Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Một số biện pháp chỉ đạo giúp giáo viên rèn kỹ năng sống cho học sinh trường tiểu học thành tân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 22 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THẠCH THÀNH

TRƯỜNG TIỂU HỌC THÀNH TÂN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỈ ĐẠO
GIÚP GIÁO VIÊN RÈN KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH
Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC THÀNH TÂN

Người thực hiện: Mai Xuân Thành
Chức vụ: Phó Hiệu trưởng
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Thành Tân
SKKN thuộc lĩnh vực: Quản lý

THẠCH THÀNH, NĂM 2019

1


MỤC LỤC
TT

MỤC

TRANG

MỞ ĐẦU

1


1.1

LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

1

1.2

MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

2

1.3

ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

2

1.4

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2

NỘI DUNG

2

CƠ SỞ LÝ LUẬN


2

1

2
2.1
2.2

THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ GIÁO DỤC Kỹ

4

NĂNG SỐNG…
2.3

CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN

6

2.4

HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

13

3

KẾT LUẬN

15


3.1

KẾT LUẬN

15

3.2

KIẾN NGHỊ

15

PHỤ LỤC

17

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài.
Trẻ em là tương lai của xã hội, vì vậy, mỗi chúng ta cần phải tạo điều kiện để
trẻ phát triển một cách toàn diện. Trong đó, Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh ở
2


bất kỳ một cấp học nào là nhiệm vụ vô cùng quan trọng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nói: “ Cái mầm có xanh thì cây mới vững, cái búp có xanh thì lá mới tươi quả mới
tốt, con trẻ có được nuôi dưỡng giáo dục hẳn hoi thì dân tộc mới tự cường tự lập”.
Xuất phát từ tình hình thực tế hiện nay: Sự thiếu hụt trầm trọng về kỹ năng
sống của học sinh, nhất là học sinh Tiểu học. Phần lớn các em chỉ quan tâm đến
học văn hóa, kiến thức trong sách vở, điều đó đã làm cho các em còn nhiều hạn

chế về kỹ năng sống trong cuộc sống hàng ngày mà rất gần gũi với các em như: kỹ
năng giao tiếp, ứng xử; kỹ năng phục vụ và tự phục vụ. Chính vì lẽ đó, từ năm học
2010-2011, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đưa vào chương trình giảng dạy cấp Tiểu
học một nội dung mới, đó là Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, nội dung này
được triển khai lồng ghép với các môn học khác.
“Kỹ năng sống là những kỹ năng tâm lí- xã hội cơ bản giúp cho cá nhân tồn
tại và thích ứng với cuộc sống, giúp cho con người vững vàng trước cuộc sống có
nhiều thách thức nhưng cũng có nhiều cơ hội trong thực tại. Kỹ năng sống đơn
giản là tất cả những điều cần thiết chúng ta phải biết để có được khả năng thích
ứng với những thay đổi diễn ra hằng ngày trong cuộc sống.” [2]
Kỹ năng sống có thể hình thành tự nhiên, học được từ những trải nghiệm của
cuộc sống và do giáo dục mà có. Không phải đợi đến lúc được học kỹ năng sống
một con người mới có những kỹ năng sống đầu tiên. Tuy nhiên, nếu được dạy dỗ
từ sớm, con người sẽ rút ngắn thời gian học hỏi qua trải nghiệm, sẽ thành công hơn
trong cuộc sống.
Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tiểu học là một việc làm rất quan trọng
và cần thiết nhằm góp phần đào tạo “con người mới” với đầy đủ các mặt “đức, trí,
thể, mĩ”; nó gắn liền với bốn trụ cột của giáo dục: “Học để biết; Học để làm
người; Học để chung sống với người khác; Học để làm việc”. [2] Điều đó giúp các
em tự tin, chủ động ứng xử linh hoạt các tình huống trong cuộc sống.
Trong sự phát triển nhân cách của học sinh, việc rèn luyện kỹ năng sống là
đảm bảo cho học sinh có được bản lĩnh rõ ràng về nhân cách toàn diện. Nếu không
rèn kỹ năng sống thì không những sự ứng xử trong các tình huống sẽ phức tạp, gặp
khó khăn, thậm chí mắc phải sai lầm, mà việc hình thành nhân cách toàn diện của
trẻ bị hạn chế, phiến diện, việc xây dựng những thói quen hành vi dễ rơi vào chủ
nghĩa hình thức máy móc lí trí và tình cảm không thống nhất với nhau đó là lời nói
không đi đôi với việc làm thì dẫn đến hiện tượng lệch lạc về nhân sinh quan.
Ở bậc tiểu học, các môn học nhằm cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ
bản về các chuẩn mực hành vi xã hội gắn với những kinh nghiệm đạo đức để từ đó
giúp học sinh hình thành kỹ năng sống, biết phân biệt đúng sai, làm theo cái đúng,

ủng hộ cái đúng, đấu tranh với những biểu hiện sai trái, xấu xa, thôi thúc các em
hành động theo chuẩn mực đạo đức và thói quen đạo đức. Chính vì vậy việc rèn kỹ
năng sống ở bậc tiểu học là một nhiệm vụ quan trọng mà người làm công tác giáo
dục cần quan tâm.
Nội dung giáo dục kỹ năng sống là một nội dung mới đối với học sinh Tiểu
học - đặc biệt đối với vùng khó khăn như trường Tiểu học Thành Tân, bởi vậy
nhiều giáo viên còn thấy lúng túng, bỡ ngỡ, gặp nhiều khó khăn trong việc xác
định tên gọi kỹ năng, cũng như cách tiến hành dạy học. Là người được phân công
phụ trách về hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp của nhà trường, tôi rất quan tâm
3


đến vấn đề này, theo quan điểm của tôi, nội dung giáo dục kỹ năng sống cho học
sinh Tiểu học không chỉ được tích hợp ở các môn học mà nó còn thể hiện rất rõ nét
ở các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp. Với mong muốn rằng học sinh của
trường mình sẽ tự tin hơn, có đủ kỹ năng trong học tập cũng như trong giao tiếp
hằng ngày, tôi luôn trăn trở tìm ra các biện pháp chỉ đạo, quản lý, hướng dẫn giáo
viên, giúp cho tất cả giáo viên trong trường rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh
một các tốt nhất. Qua hai năm, tôi nhận thấy việc làm của mình đã đem lại hiệu
quả rất thiết thực, do đó tôi xin được chia sẻ: “Một số biện pháp chỉ đạo giúp giáo
viên rèn kỹ năng sống cho học sinh trường Tiểu học Thành Tân”.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Tôi nghiên cứu đề tài này với mục đích nhằm giới thiệu, chia sẻ một số kinh
nghiệm về rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh của trường thuộc vùng đặc biệt
khó khăn tới tất cả giáo viên trường Tiểu học Thành Tân cùng các bạn đồng
nghiệp, mong muốn việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trong nhà trường đạt
hiệu quả.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Giáo viên, học sinh trường Tiểu học Thành Tân.
- Một số biện pháp quản lí và tổ chức giúp giáo viên rèn kỹ năng sống cho

học sinh
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp Nghiên cứu tài liệu
- Phương pháp Quan sát
- Phương pháp Phỏng vấn
- Phương pháp Phân tích tổng hợp
- Phương pháp Thống kê
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN
2.1. Cơ sở lí luận cuả vấn đề giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Tiểu học
hiện nay.
Rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh là một việc làm hết sức cần thiết của xã
hội, trong đó trách nhiệm lớn nhất là từ phía nhà trường, các em học sinh không
chỉ cần học giỏi về kiến thức mà còn cần phải được tôi luyện những kỹ năng sống
qua đó tạo cho các em có một môi trường lành mạnh, an toàn, tích cực, vui vẻ,
trang bị cho các em vốn kiến thức, kỹ năng, giá trị sống để tự tin bước vào đời.
Ở nước ta, từ năm 2008, Bộ Giáo dục- Đào tạo đã phát động phong trào “ Xây
dựng trường học thân thiện- học sinh tích cực”, với yêu cầu tăng cường sự tham
gia một cách hứng thú của học sinh trong các hoạt động giáo dục trong nhà trường
và tại cộng đồng với thái độ tự giác, chủ động và ý thức sáng tạo. Cùng với đó là
Thông tư số 04/2014/TT-BGDĐT ngày 28/2/2014 ban hành quy định về quản lý
hoạt động giáo dục kỹ năng sống và hoạt động ngoài giờ chính khóa; Công văn số
1490/SGDĐT-GDTH ngày 11/8/2015, về việc Hướng dẫn tổ chức hoạt động giáo
dục ngoài giờ lên lớp ở Tiểu học. Trong nhiều năm qua, các nhà trường trên cả
nước đã và đang hưởng ứng rất tích cực.
4


