Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Tích hợp liên môn trong dạy học bài 13 lịch sử 6 đời sống vật chất và tinh thần của cư dân văn lang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.71 KB, 18 trang )

I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Môn lịch sử ở trường THCS giúp học sinh có được những kiến thức cơ bản,
cần thiết về lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới, góp phần hình thành ở học sinh thế
giới quan khoa học, giáo dục lòng yêu quê hương, đất nước, niềm tự hào dân tộc,
tình đoàn kết quốc tế. Đồng thời, học lịch sử còn bồi dưỡng năng lực tư duy, hành
động và thái độ ứng xử đúng đắn trong cuộc sống cho các em… Trong những năm
gần đây, nhằm nâng cao chất lượng dạy học nói chung, dạy học lịch sử nói riêng
đang thu hút sự quan tâm không chỉ của những người làm công tác dạy học mà
ngay cả các cấp, các ngành ở Trung ương và địa phương. Thực tế đã cho thấy, việc
đổi mới PPDH lịch sử ở các trường THCS là hết sức cần thiết tạo nên những
chuyển biến quan trọng về chất lượng bộ môn. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã cho ra
đời đề án đổi mới căn bản toàn diện giáo dục, trong đó việc thực hiện tích hợp, liên
môn được Bộ quan tâm chỉ đạo thực hiện.
Thực hiện chủ trương của Đảng và chỉ đạo của Bộ Giáo dục, trong thời gian
qua, dạy học theo hướng tích hợp liên môn được đưa vào thực tế giảng dạy trong
các nhà trường nhằm thực hiện đổi mới nội dung, phương pháp dạy học đã được
giáo viên hưởng hứng.
Thực tế cho thấy, dạy học tích hợp kiến thức liên môn trong trường THCS ở
các môn học nói chung, môn Lịch sử nói riêng chưa đạt được kết quả như mong
muốn. Nguyên nhân cơ bản đó là giáo viên chưa có các tài liệu nghiên cứu nào bàn
sâu về vấn đề này nên hiểu về dạy học tích hợp kiến thức liên môn còn nhiều hạn
chế, chưa hiệu quả. Hơn nữa, học sinh rất ngại học sử vì các em cho đây là môn
phụ nên không cần chú trọng…Vì thế, việc đổi mới PPDH trong đó có phương
pháp tích hợp kiến thức liên môn trong dạy học lịch sử đang gặp nhiều khó khăn.
Là giáo viên có tâm huyết với nghề, nhiều năm trực tiếp giảng dạy môn Lịch
sử ở trường THCS Vạn Thắng, bản thân tôi cũng như bao đồng nghiệp khác luôn
trăn trở, tìm tòi, trao đổi cùng đồng nghiệp, tiếp cận công nghệ thồng tin, thử
nghiệm và đúc rút kinh nghiệm từ thực tế giảng dạy môn Lịch sử . Mỗi bài, hiệu
quả của phương pháp dạy học tích hợp khác nhau, tùy thuộc vào nội dung bài học
và sự khéo léo trong cách vận dụng của giáo viên.Từ thực tế đó, tôi đã chọn giải


pháp: " Tích hợp kiến thức liên môn trong dạy bài Bài 13-: Đời sống vật chất và
tinh thần của cư dân Văn Lang - Lịch sử 6" để nhằm trao đổi với đồng nghiệp về
vận dụng phương pháp trên để giải quyết một số vấn đề lịch sử cụ thể.
2. Mục đích nghiên cứu:
Dạy học theo hướng tích hợp tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh phát hiện,
sử dụng kiến thức vào tình huống cụ thể, biết vận dụng kiến thức đã học của các bộ
môn để áp dụng vào quá trình tìm hiểu nội dung bài học và liên hệ với thực tiễn
trong cuộc sống. Qua đó, khơi dậy lòng yêu thích của học sinh với bộ môn lịch sử,
nâng cao chất lượng học tập của học sinh, giúp học sinh có phương pháp học tập
tốt phù hợp với yêu cầu hiện nay.
Thông qua đề tài, giáo viên có thể đưa ra một số giải pháp nhằm tạo hứng thú
cho học sinh trong khi học lịch sử.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
1


a, Đối tượng: Trong phạm vi sáng kiến này, tôi chỉ tập trung đi sâu nghiên cứu
kinh nghiệm dạy học tích hợp kiến thức liên môn dạy Lịch sử 6: Bài 13: "Đời
sống vật chất và tinh thần của cư dân Văn Lang"..
Học sinh lớp thực nghiệm và lớp đối chứng: khối 6, trường THCS Vạn
Thắng- Nông Cống – Thanh Hóa.
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp sưu tầm sử liệu.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát.
- Phương pháp dạy thử nghiệm trên lớp.

II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận.
Lịch sử là những sự việc đã diễn ra, có thật và tồn tại trong quá khứ. Chúng ta
không thể phán đoán, suy luận hay tưởng tượng để nhận thức lịch sử mà phải thông

