Tải bản đầy đủ (.pdf) (60 trang)

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa vào bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (772.58 KB, 60 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
===o0o===

NGUYỄN THỊ HƢỜNG

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA
VÀO BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG
Ở TỈNH BẮC NINH HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh

HÀ NỘI - 2019


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
===o0o===

NGUYỄN THỊ HƢỜNG

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA
VÀO BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG
Ở TỈNH BẮC NINH HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
ThS. Vi Thị Lại


HÀ NỘI - 2019


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đƣợc đề tài khóa luận và kết thúc khóa học, với tình cảm
chân thành, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới trƣờng Đại học Sƣ phạm
Hà Nội 2 đã tạo điều kiện cho em có môi trƣờng học tập tốt trong suốt thời
gian em học tập, nghiên cứu tại trƣờng.
Em xin gửi lời cảm ơn tới cô ThS. Vi Thị Lại đã giúp đỡ em trong suốt
quá trình nghiên cứu và trực tiếp hƣớng dẫn em hoàn thành đề tài khóa luận
tốt nghiệp này. Đồng thời em xin bày tỏ lòng cảm ơn tới thầy cô trong khoa
Giáo dục chính trị, bạn bè đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho em trong suốt quá
trình học tập và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp lần này.
Với điều kiện thời gian và kiến thức của bản thân còn nhiều hạn chế nên
khóa luận khó tránh khỏi những thiếu sót trong quá trình em nghiên cứu.
Em kính mong nhận đƣợc sự nhận xét,đóng góp từ thầy cô và các bạn.
Em xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 05 tháng 05 năm 2019
Sinh viên

Nguyễn Thị Hường


LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận tốt nghiệp chuyên ngành tƣ tƣởng Hồ Chí Minh với đề tài
“Vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về văn hóa vào bảo tồn và phát huy
văn hóa truyền thống ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay” đƣợc thực hiện dƣới sự
hƣớng dẫn của ThS. Vi Thị Lại. Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu của riêng cá nhân tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong khóa luận là trung
thực và chƣa đƣợc công bố trong các công trình khác.

Nếu sai, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm!
Hà Nội, ngày 05 tháng 05 năm 2019
Sinh viên

Nguyễn Thị Hường


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA ........................... 5
1.1. Một số khái niệm cơ bản ......................................................................... 5
1.2. Nội dung cơ bản của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về văn hóa ...................... 14
CHƢƠNG 2: BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG
Ở TỈNH BẮC NINH HIỆN NAY THEO TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH ...... 27
2.1. Sự cần thiết của việc bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống ở tỉnh
Bắc Ninh hiện nay ........................................................................................ 27
2.2. Thực trạng bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống ở tỉnh Bắc
Ninh hiện nay ............................................................................................... 30
2.3. Nguyên nhân của thực trạng bảo tồn và phát huy văn hóa truyền
thống ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay ................................................................... 41
2.4. Một số giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống ở
tỉnh Bắc Ninh hiện nay theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh ................................... 44
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 52
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 54


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Khi tìm hiểu về cuộc đời cũng nhƣ sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
chúng ta thấy rằng, Ngƣời đã đấu tranh không biết mệt mỏi, hi sinh cả cuộc

đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam, vì sự tiến bộ của nhân
loại. Chính sự cống hiến to lớn nhƣ vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đƣợc
UNESCO ghi nhận danh hiệu cao quý “Anh hùng giải phóng dân tộc, danh
nhân văn hóa kiệt xuất thế giới”. Với tầm vóc danh nhân văn hóa thế giới,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta một di sản vô cùng quý báu có ý
nghĩa to lớn về nhiều lĩnh vực trong đó có lĩnh vực văn hóa. Việc tìm hiểu
những quan điểm tƣ tƣởng của Ngƣời về văn hóa và việc giữ gìn văn hóa, bảo
tồn bản sắc văn hóa dân tộc giúp chúng ta có những cơ sở lý luận và kinh
nghiệm thực tiễn để thực hiện chủ trƣơng của Đảng về xây dựng văn hóa Việt
Nam trong công cuộc hội nhập và đổi mới đất nƣớc.
Đối với nƣớc ta hiện nay, phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, là
nhiệm quan trọng hàng đầu của toàn Đảng, toàn dân song đó phải là sự phát
triển bền vững, hài hòa giữa kinh tế và văn hóa. Vì vậy, chúng ta không chỉ
xây dựng nền kinh tế mới mà còn phải xây dựng nền văn hóa “tiên tiến đậm
đà bản sắc dân tộc”.
Cùng với sự phát triển kinh tế, Bắc Ninh là một trong các địa phƣơng
quan tâm chú trọng công tác bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống. Bắc
Ninh, một mảnh đất cổ lâu đời nổi tiếng với nhiều nét văn hóa truyền thống
đặc sắc. Nói đến Bắc Ninh là ngƣời ta nhớ ngay tới Quan họ, làn điệu dân ca
đã đi sâu vào trong tâm thức của biết bao con ngƣời đất Việt. Mảnh đất Bắc
Ninh còn nổi tiếng với nhiều cảnh đẹp và nhiều điểm du lịch hấp dẫn trong
đó có thể kể đến nhƣ: thắng cảnh Đền Đô (nơi thờ các vị vua Lý), chùa Phật
Tích, chùa Dâu, chùa Bút Tháp; các làng nghề truyền thống nhƣ: gốm Phù