Từ năm học 2016-2017, Sở giáo dục & Đào tạo Thanh Hóa đã có Công văn
số 1751/SGDĐT-GDTH, ngày 5/9/2016 về việc Hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ
năm học cấp Tiểu học; Tiếp đó, ngày 6/9/2016, phòng Giáo dục và Đào tạo huyện

Thạch Thành đã ra công văn số 355/PGDĐT-GDTH, về việc Hướng dẫn thực hiện
nhiệm vụ năm học cấp Tiểu học, trong đó có nội dung: Tiếp tục thực hiện sáng tạo
các nội dung của hoạt động “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”,
chú trọng các hoạt động giáo dục Kỹ năng sống: Giáo dục đạo đức, kỹ năng sống
cho học sinh thông qua các môn học, hoạt động giáo dục và xây dựng quy tắc ứng
xử văn hoá. Nhà trường chủ động phối hợp với gia đình và cộng đồng cùng tham
gia chăm sóc giáo dục đạo đức và kỹ năng sống cho học sinh.
Kỹ năng sống là những trải nghiệm có hiệu quả nhất, giúp giải quyết hoặc
đáp ứng các nhu cầu cụ thể, trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của con
người. Kỹ năng sống bao gồm cả hành vi vận động của cơ thể và tư duy trong não
bộ của con người. Kỹ năng sống có thể hình thành một cách tự nhiên, thông qua
giáo dục hoặc rèn luyện của con người.
Trong giáo dục tiểu học, kỹ năng sống có thể là một tập hợp những khả năng
được rèn luyện và đáp ứng các nhu cầu cụ thể của cuộc sống hiện tại.
Mục tiêu giáo dục là nhằm “giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu
cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các
kỹ năng cơ bản, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam Xã hội Chủ
nghĩa”. [5]
Yêu cầu về nội dung giáo dục tiểu học phải đảm bảo cho học sinh có hiểu
biết đơn giản, cần thiết về tự nhiên, xã hội và con người; có kỹ năng cơ bản về
nghe, nói, đọc, viết và tính toán; có thói quen rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh;
có hiểu biết ban đầu về nghệ thuật.
Rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh là nhằm giúp các em rèn luyện kỹ
năng ứng xử thân thiện trong mọi tình huống; thói quen và kỹ năng làm việc theo
nhóm, kỹ năng hoạt động xã hội; Giáo dục cho học sinh thói quen rèn luyện sức
khỏe, ý thức tự bảo vệ bản thân, phòng ngừa tai nạn giao thông, đuối nước và các
tệ nạn xã hội. Đối với học sinh Tiểu học việc hình thành các kỹ năng cơ bản trong
học tập và sinh hoạt là vô cùng quan trọng, nó ảnh hưởng đến quá trình hình thành
và phát triển nhân cách sau này. [5]
Kỹ năng sống là những trải nghiệm hiệu quả nhất, giúp giải quyết hoặc đáp

ứng các nhu cầu cụ thể trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của con người. Kỹ
năng sống được chia làm hai loại: Kỹ năng cơ bản và kỹ năng nâng cao.
Kỹ năng cơ bản gồm: Kỹ năng nghe, nói, đọc, viết, múa, hát, chạy, nhảy, đi,
đứng,…
Kỹ năng nâng cao là sự kế thừa và phát triển các kỹ năng cơ bản dưới một
dạng thức mở hơn. Nó bao gồm: Các kỹ năng tư duy logic, sáng tạo, suy nghĩ
nhiều chiều, phân tích, tổng hợp, so sánh, nêu khái niệm, đặt câu hỏi,…Có thể chia
các kỹ năng nâng cao thành hai nhóm:
Nhóm kỹ năng giao tiếp-hòa nhập cuộc sống: Các em biết giới thiệu về bản
thân, về gia đình, về trường lớp học và bạn bè thầy cô giáo; Biết chào hỏi lễ phép
trong nhà trường, ở nhà và nơi cộng đồng; Biết nói lời cảm ơn, xin lỗi; Biết phân
5


biệt hành vi đúng sai, phòng tránh tai nạn- Đây là kỹ năng quan trọng mà không
phải em nào cũng xử lí được nếu không được rèn luyện thường ngày.
Nhóm kỹ năng học tập, lao động-vui chơi giải trí: Các kỹ năng nghe, nói, đọc,
viết, kỹ năng quan sát, kỹ năng đưa ra ý kiến chia sẻ trong nhóm bạn; Kỹ năng giữ
gìn vệ sinh cá nhân, vệ sinh chung; Kỹ năng kiểm soát tình cảm-kỹ năng kìm chế
thói hư tật xấu sở thích cá nhân có hại cho bản thân và người khác, kỹ năng phát
huy sở trường và hạn chế sở đoản; Kỹ năng hoạt động nhóm trong học tập vui chơi
và lao động, kỹ năng tự bảo vệ bản thân và bạn bè, người thân.
Xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lý của học sinh Tiểu học là thích học hỏi, ưa
khám phá, dễ hình thành và tiếp thu nhanh, chính vì vậy, những kiến thức và kỹ
năng cần cung cấp và rèn luyện cho trẻ phải được chuẩn bị kĩ lưỡng và chính xác.
Ngày nay, do cuộc sống bị cuốn hút vào guồng quay của công việc, các bậc phụ
huynh ít có thời gian quan tâm giúp đỡ con em trong các hoạt động cần thiết, làm
cho các em rất rụt rè, thiếu tự tin khi giao tiếp hoặc ngại tham gia vào các hoạt
động tập thể. Bên cạnh đó, những trò chơi điện tử từ tivi, điện thoại hoặc hệ thống
ảo trên Internet lại đang phát triển rất ồ ạt, có mặt ở mọi nơi, khiến học sinh bị

cuốn hút vào theo. Chính những điều này đã làm cho các em xa rời với môi trường
sống thực tế và thiếu sự tương tác giữa con người với con người, kỹ năng xã hội
của học sinh ngày càng kém, ước mơ hoài bão ít được xây dựng. Điều này dẫn đến
tình trạng học sinh trở nên ích kỉ, có cuộc sống khép kín, không quan tâm đến cộng
đồng, ít chia sẻ cảm xúc cá nhân, ý chí phấn đấu giảm. Câu hỏi mà những người
quan tâm đến giáo dục thế hệ trẻ thường đặt ra là ngoài những kiến thức phổ thông
về Toán, Tiếng việt, khoa học, nhân văn, học sinh cần học những điều gì để giúp
các em hội nhập với xã hội, lớn lên trở thành những công dân có ích cho cộng
đồng. Vì thế, đây cũng là nỗi quan tâm, lo lắng, trăn trở đặt ra cho những người
làm công tác giáo dục- đặc biệt là ở vùng có điều kiện đặc biệt khó khăn, cần phải
có mối quan tâm chặt chẽ từ nhà trường đến gia đình và xã hội, vấn đề giáo dục kỹ
năng sống cho trẻ cũng cần phải được quan tâm đặc biệt.
2.2 Thực trạng của vấn đề giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trường
Tiểu học Thành Tân
2.2.1. Vài nét về tình hình địa phương và nhà trường:
Trường Tiểu học Thành Tân của xã Thành Tân thuộc vùng đặc biệt khó khăn
của huyện Thạch Thành, xã có 11 thôn với khoảng hơn 7.000 nhân khẩu, có 2 dân
tộc chính cùng chung sống với nhau đó là dân tộc Kinh và dân tộc Mường, dân tộc
Mường chiếm khoảng 70% dân số. Tình hình kinh tế-xã hội của địa phương còn
gặp nhiều khó khăn, phát triển chậm, trình độ dân trí chưa đồng đều và còn thấp,
dân số tương đối đông và sự phân bố dân cư không tập trung, chủ yếu phân bố theo
tập quán canh tác của người dân, nhiều gia đình ở sâu trong nương, rẫy. Chính vì
vậy, công tác giáo dục gặp rất nhiều khó khăn, hiệu quả giáo dục phụ thuộc rất
nhiều vào người thầy. Học sinh đến tuổi đến trường nhưng sự phát triển ngôn ngữ
còn nhiều hạn chế( vì chủ yếu là học sinh dân tộc thiểu số), vốn từ ít, các em còn
nhút nhát, thiếu tự tin trong giao tiếp nên ảnh hưởng rất nhiều đến kết quả học tập,
rèn luyện của học sinh. Đặc biệt là kỹ năng giao tiếp của học sinh còn nhiều hạn
chế.
6



