nhà trường trang bị từ lớp 6, lớp 7. Giai đoạn này, hoạt động học được
hình thành mạnh mẽ nhưng thiếu cân đối về mặt trí tuệ, đạo đức và xuất hiện
những yếu tố mới trong sự trưởng thành do kết quả của sự biến đổi cơ thể, của
sự tự ý thức, của các kiểu quan hệ với người lớn, với bạn bè, với xã hội và của
hoạt động học tập tương đối rõ rệt. Đến giai đoạn cuối bậc THCS, về cơ bản
hoạt động học đã hình thành trước đây sẽ tiếp tục phát triển và đạt trình độ
như một năng lực của HS, đó là năng lực học tập.
Theo quan điểm hiện đại, HS THCS là nhân vật trung tâm, là linh hồn
của nhà trường mới [49]. Các em được phát triển toàn diện trong nền văn hóa
dành cho mình, văn hóa nhà trường, văn hóa gia đình, văn hóa dân tộc và văn
hóa nhân loại, trong đó văn hóa nhà trường giữ vai trò chủ đạo. HS THCS là
nhân vật trung tâm của nhà trường, đòi hỏi phải dành cho các em một sự quan
tâm đầy đủ nhất. Việc tổ chức hoạt động giáo dục phải nhằm đến từng HS,
chú ý đến việc phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của các em.
Hoạt động học tập của HS THCS có sự thay đổi về chất. Các hình
thức hoạt động học tập cùng với óc tò mò, tính ham hiểu biết phát triển, đòi
hỏi hoạt động trí tuệ của các em phát triển cao hơn.
Quá trình nhận thức ở HS THCS cho thấy, các em có khả năng phân
tích, tổng hợp phức tạp hơn khi tri giác các sự vật, hiện tượng. Trí nhớ đã
được thay đổi về chất, đó là sự tăng cường tính chủ định của các chức năng
tâm lý theo hướng dần dần mang tính chất của quá trình được điều khiển, điều
chỉnh và có tổ chức. Các em có nhiều tiến bộ trong việc ghi nhớ tài liệu và bắt
đầu biết sử dụng các phương pháp đặc biệt để ghi nhớ và nhớ lại. Khi nhớ,

các em đã biết tiến hành các thao tác so sánh, phân loại, hệ thống hóa … nhờ


- 13 đó, tốc độ và khối lượng ghi nhớ được tăng lên. HS THCS ở lớp cuối cấp có
thể duy trì sự chú ý liên tục trong suốt nhiều giờ.
Ở lứa tuổi HS THCS, người ta nhận thấy có sự phân hóa trong sự phát
triển trình độ trí tuệ, đặc biệt về tư duy. Cũng như cảm giác và tri giác, tư duy
là một quá trình tâm lý. Nhưng khác với quá trình nhận thức cảm tính, quá
trình tư duy phản ánh các dấu hiệu, các mối liên hệ và quan hệ bản chất của
các sự vật và hiện tượng khách quan [53]. Ở THCS, các em phải nắm vững
một khối lượng tri thức lớn hơn ở tiểu học. Tài liệu lĩnh hội một mặt đòi hỏi
hoạt động nhận thức và tư duy cao hơn, đồng thời đòi hỏi các em phải nắm
được phương thức hành động đối với từng môn khoa học. Những môn học
mới đề ra những yêu cầu mới, phương thức lĩnh hội mới, nhằm phát triển trí
tuệ ở trình độ cao hơn, đó là tư duy lý luận, tư duy phân tích, tư duy hình
thức. Tư duy đó dựa vào những đặc điểm có tính tượng trưng, dựa vào hệ
thống ký hiệu quy ước … nhằm phân tích, suy diễn và rút ra những kết luận.
Ở trình độ tư duy này, HS THCS ý thức được các thao tác trí tuệ của bản thân
mình và điều khiển được chúng.
HS THCS thường suy nghĩ về bản thân và so sánh với nhiều bạn khác
cùng tuổi mà chúng ngưỡng mộ. Qua đó thấy được những ưu điểm, tồn tại
cũng như tiến bộ của bản thân, cố gắng điều chỉnh theo gương học tập. Sự tự
đánh giá của HS THCS có xu hướng cao hơn hiện thực. Để giúp các em năng
lực tự đánh giá, phải đưa các em vào với hoạt động, giúp các em có kế hoạch
phấn đấu rút ra những bài học thực tiễn thành công, thất bại từ mỗi lần thử
sức. Bên cạnh đó, việc đánh giá những người xung quanh có ảnh hưởng rất
lớn đến sự phát triển nhân cách của chính các em.