1


Lãng, giấy Đống Cao, làng tranh Đông Hồ, làng nghề đúc đồng Đại Bái.
Ngƣời Bắc Ninh mang trong mình truyền thống văn hóa hiếu khách, cần cù,
chịu thƣơng chịu khó và sáng tạo với những bàn tay khéo léo mang đậm nét

dân gian. Tính đến ngày 05/12/2015 Bắc Ninh đã vinh dự nhận đƣợc 3 danh
hiệu UNESCO Việt Nam đó là dân ca Quan họ, Ca trù và trò chơi kéo co
truyền thống. Bởi vậy, bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống ở tỉnh Bắc
Ninh hiện nay là việc làm có ý nghĩa to lớn.
Từ những nhận thức đó, tác giả chọn đề tài: “Vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh về văn hóa vào bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống ở tỉnh Bắc
Ninh hiện nay” làm đề tài khóa luận, chuyên ngành tƣ tƣởng Hồ Chí Minh.
2. Lịch sử nghiên cứu
Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh là nội dung có sức hấp dẫn lớn và thu hút đối
với rất nhiều nhà nghiên cứu. Đã có nhiều đề tài khoa học xã hội, nhiều công
trình nghiên cứu các cấp về tƣ tƣởng Hồ Chí Minh đƣợc nghiên cứu một cách
sâu sắc và hệ thống, trong đó các công trình nghiên cứu tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh về văn hóa ngày càng đa dạng phong phú, đề cập nhiều mặt, nhiều khía
cạnh của văn hóa dƣới các góc độ khác nhau. Tiêu biểu có một số công trình:
- Huy Cận (1996), "Suy nghĩ về bản sắc văn hóa dân tộc", Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
- Đỗ Huy (1997), "Tƣ tƣởng văn hóa Hồ Chí Minh", Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
- Thành Duy (1998), "Cơ sở khoa học và nền tảng văn hóa của tƣ tƣởng
Hồ Chí Minh", Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
- Đinh Xuân Lâm - Bùi Đình Phong (2009), “Văn hóa và triết lý phát
triển trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Song Thành (2010), “Hồ Chí Minh, nhà văn hóa kiệt xuất”, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.

2


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu tƣ tƣởng của Hồ Chí Minh về văn hóa ở hai lĩnh vực văn hóa
văn nghệ và văn hóa đời sống và sự vận dụng tƣ tƣởng đó vào bảo tồn và phát
huy văn hóa truyền thống của tỉnh Bắc Ninh hiện nay.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để hoàn thành mục đích nghiên cứu đã đƣợc xác định ở trên, khóa luận
thực hiện nhiệm vụ sau:
- Thứ nhất, làm rõ tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về văn hóa ở hai lĩnh vực văn
hóa văn nghệ và văn hóa đời sống.
- Thứ hai, phân tích thực trạng việc bảo tồn và phát huy văn hóa truyền
thống ở tỉnh Bắc Ninh từ năm 2010 đến 2018.
- Thứ ba, đề xuất một số giải pháp để bảo tồn và phát huy văn hóa truyền
thống ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Phƣơng pháp luận: Sử dụng phƣơng pháp luận của chủ nghĩa MácLênin và tƣ tƣởng của Hồ Chí Minh.
Kết hợp các phƣơng pháp nghiên cứu phân tích - tổng hợp, quy nạp và
diễn dịch, lịch sử và lôgíc, hệ thống và khảo sát thực tiễn để thực hiện luận văn.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
5.1.Đối tượng nghiên cứu
Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về văn hóa ở hai lĩnh vực văn hóa văn nghệ và
văn hóa đời sống. Thực trạng việc bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống ở
tỉnh Bắc Ninh hiện nay.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về văn hóa có nội hàm rất rộng.
Tuy nhiên trong phạm vi khuôn khổ của khóa luận này tác giả chỉ tập trung
nghiên cứu làm rõ ở hai lĩnh vực đó là văn hóa văn nghệ và văn hóa đời sống.

3


Về không gian: Tỉnh Bắc Ninh

Về thời gian: Từ năm 2010 - 2018
6. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo khóa luận
gồm 2 chƣơng, 6 tiết.

4


CHƢƠNG 1: TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Văn hóa
Văn hoá theo quan niệm truyền thống phương Đông
hông phải “Văn hoá” mới đƣợc đề cập trong một vài thế kỷ gần đây mà
nó xuất hiện lâu hơn thế với những cách hiểu xuất phát từ hoạt động sản xuất
nông nghiệp, việc hình thành những nhóm cộng đồng dân cƣ trên thế giới.
Cách đây hàng chục thế kỷ, ở phƣơng Đông đã hình thành một cách hiểu “văn
hoá” mà cách dùng văn hoá ngày nay vẫn còn bị ảnh hƣởng không ít.
Từ “Văn” trong ngôn ngữ Trung Hoa đƣợc hiểu là vẻ bề ngoài, hơn thế
nó còn là nội dung đƣợc thể hiện ra nhƣ các hiện tƣợng tự nhiên: mây, mƣa,
gió, bão …. Nó chính là văn của trời. Theo cách hiểu này, con ngƣời cũng có
cái “văn” riêng, đó là: thẩm mĩ, phong tục, đạo đức đƣợc biểu hiện trong mối
quan hệ giữa ngƣời với ngƣời, con ngƣời với tự nhiên mà cụ thể đó là sự trật
tự trong các mối quan hệ đó. “Văn” là cái bên ngoài và đƣợc thể hiện ra bên
ngoài, có nghĩa nó chứa cả yếu tố nội dung và hình thức. Con ngƣời có thể
làm cho con ngƣời “thiện”, “mĩ” hơn. Đó cũng chính là tác dụng giáo dục đạo
đức của văn chƣơng.
Ngƣời Trung Quốc thƣờng quan niệm văn hoá là chế độ, văn trị, giáo
hoá, lễ nhạc, điển chƣơng. Trong lịch sử lâu dài, Trung Quốc đạt đƣợc nhiều
thành tựu trên lĩnh vực, nhƣng khoa học về văn hoá chƣa phát triển, nên cách
hiểu trên duy trì mãi đến thời cận đại khi tiếp nhân nghĩa của khái niệm văn

hoá phƣơng Tây du nhập sang.
Văn hoá theo quan niệm truyền thống phương Tây
Ở phƣơng Tây, từ “văn hoá” với tƣ cách là một từ đã đƣợc xuất
hiện trƣớc công nguyên trong hệ ngôn ngữ La tinh nghĩa cấy cày, gieo trồng,
chăm sóc…. từ “văn hoá” trong ngôn ngữ Hi Lạp – La Mã cổ đại mang hai