Về đội ngũ giáo viên, nhà trường hiện có 28 đồng chí, trong đó: Giám hiệu 3,
giáo viên văn hoá: 17, giáo viên Ngoại ngữ: 2, giáo viên đặc thù: 4 và nhân viên: 2.
Đa số giáo viên đạt trình độ chuẩn và trên chuẩn, có tư tưởng vững vàng, đạo đức
nghề nghiệp trong sáng, có trình độ chuyên môn vững vàng, nên việc tiếp cận với
những nội dung và phương pháp dạy học theo hướng đổi mới tương đối thuận lợi.
2.2.2. Thực trạng của vấn đề giáo dục kỹ năng sống cho học sinh của nhà
trường.
Trong những năm gần đây, công tác xã hội hoá giáo dục được đẩy mạnh, công
tác tuyên truyền, khuyến học phát triển, cùng với sự cố gắng của đội ngũ giáo viên,
nhận thức của người dân đã có nhiều thay đổi, nhờ đó chất lượng giáo dục của nhà
trường đang từng bước được nâng lên một cách rõ rệt.
Tuy nhiên, thực tế việc rèn kỹ năng sống cho học sinh còn gặp nhiều khó
khăn, hạn chế và chưa có chuyển biến rõ rệt, nguyên do chính là trong tư tưởng của
giáo viên cũng như của phụ huynh chỉ chú trọng đến việc dạy kiến thức, việc rèn
kỹ năng sống cho học sinh chưa được đầu tư nhiều cả về thời gian và trí tuệ, một
phần giáo viên còn xem nhẹ tầm quan trọng của việc rèn kỹ năng sống cho học
sinh lớp mình đang dạy.
Về phía học sinh, do đặc điểm tâm sinh lý của học sinh Tiểu học, các em
thường nói trước quên sau và khả năng vận dụng những điều đã học áp dụng vào
thực tế chưa cao, với học sinh Tiểu học, tâm lý độ tuổi cho thấy rằng các em rất
hiếu động, đề cao nhu cầu hỏi đáp, không muốn bị áp đặt. Xong các em một mực
rất tin vào lời nói của thầy cô giáo, thầy cô bảo đọc, bảo chép thì cứ đọc cứ chép và
quá trình ấy cứ lặp đi lặp lại dẫn đến thói quen. [1]
Nếu nói rằng thầy cô giáo không quan tâm đến việc dạy và rèn kỹ năng sống
cho học sinh là không đúng, nhưng việc rèn kỹ năng sống ở đây thực sự chưa đúng
tầm, còn nhiều lơ là, đặc biệt là lồng ghép trong các hoạt động giáo dục ngoài giờ
lên lớp.
Trong một tiết dự giờ thăm lớp tại lớp 5A của trường, có sĩ số 26 em, khi giáo
viên nêu yêu cầu, tôi quan sát thấy các em cứ nhìn nhau và thì thào nhưng chẳng

thấy em nào giơ tay phát biểu ý kiến. Cuối tiết học tôi làm một cuộc trắc nghiệm
nhỏ, phát cho mỗi em một tờ phiếu có ghi câu hỏi: Ở các tiết học em có thường
xuyên phát biểu ý kiến xây dựng bài không? (Đây chính là kiểm tra kỹ năng tự
tin trong giao tiếp và kỹ năng biết đưa ra ý kiến chia sẻ) Kết quả thu được như
sau:

Phiếu thu vào
Biết nhưng không dám
Trả lời có
Trả lời không
nói
SL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
26
6
23,1%
15
57,7%
5
19,2%
Từ kết quả trên cho thấy rằng học sinh chưa tự tin trong học tập, chưa dám
mạnh dạn bày tỏ những suy nghĩ, những hiểu biết của mình, điều đó cũng có nghĩa
là kỹ năng sống của các em còn rất nhiều hạn chế. Với cương vị là một người quản
lý, tôi rất trăn trở về vấn đề này, đứng bên ngoài quan sát các em hoạt động rồi
tham gia vào các hoạt động học tập cũng như các hoạt động ngoài giờ lên lớp của

học sinh, bản thân tôi rút ra được một số biện pháp giúp giáo viên rèn kỹ năng
Phiếu
phát ra

7


sống cho học sinh đã được áp dụng ở trường tôi và thu được những chuyển biến rất
đáng khích lệ.
2.3 Các giải pháp đã thực hiện để giải quyết vấn đề.
2.3.1 Xác định nhiệm vụ cơ bản và phân công trách nhiệm trong việc giáo
dục kỹ năng sống cho học sinh
*Trách nhiệm của nhà trường
- Ban giám hiệu trao đổi với giáo viên để xác định mục tiêu của nhà trường,
kết quả mong đợi phù hợp với tiềm năng phát triển của học sinh và xây dựng kế
hoạch năm học cho phù hợp với từng độ tuổi ở từng khối lớp và phù hợp với đặc
điểm của chương trình.
- Tạo điều kiện cho giáo viên tổ chức tốt các họat động ngoài giờ lên lớp theo
thời gian biểu của nhà trường.
- Đưa nội dung về giáo dục kỹ năng sống vào các buổi sinh hoạt chuyên môn
chuyên đề qua các tài liệu, trao đổi với cha mẹ các em về các hành vi kỹ năng
sống , tạo cơ hội, tổ chức nhiều hoạt động nhằm giúp giáo viên tăng cường phối
hợp nhất quán với gia đình để dạy các em kỹ năng sống đạt hiệu quả.
*Trách nhiệm của giáo viên:
- Giáo viên cần tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích
sự chuyên cần, tích cực của học sinh, cần phải biết khai thác phát huy năng khiếu,
tiềm năng sáng tạo ở mỗi học sinh, vì mỗi học sinh là một nhân vật đặc biệt, phải
giáo dục học sinh như thế nào để các em cảm thấy thoải mái trong mọi tình huống
của cuộc sống.
- Cần thường xuyên tổ chức các họat động chăm sóc giáo dục các em một

cách thích hợp tuân theo một số quan điểm: Giúp các em phát triển đồng đều các
lĩnh vực: thể chất, ngôn ngữ, nhận thức, tình cảm- xã hội và thẩm mỹ. Phát huy
tính tích cực của các em, giúp các em hứng thú, chủ động khám phá tim tòi, biết
vận dụng vốn kiến thức, kỹ năng vào việc giải quyết các tình huống khác nhau.
- Giáo viên cần giúp học sinh có được những mối liên kết mật thiết với những
bạn khác trong lớp, biết chia sẻ chăm sóc, trẻ cần phải học về cách hành xử, biết
lắng nghe, trình bày và diễn đạt được ý của mình khi tham gia vào trong các nhóm
học sinh khác nhau, giúp các em luôn cảm thấy tự tin khi tiếp nhận các thử thách
mới. Điều này liên quan tới việc các em có cảm thấy thoải mái, tự tin hay không
đối với mọi người xung quanh, cũng như việc mọi người xung quanh chấp nhận
em học sinh đó như thế nào? Cần chuẩn bị cho học sinh sự tự tin, thoải mái trong
mọi trường hợp nhất là trong việc ăn uống để chúng ta không phải khó xử vì những
hành vi không đẹp của các em.
- Thường xuyên liên hệ với phụ huynh để kịp thời nắm bắt tình hình của các
em, trao đổi với phụ huynh những nội dung và biện pháp chăm sóc và giáo dục các
em tại nhà, bàn bạc cách giải quyết những khó khăn gặp phải.
Kỹ năng sống muốn có được trước hết phải có kiến thức, được rèn luyện
thành khả năng luôn luôn sẵn có trong mình để ứng xử. Do đó trong mỗi tiết dạy
giáo viên cần trang bị cho học sinh những kiến thức, kỹ năng về cuộc sống để các
em có thể thích ứng với cuộc sống, có thể tự mình xử lí mọi tình huống trên thực tế
một cách tốt nhất.
8