1.3. Hoạt động nhận thức của HS THCS trong dạy học vật lý
1.3.1. Hoạt động nhận thức



- 14 Hoạt động là một khái niệm triết học đã có từ lâu. Đó là một trong
những phạm trù quan trọng của tâm lý học hoạt động và được xem như là sự
đáp ứng của chủ thể trước những tác động bên ngoài.
Thành tựu quan trọng nhất của tâm lý học thế kỷ XX, làm cơ sở cho
việc đổi mới PPDH là lý thuyết hoạt động được Jean Piaget (1896-1980).[59],
L.X.Vưgốtski (1896-1934) khởi xướng và A.N.Lêônchev (1903-1979).[57]
phát triển. Bằng hoạt động và thông qua hoạt động, mỗi người tự sinh thành
ra mình, tạo dựng và phát triển ý thức cũng như nhân cách của bản thân.
Trong dạy học, việc học tập của HS có bản chất hoạt động, bằng hoạt động và
thông qua hoạt động của bản thân mà chiếm lĩnh kiến thức, hình thành và phát
triển năng lực trí tuệ cũng như quan điểm đạo đức, thái độ cho bản thân mỗi
người. Như vậy, dạy học là dạy hoạt động. Quá trình dạy học các tri thức
thuộc một môn khoa học cụ thể được hiểu là quá trình hoạt động của GV và
HS trong sự tương tác thống nhất biện chứng của ba thành phần trong hệ dạy
học gồm: GV, HS và tư liệu hoạt động dạy học.
Theo tâm lý học thì trong việc nhận thức thế giới, con người có thể đạt
được những mức độ nhận thức khác nhau, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến
phức tạp. Mức độ thấp ban đầu là nhận thức cảm tính bao gồm cảm giác và tri
giác, trong đó con người phản ánh vào óc những biểu hiện bên ngoài của sự
vật khách quan, những cái đang tác động trực tiếp vào giác quan. Mức độ cao
gọi là nhận thức lý tính, còn gọi là tư duy, trong đó con người phản ánh vào
óc những thuộc tính bản chất bên trong của sự vật, những mối quan hệ có tính
quy luật. Nhận thức không dừng lại ở sự phản ánh vào trong óc những thuộc
tính của sự vật, hiện tượng khách quan mà còn thực hiện phép suy luận để rút
ra những kết luận mới, dự đoán những hiện tượng mới trong thực tiễn. Nhờ
thế mà tư duy luôn có tính sáng tạo, có thể mở rộng sự hiểu biết của con
người và vận dụng những hiểu biết vào việc cải tạo thế giới khách quan.



- 15 Việc học tập của HS là một hoạt động đặc thù của con người. Đây là
một hoạt động của thầy và trò, một hoạt động rất phức tạp trong đó HS được
xem là đối tượng của hoạt động dạy và là chủ thể của hoạt động học. Nó có
cấu trúc giống như hoạt động lao động sản xuất nói chung, bao gồm các thành
tố có quan hệ và tác động qua lại lẫn nhau theo sơ đồ:
ĐỘNG CƠ

HOẠT ĐỘNG

MỤC ĐÍCH

HÀNH ĐỘNG

PHƯƠNG TIỆN

Phía đối tượng của hoạt động

THAO TÁC

Mặt chủ quan của chủ thể

Sơ đồ 1.1: Cấu trúc tâm lý của hoạt động [11]
Hoạt động nào cũng có đối tượng. Thông thường các hoạt động có đối
tượng là một khách thể và hoạt động hướng vào làm biến đổi chính khách thể
đó. Trong khi đó, hoạt động học làm cho chính chủ thể của hoạt động biến đổi
và phát triển. Đối tượng của hoạt động học là tri thức, kỹ năng, kỹ xảo cần
chiếm lĩnh. Nội dung của đối tượng này không thay đổi sau khi bị chiếm lĩnh,
nhưng chính nhờ có sự chiếm lĩnh này mà các chức năng tâm lý của chủ thể
mới được thay đổi và phát triển.