5


nội dung lớn: sự gieo trồng, chăm sóc cây cối, hoa màu (hoạt động sản xuất
vật chất) và sự phát triển năng lực tinh thần. Các nhà Khai sáng trong thế kỷ
Ánh sáng - thế kỷ XVIII cũng đã quan tâm đến vấn đề văn hoá và kết quả là
đƣa ra không ít những phát kiến sáng tạo. Nhìn chung, văn hoá trong thời kỳ
này mang nhiều âm hƣởng của chính trị và kinh tế, “văn hoá” trở thành một
khái niệm đƣợc nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, phân tích, đề cập trong các
nghành khoa học xă hội và nhân văn đặc biệt là về vấn đề con ngƣời, sức
mạnh của con ngƣời. Cũng chính vì thế mà “văn hoá” trở nên đa nghĩa, phong
phú hơn.
Văn hoá theo quan niệm mác - xít
C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng văn hoá là toàn bộ những giá trị đƣợc
tạo ra nhờ hoạt động sáng tạo và lao động của con ngƣời. Nó bao gồm toàn bộ
giá trị vật chất, tinh thần và bản thân sự phát triển của con ngƣời. Văn hoá
không chỉ là nền tảng tinh thần của xã hội, của lịch sử nhân loại mà còn tác
động mạnh mẽ đến sự phát triển của xã hội loài ngƣời. Do đó, hai ông đã đi
đến khẳng định phải tiến hành cuộc cách mạng giải phóng xã hội, giải phóng
con ngƣời, giải phóng văn hoá.
Các quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen sau này đƣợc V.I.Lênin phát
triển đầy đủ, cụ thể khi bàn về cách mạng văn hoá. Theo V.I.Lênin, văn hoá
phải là một bộ phận hữu cơ của cách mạng, văn hoá không phải vấn đề ngoài
lề, không thể đứng trên xã hội, đứng ngoài cách mạng nhƣ một vài quan điểm

trƣớc đó cũng nhƣ cùng thời.
Cách nhìn nhận của thế giới về văn hoá
Trên thế giới có rất nhiều định nghĩa khác nhau về văn hoá theo những
lát cắt cũng nhƣ phạm vi rộng hẹp khác nhau nhƣng tựu chung lại đều thừa
nhận văn hoá là những giá trị to lớn do con ngƣời sáng tạo ra. Năm 1982, Tổ
chức UNESCO đã thống kê (chƣa đầy đủ) có khoảng 200 định nghĩa về văn

6


hoá trên thế giới. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của xã hội trong vài thập kỷ
gần đây, con số này chắc chắn nhiều hơn thế. Cũng trong năm này, trong
Tuyên bố về Những chính sách văn hoá, Tổ chức UNESCO đã thống nhất
định nghĩa “văn hoá” nhƣ sau: “Trên ý nghĩa rộng nhất, văn hoá có thể coi
là tổng thể những nét riêng biệt, tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm
quyết định tính cách của xã hội hay một nhóm ngƣời trong xã hội. Văn hoá
bao gồm nghệ thuật hay văn chƣơng, những lối sống, những quyền cơ bản
của con ngƣời, những hệ thống giá trị, những tập tục, những tín ngƣỡng.
Văn hoá đem lại cho con ngƣời khả năng suy xét về bản thân. Chính văn
hoá làm cho chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lý
tính, có óc phê phán và dấn thân một cách đạo lý. Chính nhờ văn hoá mà
chúng ta xét đoán đƣợc những giá trị và thực thi sự lựa chọn. Chính nhờ
văn hoá mà con ngƣời tự thể hiện, tự ý thức đƣợc bản thân, tự biết mình là
một phƣơng án chƣa hoàn thành đặt ra để xem xét những thành tựu của bản
thân, tìm tòi không biết mệt những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những
công trình vƣợt trội lên bản thân”.[36 - tr.23]
Theo Từ điển tiếng Việt, văn hóa dùng theo nghĩa thông dụng để chỉ học
thức, lối sống.; theo nghĩa chuyên biệt để chỉ trình độ phát triển của một giai
đoạn. Trong khi theo nghĩa rộng thì văn hóa bao gồm tất cả từ những sản
phẩm tinh vi, hiện đại cho đến tín ngƣỡng, phong tục, tập quán, lối sống…

Theo Đại Từ điển tiếng Việt “Văn hóa là những giá trị vật chất, tinh thần do
con ngƣời sáng tạo ra trong lịch sử”.
Các nhà khoa học trƣớc đây khi nghiên cứu về văn hóa xuất phát từ
những cứ liệu riêng , góc độ riêng, mục đích riêng phù hợp với vấn đề mình
cần nghiên cứu cũng đã đƣa ra một số định nghĩa về văn hóa:
Theo Đoàn Văn Chúc cho rằng: “Văn hóa - vô sở bất tại: Văn hóa không nơi nào không có! Điều này cho thấy tất cả những sáng tạo của con

7


ngƣời trên nền của thế giới tự nhiên là văn hóa, nơi nào có con ngƣời nơi đó
có văn hóa” [34].
Khi nghiên cứu về bản sắc văn hóa Việt Nam, Trần Ngọc Thêm cho
rằng: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con
ngƣời sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tƣơng
tác giữa con ngƣời với môi trƣờng tự nhiên và xã hội của mình” [31 - tr.27].
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh , khái niệm văn hóa đƣợc hiểu theo cả ba
nghĩa rộng, hẹp và rất hẹp:
Theo nghĩa rộng, Hồ Chí Minh cho rằng nếu văn hóa là toàn bộ những
giá trị vật chất và tinh thần do loài ngƣời sáng tạo ra thì “văn hóa là sự tổng
hợp của mọi phƣơng thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài
ngƣời đã sản sinh ra nhằm thích ứng nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự
sinh tồn” [8 - tr.458].
Theo nghĩa hẹp, văn hóa là những giá trị tinh thần. Ngƣời viết: “Trong
công cuộc kiến thiết nƣớc nhà có bốn vấn đề cần chú ý đến, cũng phải coi là
quan trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa. Nhƣng văn hóa là
một kiến trúc thƣợng tầng” [2].
Theo nghĩa rất hẹp, văn hóa chỉ đơn giản là trình độ học vấn của con
ngƣời đƣợc đánh giá bằng trình độ học vấn phổ thông, thể hiện qua việc Hồ
Chí Minh yêu cầu mọi ngƣời “phải đi học văn hóa”, “xóa mù chữ”...