Các buổi hoạt động ngoài giờ lên lớp theo chủ đề với mục tiêu dạy kỹ năng
tập thể cho học sinh phần lớn do giáo viên Tổng phụ trách Đội đảm nhiệm cùng
với sự hỗ trợ của các giáo viên chủ nhiệm, đây là một số hoạt động bề nổi của nhà
trường và góp phần không nhỏ vào quá trình dạy kỹ năng sống cho học sinh.
2.3.2. Tuyên truyền, bồi dưỡng nâng cao nhận thức cho giáo viên về giáo
dục kỹ năng sống

Giáo dục kỹ năng sống là con đường để hình thành nhân cách toàn diện cho
học sinh, đặc biệt đối với học sinh Tiểu học, người giáo viên quan trọng là phải
nhận thức được rõ nét và sâu sắc vấn đề này. Ngay từ đầu năm, nhà trường đã tổ
chức triển khai một lần nữa chuyên đề: Rèn kỹ năng sống cho học sinh – đến toàn
thể giáo viên phụ trách các khối lớp, về thực trạng và giải pháp ở đơn vị trong việc
rèn kỹ năng sống cho học sinh bậc học tiểu học theo tài liệu do Bộ Giáo dục và
Đào tạo ban hành; Kế hoạch giáo dục kỹ năng sống cho học sinh của nhà trường
cũng được triển khai cụ thể và phát đến từng giáo viên; Trong một số buổi sinh
hoạt chuyên môn theo chuyên đề, tài liệu Giáo dục kỹ năng sống tại nhà trường
cũng được đưa ra để thảo luận từng mục, từng nhóm kỹ năng và tìm các giải pháp
cũng như đề ra các biện pháp tiến hành cho từng bài học, từng kỹ năng cụ thể, yêu
cầu giáo viên ghi chép những nội dung cần thiết vào sổ tích lũy chuyên môn
nghiệp vụ và phải coi đó như một cẩm nang nghề nghiệp, qua đó giúp giáo viên
hiểu được rằng chương trình học chính khoá thường cho trẻ tiếp xúc từ từ với các
kiến thức văn hoá trong suốt năm học, còn thực tế trẻ sẽ học tốt nhất khi có được
cách tiếp cận một cách cân bằng, biết cách phát triển các kỹ năng nhận thức, cảm
xúc và xã hội. Vì thế, khi trẻ tiếp thu được những kỹ năng giao tiếp xã hội và các
hành vi ứng xử cơ bản thì trẻ sẽ nhanh chóng sẵn sàng và có khả năng tập trung
vào việc học văn hoá một cách tốt nhất.
Để làm tốt được nội dung này, giáo viên cần xác định rõ những kỹ năng sống
cơ bản cần dạy trẻ ở lứa tuổi tiểu học:
Đối với tâm sinh lý trẻ em bậc tiểu học thì có nhiều kỹ năng quan trọng mà trẻ
cần phải biết trước khi tập trung vào học văn hoá đặc biệt là trẻ em độ tuổi lớp 1.
Theo tài liệu Giáo dục kỹ năng sống có 21 kỹ năng cơ bản được chia thành 4
nhóm. Thực tế kết quả của nhiều nghiên cứu đều cho thấy các kỹ năng quan trọng
nhất trẻ phải học vào thời gian đầu của năm học chính là những kỹ năng như: sự
hợp tác, tự kiểm soát, tính tự tin, tự lập, khả năng thấu hiểu và giao tiếp. Việc xác
định được các kỹ năng cơ bản phù hợp với lứa tuổi sẽ giúp giáo viên lựa chọn đúng
những nội dung trọng tâm và cách thức phù hợp để dạy học sinh.
Cụ thể hóa nội dung của một số kỹ năng cơ bản mà giáo viên cần dạy trẻ:

+ Kỹ năng sống tự tin: Một trong những kỹ năng đầu tiên mà giáo viên cần
chú tâm là phát triển sự tự tin, lòng tự trọng của trẻ. Nghĩa là giúp trẻ cảm nhận
được mình là ai, cả về cá nhân cũng như trong mối quan hệ với những người khác.
Kỹ năng sống này giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin trong mọi tình huống ở mọi nơi.
+ Kỹ năng hợp tác: Bằng các trò chơi, câu chuyện, bài hát giáo viên giúp trẻ
học cách cùng làm việc với bạn, đây là một công việc không nhỏ đối với các em
học sinh lứa tuổi này. Khả năng hợp tác sẽ giúp các em biết cảm thông, chia sẽ và
cùng làm việc với các bạn.
9


+ Kỹ năng ham học hỏi, khả năng thấu hiểu: Đây là một trong những kỹ năng
quan trọng nhất cần có ở các em ở giai đoạn này là sự khát khao được học hỏi,
được tìm hiểu. Giáo viên cần sử dụng nhiều tư liệu và ý tưởng khác nhau để khêu
gợi tính tò mò tự nhiên của các em. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng, các câu
chuyện hoặc các hoạt động và tư liệu mang tính chất khác lạ thường khêu gợi trí
não nhiều hơn là những thứ có thể đoán trước được.
+ Kỹ năng giao tiếp: Giáo viên cần dạy trẻ biết thể hiện bản thân và diễn đạt ý
tưởng của mình cho người khác hiểu, trẻ cần cảm nhận được vị trí, kiến thức của
mình trong thế giới xung quanh nó. [3] Đây là một kỹ năng cơ bản và khá quan
trọng đối với trẻ. Nó có vị trí chính yếu khi so với tất cả các kỹ năng khác như đọc,
viết, làm toán và nghiên cứu khoa học. Nếu các em cảm thấy thoải mái khi nói về
một ý tưởng hay chính kiến nào đó, các em sẽ trở nên dễ dàng học và sẽ sẵn sàng
tiếp nhận những suy nghĩ mới. Đây chính là yếu tố cần thiết để giúp học sinh sẵn
sàng học mọi thứ.
2.3.3. Chỉ đạo giáo viên tổ chức giáo dục kỹ năng sống qua các tiết dạy
học
Trong chương trình giáo dục Tiểu học, nội dung giáo dục kỹ năng sống được
lồng ghép tích hợp vào nhiều môn học như môn Tiếng Việt, môn Đạo đức, Tự
nhiên và Xã hội, Khoa học,…Ngoài ra, còn có tài liệu giáo dục kỹ năng sống riêng