Theo P.M.Erdoniep, học tập là trường hợp riêng của nhận thức đã
được làm cho phù hợp với trình độ tiếp thu của HS và được thực hiện dưới sự
chỉ đạo của GV [17].
1.3.2. Hoạt động nhận thức của HS THCS trong dạy học vật lý
Nhận thức vật lý là nhận thức chân lý khách quan. V.I Lê Nin đã chỉ rõ
quy luật chung nhất của hoạt động nhận thức là: “Từ trực quan sinh động đến
tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn, đó là con đường biện
chứng của nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách quan”.[47].


- 16 Hoạt động nhận thức thức vật lý khá phức tạp. Tuy nhiên, khi nghiên
cứu về hoạt động nhận thức vật lý, cần lưu ý đến những hành động chính của
hoạt động nhận thức vật lý. Bàn về vấn đề này, Rêznicôp [74] cho rằng,
những hành động chính của hoạt động nhận thức vật lý bao gồm:
- Quan sát hiện tượng tự nhiên, nhận biết đặc tính bên ngoài của sự
vật, hiện tượng,
- Tác động vào tự nhiên (phỏng theo tự nhiên bằng thí nghiệm) để làm
bộc lộ những mối quan hệ, những thuộc tính của sự vật, hiện tượng,
- Xác định mối quan hệ nhân quả giữa các hiện tượng,
- Xác định mối quan hệ hàm số giữa các đại lượng,
- Xây dựng những giả thuyết hay mô hình để lý giải nguyên nhân của
hiện tượng quan sát được,
- Từ giả thuyết, mô hình suy ra những hệ quả,
- Xây dựng các phương án thí nghiệm để kiểm tra các hệ quả,
- Đánh giá kết quả thu được từ thí nghiệm,
- Khái quát hóa kết quả, rút ra tính chất, quy luật hình thành các khái
niệm, định luật và thuyết vật lý,
- Vận dụng kiến thức khái quát vào thực tiễn.
Vật lý học là bộ môn khoa học nghiên cứu về cấu trúc, tính chất, các
hình thức biến đổi cơ bản nhất của vật chất và là cơ sở của nhiều ngành kỹ

thuật quan trọng. Sự phát triển của khoa học vật lý gắn bó chặt chẽ và có tác
động qua lại với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật.
Môn Vật lý có vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu đào tạo
của trường THCS. “Chương trình vật lý THCS có nhiệm vụ cung cấp cho HS
hệ thống kiến thức vật lý cơ bản, ở trình độ phổ thông cơ sở, bước đầu hình
thành ở HS những kỹ năng cơ bản phổ thông và thói quen làm việc khoa học,
góp phần hình thành ở họ các năng lực nhận thức và các phẩm chất nhân
cách mà mục tiêu giáo dục THCS đã đề ra” [4].


- 17 Hoạt động học tập của HS là một hoạt động nhận thức. Các hành động
của hoạt động nhận thức cần phải được tổ chức lại và áp dụng cho quá trình
hoạt động học tập của HS THCS trong một phạm vi của các đối tượng nhận
thức, trong một không gian và thời gian giới hạn xác định.
Hoạt động nhận thức vật lý của HS phổ thông khác hẳn hoạt động
nhận thức của các nhà khoa học. Nhà khoa học tìm ra tri thức mới cho nhân
loại, còn HS khám phá những kiến thức mới cho bản thân. HS chỉ được dành
thời gian ngắn trong một tiết học nhưng phải “khám phá” ra một định luật,
một thuyết trong khi các nhà khoa học phải trải qua một thời gian khá dài mới
xây dựng được một định luật, thuyết vật lý…
Nhận thức vật lý là vấn đề khó đối với HS THCS. Để khai thác tính
hấp dẫn của bộ môn vật lý, GV phải dẫn dắt HS từng bước chiếm lĩnh kiến
thức vật lý và tập vận dụng sáng tạo kiến thức đó vào việc giải quyết những
vấn đề do thực tiễn đặt ra.
Quá trình nhận thức vật lý khá phức tạp, cùng một lúc phải vận dụng
nhiều phương pháp nhận thức của riêng bộ môn vật lý cũng như phương pháp
nhận thức của các khoa học khác. Cần phải biết cách vận dụng xen kẽ và phối
hợp các phương pháp này để quá trình nhận thức vật lý được diễn ra theo ý
muốn. Các phương pháp nhận thức vật lý cũng phải được sử dụng trong dạy
học vật lý ở trường THCS ở mức độ cần thiết. Để có thể tự lực chiếm lĩnh