Trong các bài nói, bài viết của mình, Hồ Chí Minh nhiều lần đề cập đến
khái niệm văn hóa. Tùy theo hoàn cảnh, đối tƣợng mà Ngƣời có những cách
diễn đạt về văn hóa khác nhau. Trong đó, đặc biệt là khái niệm về văn hóa
đƣợc Ngƣời đề cập một cách cụ thể, trọn vẹn và đầy đủ vào tháng 8 – 1943:
“Vì lẽ sinh tồn cũng nhƣ mục đích của cuộc sống, loài ngƣời mới sáng tạo và
phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn
học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn mặc ở và các

8


phƣơng thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn
hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phƣơng thức sinh hoạt cùng với biểu
hiện của nó mà loài ngƣời đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời
sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” [8 – tr.458].
Trong định nghĩa này, Hồ Chí Minh cho chúng ta hiểu đƣợc:
Văn hóa là những sáng tạo và phát minh của con ngƣời.
Nguồn gốc của văn hóa là lẽ sống sinh tồn của con ngƣời.
Văn hóa là mục đích và động lực của cuộc sống, nhằm thích ứng những
nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn.
Cấu trúc của văn hóa bao gồm ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật,
khoa học, tôn giáo, văn học - nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng
ngày về ăn, mặc, ở và các phƣơng thức sử dụng.
Văn hóa là tổng hợp mọi phƣơng thức sinh hoạt nhƣ ứng xử, giao tiếp.
Trong định nghĩa văn hóa trên của Hồ Chí Minh có nhiều điểm gần
giống với quan niệm hiện đại về văn hóa của UNESCO theo các khía cạnh
nhƣ phức thể, tổng thể nhiều mặt: nét riêng biệt, đặc trƣng riêng về tinh thần
và vật chất, khắc họa nên bản sắc; nghệ thuật, văn chƣơng và những quyền
cơ bản của con ngƣời; hệ thống giá trị, cách ứng xử và sự giao tiếp.Quan niệm
của Hồ Chí Minh về văn hóa xuất phát từ cách tiếp cận mác - xít và rất gần

gũi với nhận thức hiện đại, Ngƣời coi văn hóa không đơn thuần là đời sống
tinh thần của con ngƣời - xã hội, mà từ trong bản chất nó chính là hệ thần
kinh của một xã hội, là linh hồn sức mạnh trƣờng tồn của cả dân tộc, là sức
sống vƣơn lên của thời đại.
Có thể thấy, trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, văn hóa có ý nghĩa to lớn, đặc
biệt quan trọng trong chiến lƣợc phát triển toàn diện của đất nƣớc. Nó không
chỉ là mục tiêu phấn đấu vƣơn tới những giá trị cao đẹp cho cuộc sống mà nó
còn có vai trò làm nền tảng và sức mạnh, động lực hết sức to lớn trong phát

9


triển các mặt của đời sống xã hội. Những tƣ tƣởng quan điểm về văn hóa
trong chiến lƣợc phát triển đất nƣớc của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là
“kết tinh của truyền thống văn hóa hàng ngàn năm của nhân dân Việt Nam”
mà còn có ý nghĩa thời sự, là cơ sở, sự chỉ dẫn cho chúng ta trong nhận thức
và giải quyết những vấn đề đặt ra trong công cuộc xây dựng và phát triển đất
nƣớc hiện nay.
1.1.2. Văn hóa truyền thống
“Truyền thống” nguyên nghĩa của nó là “truyền lại”, “nhƣờng lại”, “giao
lại” và “phân phát”. Truyền thống hiểu theo nghĩa đơn giản là sự kế thừa
những di sản xã hội có giá trị đƣợc truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Theo GS. Trần Văn Giàu: “Truyền thống là những đức tính hay những
thói tục kéo dài nhiều thế hệ, nhiều thời kỳ lịch sử và hiện có nhiều tác dụng,
tác dụng đó có thể tích cực, cũng có thể tiêu cực”. Với cách tiếp cận tổng quát
về truyền thống, GS. TS. Nguyễn Trọng Chuẩn cho rằng: “Theo nghĩa tổng
quát nhất, truyền thống đó là những yếu tố của di tồn văn hóa, xã hội thể hiện
trong chuẩn mực hành vi, tƣ tƣởng, phong tục, tập quán, thói quen, lối sống
và cách ứng xử của một cộng đồng ngƣời đƣợc hình thành trong lịch sử và đã
trở nên ổn định, đƣợc truyền từ đời này sang đời khác và đƣợc lƣu giữ lâu

dài”. Đề cập một khía cạnh khác của truyền thống, GS. TS. Trần Văn Đoàn
cho rằng: “Bản chất biện chứng của truyền thống là những cái gì còn lƣu lại
cho chúng ta, nhƣng không còn nguyên vẹn nhƣ cũ nữa mà đã đƣợc “phủ
nhận” một cách biện chứng và đồng thời đã đƣợc “thăng hoa”. Chính vì vậy,
nên từ gốc Latinh “transire” không những có nghĩa là truyền lại, giao lại mà
có một dạng thức mới, đó là nhập vào một thế giới mới”. Quan điểm này gần
giống với quan điềm của F.Hegel. F.Hegel cũng rất có lý khi cho rằng truyền
thống không phải là di tích của quá khứ mà là nhịp cầu kết nối giá trị mới.
Ông nhìn truyền thống nhƣ là một di sản hay nhƣ là “đứa con của thời đại”,

10


“cái tinh thần của thời đại”. Vì vậy, ông cho rằng truyền thống chƣa bao giờ
mất mà nó đƣợc giữ lại dƣới dạng mới hoàn thiện hơn. George Mclean cho
rằng: “Truyền thống là sự phát triển của các giá trị, đức hạnh và sự hội nhập
của chúng nhằm tạo ra một nền văn hóa đặc sắc và phong phú trong lịch sử và
vì thế phụ thuộc vào kinh nghiệm và sức sáng tạo của nhiều thế hệ. Nền văn
hóa đƣợc truyền lại đƣợc gọi là truyền thống văn hóa”. Nhƣ vậy nó phản ánh
đƣợc những thành tựu mà con ngƣời đúc rút đƣợc trong quá trình tìm hiểu,
thực hiện và truyền bá ý nghĩa sâu lắng nhất của cuộc sống. Đó chính là
truyền thống theo nghĩa hài hoà của nó.
Nhƣ vậy, văn hóa truyền thống đƣợc hiểu là văn hóa đƣợc hình thành
trong thời quá khứ xa xƣa và đƣợc truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Văn hoá truyền thống có tính ổn định, phổ biến, đƣợc kết tinh trong đời
sống của cộng đồng và đƣợc lƣu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác qua
con đƣờng xã hội hoá. Văn hoá truyền thống thể hiện ở nhiều phƣơng diện
khác nhau: vật chất và tinh thần, vật thể và phi vật thể và cả trong cơ sở hạ
tầng lẫn kiến trúc thƣợng tầng của xã hội. Trong văn hoá truyền thống có yếu
tố giá trị cả trong quá khứ lẫn hiện tại; có yếu tố giá trị trong lịch sử nhƣng