được thực hiện theo thời khóa biểu hàng tuần.
Đối với nội dung giáo dục kỹ năng sống qua các tiết dạy học, nhà trường đã
chỉ đạo giáo viên nghiêm túc thực hiện triệt để đầy đủ các nội dung và yêu cầu, tổ
chức những giờ học sao cho các em được làm để học, được trải nghiệm như trong
cuộc sống thực.
Chẳng hạn: Trong chương trình môn Tiếng Việt có nhiều bài học có thể giáo
dục kỹ năng sống cho các em, đó là các kỹ năng giao tiếp xã hội, như: Viết thư,
Điền vào giấy tờ in sẵn, Giới thiệu địa phương, Kể chuyện,... được lồng ghép cụ
thể qua các tình huống giao tiếp. Để hình thành những kiến thức và rèn luyện kỹ
năng sống cho học sinh qua môn Tiếng Việt, người giáo viên cần phải vận dụng
nhiều phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học
sinh; Ở môn Đạo đức, để các chuẩn mực đạo đức, pháp luật xã hội trở thành tình
cảm, niềm tin, hành vi và thói quen của học sinh, giáo viên phải tạo cơ hội để học
sinh thực hành, trải nghiệm nhiều kỹ năng sống cần thiết, phù hợp với lứa tuổi. Đó
là lối sống lành mạnh, các hành vi ứng xử phù hợp với nền văn minh xã hội. Lối
sống, hành vi như gọn gàng, ngăn nắp, nói lời hay, chăm sóc bố mẹ, ông bà, hợp
tác, giúp đỡ, chia sẻ với bạn bè…; Ở môn Khoa học: Chương “Con người và sức
khỏe”, các bài: “Con người cần gì để sống? Vai trò của các chất dinh dưỡng có
trong thức ăn; Phòng một số bệnh do thiếu chất dinh dưỡng; Phòng bệnh béo phì;
Phòng tránh tai nạn đuối nước;...” giáo dục các em hiểu rằng ăn uống đủ chất và
hợp lí giúp cho chúng ta khoẻ mạnh, biết phòng tránh một số bệnh lây qua đường
tiêu hóa, biết những việc nên làm và không nên làm để phòng tránh tai nạn đuối
nước, có ý thức tự giác làm vệ sinh cá nhân hằng ngày, tự giác thực hiện nếp sống
vệ sinh, khắc phục những hành vi có hại cho sức khoẻ. Biết tham gia các hoạt động
và nghỉ ngơi một cách hợp lí để có sức khoẻ tốt. [4]
10


Để làm tốt được những việc này, yêu cầu giáo viên cần phải có sự đầu tư về
thời gian, phải nghiên cứu kĩ lưỡng từng bài dạy, từng nội dung của tiết dạy, khi

cần thiết sẽ được trao đổi trong các buổi sinh hoạt chuyên môn của tổ khối hoặc
của nhà trường.
2.3.4. Chỉ đạo giáo viên tổ chức giáo dục kỹ năng sống qua các hoạt
động giáo dục ngoài giờ lên lớp
Nội dung phong trào“ Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”,
trong đó có nội dung: Nhà trường cần tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể
dục, thể thao một cách thiết thực, khuyến khích sự tham gia chủ động, tự giác của
học sinh. Tổ chức các trò chơi dân gian và các hoạt động vui chơi giải trí tích cực
khác phù hợp với lứa tuổi của học sinh.
Căn cứ vào nội dung trên, nhà trường đã đã xây dựng kế hoạch và thực hiện
nhiều hoạt động một cách thiết thực, khuyến khích sự tham gia chủ động, tự giác
của trẻ. Cụ thể như sau:
Phát động giáo viên làm đồ chơi dân gian; sưu tầm các bài hát, điệu múa thể
loại dân ca cho học sinh phù hợp theo từng lứa tuổi .
- Chỉ đạo thống nhất lịch hoạt động ngoài giờ lên lớp, qua đó giáo viên tăng
cường tổ chức cho học sinh tham gia các trò chơi dân gian; đồng thời, phát động
phong trào sưu tầm các bài ca tiếng hát dân ca và các điệu múa để tập luyện cho
học sinh.
Duy trì việc sinh hoạt ngoài giờ lên lớp theo chủ đề, chủ điểm, mỗi tuần một
khối lớp.
Tổ chức các cuộc thi trò chơi dân gian, hội thi tiếng hát dân ca, hội thi vẽ về
đề tài môi trường của em. Huy động và tạo điều kiện để có sự tham gia hoạt động
đa dạng và phong phú của cha mẹ các em, các tổ chức, lực lượng xã hội, cá nhân
trong việc giáo dục văn hóa, truyền thống, giáo dục lòng yêu nước cho học sinh .
Tổ chức cho giáo viên và học sinh tham gia giao lưu văn nghệ, thể thao nhân
dịp đầu xuân.
Tổ chức hội thi “Kể chuyện Bác Hồ”. Đồng thời hàng tuần vào sáng thứ Hai
tổ chức cho toàn trừơng chào cờ, hát Quốc ca qua đó giáo dục trẻ lòng yêu quê
hương, đất nước, yêu Bác Hồ.
Đặc biệt, trong năm học 2018-2019, nhà trường đã đưa hoạt động ngoại khóa

mới vào hoạt động và học sinh rất hào hứng tham gia, đó là Hội khỏe phù đổng cấp
trường , hoạt động này không những tạo cho học sinh kỹ năng tự tin mà còn lựa
chọn được nhiều học sinh có năng khiếu tham gia giao lưu cấp huyện. Để làm tốt
được mảng hoạt động này trong nhà trường, cần nâng cao và phát huy hơn nữa vai
trò của tổ chức Đội: Hoạt động Đội gắn liền với hoạt động học tập của học sinh
trong nhà trường, học sinh toàn trường được tham gia ít nhất 02 buổi hoạt động
ngoại khoá riêng về giáo dục kỹ năng sống do Đội TNTP Hồ Chí Minh nhà trường
tổ chức. Căn cứ vào những hạn chế cụ thể về kỹ năng sống của học sinh, tổ chức
Đội sẽ phát động các phong trào thi đua rèn kỹ năng sống trong toàn Liên Đội, tạo
động lực lớn để học sinh rèn luyện và phấn đấu.
2.3.5. Chỉ đạo giáo viên làm tốt công tác phối hợp với với gia đình và các đoàn
thể xã hội khác trong xã
11


Có thể thấy, học sinh thường dễ dàng kết bạn khi chơi theo đôi bạn trong môi
trường của riêng chúng hơn là chơi trong một nhóm bạn tại trường. Nhiều giáo
viên thấy rằng, một số học sinh có khó khăn trong việc kết bạn hoặc chia sẻ với
bạn theo nhóm, lại có thể hình thành mối liên kết thân thiết với bạn mới trong môi
trường gia đình của trẻ. Cha mẹ có thể giúp trẻ phát triển kỹ năng cảm xúc bằng
cách tạo ra các mối liên kết bạn bè tại gia đình. Cha mẹ hãy hỏi con muốn mời ai
về nhà chơi? Mối quan hệ này được duy trì khi đến trường, khi có được mối liên
kết với một học sinh nào đó trong lớp, các mối quan hệ khác sẽ hình thành tiếp
theo một cách dễ dàng hơn.
Tuyên truyền để cha mẹ các em không nên bực bội khi các em về đến nhà
hoặc cho rằng các em chỉ biết chơi suốt ngày. Cha mẹ cần có niềm tin với sự
hướng dẫn của giáo viên và năng khiếu tò mò bẩm sinh của học sinh và các em có
thể lĩnh hội kinh nghiệm nhằm giải quyết các vấn đề quan trọng, đọc, làm toán, thử
nghiệm một số kỹ năng khoa học khi chơi với nhau.
Cha mẹ các em cần phối hợp với giáo viên một cách chặt chẽ và hợp lý bằng