qua những “dấu tích” của quá khứ, những chứng cứ và sự tồn tại của các sự việc đã
diễn ra. Cho nên “Dạy lịch sử cũng như bất cứ dạy cái gì đòi hỏi người thầy phải
khêu gợi cái thông minh chứ không phải bắt buộc các trí nhớ làm việc, bắt nó ghi
chép rồi trả lại”- nhà giáo dục học Đa-ri - Liên Xô cũ. Để “ khêu gợi cái thông
minh” và đáp ứng mục tiêu dạy học phát triển năng lực học sinh, đòi hỏi phải tăng
cường yêu cầu học sinh vận dụng kiến thức vào giải quyết những vấn đề thực tiễn
và đặc trưng bộ môn lịch sử đề cập đến nhiều vấn đề của xã hội nên khi giải quyết
một vấn đề trong thực tiễn, bao gồm cả tự nhiên và xã hội, đòi hỏi học sinh phải
vận dụng kiến thức tổng hợp, liên quan đến nhiều môn học. Vì vậy, dạy học lịch sử
cũng cần phải tăng cường theo hướng tích hợp kiến thức liên môn.
Dạy học tích hợp kiến thức liên môn là một phương pháp dạy học tích cực
hiện nay. Là giải pháp hiệu quả để thực hiện đề án “đổi mới căn bản toàn diện
giáo dục” của Bộ Giáo dục và Đào tạo và chiến lược “ đổi mới căn bản và toàn
diện giáo dục Việt Nam” theo tinh thần Nghị Quyết 29-NQ/TƯ của Trung ương
Đảng .
Tích hợp liên môn là phối hợp sự đóng góp của nhiều môn học để nghiên cứu
và giải quyết một tình huống.
Dạy học tích hợp liên môn là dạy học những nội dung kiến thức liên quan hai
hay nhiều môn học. “Tích hợp” là nói đến phương pháp và mục tiêu của hoạt động
dạy học còn “ liên môn” là đề cập đến nội dung dạy học.
Dạy học tích hợp kiến thức liên môn trong bộ môn lịch sử là hình thức dạy
học vận dụng các kiến thức Ngữ văn, Địa lí, Giáo dục công dân, Mĩ thuật, Âm
nhạc, Toán học… để khai thác làm rõ cho một nội dung, kiến thức lịch sử nào đó.
Dạy học tích hợp kiến thức liện môn có ưu điểm lớn làm cho nội dung bài học
lịch sử vốn trừu tượng, khô khan, khó hiểu trở nên cụ thể hơn, sinh động, hấp dẫn
hơn qua các hình ảnh, âm thanh, câu chuyện kể, thơ ca... tạo ra động cơ, hứng thú
học tập của học sinh; khuyến khích các em tích cực tham gia các hoạt động học
tập, phát triển được năng lực tư duy, khả năng vận dụng các kiến thức tổng hợp
hợp để giải quyết các vấn đề thực tiễn, ít phải nhớ kiến thức một cách máy móc.
Các em hiểu bài nhanh hơn, sâu hơn, không những thế còn củng cố kiến thức của

các môn học liên quan. Từ đó, làm cho các em yêu thích bộ môn lịch sử hơn.
2


Dạy học tích hợp kiến thức liên môn sẽ tránh được tình trạng “đọc – chép”,
giúp cho giáo viên nâng cao chuyên môn nghiệp vụ, góp phần đổi mới hình thức,
phương pháp dạy học và đổi mới kiểm tra, đánh giá kết quả học tập đáp ứng mục
tiêu giáo dục hiện nay.
Với học sinh lớp 6, mới bước đầu tiếp cận bộ môn khoa học lịch sử các em
được tìm hiểu về: phần lịch sử thế giới thời nguyên thủy và cổ đại và phần lịch sử
Việt Nam từ thời nguyên thủy đến đầu thế kỉ X. Đây là những kiến thức lịch sử
khái quát, trừu tượng, khó và rất xa với thực tiễn hiện nay nên các em tiếp thu còn
rất khó khăn. Song với ưu điểm nổi bật của của phương pháp dạy học tích hợp kiến
thức liên môn như vậy, nên tôi đã tích cực tìm hiểu nghiên cứu, ứng dụng vào thực
tế giảng dạy môn lịch sử 6 rất hiệu quả. Đúng như lời nói của nhà giáo dục học W.
B. Yeats “Giáo dục không nhằm mục tiêu nhồi nhét kiến thức mà là thắp sáng
niềm tin”.
2. Thực trạng vấn đề
Môn lịch sử là môn có vai trò quan trọng, qua đó học sinh có thể hiểu biết về
lịch sử dân tộc và thế giới, từ đó hoàn thiện và phát triển nhân cách con người. Tuy
nhiên, thực trạng của việc dạy học lịch sử trong nhà trường hiện còn một số tồn tại
sau:
* Chương trình : thiết kế nặng, không liên thông giữa các môn học, cấp học,
dẫn đến sự trùng lặp một số kiến thức giữa các cấp học.
* Sách giáo khoa :
- Biên soạn theo hướng nặng về cung cấp kiến thức để thi cử, ít chú trọng vấn
đề bồi dưỡng năng lực cho học sinh.
- Thể hiện dưới hình thức một môn khoa học, nên một số kiến thức hàn lâm
không thực sự cần thiết cho thực tế vẫn được đưa vào.
- Nội dung nhiều bài rất khô khan về kiến thức, thiên về nhiều sự kiện lịch sử,

chiến tranh cách mạng, ít đề cập về lịch sử văn hóa, nghệ thuật, chưa xen kẽ với
văn học, khoa học…
* Giáo viên:
- Coi nặng việc truyền thụ kiến thức có trong SGK (lối dạy nhồi nhét kiến thức
để thi cử).
- Ít vận dụng kiến thức liên môn, chủ đề tích hợp giáo dục (xem nhẹ việc dạy để
giúp HS phát triển những năng lực cần thiết nhằm giải quyết những vấn đề trong
thực tiển). Từ đó dẫn đến tiết dạy khô khan, kém hấp dẫn, nặng về cung cấp kiến
thức, liệt kê sự kiện. Điều này làm cho giáo viên dễ sa vào lối dạy đọc chép.
* Học sinh:
- Ghi nhớ bài học một cách rời rạc, máy móc.
- Không nắm được mối quan hệ giữa các tri thức thuộc lĩnh vực đời sống xã hội,
về kiến thức liên môn. Học sinh nhàm chán, không yêu thích bộ môn Lịch Sử
Thực hiện Nghị quyết 29 - NQ/TƯ của Trung ương Đảng và đề án “đổi mới
căn bản toàn diện giáo dục” của Bộ Giáo dục và Đào tạo lấy “tích hợp, liên môn”
làm trọng tâm.., trong những năm học từ 2013 – 2014, phương pháp dạy học theo
hướng tích hợp kiến thức liên môn mới bắt đầu được phổ biến trong ngành giáo
dục huyện nhà với cuộc thi “Vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết các vấn đề
thực tiễn” dành cho học sinh và “Dạy học theo chủ đề tích hợp kiến thức liên môn
dành cho giáo viên THCS” và đã được giáo viên, học sinh trường THCS Vạn
3