không còn giá trị trong hiện tại (lạc hậu, tiêu cực, không phù hợp với những
đổi thay của thời cuộc). Ví dụ, chủ nghĩa yêu nƣớc Việt Nam là giá trị đến từ
truyền thống, nhƣng nội dung của nó cần đƣợc đổi mới. Ngƣời Việt Nam giàu
lòng yêu nƣớc, nhƣng nội dung của lòng yêu nƣớc trong mỗi thời kỳ lịch sử là
khác nhau. Chủ nghĩa yêu nƣớc Việt Nam hiện nay khác xa với chủ nghĩa yêu
nƣớc Việt Nam thời phong kiến. Văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam
không phải chỉ là văn hóa do ngƣời Việt Nam sáng tạo nên trong quá khứ, mà
còn là văn hóa do các dân tộc khác sáng tạo nên trong quá khứ và đƣợc ngƣời
Việt Nam chọn lọc, tiếp thu, kế thừa. Nói cách khác, trong văn hóa truyền
thống của dân tộc Việt Nam có một số yếu tố văn hóa riêng của dân tộc mình

11


và một số yếu tố văn hóa chung của dân tộc Việt Nam với các dân tộc khác.
Ví dụ, văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam và văn hóa truyền thống
của dân tộc Trung Quốc đều có văn hóa Nho giáo, văn hóa Phật giáo, văn hóa
Đạo giáo. Văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam giống nhƣ văn hóa
truyền thống của các dân tộc khác, không chỉ gồm những cái có giá trị mà còn
gồm cả những cái không có giá trị. Theo quy luật phát triển chung, mọi sự vật
khi mới ra đời là tiến bộ nhƣng sau một thời gian thì trở nên lạc hậu và bị thay
thế bằng sự vật mới tiến bộ hơn. Văn hóa cũng không nằm ngoài quy luật này.
Không phải mọi sản phẩm văn hóa đều là tích cực, tiến bộ. Những phong tục,
tập quán, thói quen lạc hậu là sản phẩm văn hóa lạc hậu. Văn hóa là khái niệm
trung tính. Văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam cũng là khái niệm
trung tính. Nó có thể là tích cực, tiến bộ hoặc là tiêu cực, lạc hậu. Khi xem xét
một sản phẩm văn hoá truyền thống nào đó của dân tộc, chúng ta cần phải
xem nó hình thành từ khi nào, đã trải qua giai đoạn nào và hiện nay nó có còn
tích cực để bảo tồn và phát huy hay đã lạc hậu, lỗi thời cần phải loại bỏ.
1.1.3. Bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống

Phần mở đầu của Luật Di sản văn hóa của Việt Nam viết: “Di sản văn
hóa Việt Nam là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là
một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp
dựng nƣớc và giữ nƣớc của dân tộc ta” [35].
Cũng trong Luật Di sản văn hóa của Việt Nam đã xác định “di sản văn
hóa bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể, là sản phẩm
tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, đƣợc lƣu truyền từ thế
hệ này qua thế hệ khác ở nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” [35].
Luật Di sản văn hóa đã thực sự có hiệu quả, nó đã đi vào đời sống và
trở thành cơ sở pháp lý quan trọng giúp tăng cƣờng nhận thức cũng nhƣ
hành động cho toàn xã hội trong việc bảo tồn và phát huy văn hóa truyền
thống của dân tộc Việt Nam.

12


Bảo tồn văn hóa truyền thống đƣợc hiểu là một hoạt động với mục đích
bảo tồn, bảo vệ, lƣu giữ các sản phẩm văn hóa đang có nguy cơ mai một, biến
mất vì lý do này hoặc lý do khác. Bảo tồn gồm nhiều hoạt động khác nhau
nhƣ việc điều tra, nghiên cứu, bảo quản, tu bổ và phục dựng sản phẩm văn
hóa. Bên cạnh đó việc bảo tồn các sản phẩm văn hóa vật thể phải tuân thủ các
quy định, nguyên tắc về trùng tu, tôn tạo và bảo quản.
Phát huy văn hóa truyền thống đƣợc hiểu là các sản phẩm văn hóa tốt
đẹp thì không những cần đƣợc gìn giữ và bảo tồn mà còn cần phải xây dựng
và phát triển nó ngày càng hoàn thiện, tốt đẹp hơn.
Bảo tồn và phát huy văn hóa có mối liên hệ biện chứng với nhau. Đó là
hai lĩnh vực vừa thống nhất, vừa tƣơng hỗ, vừa chi phối ảnh hƣởng qua lại
trong các hoạt động nhằm giữ gìn, bảo tồn văn hóa truyền thống . Bảo tồn văn
hóa có thành công thì mới phát huy đƣợc những giá trị của văn hóa. Và phát
huy cũng là một trong những cách bảo tồn văn hóa tốt nhất (lƣu giữ các giá trị

văn hóa trong ý thức cộng đồng xã hội).
Đối tƣợng bảo tồn (tức là các giá trị văn hóa vật thể và giá trị văn hóa
phi vật thể) cần thỏa mãn đƣợc hai điều kiện:
Một là, sản phẩm văn hóa phải đƣợc coi là tinh hoa, là một giá trị đích
thực đƣợc thừa nhận là minh bạch và không có gì phải hoài nghi hay bàn cãi.
Hai là, sản phẩm văn hóa phải hàm chứa khả năng, tiềm năng đứng
vững tồn tại lâu dài với thời gian, có giá trị với nhiều thời (tức có giá trị lâu
dài) trƣớc những biến đổi tất yếu về đời sống vật chất cũng nhƣ tinh thần của
con ngƣời, nhất là trong bối cảnh hiện nay khi nền kinh tế thị trƣờng và quá
trình toàn cầu hóa đang diễn ra cực kỳ sôi động.
Trong thời kỳ tích cực đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và giao
lƣu hội nhập quốc tế, Đảng và Nhà nƣớc đã ban hành nhiều chủ trƣơng đƣờng
lối và chính sách bảo vệ và phát huy các sản phẩm văn hóa tiến bộ nhằm mục
đích nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân đồng thời góp phần phát triển
kinh tế xã hội của đất nƣớc.