kiến thức vật lý trong quá trình học vật lý thì HS THCS cần được trang bị các
phương pháp nhận thức theo mức độ tăng dần để phù hợp với sự phát triển
của tư duy. Muốn hoạt động nhận thức vật lý có kết quả trước hết phải quan
tâm đến việc rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo. Bên cạnh đó phải có phương pháp
suy luận, có khả năng tư duy trừu tượng, tư duy lôgic, tư duy sáng tạo.

1.4. Tích cực hóa hoạt động nhận thức vật lý của HS THCS
1.4.1. Tích cực hóa hoạt động nhận thức vật lý
1.4.1.1. Khái niệm về tính tích cực


- 18 Con người không chỉ tiêu thụ những gì sẵn có trong thiên nhiên mà
còn chủ động sản xuất ra của cải vật chất cần thiết cho sự tồn tại và phát triển
của xã hội, sáng tạo ra nền văn hóa khoa học ở mỗi thời đại, chủ động cải biến
môi trường tự nhiên, cải tạo xã hội. Do đó, chủ nghĩa duy vật lịch sử xem tính
tích cực là một phẩm chất vốn có của con người trong đời sống xã hội.
Tích cực là một nét của tính cách, được thể hiện qua hành động, thái
độ hăng hái của chủ thể khi thực hiện công việc một cách khoa học, nhằm đạt
được mục đích cuối cùng. Thông qua đó, bản thân chủ thể có một bước
chuyển mình rõ rệt [1]. Tích cực được hiểu không phải chỉ là sự lao lực trong
quá trình hoạt động của chủ thể mà phải hiểu tích cực trước tiên là tích cực tư
duy, tích cực của trí tuệ. Có như vậy mới có thể thấy được hoạt động nhận
thức của HS thể hiện mặt tích cực như thế nào.
Học là hoạt động nhận thức tích cực mà HS vốn đã có hoạt động này,
song điều cốt yếu là phải làm thế nào để kích thích, để phát huy sức mạnh của
lý trí ở mức cao hơn trong quá trình nắm bắt tri thức của nhân loại.
Tính tích cực của con người biểu hiện trong hoạt động, tính tích cực là
trạng thái hoạt động của chủ thể, nghĩa là của con người hành động. Tính tích
cực của trẻ biểu hiện trong những dạng khác nhau của học tập, lao động, thể
dục, vui chơi, giải trí và hoạt động xã hội, trong đó hoạt động học tập là chủ

đạo của mọi lứa tuổi học đường. Ở mỗi nội dung hoạt động nói trên, tính tích
cực bộc lộ với những đặc điểm riêng.
1.4.1.2. Tính tích cực trong hoạt động nhận thức của học sinh
Theo quan điểm triết học, tính tích cực nhận thức thể hiện thái độ cải
tạo của chủ thể nhận thức đối với đối tượng nhận thức, nghĩa là con người
không chỉ hiểu, nắm bắt được các quy luật của tự nhiên, xã hội, hiểu được các
sự vật và hiện tượng mà còn nghiên cứu cả quá trình đó, để cải tạo chúng
phục vụ cho lợi ích của con người. Như vậy, nhận thức tích cực ở đây là vừa