Thắng hưởng ứng nhằm học hỏi nâng cao trình độ, đổi mới phương pháp, vận dụng
quan điểm dạy học liên môn vào giảng dạy các bộ môn để nâng cao hơn nữa hiệu
quả giáo dục.
Qua thực tiễn vận dụng kiến thức liên môn trong các môn học nói chung, ở
môn Lịch sử 6 ở trường THCS Vạn Thắng nói riêng vẫn còn gặp nhiều khó khăn.
Thứ nhất, phương pháp giảng dạy của một số giáo viên lịch sử vẫn còn thiếu
chiều sâu, chưa hấp dẫn đối với học sinh trong cách truyền đạt kiến thức, vẫn nặng

về “nhồi nhét” nên chưa gây được hứng thú học tập.
Thứ hai, phương pháp tích hợp kiến thức liên môn tuy không phải là mới
nhưng tài liệu nghiên cứu còn hạn chế, đến nay đa số giáo viên chưa hiểu đúng đắn
về tích hợp kiến thức liên môn, chưa có phương pháp dạy học tích hợp kiến thức
liên môn phù hợp nên tích hợp chưa hiệu quả
Thứ ba, tích hợp kiến thức liên môn, đòi hỏi giáo viên phải có sự đầu tư cho
tiết dạy, tìm hiểu các kiến thức bộ môn của các môn học khác, biết sử dụng công
nghệ thông tin… nên nhiều đồng chí ngại đổi mới.
Thứ tư, cơ sở vật chất nhà trường chưa đáp ứng được nhu cầu đổi mới.
Thứ năm, học sinh lớp 6 là lớp đầu cấp nên khả năng tiếp cận với bộ môn
khoa học lịch sử còn gặp nhiều khó khăn.
Thứ sáu, học sinh luôn có tư tưởng coi môn sử là môn phụ, không thi vào cấp
3, kiến thức khô khan, nặng nề, khó học… nên không chú trọng, thiếu đầu tư, học
tập một cách đối phó, không hứng thú ..
Yêu cầu hiểu biết lịch sử, nhu cầu cuộc sống hiện tại và tương lai đặt cho giáo
viên lịch sử nhiệm vụ: làm thế nào để nâng cao chất lượng giảng dạy và học lịch
sử, kích thích sự hứng thú học sử cho học sinh. Để hoàn thiện nhiệm vụ này đòi
hỏi giáo viên dạy lịch sử không chỉ có kiến thức vững vàng về bộ môn lịch sử mà
còn phải có những hiểu biết vững chắc về các bộ môn khác để vận dụng vào bài
giảng làm phong phú và hấp dẫn thêm bài giảng.
3.Giải pháp và tổ chức thực hiện
Dạy học tích hợp, liên môn xuất phát từ yêu cầu của mục tiêu bài học phát
triển năng lực học sinh, đòi hỏi phải tăng cường yêu cầu học sinh vận dụng kiến
thức vào giải quyết những vấn đề thực tiễn. PGS.TS Mai Văn Hưng - Chủ nhiệm
bộ môn Khoa học tự nhiên, Trường ĐH Giáo dục (ĐHQG Hà Nội) - cho rằng: Để
dạy học tích hợp liên môn có hiệu quả cần hiểu rõ bản chất của liên môn và tích
hợp; những điều kiện cần và đủ, những yếu tố liên quan đến quá trình tương tác
giữa các môn học cũng như tính độc lập tương đối của chúng trong một chỉnh thể
thống nhất. Vì thế cho nên, để giải quyết được thực trạng dạy học tích hợp kiến
thức liên môn trong dạy học lịch sử ở trường THCS Vạn Thắng nói chung, ở Tiết

14, Bài 13: Đời sống vật chất và tinh thần của cư dân Văn Lang môn Lịch sử 6 nói
riêng, bảnS thân tôi đã nghiên cứu tài liệu bồi dưỡng thường xuyên modun 14 –
Xây dựng kế hoạch dạy học theo hướng tích hợp, các chuyên đề tích hợp kiến thức
liên môn, sách giáo khoa, sách giáo viên môn lịch sử 6 và các tài liệu khác liên
quan đến tiết học… vào thực tế giảng dạy đạt hiệu quả cao. Sau quá trình nghiên
cứu, giảng dạy, tôi rút ra một số kinh nghiệm dạy học tích hợp kiến thức liên môn
trong dạy học lịch sử ở THCS như sau.
3.1. Một số kinh nghiệm dạy học tích hợp kiến thức liên môn trong dạy
học lịch sử ở THCS.
4


Thứ nhất, trong dạy học Lịch sử có thể tích hợp liên môn kiến thức của nhiều
môn học: Điều này xuất phát từ đặc trưng của bộ môn Lịch sử, đây là môn học
nghiên cứu về quá khứ đồng thời đây cũng là môn học bao hàm trong nó nhiều nội
dung kiến thức phong phú đa dạng. Vì vậy, để tái hiện quá khứ khách quan một
cách sinh động, chân thực, khách quan nhất, giáo viên phải kết hợp kiến thức của
nhiều môn học khác nhau như : Địa lí, Văn học, Giáo dục công dân, Âm nhạc, Mĩ
thuật, Lịch sử địa phương, kiến thức môi trường, Toán học, Lí học, Sinh học…
Thứ hai, cần phải xác định đúng đắn vị trí có thể thực hiện tích hợp liên môn
trong bài học lịch sử: Việc thực hiện tích hợp, liên môn phải đúng lúc, đúng chỗ,
không được khiên cưỡng, gò ép, trong chương trình Lịch sử THCS nói chung, từng
bài học lịch sử nói riêng không phải bất cứ nội dung nào cũng có thể thực hiện tích
hợp liên môn. Khi xây dựng kế hoạch dạy học, giáo viên cần xác định chính xác
những nội dung nào của bài học có thể tích hợp, tích hợp kiến thức môn học nào và
phương pháp thực hiện tích hợp liên môn như thế nào. Làm tốt được việc này, sẽ
giúp giáo viên không làm mất thời gian trong dạy học, hiệu quả của việc tích hợp
liên môn sẽ tăng lên rất nhiều.
Thứ ba, kiến thức liên môn được chọn để thực hiện tích hợp phải được lựa
chọn, cô đọng, chính xác: Trong quá trình dạy học lịch sử, khi sử dụng kiến thức