việc tham gia tình nguyện vào quá trình giáo dục trong nhà trừơng. Cha mẹ nên
tham gia vào các buổi trao đổi với giáo viên, tham gia các buổi họp của nhà trường
và một số hoạt động ngoại khoá, chỉ bằng cách đó cha mẹ đã giúp các em hiểu
rằng học là phải học cả đời, là cả một quá trình gian nan vất vả..
Cần giáo dục để các em cảm thấy thoải mái tự tin trong mọi tình huống của
cuộc sống. Nếu cha mẹ muốn giáo dục con em biết tự giữ kỷ luật, trước hết cần
đánh thức sự tự ý thức của các em, cố gắng khơi gợi để các em luôn nghĩ về bản
thân mình một cách tích cực và đừng bao giờ phá vỡ suy nghĩ tích cực về bản thân
các em.
Trong gia đình, việc dạy con em những nghi thức văn hóa trong ăn uống rất
cần thiết. Để các em có được những kĩ xảo, thói quen sử dụng đồ dùng một cách
chính xác thuần thục và khéo léo, không chỉ đòi hỏi các em phải thường xuyên
luyện tập, mà còn phải đáp ứng được những nhu cầu chính đáng, đó là cung cấp
cho các em những mẫu hành vi văn hóa, những hành vi đúng, đẹp, văn minh của
chính cha mẹ và những người xung quanh các em.
Trước hết, người lớn phải gương mẫu, yêu thương, tôn trọng, đối xử công
bằng với các em và đảm bảo an toàn cho các em. Tạo điều kiện tốt nhất cho các em
vui chơi.
Cần tạo các tình huống vui chơi trong chế độ sinh hoạt và học tập hàng ngày
của các em. Vì đối với học sinh bậc học tiểu học, trò chơi có một vai trò rất quan
trọng trong việc rèn kỹ năng sống. Các em lớn lên, học hành và khám phá thông
qua trò chơi. Các hành động chơi đòi hỏi các em phải suy nghĩ, giải quyết các vấn
đề, thực hành các ý tưởng.
Ví dụ: Giáo viên có thể giới thiệu với các em về chữ cái và các con số thông
qua các trò chơi đóng vai, các trò chơi xây dựng, các trải nghiệm Tiếng Việt và
Âm nhạc; Liên tục đọc sách, trò chuyện, kể chuyện cho các em nghe.
Giáo viên cần tranh thủ đọc sách cho các em nghe trong mọi tình huống như
những lúc sinh hoạt đầu giờ, hoặc đọc sách cho các em nghe trong giờ sinh hoạt
lớp.
12



Tăng cường kể cho các em nghe những câu chuyện cổ tích qua đó rèn luyện
đạo đức cho các em, giúp các em hoàn thiện mình, dạy các em yêu thương bạn bè,
yêu thương con người. Tạo hứng thú cho các em qua các truyện bằng tranh tùy
theo lứa tuổi, gợi mở tính tò mò, ham học hỏi, phát triển khả năng thấu hiểu ở trẻ.
Ví dụ: Khi dạy bài tập đọc “mưu chú sẻ” giáo viên đặt những câu hỏi gợi mở
như: khi sẻ bị mèo chộp được sẻ đã nói gì với mèo? Tại sao một người sạch sẽ như
anh trước khi ăn sáng lại không rửa mặt….
Cô giáo, cha mẹ nên khuyến khích các em nói lên quan điểm của mình , nói
chuyện với các thành viên trong lớp, trong gia đình về cảm giác và về những lựa
chọn của mình, cần giúp các em hiểu rằng nên có thông số để theo đó mà lựa chọn,
cố gắng không chỉ trích quyết định của các em . Việc này sẽ hình thành kỹ năng tự
kiểm soát bản thân, rèn luyện tính tự tin cho tcác em khi tham gia các hoạt động
và các buổi thảo luận tại trường sau này.
Cô giáo, cha mẹ giúp các em phát triển sở thích, ý thích của mình và đảm bảo
rằng người lớn có thể cung cấp thêm phương tiện để các em thực hiện ý thích đó.
Ví dụ như một số học sinh thích vẽ, ngoài việc cho các em học năng khiếu vẽ
thì cô giáo, cha mẹ có thể cho các em thêm bút màu, giấy vẽ và hãy chỉ cho các em
cách lưu giữ các bức tranh để tạo thành một bộ sưu tập tranh vẽ của chính các em
hoặc triển lãm tranh của các em ở góc nhỏ trong lớp.
Cô giáo, cha mẹ cần dạy các em những nghi thức văn hóa trong ăn uống,
biết cách sử dụng các đồ dùng ăn uống; Cụ thể: Trẻ được làm quen với những đồ
dùng, vật dụng khác nhau, (bộ đồ bếp, bộ đồ ăn, bộ đồ uống). Sự sạch sẽ, gọn
gàng, một thói quen nề nếp, sự sắp đặt ngăn nắp, ngay ngắn những bộ đồ dùng, vật
dụng, thái độ, ăn uống từ tốn, không vội vã, không khí cởi mở, thoải mái và đầm
ấm, những cuộc trao đổi nhẹ nhàng, dễ chịu… tất cả những yếu tố trên sẽ giúp các
em có thói quen tốt để hình thành kỷ năng tự phục vụ và ý nghĩa hơn là kỹ năng
sống tự lập sau này.
Bên cạnh đó, các giáo viên chủ nhiệm, đặc biệt là giáo viên Tổng phụ trách

Đội nên phối hợp chặt chẽ với các tổ chức Đoàn Thanh niên, Hội phụ nữ của xã để
cùng phối hợp, tuyên truyền, tổ chức các hoạt động vui tươi, lành mạnh, bổ ích tại
các địa bàn dân cư để học sinh được tham gia, qua đó cũng giúp ích rất nhiều trong
việc rèn kỹ năng sống cho học sinh.
2.3.6. Đổi mới tiết chào cờ đầu tuần và tiết sinh hoạt cuối tuần
* Đổi mới cách tổ chức các buổi chào cờ đầu tuần
Từ năm học 2017-2018, Ban giám hiệu cũng đã có ý tưởng xây dựng đổi mới
các buổi chào cờ đầu tuần, qua nhiều trăn trở, suy nghĩ, tìm hiểu tài liệu, đến đầu
năm học 2018-2019 nhà trường đã mạnh dạn áp dụng và hiệu quả đem lại rất đáng
khích lệ. Mục tiêu của buổi chào cờ đầu tuần không chỉ còn đơn thuần là đánh giá
xếp loại nền nếp, học tập, các hoạt động giáo dục trong nhà trường mà hình thức
buổi lễ đã được thay đổi một cách sáng tạo. Ngoài những nội dung nhận xét và
triển khai thông thường, nội dung Giáo dục kỹ năng sống đã được lồng ghép đưa
vào, mỗi tuần Ban giám hiệu sẽ chuẩn bị một chương trình theo một chủ đề nhất
định có nội dung tương ứng với một kỹ năng cần rèn luyện cho học sinh. Chẳng
hạn: Chủ đề ước mơ của em; Học cho ai; “Tiên học lễ-Hậu học văn”; Lá lành đùm
13


lá rách; …Câu chủ đề sẽ được chiếu lên màn hình máy chiếu, dưới sự điều hành, tổ
chức của giáo viên Tổng phụ trách Đội và sự có mặt tham gia của tất cả giáo viên
trong trường, các em được tự do bày tỏ ý kiến suy nghĩ của mình dưới sự dẫn dắt,
khích lệ của người tổ chức. Vài buổi đầu cũng gặp khó khăn vì học sinh chưa quen,
chưa mạnh dạn hưởng ứng nhưng những tuần tiếp theo, không khí của buổi chào
cờ khác hẳn, học sinh rất hào hứng mong chờ.
*Đổi mới hình thức sinh hoạt lớp cuối tuần - Có đánh giá hoạt động Giáo
dục kỹ năng sống
Tiết sinh hoạt lớp cuối tuần nhằm đánh giá hoạt động học tập và rèn luyện của
học sinh trong tuần, được sự chỉ đạo của Ban giám hiệu, giáo viên chủ nhiệm
thống nhất với giáo viên Tổng phụ trách Đội phối hợp đánh giá hoạt động giáo dục