- 19 hiểu, vừa nắm bắt được quy luật tự nhiên, xã hội cũng như vừa cải tạo các
hiện tượng, sự vật trong tự nhiên, xã hội.
Theo tâm lý học, tính tích cực nhận thức của HS tồn tại với tư cách là
cá nhân với toàn bộ nhân cách của nó. Cũng như bất kỳ một hoạt động nào
khác, hoạt động nhận thức được tiến hành trên cơ sở huy động các chức năng
nhận thức, tình cảm và ý chí, trong đó chức năng nhận thức đóng vai trò chủ
yếu, các yếu tố tâm lý kết hợp với nhau một cách hữu cơ, tác động qua lại lẫn
nhau tạo nên tâm lý hoạt động nhận thức. Sự tác động này không cứng nhắc
mà trái lại luôn biến đổi, tạo nên rất nhiều dạng khác nhau của các nhiệm vụ
nhận thức cụ thể mà HS phải thực hiện. Sự biến đổi này càng linh hoạt bao
nhiêu thì HS càng dễ thích ứng với nhiệm vụ nhận thức khác nhau và tính tích
cực nhận thức càng thể hiện ở mức độ cao.
Theo R.A.Nizamôp, sự tích cực nhận thức thực chất là một hành động
ý chí. Trạng thái hoạt động nhận thức tích cực là một trạng thái hoạt động
được đặc trưng bởi sự nỗ lực cố gắng của cá nhân [55].
I.F.Kharlamôp cho rằng, tính tích cực là trạng thái hoạt động của chủ
thể, nghĩa là của người hành động. Vậy thì tính tích cực nhận thức của HS là
trạng thái hoạt động của HS, đặc trưng bởi khát vọng học tập, cố gắng trí tuệ
và nghị lực cao trong quá trình nắm vững kiến thức [36].
Tính tích cực trong hoạt động nhận thức của HS là một hiện tượng sư

phạm biểu hiện sự cố gắng cao về nhiều mặt trong hoạt động nhận thức. Tính
tích cực hoạt động học tập là sự phát triển ở mức độ cao hơn trong tư duy, đòi
hỏi một quá trình hoạt động "bên trong" hết sức căng thẳng với một nghị lực
cao của bản thân, nhằm đạt được mục đích là giải quyết vấn đề cụ thể nêu ra.
Tính tích cực là trạng thái hoạt động của chủ thể, của người hành
động. Đối với HS thì sự khát vọng trong học tập, cố gắng về trí tuệ và nghị
lực cao trong quá trình nắm vững kiến thức chính là sự tích cực trong học tập.
Tích cực hóa hoạt động nhận thức trong học tập của HS thực chất là tập hợp


- 20 các hoạt động nhằm chuyển biến vị trí từ học bị động sang chủ động, tự bản
thân đi tìm kiếm tri thức để nâng cao hiệu quả học tập.
Tính tích cực trong hoạt động nhận thức của HS ở các trường THCS
còn có nhiều quan niệm khác nhau. Nhìn chung, dựa vào thực tiễn có thể khái
quát hóa tính tích cực hoạt động nhận thức của HS chính là sự cố gắng cao độ
của bản thân để làm việc, học tập và các hoạt động khác được tích cực hơn.
Tính tích cực trong hoạt động nhận thức của HS thể hiện ở những hoạt
động trí tuệ là tập trung suy nghĩ để trả lời câu hỏi nêu ra, kiên trì tìm cho
được lời giải hay của một bài toán khó cũng như hoạt động chân tay là say
sưa lắp ráp tiến hành thí nghiệm. Trong học tập hai hình thức biểu hiện này
thường đi kèm nhau tuy có lúc biểu hiện riêng lẻ.
Trong quá trình học tập, sự tích cực trong hoạt động nhận thức của HS
thường được biểu hiện [25], [85]:
- Có nhu cầu hứng thú trong học tập, khao khát hiểu biết, nhận thức về
tự nhiên và xã hội,
- Có cảm xúc học tập thể hiện ở niềm vui, sự sốt sắng, sẵn sàng thực
hiện nhiệm vụ một cách tự giác theo yêu cầu của GV,
- Tập trung chú ý cao, thể hiện ở việc lắng nghe và theo dõi mọi hành
động của GV, tự giác thực hiện một cách chu đáo, đầy đủ, chính xác các yêu
cầu cần thiết trong quá trình học tập,