thức các môn học khác, giáo cần phải có sự lựa chọn, hết sức cô đọng, có hiệu quả
nhất, vì huy động những kiến thức thuộc các môn học khác mục đích cuối cùng
cũng là để soi sáng, làm nổi bật kiến thức bài học lịch sử học mà thôi. Vì vậy, việc
làm này giúp giờ học bám sát được mục tiêu bài học, tiết kiệm thời gian, tiết học
không bị rời rạc, nặng nề đối với học sinh, giúp nội dung bài giảng trở nên sâu
sắc…
Thứ tư, việc thực hiện tích hợp liên môn trong dạy học lịch sử cần tiến hành
một cách linh hoạt, sáng tạo dưới nhiều hình thức dạy học: Trong một tiết học trên
lớp có nhiều bước, việc thực hiện tích hợp liên môn không chỉ thực hiện trong quá
trình cung cấp kiến thức mới và còn có thể thực hiện trong lúc kiểm tra bài cũ, giới
thiệu bài mới hay kiểm tra đánh giá… Ngoài việc thực hiện với giờ học nội khóa,
việc tích hợp liên môn còn được tiến hành trong tất cả các hình thức dạy học khác
như giờ học thực hành, hoạt động ngoại khóa theo chủ đề, hoạt động học tập (dự
án học tập) của học sinh theo những chủ đề cụ thể, xây dựng hệ thống bài tập mở,
bài tập gắn liền thực tiễn, bài tập có nội dung vận dụng kiến thức liên môn…
Thứ năm, việc thực hiện tích hợp liên môn phải được thực hiện bằng những
phương pháp, biện pháp dạy học sáng tạo, hiệu quả: Khi dạy học lịch sử, việc đưa
kiến thức của các môn học khác vào bài học là nhằm giúp học sinh hiểu sâu sắc
hơn nội dung lịch sử, muốn vậy giáo viên cần phải thực hiện việc tích hợp liên
môn bằng những phương pháp, biện pháp dạy học sáng tạo, linh hoạt, giáo viên
cần phải xây dựng hệ thống câu hỏi tích hợp hay, hợp lí. Các câu hỏi này sẽ góp
phần phát huy vai trò làm chủ, tính tích cực, sáng tạo của học sinh, làm rõ những
tri thức, kĩ năng đặc thù của môn lịch sử, vừa khai thác những yếu tố chung giữa
các môn học khác để hình thành những tri thức tổng hợp cho học sinh.
Thứ sáu, cần thực hiện hài hòa và đồng bộ hai hướng tích hợp dọc và tích hợp
ngang: Trong dạy học lịch sử, có hai hướng tích hợp chính là tích hợp liên môn và
tích hợp nội bộ môn học. Mỗi loại tích hợp có một đặc trưng và mang lại một hiệu
quả riêng đối với quá trình dạy học. Cả hai hướng tích hợp này thường không tách
5



biệt mà luôn đi liền với nhau và có mối liên hệ chặt chẽ, gắn bó mật thiết với nhau,
hỗ trợ nhau cùng làm nổi bật nội dung của bài học, đồng thời giúp học sinh hoạt
động tích cực hơn, liên tục vận dụng, củng cố kiến thức đã học.
3.2. Các biện pháp thực hiện khi tích hợp kiến thức liên môn trong day học
Bài 13 – Đời sống vật chất và tinh thần của cư dân Văn Lang, môn Lịch sử 6.
Để tích hợp kiến thức liên môn trong môn lịch sử 6 Bài 13 – Đời sống vật
chất và tinh thần của cư dân Văn Lang, môn Lịch sử 6, tôi đã tiến hành như sau:
3.2.1. Nghiên cứu nội dung bài học để xác định nội dung cần tích hợp.
Nghiên cứu nội dung bài học là một biện pháp vô cùng quan trọng. Là chìa khóa
dẫn đến thành công một tiết giảng dạy của người giáo viên. Bởi có nghiên cứu nội
dung bài học giáo viên mới xác định được kiến thức cần truyền đạt cho người học,
mới định ra được kế hoạch, phương pháp thực hiện giảng dạy và xác định được nội
dung cần tích hợp. Với Bài 13 – Đời sống vật chất và tinh thần của cư dân Văn
Lang, môn Lịch sử 6 cũng vậy, để thực hiện được tiết học tích hợp kiến thức liên
môn thành công, bản thân tôi đã nghiên cứu kĩ nội dung bài học qua chuẩn kiến
thức kĩ năng, sách giáo khoa, sách giáo viên, thiết kê bài giảng môn lịch sử 6 cùng
các tài liệu có liên quan để xác định các đơn vị kiến thức trọng tâm, các nội dung
giáo dục, giáo dưỡng, kỹ năng cần đạt được trong tiết học.
3.2.2. Xác định kiến thức các môn học dùng để tích hợp trong bài học.
Qua nghiên cứu nội dung Tiết 14, Bài 13: Đời sống vật chất và tinh thần của
cư dân Văn Lang, tôi đã xác định được các môn học có nội dung kiến thức tích hợp
trong tiết học như sau:
* Lịch sử: Cơ sở khoa học, các tư liệu lịch sử chữ viết và truyền miệng về đời
sống vật chất và tinh thần của cư dân Văn Lang.
- Việc phát hiện hàng loạt các lưỡi cuốc đá được mài nhẵn toàn bộ ở các di chỉ
Hoa Lộc, Phùng Nguyên cùng với dấu tích của các hạt gạo cháy, dấu vết thóc lúa
bên cạnh các bình, vò đất nung lớn chứng tỏ cây lúa dần trở thành lương thực
chính của con người.
- Công cụ xới đất của người dân Văn Lang là các lưỡi cày đồng, hình dáng thon,

cứng sắc, có thể tra cán. Diện tích canh tác được mở rộng, sản phẩm làm ra nhiều hơn.
- Các cổ vật: Mũi giáo đồng, dao găm đồng, lưỡi cày đồng, lưỡi liềm đồng,
thạp đồng Đào Thịnh, trống đồng Đông Sơn đã cho biết nghề đúc đồng đã phát
triển đạt trình độ cao ở thời Văn Lang.
- Nông nghiệp: trồng lúa, rau, đậu, bầu, bí…, chăn tằm đánh cá, nuôi gia súc.
Các nghề thủ công: làm đồ gốm, dệt vải, xây nhà, đóng thuyền, luyện kim phát
triển là cơ sở cho đời sống vật chất và tinh thần của cư dân Văn Lang ngày càng no
đủ, phong phú thể hiện qua các lễ hội, phong tục, tín ngưỡng của người thời Văn
Lang và tạo nên tình cảm cộng đồng sâu sắc.
* Địa lý: Biết xác định trên bản đồ:
- Vị trí địa lý của nhà nước Văn Lang: thuộc vùng đồng bằng Bắc Bộ và Bắc
Trung Bộ nước ta ngày nay với kinh đô ở Văn Lang (Bạch Hạc - Phú Thọ).
- Các địa danh tìm thấy công cụ lao động thời Văn Lang: vùng đồng bằng
sông Hồng, sông Mã, sông Cả.
- Các địa danh tìm thấy trống đồng trên đất nước ta: Sơn La, Lai Châu, Cao
Bằng, Lạng Sơn, Thanh Hóa, Nghệ An, Đồng Nai, Sông Bé, Khánh Hòa, Vũng
Tàu... và ở nhiều nước trong khu vực như Malaixia, Inđônêxia, Thái Lan...
6