kỹ năng sống của học sinh trong tuần, tuyên dương học sinh trước cờ trong buổi
chào cờ đầu tuần.
Để công việc này được duy trì thường xuyên và thực hiện tốt, trong các buổi
sinh hoạt chuyên môn, thảo luận về vấn đề giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, tôi
đã chỉ đạo hướng dẫn giáo viên thực hiện kế hoạch giáo dục, kế hoạch đánh giá
học sinh bằng việc trang bị cho mỗi lớp 1 bản roki để đánh giá học sinh, kiểu dáng
trang trí đẹp, mỗi trẻ có mỗi biểu mẫu đánh giá riêng nhằm giúp giáo viên quan sát
ghi chép hàng ngày từng chi tiết về sự tiến bộ của các em, các mối quan hệ với
thầy cô, với bạn bè, ghi chép những kỹ năng học sinh đạt được trong mỗi ngày làm
căn cứ, thước đo để đánh giá cuối mỗi độ tuổi của mỗi lớp. Cũng từ biện pháp này,
giáo viên sẽ có điều kiện lưu trữ dữ liệu, sản phẩm để đánh giá học sinh, đồng thời
có cơ sở để thay đổi, bổ sung các biện pháp giáo dục từng học sinh và giúp các em
hình thành các kỹ năng sống cơ bản.
Để giúp giáo viên có thêm cơ sở cho việc đánh giá học sinh, nhằm tạo môi
trường thuận lợi cho việc thực hiện nhiệm vụ rèn kỹ năng sống, nhà trường đã tạo
điều kiện giúp giáo viên và học sinh tăng cường đọc sách, trang bị sách thư viện:
sách Bác Hồ, sách Lịch sử, và các loại sách khác ….trang trí đẹp với nhiều tên gọi
khác nhau theo chủ đề : “tủ sách Bác Hồ ”; “tủ sách lịch sử ”; “câu đố vui ”;
“những con vật đáng yêu”; “hoa trái bốn mùa”; …thiết kế phân chia nhiều ngăn để
sách, nhiều kích cỡ, vừa tầm các em, trang bị ghế, xây dựng thư viện xanh, thư
viện ngoài trời, tạo điều kiện để thầy cô giáo, các em học sinh có thể đọc sách bất
kỳ lúc nào tại nhiều thời điểm trong ngày. Tổ chức thảo luận về chủ đề “Trường
học thân thiện- Học sinh tích cực”, về thực trạng và giải pháp ở trường tạo điều
kiện giúp giáo viên nhận ra những ưu điểm, hạn chế, thuận lợi, khó khăn cùng trao
đổi các biện pháp thực hiện. Đây cũng là cơ hội giúp tôi đúc rút kinh nghiệm mà
tôi đang nghiên cứu, khai thác để đánh giá kết quả, rút ra bài học kinh nghiệm và
hoàn chỉnh thành văn bản.
Trang trí ở các gốc cây trong sân trường các khẩu hiệu nhắc nhở giáo viên,
người lớn phải gương mẫu như: “Yêu thương, tôn trọng học sinh, giữ lời hứa với
học sinh ”; “Mỗi cô giáo là tấm gương sáng về đạo đức, tự học, sáng tạo” bằng

chính hình ảnh giáo viên và học sinh của trường. Điều đó góp phần không nhỏ vào
việc giúp học sinh thấy mình được đùm bọc, che chở, yêu thương và tôn trọng, từ
đó các em sẽ tự tin thể hiện mình trong học tập và rèn luyện cả khi ở trường cũng
như ở nhà.
14


2.3.7. Tổ chức các hoạt động dã ngoại cho học sinh được trải nghiệm thực
tế:
Hoạt động dã ngoại cũng là một việc làm rất cần thiết trong việc giáo dục kỹ
năng sống cho học sinh, các em được đi ra ngoài, đồng nghĩa với việc tiếp cận với
một môi trường mới, rộng mở hơn, được trải nghiệm nhiều điều mới lại dưới sự
dẫn dắt của thầy cô. Hoạt động này đã được các em học sinh và các bậc phụ huynh
hưởng ứng rất nhiệt tình. Từ năm học 2017-2018, nhà trường đã phối hợp với phụ
huynh, tổ chức nhiều buổi dã ngoại cho bọc sinh mang ý nghĩa giáo dục rất lớn,
như: Tổ chức cho học sinh thăm quan Quê Bác, thăm di tích Chiến khu Ngọc
Trạo,...qua đó học sinh trở nên thân thiện gần gũi hơn với thầy cô, mạnh dạn hơn
trong giao tiếp, tự tin nói lên nhận định và suy nghĩ của bản thân – đó là những
thành công rất lớn trong việc giá dục kỹ năng sống cho học sinh.
Tóm lại, hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Tiểu học là cả một
quá trình, hoạt động này chỉ thật sự có hiệu quả khi người thầy phải có tâm huyết,
sự kiên nhẫn và đặc biệt phải đầu tư thời gian. Và quan trọng hơn hết là cần có sự
phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và các tổ chức xã hội.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục
Từ những cố gắng nghiên cứu tài liệu, kinh nghiệm của bản thân, sự đồng
thuận hợp tác của tập thể sư phạm, sự ủng hộ tích cực của các bậc cha mẹ học sinh,
trong hai năm học qua, đã giúp nhà trường thu được một số kết quả trong việc dạy
các kỹ năng sống cơ bản thể hiện ở các kết quả sau:
2.4.1. Kết quả từ phía học sinh:
Cuối năm học, kết quả khảo sát qua quan sát và qua các tiết học:

+ Nội dung khảo sát: Kỹ năng mạnh dạn tự tin – Khảo sát qua hoạt động biểu
diễn trong một tiếp học Âm nhạc. Kết quả thu được như sau:
Lớp
Tổng số
Mạnh dạn, tự tin
Nhút nhát, dụt dè Ghi chú
học sinh
SL
TL
SL
TL
5A

32

28

87.5%

4

12%

+ Nội dung khảo sát: Kỹ năng hợp tác qua việc thảo luận nhóm – Khảo sát
qua quan sát học sinh thực hành thảo luận nhóm trong một tiết Đạo đức:
Tổng
Biết lắng nghe,
Chưa biết lắng nghe,
Ghi chú
Lớp

số học
hợp tác
hợp tác
sinh
SL
TL
SL
TL
5A

32

29

90.5%

3

9.5%

- 100% học sinh có thói quen lao động tự phục vụ, được rèn luyện kỹ năng tự
lập; kỹ năng nhận thức; kỹ năng vận động nhỏ, vận động tinh thông qua các hoạt
động hàng ngày trong cuộc sống của học sinh ; ngoài ra có 70% học sinh được rèn
kỹ năng tự kiểm soát bản thân, phát triển óc sáng tạo, tính tự tin thông qua các hoạt
động năng khiếu vẽ, thể dục , và các môn học khác .
15


- 100% trẻ được rèn luyện kỹ năng xã hội; kỹ năng về cảm xúc, giao tiếp;
chung sống hòa bình, và tuyệt đối không xảy ra bạo hành trẻ em ở trường cũng như