13


1.2. Nội dung cơ bản của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về văn hóa
Trong kho tàng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, vấn đề văn hoá luôn chiếm một
vị trí rất quan trọng. Những quan điểm của Ngƣời về văn hoá là kim chỉ nam
để Đảng ta hoạch định những chủ trƣơng, đƣờng lối, sách lƣợc phù hợp để
phát triển văn hoá qua các thời kỳ, giai đoạn khác nhau. Những tƣ tƣởng,
quan điểm và hoạt động văn hoá của Ngƣời không những làm đa dạng và
phong phú thêm kho tàng văn hoá của dân tộc, mà còn góp phần vào sự tiến
bộ và phát triển nền văn minh chung cho nhân loại. Công lao to lớn này của
Ngƣời đã đƣợc UNESCO ghi nhận và khẳng định trong Nghị quyết trong
ngày tổ chức kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Ngƣời: “Sự đóng góp của Chủ
tịch Hồ Chí Minh trong các lĩnh vực văn hoá, giáo dục, nghệ thuật là kết tinh

truyền thống hàng ngàn năm của nhân dân Việt Nam và những tƣ tƣởng của
Ngƣời là hiện thân của các dân tộc, tiêu biểu cho việc thúc đẩy sự hiểu biết
lẫn nhau. Ngƣời là vị anh hùng giải phóng dân tộc”.
1.2.1. Quan điểm về các vấn đề chung của văn hóa
1.2.1.1. Quan điểm về vị trí và vai trò của văn hóa trong đời sống xã hội
Trong hệ thống quan điểm tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, tƣ tƣởng về văn hóa
chiếm một ví trí vô cùng quan trọng. Nó là sự chắt lọc, tổng hợp và kết tinh
những giá trị văn hóa của Việt Nam với văn hóa phƣơng Đông và phƣơng
Tây, là sự kết hợp của truyền thống và hiện đại,của dân tộc và quốc tế mà cốt
lõi là sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với tinh hoa, bản sắc văn hóa dân tộc
Việt Nam. Theo Hồ Chí Minh thì văn hóa có vai trò to lớn trong đời sống xã
hội của mỗi quốc gia dân tộc.
Đầu tiên, văn hóa là mục tiêu, động lực của cách mạng. Văn hóa là kiến
trúc thƣợng tầng của xã hội vì vậy việc lật đổ chế độ xã hội cũ và xây dựng xã
hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa tốt đẹp là mục tiêu của văn hóa. Cách mạng
xã hội chủ nghĩa ở nƣớc ta, theo Hồ Chí Minh là phải “thay đổi triệt để những

14


nếp sống, thói quen, ý nghĩ và thành kiến có gốc dễ sâu xa hàng ngàn năm,...
Chúng ta phải biến một nƣớc dốt nát, cực khổ thành một nƣớc văn hóa cao và
đời sống tƣơi vui hạnh phúc”.

hi chỉ rõ “văn hóa phải soi đƣờng cho quốc

dân đi”, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh vai trò, động lực của văn hóa. Theo
Ngƣời, tiến lên chủ nghĩa xã hội phải có cả vật chất lẫn tinh thần song con
ngƣời là quyết định; để đƣa đất nƣớc đi lên không thể không đặt trọng tâm
vào kinh tế, nhƣng chủ thể của hoạt động kinh tế lại chính là con ngƣời và

thƣớc đo trình độ con ngƣời lại chính là văn hóa.
Thứ hai, văn hóa là một mặt hợp thành toàn bộ đời sống xã hội. Ngƣời
nhấn mạnh: “trong công cuộc kiến thiết nƣớc nhà có bốn vấn đề chú ý đến;
cùng phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội”. Vì thế,
văn hóa không thể đứng ngoài “mà phải ở trong kinh tế và chính trị” và ngƣợc
lại kinh tế, chính trị cũng nằm trong văn hóa. Tăng trƣởng kinh tế phải đi đôi
với phát triển văn hóa và giải quyết những vấn đề xã hội; nếu chỉ coi tăng
trƣởng kinh tế là mục tiếu duy nhất thì chẳng những môi trƣờng văn hóa - xã
hội bị hủy hoại mà mục tiêu kinh tế cũng không đạt đƣợc.
Thứ ba, văn hóa là linh hồn, bản sắc dân tộc. Hồ Chí Minh cho rằng,
văn hóa không thể tách rời với quốc gia dân tộc, văn hóa trƣớc hết là văn hóa
của một dân tộc, nó mang tâm hồn, diện mạo dân tộc, đó chính là bản sắc dân
tộc của văn hóa. Từ đó Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Lấy kinh nghiệm tốt của
văn hóa xƣa và văn hóa nay trau dồi cho văn hóa Việt Nam thật có tinh thần
thuần túy Việt Nam”, “cần phải mở rộng kiến thức của mình về văn hóa thế
giới”, “phƣơng Đông hay phƣơng Tây có cái gì hay, cái gì tốt ta phải học
lấy”. Song điều cốt yếu là “đừng biến ta thành kẻ bắt chƣớc” và “đừng chịu
vay mà không trả”, “cái gốc của văn hóa mới là dân tộc”. Học tập văn hóa
hiện đại của các nƣớc phải phù hợp với điều kiện Việt Nam, kết hợp với văn
hóa Việt Nam tạo ra những giá trị mới đóng góp vào việc phát triển văn hóa