* Ngữ văn:
- Truyền thuyết “ Bánh chưng, bánh dầy” và các tư liệu lịch sử đã cho biết
thức ăn chính hàng ngày của người dân Văn Lang là: cơm nếp, cơm tẻ, cà, rau,
đậu, thịt, cá... Đặc biệt, trong ngày Tết người dân Văn Lang còn có tục làm bánh
chưng, bánh giày để cúng trời đất, tổ tiên.
- Truyện “Trầu cau” và “Con Rồng cháu Tiên” cho ta biết người thời Văn
Lang đã có tục ăn trầu, nhuộm răng đen, xăm mình giống hình Rồng để tỏ lòng
thành kính tổ tiên và để chống các loài thủy quái.
*Mỹ thuật:
- Thông qua hình ảnh minh họa biết được cách ăn mặc của người thời Văn

Lang: Ngày thường, nam đóng khố, mình trần, đi chân đất còn nữ thì mặc váy, áo
xẻ giữa, có yếm che ngực. Mái tóc có nhiều kiểu: hoặc cắt ngắn bỏ xõa, hoặc búi
tó, hoặc tết sam thả sau lưng.
- Ngày lễ, họ thích đeo đồ trang sức như vòng tay, hạt chuỗi, khuyên tai. Phụ
nữ mặc váy xòe kết bằng lông chim, đội mũ cắm lông chim hay bông lau.
* Giáo dục công dân:
- Bồi dưỡng niềm tự hào dân tộc, ý thức về cội nguồn cho học sinh.
- Giáo dục cho học sinh ý thức gìn giữ, bảo vệ các di sản văn hóa vật thể (Đền
Hùng, các di tích, danh lam thắng cảnh...), các di sản văn hóa phi vật thể (hát xoan,
ngày Quốc giỗ 10/3 âm lịch...) của đất nước.
- Giáo dục ý thức, trách nhiệm bảo vệ môi trường, cảnh quan ở những nơi
danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử đến thăm.
* Liên hệ thực tiễn:
- Tín ngưỡng thờ thần linh và thờ cúng tổ tiên của người dân Văn Lang vẫn
được người Việt duy trì đến ngày nay.
- Phong tục ăn trầu, gói bánh chưng, bánh giày vào ngày Tết vẫn được nhân
dân ta duy trì.
- Tục chôn cất người chết ở Việt Nam đến nay vẫn còn nhưng ở một số địa
phương có cách thức khác (hỏa táng).
3.2.3. Chuẩn bị.
Để một tiết học thành công, khâu soạn bài, chuẩn bị các phương tiện dạy học
vô cùng quan trọng. Nếu giáo viên có phương pháp hay nhưng chưa soạn bài, chưa
chuẩn bị bài chu đáo thì bài dạy sẽ không đạt hiệu quả. Sự chuẩn bị cho một tiết
dạy phải cả 2 phía: người dạy và người học.
* Giáo viên:
- Bản đồ Việt Nam, tranh ảnh, băng hình liên quan đến bài học như tranh
minh họa nhà sàn, thạp đồng, trống đồng, hình trang trí trên trống đồng, trang phục
và kiểu tóc của cư dân Văn Lang.
- Bài giảng điện tử, các thiết bị công nghệ cần thiết cho tiết dạy: máy chiếu,
loa, máy tính,

- Phiếu học tập, Sách giáo khoa, sách giáo viên, tài liệu chuẩn kiến thức lịch
sử, kênh hình dạy học lịch sử ở trường phổ thông
- Kiến thức của các môn học có liên quan đến bài học
* Học sinh:
- Sưu tầm tranh ảnh thời kỳ nhà nước Văn Lang: Trống đồng, nhà sàn, trang
phục, kiểu tóc…
7


- Sưu tầm và tìm hiểu các câu chuyện cổ tích Sự tích trầu cau, truyền thuyết
Bánh chưng bánh dày, Con Rồng cháu Tiên…
3.2.4 Phương pháp tích hợp kiến thức liên môn.
Phương pháp dạy học theo hướng tích hợp là lồng ghép nội dung tích hợp
vào các bài dạy, tùy theo từng môn học mà lồng ghép tích hợp ở các mức độ như
liên hệ, lồng ghép bộ phận hay là toàn phần, (Phần nội dung bài học, phần bài tập
hay là tổng kết toàn bài...) Khi tích hợp giáo viên cần sử dụng ngôn từ kết nối sao
cho lôgic và hài hòa....từ đó giáo dục và rèn kĩ năng sống, giá trị sống cho học
sinh.
Song để tích hợp kiến thức liên môn vào tiết học đạt hiệu quả, giáo viên phải
kết hợp nhuần nhuyễn, linh hoạt các phương pháp đặc thù bộ môn: Trực quan, vấn
đáp, nêu vấn đề, tường thuật, thuyết trình, tạo biểu tượng...với các hoạt động dạy
học tích cực như hoạt động nhóm, khăn phủ bàn, sơ đồ tư duy, trò chơi...
3.2.5. Cách thức tiến hành tích hợp kiến thức liên môn trong nôi dung các
hoạt động dạy học: Bài 13 "Đời sống vật chất và tinh thần của cư dân Văn
Lang".
Như những kinh nghiệm tôi đã trình bày, tích hợp có hai hướng là tích hợp
liên môn và tích hợp nội bộ. Hai hướng tích hợp này không tách biệt mà luôn đi
song song và bổ trợ nhau làm cho nội dung bài học liền mạch, chặt chẽ và tạo sự
hứng thú cho người học. Tích hợp được thực hiện ở từng khâu từng phần. Với tiết
học này, tôi tích hợp ngay từ phần giới thiệu bài vừa để gây hứng thú và liên kết