ở gia đình.
- 65% trẻ luôn có kết quả tốt trong học tập thông qua kết quả học tập cũng
như bảng theo dõi ở mỗi lớp , sau mỗi giai đoạn, qua kết quả kiểm tra đánh giá
chất lượng sau mỗi chủ đề đối với từng học sinh đạt khá và tốt: Mạnh dạn tự tin:
90%; kỹ năng hợp tác: 90%; kỹ năng giao tiếp 92,3%; tự lập, tự phục vụ: 99%; lễ
phép: 100%; kỹ năng vệ sinh: 92%; kỹ năng thích khám phá học hỏi : 86%; kỹ
năng tự kiểm soát bản thân: 90%
- Học sinh đi học đều hơn, tỷ lệ chuyên cần đạt từ 99% trở lên và ít gặp
khó khăn khi đến lớp, có kỹ năng lao động tự phục vụ cho bản thân, biết thương
yêu bạn bè trong cùng một mái trường ,biết giúp đỡ bạn cùng tiến.
2.4.2. Kết quả từ phía các bậc cha mẹ:
- Cha mẹ luôn coi trọng học sinh và tích cực tham gia vào các hoạt động giáo
dục học sinh ở nhà trường.
- Các bậc cha mẹ đã có thói quen liên kết phối hợp chặt chẽ với cô giáo trong
việc dạy trẻ các kỹ năng sống, trao đổi với giáo viên bằng nhiều hình thức thông
qua sổ liên lạc, bảng đánh giá học sinh ở lớp;
- Giao tiếp giữa cha mẹ và con cái tốt hơn, đa số cha mẹ dịu dàng, ít la mắng
học sinh , thay đổi trong cách rèn kỹ năng cho các em , phân việc cho các em,
không cung phụng thái quá…
- Cha mẹ cảm thấy mãn nguyện với thành công của học sinh, tin tưởng vào
kết quả giáo dục của nhà trường, thông cảm, chia sẻ những khó khăn của thầy cô
giáo, phụ giúp giáo viên trang trí lớp và các hoạt động khác.
2.4.3. Về phía giáo viên và nhà trường
Giáo viên thường xuyên gần gũi chuyện trò với học sinh, trả lời những câu
hỏi vụn vặt của các em, không la mắng, giải quyết hợp lý, công bằng với mọi tình
huống xảy ra giữa các em học sinh trong lớp.
Trong giảng dạy, chú ý đến hoạt động cá nhân, hoạt động nhóm nhiều hơn.
Mạnh dạn, tự tin điều khiển các cuộc họp phụ huynh học sinh, biết tự chuẩn
bị, phối hợp chặt chẽ, trao đổi thừơng xuyên với cha mẹ các em.
Trong hai năm qua, nhà trường đã tổ chức nhiều phong trào, hội thi, lễ hội

dành cho trẻ như: Lễ hội trăng rằm, hội thi tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi dân
gian, Tổ chức biểu diễn văn nghệ, tổ chức thi đấu bóng đá …..
Hiệu quả lớn nhất là nhà trường đã huy động được sự tham gia của cha mẹ
học sinh, lực lượng Đoàn xã, các lực lượng xã hội khác trong việc giáo dục văn
hóa, truyền thống cho học sinh, đồng thời đây là những cơ hội vàng dạy trẻ kỹ
năng sống.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Như đã trình bày ở các phần trên, giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trong
trường Tiểu học, đặc biệt là ở trường thuộc vùng đặc biệt khó khăn, điều kiện kinh
tế xã hội cũng như văn hóa còn nhiều hạn chế là một việc làm vô cùng khó, cần
16


phải đầu tư nhiều thời gian, công sức và cần phải được quan tâm đặc biệt. Với
những kết quả đạt được trong hai năm học qua, bản thân tôi mong muốn gửi đến
thầy cô giáo, cha mẹ học sinh những thông điệp mang tính thuyết phục với một số
điều cần làm và cần tránh nhằm giúp thầy cô giáo, cha mẹ các em những điều cơ
bản để rèn kỹ năng sống cho học sinh như sau:
1. Một số điều thầy cô giáo và các bậc cha mẹ cần làm, giúp con em rèn luyện
kỹ năng sống:
Điều cần làm trước hết là người lớn phải là tấm gương sáng, yêu thương, tôn
trọng, đối xử công bằng với trẻ và đảm bảo an toàn cho trẻ.
Nhân cách ý chí tình cảm của trẻ được hình thành thông qua vui chơi, vui
chơi để lớn lên. Vì thế, người lớn cần tạo cơ hội để trẻ chơi, từ đó giúp trẻ tìm ra
nhiều cách học khác nhau, những kinh nghiệm trẻ nhận được trong các trò chơi là
nền tảng tạo nên sự hăng hái học tập lâu dài ở trẻ, bởi trẻ nhận ra rằng, học vừa vui
mà vừa có ý nghĩa. Đồng thời, khi trẻ tham gia vào trò chơi hoặc công việc trẻ cần
biết lập kế hoạch chơi, kế hoạch làm việc sáng tạo với các cách chơi và cố gắng đạt
mục đích - đây chính là những kỹ năng cơ bản để sống và làm việc sau này.

2. Một số điều người lớn cần tránh khi dạy trẻ kỹ năng sống:
- Không hạ thấp các em : Cứ mỗi lần chúng ta nói những lời hạ thấp khả
năng các em là chúng ta đã phá vỡ những suy nghĩ tích cực về chính bản thân của
học sinh. Không nên tạo cho các em thói quen kiêu ngạo nhưng cũng không nên
nói những lời không hay đối với trẻ.
- Không doạ nạt: Người lớn cần nhớ rằng mỗi lần chúng ta doạ nạt là chúng ta
đã làm cho trẻ sợ hãi và căm giận người lớn. Sự đe doạ hoàn toàn có hại cho đứa
trẻ và sẽ không giúp cho hành vi của các em tốt hơn.
- Không bao bọc con trẻ một cách thái qúa sẽ làm các em yếu đuối: Cha mẹ
thường không đánh giá đúng khả năng của các em cho rằng các em còn nhỏ sẽ
không làm được một điều gì cả. Sự bao bọc thái qúa sẽ dẫn các em đến ý nghĩ rằng
bản thân các em không thể làm nên điều gì. Hãy nhớ: đừng bao giờ làm hộ những
gì mà trẻ có thể làm được.
3.2. Kiến nghị
1. Đối với nhà trường: Cần có kế hoạch cụ thể và tạo mọi điều kiện thuận tiện
nhất cho việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh kể cả trong các tiết học và trong
các hoạt động ngoài giờ lên lớp.
2. Đối với phòng Giáo dục: Cần mở thêm các lớp chuyên đề, tập huấn kĩ hơn
về vấn đề giáo dục kỹ năng sống cho học sinh dành cho giáo viên trực tiếp giảng
dạy theo các khối lớp.
Nhìn chung, chúng ta biết rằng giáo dục là một quá trình tác động qua lại, là
quá trình hoạt động và giao lưu trong các mối quan hệ xã hội đa dạng, được tổ
chức có mục đích, có kế hoạch của các nhà giáo dục và người được giáo dục để
hình thành nhân cách toàn diện trong nhà trường xã hội chủ nghĩa- không những
dạy chữ mà còn dạy người .
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của bản thân trong quá trình chỉ đạo hoạt
động giáo dục Rèn kỹ năng sống cho học sinh ở trường tiểu học Thành Tân. Do
vốn hiểu biết về giáo dục kỹ năng sống còn hạn chế, hơn nữa đây lại là một vấn đề
đang rất được quan tâm nên không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được sự
17



giúp đỡ, đóng góp của BGH nhà trường, các thầy cô trong hội đồng khoa học các
cấp để hiệu quả chỉ đạo dạy và rèn kỹ năng sống cho học sinh trong nhà trường
ngày càng đạt hiệu quả hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ

Thành Tân, ngày 16 tháng 4 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
Người viết sáng kiến

Mai Xuân Thành

18


Một số hình ảnh học sinh trường Tiểu học Thành Tân tham gia các
hoạt động ngoài giờ lên lớp với mục tiêu rèn kỹ năng sống cho học sinh

Giao lưu văn nghệ chào mừng Lễ khai giảng năm học mới

Giao lưu Câu lạc bộ năm học 2017-2018

19


Hình ảnh một buổi hoạt động giáo dục NGLL trong đó có rèn luyện kỹ năng
sống


Đoàn học sinh có thành tích cao đi báo công tại Lăng Bác

20


Đội bóng đá mini nhà trường

Giờ ra chơi của học sinh

21


TÀI LIỆU THAM KHẢO
TT

TÊN TÀI LIỆU
Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý

TÁC GIẢ
Phan Trọng

[1]

học sư phạm
Giáo dục kỹ năng sống cho học

Ngọ

[2]


sinh phổ thông
Bộ sách thực hành Kỹ năng

[3]

sống cho học sinh Tiểu học
Mooddun TH 39 (Giáo dục Kỹ

[4]

năng sống qua các môn học)
Tham khảo một số tài liệu trên

NHÀ XUẤT BẢN
ĐHSP Hà Nội
NXB Giáo dục

Phan Quốc Việt

NXB Giáo dục VN

(chủ biên)

mạng Internet:
[5]

-Nguồn:
+
+Wedo-wegood-school.edu.vn


22



×