15


nhân loại. Hiện nay, toàn cầu hóa là một xu thế khách quan mà mọi dân tộc
dù muốn hay không đều chịu sự tác động của nó. Toàn cầu hóa đang đƣa lối
sống của nhiều nƣớc trên thế giới mà điển hình nhất là lối sống của các nƣớc
phƣơng Tây vào nƣớc ta. Lối sống ấy tác động tích cực đến việc làm thay đổi
lối sống khép kín, cam chịu, phụ thuộc, ỷ lại vốn có của ngƣời Việt Nam sang
một lối sống cởi mở, năng động, tự lập, dám chịu trách nhiệm, phù hợp với xu

thế thời đại. Nhƣng bên cạnh đó, trong lúc chúng ta miệt mài tiếp thu lối sống
đó một cách thiếu định hƣớng mà dẫn đến việc xa rời lối sống theo chuẩn
mực đạo đức dân tộc. Các công nghệ, thông tin hiện đại đang truyền bá những
lối sống sùng bái vật chất, cá nhân, vị kỷ, thực dụng, đua đòi, ăn chơi xa hoa,
lãng phí, sống trụy lạc, thác loạn, ƣa dùng bạo lực,...
1.2.1.2. Quan điểm về tính chất của nền văn hóa
Trong mỗi thời kì cách mạng mà Đảng và Hồ Chí Minh xác định tính
chất của nền văn hóa Việt Nam. Trong thời kì cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân, nền văn hóa Việt Nam đƣợc xác định gồm những tính chất: Tính
dân tộc, tính khoa học, tính đại chúng. Từ đại hội đại biểu toàn quốc lần III
đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần VII nền văn hóa đƣợc xác định là nền văn
hóa có nội dung xã hội chủ nghĩa: thể hiện tính tiên tiến, khoa học hiện đại,
mang đậm bản sắc dân tộc.
Từ nghị quyết trung ƣớng 5 khóa VIII trở đi, nền văn hóa xã hội chủ
nghĩa tiếp tục đƣợc khửng định là nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân
tộc. Dù có nhiều thay đổi với những cách diễn và đạt điều chỉnh khác nhau thì
nền văn hóa vẫn mà chúng ta xây dựng theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh bao gồm
ba tính chất: tính dân tộc, tính khoa học, tính đại chúng.
Tính dân tộc của nền văn hóa đƣợc Hồ Chí Minh biểu đạt bằng nhiều
khái niệm, nhƣ đặc tính dân tộc, cốt cách dân tộc nhằm nhấn mạnh đến chiều
sâu bản chất rất đặc trƣng của văn hóa dân tộc, giúp phân biệt, không nhầm

16


lẫn với văn hóa của dân tộc khác. Ngƣời cho rằng, để đƣợc nhƣ vậy phải “trau
dồi cho văn hóa, văn nghệ có tinh thần thuần túy Việt Nam”, phải “lột tả cho
hết tinh thần dân tộc” đó là chủ nghĩa yêu nƣớc, đoàn kết, khát vọng độc lập,
tự chủ, tự lực, tự cƣờng… của dân tộc. Ngƣời cho rằng, “nếu dân tộc hóa mà
phát triển đến cực điểm thì tức là đến chỗ thế giới hóa nó vì lúc bấy giờ văn

hóa thế giới sẽ phải chú ý đến văn hóa của mình và văn hóa của minh sẽ
chiếm đƣợc địa vị ngang với các nền văn hóa thế giới”. Tính dân tộc của nền
văn hóa không chỉ thể hiện ở chỗ biết giữ gìn, kế thừa, phát huy những truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, mà còn phải phát triển những truyền thống tốt đẹp
ấy cho phù hợp với điều kiện lịch sử mới của đất nƣớc.
Tính khoa học của nền văn hóa mới thể hiện ở tính hiện đại, tiên tiến,
thuận với trào lƣu tiến hóa của thời đại. Tính khoa học của văn hóa đòi hỏi
phải đấu tranh chống lại những gì trái với khoa học, phản tiến bộ, phải truyền
bá tƣ tƣởng triết học mácxít đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy tâm, thần bí,
mê tín dị đoan, phải biết gạn đục khơi trong, kế thừa truyền thống tốt đẹp của
dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Tính đại chúng của nền văn hóa đƣợc thể hiện ở chỗ nền văn hóa ấy phải
phục vụ nhân dân và do nhân dân xây dựng nên, Hồ Chí Minh nói, “văn hóa
phục vụ ai? cố nhiên, chúng ta phải nói là phục vụ công nông binh, tức là
phục vụ đại đa số nhân dân”; “Quần chúng là những ngƣời sáng tạo, còn nông
là những ngƣời sáng tạo. Nhƣng quần chúng không chỉ sáng tạo ra những của
cải vật chất cho xã hội. Quần chúng còn là ngƣời sáng tác nữa…”.
1.2.1.3. Quan điểm về chức năng của văn hóa
Khi bàn về chức năng nhiệm vụ của văn hóa, Hồ Chí Minh xác định: văn
hóa “phải làm thế nào cho ai cũng có lí tƣởng tự chủ, độc lập, tự do. Đồng
thời phải làm thế nào cho quốc dân có tinh thần vì nƣớc quên mình, vì lợi ích
chung mà quên đi lợi ích riêng của mình”; “văn hóa phải sửa đổi đƣợc tham
nhũng, lƣời biếng, xa hoa”. Có nghĩa là “văn hóa soi đƣờng cho quốc dân đi”.

17


Ngƣời còn khẳng định văn hóa là tinh hoa của dân tộc, do đó phải góp
phần khẳng định và giữ gìn bản sắc dân tộc. Ngƣời nhấn mạnh “phải trau dồi
cho văn hóa nghệ thuật có thuần túy Việt Nam”, phải “lột cho hết tinh thần

dân tộc”, phải “chú ý phát huy cốt cách dân tộc trong các tác phẩm nghệ
thuật”. Ngƣời căn dặn các nghệ sĩ: “nghệ thuật của ông cha ta hay lắm, cố mà
giữ lấy”, “làm công tác nghệ thuật mà không tìm hiểu sâu vốn của dân tộc là
không đƣợc đâu”.
Từ đó, có thể hiểu chức năng của văn hóa bao gồm:
Một là, bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và những tình cảm cao đẹp.
Tƣ tƣởng và tình cảm là hai vấn đề chủ yếu nhất của đời sống tinh thần
của con ngƣời. Tƣ tƣởng có thể đúng đắn hoặc sai lầm, tình cảm có thể thấp
hèn hoặc cao đẹp. Chức năng cao quý nhất của văn hóa là phải bồi dƣỡng, nêu
cao tƣ tƣởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp cho nhân dân, loại bỏ đƣợc những
sai lầm và thấp hèn có thể có trong tƣ tƣởng, tình cảm mỗi con ngƣời. Tƣ
tƣởng và tình cảm rất phong phú, văn hóa phải đặc biệt quan tâm đến những
tƣ tƣởng và tình cảm lớn, chi phối đời sống tinh thần của mỗi con ngƣời và cả
dân tộc.
Hai là, mở rộng hiểu biết, nâng cao dân trí.
Nói đến văn hóa là phải nói đến dân trí. Đó là trình độ hiểu biết, là vốn
kiến thức của ngƣời dân. Nâng cao dân trí phải bắt đầu từ chỗ biết đọc, biết
viết để có thể hiểu biết các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, nhƣ:

inh tế,

chính trị, lịch sử, khoa học - kỹ thuật, thực tiễn Việt Nam và thế giới… Vấn
đề nâng cao dân trí thực sự chỉ có thể thực hiện sau khi chính trị đã đƣợc giải
phóng, toàn bộ chính quyền đã về tay nhân dân.
Ba là, bồi dưỡng những phẩm chất, phong cách và lối sống đẹp, lành
mạnh; hướng con người đến chân, thiện, mỹ để hoàn thiện bản thân.
Phẩm chất và phong cách đƣợc hình thành từ đạo đức, lối sống, từ thói
quen của cá nhân và phong tục tập quán của cả cộng đồng. Phẩm chất và

18



phong cách thƣờng có mối quan hệ gắn bó với nhau. Mỗi ngƣời thƣờng có
nhiều phẩm chất, trong đó có phẩm chất chung và phẩm chất riêng, tùy theo
nghề nghiệp, vị trí công tác. Các phẩm chất thƣờng đƣợc thể hiện qua phong
cách, tức là lối sinh hoạt, làm việc, lối ứng xử trong đời sống. Căn cứ vào yêu
cầu của nhiệm vụ cách mạng, Hồ Chí Minh đã đề ra những phẩm chất và
phong cách cần thiết để mỗi ngƣời tự tu dƣỡng. Đối với cán bộ, đảng viên, Hồ
Chí Minh đặc biệt quan tâm đến phẩm chất đạo đức - chính trị. Bởi vì, nếu
không có những phẩm chất này thì họ không thể hoàn thành đƣợc những
nhiệm vụ cách mạng, không thể biến lý tƣởng thành hiện thực.
Những phẩm chất và phong cách tốt đẹp làm nên giá trị của con ngƣời.
Văn hóa giúp con ngƣời hình thành những phẩm chất phong cách và lối sống
tốt đẹp, lành mạnh thông qua phân biệt cái đẹp, lành mạnh với cái xấu xa. hƣ
hỏng, cái tiến bộ với cái lạc hậu, bảo thủ. Từ đó giúp con ngƣời phấn đâu lảm
cho cái tốt đẹp. lành mạnh ngày càng tăng, càng nhiều, còn cái lạc hậu, bảo
thủ, ngày càng giảm, vƣơn tới cái chân, cái thiện, cái mỹ để hoàn thiện bản
thân. Với ý nghĩa đó Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Phải làm thế nào cho văn hóa
thấm sâu vào tâm lý quốc dân, nghĩa là văn hóa phải sửa đổi đƣợc những tham
nhũng, lƣời biếng, phù hoa xa xỉ văn hóa phải soi đƣờng cho quốc dân đi.
1.2.2. Quan điểm về một số lĩnh vực chính của văn hóa
1.2.2.1. Văn hóa giáo dục
Sau khi tìm thấy con đƣờng cứu nƣớc cho dan tộc, Hồ Chí Minh đã
bỏ nhiều công sức phân tích sâu sắc nền giáo dục phong kiến và thực dân,
chuẩn bị tƣ tƣởng cho việc xây dựng nền giáo dục của nƣớc Việt Nam độc
lập sau này. Ngƣời đã phê phán gay gắt nền giáo dục phong kiến (tầm
chƣơng, kinh viện, xa rời thực tế, bất bình đẳng, trọng nam khinh nữ…)
và nền giáo dục thực dân (ngu dân, đồi bại, xảo trá nguy hiểm hơn cả sự
dốt nát).


19


Nền giáo dục mới của nƣớc Việt Nam độc lập đƣợc Hồ Chí Minh
chuẩn bị từ những lớp bồi dƣỡng cán bộ cách mạng trong những năm của
thế kỷ XX thực sự ra đời sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và phát
triển cùng với sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc. Hồ Chí Minh cho rằng,
việc xây dựng một nền giáo dục của nƣớc Việt Nam mới phải đƣợc coi là
một mặt trận quan trọng, nhiệm vụ cấp bách, hàng đầu có ý nghĩa chiến
lƣợc, cơ bản và lâu dài. Nền giáo dục đó sẽ “… làm cho dân tộc chúng ta
trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nƣớc, yêu lao động, một dân tộc xứng
đáng với nƣớc Việt Nam độc lập”.
Trong quá trình xây dựng nền văn hóa giáo dục ở Việt Nam, Hồ Chí Minh
đã đƣa ra một hệ thống quan điểm rất đa dạng phong phú và toàn diện, định
hƣớng cho nền giáo dục phát triển đúng đắn, đúng hƣớng góp phần quan
trọng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất
nƣớc nhà.
Xác định mục tiêu của giáo dục là thực hiện cả ba chức năng của
văn hóa bằng giáo dục: dạy và học để bồi dƣỡng lý tƣởng đúng đắn và tình
cảm cao đẹp; mở mang dân trí; bồi dƣỡng những phẩm chất và phong cách
tốt đẹp. Học để làm việc, làm ngƣời, làm cán bộ. Giáo dục nhằm đào tạo
lớp ngƣời có đức, có tài và kế tục sự nghiệp cách mạng.
Thực hiện cải cách giáo dục thông qua xây dựng chƣơng trình, nội dung
dạy và học hợp lý, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Xác định rõ phƣơng
châm, phƣơng pháp giáo dục.
Quan tâm xây dựng, bồi dƣỡng đội ngũ giáo viên vì không có giáo
viên thì không có giáo dục. Phải xây dựng đội ngũ giáo viên có phẩm chất,
có đạo đức, yên tâm công tác, đoàn kết, giỏi chuyên môn, thuần thục về
phƣơng pháp “Học không biết chán, dạy không biết mỏi”.
Ngƣời đi giáo dục cũng phải đƣợc giáo dục, bồi dƣỡng, phải học thêm, học

mãi, học không bao giờ đủ, còn sống còn phải học.

20


×