bài trước với bài sau để HS định hứng cho bài học mới.
Các hoạt động dạy học diễn ra bình thường nhưng giáo viên cần khéo léo tích
hợp kiến thức các môn học ngữ văn, địa lí, mỹ thuật, âm nhạc, giáo dục công dân,
liên hệ thực tiễn một cách nhịp nhàng để học sinh hiểu rõ hơn, sâu hơn, vận dụng
tốt hơn nội dung bài học.
Hoạt động 1: Giới thiệu bài
Giáo viên tích hợp với nội dung kiến thức tiết trước: Ở bài trước các em đã
được học về sự hình thành nhà nước Văn Lang trên cơ sở kinh tế - xã hội phát
triển, trên một địa bàn rộng lớn với 15 bộ. Bài học hôm nay chúng ta sẽ tìm hiểu về
đời sống vật chất và tinh thần của cư dân Văn Lang để hiểu rõ hơn về cội nguồn
của dân tộc.
Hoạt động 2: Tìm hiểu nội dung bài học
Mục 1: Nông nghiệp và các nghề thủ công:
* Về Nông nghiệp: Ở phần này kiến thức lịch sử và kiến thức Địa lí cần được GV
kết hợp một cách khéo léo, linh hoạt để giúp HS xác định được vị trí chính xác của
nước Văn Lang xưa và nay, vị trí ấy có ảnh hưởng như thế nào đến sản xuất nông
nghiệp; Các ngành kinh tế chính của cư dân Văn Lang. Câu hỏi cụ thể: Em hãy
xác định trên Bản đồ vị trí của nhà nước Văn Lang xưa và nay. (BĐ treo tường)
Vị trí đó có tác động như thế nào đến sản xuất nông nghiệp của cư dân Văn
Lang?
Sau phần trả lời của HS GV đó chiếu một số hình ảnh về công cụ bằng đồng ở
Bài 11. HS quan sát hình: Lưỡi cày đồng

8


Ngoài việc hướng dẫn HS tìm hiểu về công cụ sản xuất chính của cư dân Văn
Lang trong nông nghiệp, GV gợi cho học sinh sử dụng kiến thức mỹ thuật để
chỉ ra những ưu điểm của công cụ sản xuất bằng đồng so với công cụ đá. Cụ
thể:

So sánh hình dáng của cuốc đá và lưỡi cày đồng, em hãy đưa ra nhận xét về
công dụng và năng suất lao động của các công cụ lao động của người nguyên
thủy và người thời Văn Lang? (Tích hợp kiến thức mỹ thuật)
Trong nông nghiệp cư dân Văn Lang biết làm những nghề gì (Tích hợp kiến
thức địa lí)
Sau phần trả lời của HS GV kết luận:
- Văn Lang là một nước nông nghiệp, ở mỗi vùng, tùy theo đất đai người Lạc
Việt có cách gieo cấy trên nương rẫy của mình
- Công cụ xới đất của họ là lưỡi cày bằng đồng
- Lúa là cây lương thực chính. Ngoài ra họ còn biết trồng đậu, khoai, bầu, bí,
chuối, cam...
- Họ chăn nuôi tằm, nuôi gia súc như chó, lợn, gà... Nghề đánh cá phát triển
Như vậy, nông nghiệp nước ta đã chuyển từ nông nghiệp dùng cuốc sang nông
nghiệp dùng cày, các công cụ bằng đá sang các công cụ bằng đồng. Đây là một
bước tiến dài trong lao động sản xuất của cư dân Văn Lang. Vì vậy, cuộc sống của
họ ít phụ thuộc vào thiên nhiên hơn
Với câu hỏi tích hợp kiến thức mỹ thuật HS đã miêu tả và chỉ ra được lưỡi cày
đồng có hình dáng con bướm, có gờ to ở sống giữa, hai cánh bên có gờ nhỏ để tạo
ra sự chắc chắn, bền vững của lưỡi cày. Mũi cày nhọn, hình tam giác,đầu trên của
lưỡi cày có lỗ để tra vào thân cày
Việc tích hợp kiến thức địa lí ở phần này đã giúp HS xác định được : Vị trí địa
lý của nhà nước Văn Lang, các địa danh tìm thấy công cụ lao động thời Văn
Lang( vùng đồng bằng sông Hồng, sông Mã, sông Cả).
* Về Thủ công nghiệp: Giáo viên tích hợp kiến thức Lịch sử với kiến thức Địa lí
và Mỹ thuật để giúp HS hiểu rõ hơn nền kinh tế của cư dân Văn Lang không chỉ có
nông nghiệp mà thủ công nghiệp rất phát triển, đặc biệt là nghề đúc đồng.
GV đưa hình ảnh các cổ vật bằng đồng
Sau đó, GV giới thiệu nghề luyện kim: Nghề luyện kim phát triển nhất, được
chuyên môn hóa cao. Người dân Văn Lang đã làm được rất nhiều loại đồ đồng như
lưỡi cày, lưỡi cuốc, liềm, vũ khí, đồ trang sức, trống đồng…

GV tiếp tục gợi ý cho HS sử dụng kiến thức mỹ thuât để nhận xét về tài năng
và óc sáng tạo của những người thợ thủ công thời bấy giờ. Câu hỏi:
Trong số những sản phẩm thủ công trên, loại nào thể hiện rõ nhất tài năng
của người thợ đúc? Em có nhận xét gì về tài năng của người thợ thủ công thời
bấy giờ?
Trong số này, trống đồng, thạp đồng thể hiện rõ nhất tài năng của họ, vì trống
hay thạp rỗng rất khó đúc, trống lại có nhiều hoa văn đẹp, do đúc mà có chứ không
phải do con người khắc lên (Giáo viên miêu tả vài nét về trống đồng và giới thiệu
về các hoa văn trên trống đồng Ngọc Lũ, trống đồng Đông Sơn). Đây cũng là vật
tiêu biểu cho nền văn hóa của người Lạc Việt.
9