- Có sự nỗ lực của ý chí, thể hiện ở sự kiên trì, nhẫn nại vượt khó khi
giải quyết nhiệm vụ nhận thức,
- Có khả năng vận dụng kiến thức khi gặp tình huống mới, có sáng tạo
trong giải quyết vấn đề để tìm ra cái mới.
Tính tích cực trong hoạt động nhận thức của HS phổ thông được
G.I.Sukina [25] phân biệt theo 3 cấp độ sau:
- Sao chép, bắt chước: Xuất hiện do tác động kích thích bên ngoài.
Kinh nghiệm hoạt động bản thân HS được tích luỹ dần thông qua việc tích


- 21 cực bắt chước hoạt động của GV và bạn bè. Trong hoạt động bắt chước cũng
có sự gắng sức của thần kinh và cơ bắp.
- Tìm tòi, thực hiện: HS tìm cách độc lập suy nghĩ để giải quyết các
bài tập nêu ra, mò mẫm những cách giải khác nhau và từ đó tìm ra lời giải hợp
lý nhất cho vấn đề nêu ra. Ở mức độ này tính độc lập cao hơn mức trên, HS
tiếp nhận nhiệm vụ và tự tìm cho mình phương tiện thực hiện.
- Sáng tạo: Thể hiện khi chủ thể có năng lực tự tìm ra phương thức
hành động riêng độc đáo, sáng tạo và nó trở thành phẩm chất bền vững của cá
nhân. HS nghĩ ra cách giải mới, độc đáo, hoặc cấu tạo những bài tập mới cũng
như cố gắng tự lắp đặt những thí nghiệm để chứng minh cho bài học. Lẽ
đương nhiên là mức độ sáng tạo của HS có hạn nhưng đó là mầm mống để
phát triển tính sáng tạo về sau. Đây là mức độ biểu hiện tính tích cực cao nhất.
Tóm lại, tính tích cực nhận thức của HS là trạng thái hoạt động thể
hiện khát vọng cao trong học tập, sự cố gắng về trí tuệ và nghị lực cao trong
quá trình nắm vững kiến thức.
1.4.2. Đặc trưng của tích cực hóa hoạt động nhận thức của HS
THCS
Phát huy tính tích cực, sáng tạo trong học tập là nguyên tắc cơ bản để
dạy học theo hướng tính cực hóa hoạt động nhận thức đạt hiệu quả cao. Mấu
chốt vấn đề là GV phải biết cách thiết kế bài dạy sao cho HS tự tìm hiểu, phát

hiện và giải quyết vấn đề, nghĩa là phải luôn chủ động, sáng tạo trong học tập.
Đặc trưng cơ bản của tích cực hóa hoạt động nhận thức của HS THCS
trong quá trình học tập là sự linh hoạt của HS dưới sự định hướng của GV với
mục đích cuối cùng là HS tự mình khám phá ra kiến thức cùng với cách tìm ra
kiến thức.
Trong quá trình dạy học, để phát huy tính tích cực trong hoạt động
nhận thức của HS thì quá trình dạy học đó phải diễn biến sao cho:


- 22 - HS được đặt ở vị trí chủ thể, tự giác, tích cực, sáng tạo trong hoạt
động nhận thức của bản thân,
- GV đóng vai trò là người đạo diễn, định hướng trong hoạt động dạy
học,
- Quá trình dạy học phải dựa trên sự nghiên cứu những quan niệm,
kiến thức sẵn có của người học, khai thác những thuận lợi đồng thời nghiên
cứu kỹ những chướng ngại có khả năng xuất hiện trong quá trình dạy học,
- Mục đích dạy học không chỉ dừng lại ở việc cung cấp tri thức, rèn
luyện kỹ năng, kỹ xảo mà còn phải dạy cho HS cách học, cách tự học, tự hoạt
động nhận thức nhằm đáp ứng các nhu cầu của bản thân và xã hội.