Hình trang trí trên Trống đồng Ngọc Lũ
Mặt Trống đồng Đông Sơn
Tích hợp với kiến thức Địa lí giáo viên cho HS quan sát lược đồ các địa danh
tìm thấy trống đồng
Quan sát lược đồ, xác định các địa danh tìm thấy trống đồng trên đất nước ta
và trong khu vực?
- HS đã xác định được trên lược đồ các địa danh tìm thấy trống đồng trên đất
nước ta: Sơn La, Lai Châu, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thanh Hóa, Nghệ An,
Đồng Nai, Sông Bé, Khánh Hòa, Vũng Tàu... và ở nhiều nước trong khu vực
như Malaixia, Inđônêxia, Thái Lan...
Mục 2: Đời sống vật chất của cư dân Văn Lang.
Đây là phần mà GV đã yêu cầu HS chuẩn bị bài ở nhà theo nhóm. HS vận dụng
các kiến thức về Lịch sử, Địa lí, Mỹ thuật và hiểu biết thực tế để tìm hiểu, Giới
thiệu về đời sống vật chất của cư dân Văn Lang
Câu hỏi các nhóm như sau:
- Nhóm1: Cư dân Văn Lang họ ở như thế nào? Vì sao họ ở như vậy?
- Nhóm2:Thức ăn chủ yếu của cư dân Văn Lang là gì? Trong bữa ăn họ đã sử

dụng những vật dụng gì ?
- Nhóm 3: Cho biết trang phục, kiểu tóc của cư dânVăn Lang như thế nào?
- Nhóm4:Cho biết số lượng gia đình ở trong các làng, chạ và cư dân tập trung
sinh sống ở đâu? Chủ yếu đi lại bằng phương tiện gì?
Sau khi dẫn dắt HS tìm hiểu mục 2, GV yêu cầu HS trình bày kết quả làm
việc nhóm đã chuẩn bị ở nhà. (Mỗi nhóm trình bày 2 phút)
GV trình chiếu nội dung :

Thức ăn chính hằng ngày là cơm nếp, cơm tẻ, rau, cà, thịt, cá. Trong bữa ăn,
người ta đã biết dùng mâm, bát, muôi. Họ còn biết làm muối, mắm cá và dùng
gừng làm gia vị.
Nhà ở phổ biến là nhà sàn mái cong hình thuyền hay mái tròn hình mui
thuyền, làm bằng gỗ, tre, nứa, lá, có cầu thang tre (hay gỗ) để lên xuống.
Làng, chạ thường gồm vài chục gia đình, sống quây quần ở ven đồi hoặc ở vùng
đất cao ven sông, ven biển, ở một vài làng, chạ, người ta đã biết dùng tre rào quanh
làng để ngăn thú dữ.
Trang phục thường ngày của cư dân Văn Lang: nam thì đóng khố, mình trần,
đi chân đất ; còn nữ thì mặc váy, áo xẻ giữa, có yếm che ngực.

10


Ngày lễ, họ thích đeo các đồ trang sức như vòng tay, hạt chuỗi, khuyên tai.
Phụ nữ mặc váy xòe kết bằng lông chim, đội mũ cắm lông chim hay bông lau
Mái tóc có nhiều kiểu : hoặc cắt ngắn bỏ xõa, hoặc búi tó, hoặc tết đuôi sam
thả sau lưng.
GV kết luận: Đời sống của cư dân Văn Lang giản dị, gắn bó với nông nghiệp.
Mục 3: Đời sống tinh thần của cư dân Văn Lang.
Ở phần này GV hướng dẫn HS tìm hiểu những sinh hoạt văn hóa của người
dân Văn Lang sau những ngày lao động vất vả. Song GV gợi ý và hướng dẫn HS

tích hợp kiến thức Văn học và Âm nhạc để tìm hiểu thêm về đời sống tinh thần
phong phú của cư dân Văn Lang. Cụ thể:
Tích hợp kiến thức âm nhạc GV giới thiệu cho HS một số loại nhạc cụ
được dùng phổ biến trong các lễ hội của người thời Văn Lang. Đó là:
Tích hợp kiến thức môn ngữ văn
Các truyện “Trầu Cau”, “Bánh chưng, bánh giày”, “Con Rồng, cháu Tiên”
còn cho ta biết người thời Văn Lang đã có những phong tục, tập quán, tín
ngưỡng gì?
Với câu hỏi này, vì HS đã được biết đến trong môn ngữ văn nên các em đã
vận dụng và trả lời:
- Truyền thuyết “ Bánh chưng, bánh giày” và các tư liệu lịch sử đã cho biết
thức ăn chính hàng ngày của người dân Văn Lang là: cơm nếp, cơm tẻ, cà, rau,
đậu, thịt, cá... Đặc biệt, trong ngày Tết người dân Văn Lang còn có tục làm bánh
chưng, bánh giày để cúng trời đất, tổ tiên.
- Truyện “Trầu cau” và “Con Rồng cháu Tiên” cho ta biết người thời Văn
Lang đã có tục ăn trầu, nhuộm răng đen, xăm mình giống hình Rồng để tỏ lòng
thành kính tổ tiên và để chống các loài thủy quái.
Việc tích hợp kiến thức môn ngữ văn ở đây đã giúp HS hiểu rõ hơn mối liên
hệ giữa môn ngữ văn với môn Lịch sử. Không phải là những truyền thuyết, sự tích
có tính văn học đơn thuần mà thông qua những câu chuyện đó học sinh thấy được
những yếu tố lịch sử, sự kiện lịch sử trong văn học. Qua đó giúp các em có hứng
thú hơn trong việc học tập, tìm hiểu các môn khoa học xã hội trong trường phổ
thông.
* Cuối mục 3 giáo viên tổ chức cho học sinh chơi Trò chơi: Ai nhanh hơn: (2
phút) Điền vào bảng đời sống tinh thần của cư dân Văn Lang ( 3 nhóm điền 3 cột
: Lễ hội, Tín ngưỡng, Phong tục)
*GV đưa đáp án đúng

11



Lễ hội
- Ca hát
- Nhảy múa
- Đua
thuyền
- Đấu vật
- Săn bắn

Tín ngưỡng
- Thờ thần linh
(Mặt trời, mặt
trăng, đất,
nước...)
- Thờ cúng tổ
tiên

Phong tục
- Ăn trầu
- Nhuộm răng đen
- Xăm mình
- Chôn cất người chết

GV Kết luận: Người dân Văn Lang có khiếu thẩm mỹ khá cao. Đời sống vật
chất hòa quyện với đời sống tinh thần phong phú tạo nên tình cảm cộng đồng
sâu sắc trong con người Lạc Việt.
Những yếu tố nào tạo nên tình cảm cộng đồng của cư dân Văn Lang? (Tích
hợp kiến thức Địa lí, Văn học, Lịch sử)
- Cùng chung lãnh thổ, ngôn ngữ
- Cùng nhau sản xuất, trị thủy, bảo vệ mùa màng