1.5. Dạy học vật lý theo hướng tích cực hóa hoạt động nhận
thức của HS THCS
1.5.1. Quan niệm về PPDH theo hướng tích cực
Thuật ngữ "phương pháp" được dùng ở nhiều cấp độ khác nhau, từ rất
khái quát đến rất cụ thể, ví dụ: phương pháp biện chứng, phương pháp thực
nghiệm, phương pháp thực nghiệm sinh học, phương pháp bố trí một thí
nghiệm. Trong thực tiễn dạy học cũng tương tự như vậy, ví dụ: PPDH,
phương pháp trực quan, phương pháp thí nghiệm biểu diễn...
Có nhiều định nghĩa khác nhau về PPDH, chẳng hạn:“Phương pháp
dạy học là cách thức tương tác giữa thầy và trò nhằm giải quyết các nhiệm vụ

giáo dưỡng, giáo dục và phát triển trong quá trình dạy học” (Iu.K.Babanski,
1983). “Phương pháp dạy học là một hệ thống những hành động có mục đích
của GV nhằm tổ chức hoạt động nhận thức và thực hành của HS, đảm bảo
cho HS lĩnh hội nội dung học vấn” (I.Ia.Lecne, 1981) [45], [99], [100].
Dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động nhận thức của HS đó là
cách dạy mà ở đó người GV phải đạo diễn để tạo ra môi trường, để người học
chủ động tự mình tham gia tích cực vào các hoạt động học tập của bản thân.


- 23 Trong quá trình dạy học cần kích thích sự hứng thú trong học tập cho
HS, cần phát huy tính tích cực, tính tự lực sáng tạo trong học tập của HS. Để
làm điều đó, đòi hỏi người thầy giáo phải lựa chọn, tìm tòi những PPDH phù
hợp với nội dung bài học, đặc điểm của đối tượng, điều kiện vật chất, và đây
là một hoạt động sáng tạo của người thầy trong hoạt động dạy.
Bàn về PPDH theo hướng tích cực hóa hoạt động người học hiện nay
có rất nhiều quan niệm khác nhau. Nhìn chung, PPDH theo hướng tích cực
cần thể hiện được sự phản ánh quá trình hoạt động nhận thức của HS nhằm
đạt được mục đích đã đề ra.
Nói đến PPDH phải đặt nó trong mối quan hệ giữa các yếu tố: Mục
đích-Nội dung-Phương pháp-Phương tiện và các điều kiện ràng buộc khác
xung quanh. PPDH theo hướng tích cực không nằm ngoài quy luật đó. Điều
cơ bản là GV phải biết tổ chức cho HS hoạt động liên tục tích cực và tự giác,
nhờ đó HS tiếp nhận kiến thức, rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo nhằm đạt được mục
đích đề ra với kết quả cao.
1.5.2. Những đặc trưng của PPDH theo hướng tích cực
PPDH theo hướng tích cực có những điểm mạnh riêng của nó mà các
phương pháp khác không thể có được. Đó là HS lĩnh hội kiến thức bằng chính
sự hoạt động tích cực cao độ của bản thân, tự họ chủ động sáng tạo nên các
vấn đề, các tình huống để nghiên cứu [39].
PPDH theo hướng tích cực thể hiện bởi các đặc trưng cơ bản: dạy học

hướng vào HS; dạy học bằng tổ chức các hoạt động của HS; dạy học chú
trọng đến việc bồi dưỡng phương pháp tự học, tự nghiên cứu; dạy học chú
trọng đến việc trau dồi kiến thức và rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo.
1.5.2.1. Dạy học hướng vào học sinh
Cơ sở lý luận dạy học có những quan niệm khác nhau về vai trò của
GV và HS, nhưng cụ thể có thể nhìn theo hai hướng chính: hoặc tập trung vào


- 24 vai trò và hoạt động của GV (hướng vào GV) hoặc tập trung vào vai trò và
hoạt động của HS (hướng vào học sinh).[36], [37].
Trong lịch sử giáo dục, ở thời kỳ chưa hình thành tổ chức trường lớp
thì một GV thường dạy cho một nhóm nhỏ HS, có thể chênh lệch nhau khá
nhiều về lứa tuổi cũng như trình độ. Hình thức dạy này bắt buộc GV phải coi
trọng trình độ, năng lực, tính cách của mỗi HS và có điều kiện để thực hiện
các cách dạy thích hợp với mỗi HS, tuy nhiên hiệu quả dạy học không cao. Từ
khi xuất hiện kiểu dạy trường-lớp, một GV dạy cho một lớp đông HS có cùng
lứa tuổi, trình độ và đặc điểm tâm sinh lý, khi đó GV khó có điều kiện chăm
lo đến từng HS. Thực tế đó nảy sinh ra lối dạy thông báo kiến thức chung cho
toàn lớp, GV chỉ quan tâm đến việc hoàn thành nhiệm vụ của mình là truyền
đạt đầy đủ, chính xác nội dung đã quy định trong phân phối chương trình.
Tình trạng này ngày càng phổ biến và đã hạn chế chất lượng, hiệu quả dạy và
học, không đáp ứng yêu cầu của xã hội đối với sản phẩm của giáo dục nhà
trường.
Để khắc phục tình trạng trên rõ ràng phải đổi mới PPDH theo hướng
phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS, thực hiện dạy học quan
tâm đến nhu cầu và trình độ tự tổ chức lĩnh hội kiến thức của HS trong tập thể
lớp, đây là nền tảng và là hướng đi ban đầu của dạy học theo hướng tích cực
hóa hoạt động nhận thức của HS.
Tư tưởng nhấn mạnh vai trò tích cực của người học, xem người học là
chủ thể của quá trình học tập đã có từ lâu nhưng thuật ngữ lấy HS làm trung

tâm rồi đến thuật ngữ dạy học hướng vào HS chỉ mới phổ biến trong những
năm trở lại đây. Dạy học hướng vào HS là lối dạy học làm cho người học chủ
động điều khiển, cá nhân người học vừa là mục đích vừa là chủ thể của quá
trình học tập để cho tiềm năng của mỗi cá nhân được phát triển đầy đủ.
Nhà trường tồn tại là vì trẻ em. Trẻ em phải là nhân vật trung tâm của
giáo dục nhà trường. PPDH tích cực đề cao vai trò chủ thể của người học,


- 25 xem HS vừa là chủ thể, vừa là đối tượng của quá trình dạy học.[32]. Trong
khi các dạng hoạt động khác thường hướng vào làm thay đổi đối tượng khách
thể thì hoạt động học tập làm cho chính chủ thể hoạt động thay đổi. Bằng hoạt
động học tập, mỗi HS tự hình thành và phát triển nhân cách của mình, không
ai có thể làm thay được. Dĩ nhiên, việc đề cao vai trò tích cực, tính chủ động
của người học không phủ nhận vai trò chủ đạo của người dạy.
Giáo dục nhà trường khác với các loại hình giáo dục khác ở chỗ nó
được tiến hành có kế hoạch dưới sự chỉ đạo của GV. Đội ngũ GV là lực lượng
quyết định chất lượng, hiệu quả của dạy học và giáo dục trong nhà trường.
Tuy nhiên, vì lý do lịch sử đã có một thời kỳ chúng ta chưa đặt đúng vị trí của
HS trong quá trình dạy học.
Khi đã dạy học theo lối hướng vào người học thì phải coi trọng lợi ích,
nhu cầu của người học. Lợi ích và nhu cầu cơ bản nhất của HS là sự phát triển
nhân cách của mỗi HS. Mọi nỗ lực giảng dạy của nhà trường đều phải hướng
tới tạo điều kiện thuận lợi để cho HS bằng hoạt động của mình, hình thành và
phát triển nhân cách bản thân. Tuy nhiên cần hiểu vấn đề tôn trọng lợi ích nhu
cầu của người học một cách có phân biệt giữa các ngành học, bậc học, cấp
học để có những yêu cầu phù hợp.
Đã coi trọng vị trí hoạt động học và vai trò của người học thì đương
nhiên phải phát huy vài trò tích cực của người học. Dạy học hướng vào HS
không phải là một PPDH cụ thể. Đó là một tư tưởng, quan điểm giáo dục, một
cách tiếp cận quá trình dạy học, chi phối tất cả các thành tích của quá trình

học về mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện, cách tổ chức, đánh giá
chứ không phải chỉ liên quan đến phương pháp dạy và học.
1.5.2.2. Dạy học bằng tổ chức các hoạt động của học sinh
Phương pháp tích cực dựa trên cơ sở tâm lý học cho rằng, nhân cách
của trẻ được hình thành thông qua các hoạt động chủ động, sáng tạo và các
hành động có ý thức.


×