- Chung nền văn hóa, tín ngưỡng...
Những phong tục, lễ hội, tín ngưỡng đẹp của người dân Văn Lang có còn
được nhân dân ta lưu giữ đến ngày nay không? Em hãy kể cho cả lớp cùng biết.
(Liên hệ cuộc sống thực tiễn)
- Tín ngưỡng thờ thần linh và thờ cúng các anh hùng dân tộc của người dân
Văn Lang vẫn được người Việt duy trì đến ngày nay.
- Phong tục ăn trầu, gói bánh chưng, bánh giày vào ngày tết vẫn được nhân
dân ta duy trì.
- Nhân dân ta vẫn duy trì một số sinh hoạt văn hoa thời Văn Lang như: đánh
trống đồng, bơi thuyền, giã cối... đặc biệt có trong lễ hội đền Hùng hàng
năm.
- Hội làng Bái Sơn, Hà Tiến, Hà Trung vào ngày 10/2 âm lịch hàng năm...
- Tục chôn cất người chết ở Việt Nam đến nay vẫn còn nhưng một số địa
phương, gia đình có cách thức khác (hỏa táng)
* GV giới thiệu những hoạt động văn hóa tiêu biểu trong lễ hội đền Hùng hàng
năm ở nước ta.
Là một người con đất Việt, em sẽ làm gì để góp phần giữ gìn, bảo vệ các di
tích lịch sử, những nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa tinh thần của người Việt
ta? (Tích hợp môn GDCD)
- Giữ gìn sạch đẹp các di sản văn hóa ở địa phương
- Tìm hiểu về các di sản văn hóa của quê hương, đát nước
- Không vứt rác bừa bãi khu di tích, danh lam thắng cảnh.
- Tố giác những hành vi xâm phạm đế di sản văn hóa của đất nước.
- Tham gia các lễ hội truyền thống và sinh hoạt văn hóa tại địa phương...
Việc vận dụng kiến thức môn GDCD ở mục này đã:
- Bồi dưỡng niềm tự hà dân tộc, ý thức về cội nguồn cho học sinh.
- Giáo dục cho học sinh ý thức giữ gìn, bảo vệ các di sản văn hóa vật thể (Đền
Hùng, các di tích, danh lam thắng cảnh...), các di sản văn hóa phi vật thể (Lễ
hội đền Hùng, ngày Quốc giỗ, hát xoan...) của đất nước.
- Giáo dục ý thức, trách nhiệm bảo vệ môi trường, cảnh quan ở những nơi

danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử đến thăm.
12


4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Sau khi sử dụng phương pháp dạy học tích hợp kiến thức liên môn thành công
trong bài 13: Đời sống vật chất và tinh thần của cư dân Văn Lang - Lịch sử 6 ở lớp
6B trường THCS Vạn Thắng tôi nhận thấy:
4.1 Đối với học sinh:
- Học sinh rất có hứng thú và tham gia tích cực vào giờ học. Các em đã phát hiện
và biết sử dụng kiến thức liên môn vào quá trình tìm hiểu nội dung bài học, hiểu
sâu sắc hơn nội dung bài học và liên hệ được vào cuộc sống thực tiễn.
- Với phương pháp này còn giúp các em nâng cao nhận thức về ý nghĩa của việc
bảo vệ và phát huy giá trị các di sản văn hóa, truyền thống tốt đẹp của cha ông ta.
Từ kiến thức đã học của môn lịch sử các em có thể biết được nguồn gốc của di sản
văn hóa địa phương mình từ đó bồi đắp thêm cho các em lòng yêu quê hương,
niềm tự hào về truyền thống của quê hương đất nước. Từ đó các em có thể tự mình
đề ra những biện pháp bảo vệ các di sản văn hóa, những phong tục, tập quán,
truyền thống tốt đẹp của địa phương mình. Thực tiễn đã chứng minh không ai có
thể giữ gìn di sản văn hóa tốt hơn, hiệu quả hơn chính chủ nhân của di sản văn hóa
ấy.
4.2. Đối với giáo viên:
Việc “Tích hợp kiến thức liên môn trong Tiết 14, Bài 13 – Đời sống vật chất
và tinh thần của cư dân Văn Lang” giống như một luông khí mới thổi vào tiết học
làm cho giờ dạy cũng như chất lượng giờ dạy khác hẳn so với tiết dạy học lịch sử
thông thường.
Không khí tiết học sôi nổi, giáo viên và học sinh đều rất hứng thú, cách tổ
chức các hoạt động dạy học rất nhẹ nhàng mà phong phú và sâu sắc. Bài giảng có
hồn hơn. Giáo viên khai thác các vấn đề lịch sử trong bài sâu hơn, đa dạng hơn,
logic hơn chứ không nhàm chán, đơn điệu như cách dạy học một chiều đơn điệu,

khô và nhàm chán. Mục tiêu kiến thức, kĩ năng, giáo dục giáo dưỡng được thực
hiện một cách nhẹ nhàng không còn tình trạng”gồng lên” mà “ nhồi nhét” như dạy
học thông thường.
Qua tiết dạy, tôi nhận thấy sử dụng phương pháp tích hợp kiến thức liên môn
trong dạy học sử là một trong những phương pháp dạy học tích cực và có ưu thế
nhất góp phần rất lớn trong việc đổi mới phương pháp dạy học. Phát huy được
năng lực “học đi đôi với hành” của học sinh.
Vì vậy, tiết học của tôi đã được các đồng nghiệp đánh giá cao và được nhiều
đồng nghiệp vận dụng phương pháp dạy học tích hợp này vào giảng dạy ở nhiều bộ
môn khác đạt kết quả.
4.3. Chất lượng giáo dục:
Để minh chứng cho sáng kiến kinh nghiệm của mình, tôi đã cho HS làm bài
trắc nghiệm ở cả 2 lớp. Đề bài thuộc nội dung kiến thức trong Bài 13: Đời sống vật
chất và tinh thần của cư dân Văn Lang
Phiếu đánh giá kết quả nhận thức của học sinh:
Lớp Sĩ
số

Giỏi

Khá

Trung
bình

Yếu

Kém
13



Lớp
thực
nghiệm

SL

%

Sl

%

SL %

Sl

%

SL %

6A

45

18

40

16


36

10

22 1

2

0

0

Lớp đối
chứng
6B

45

11

24

13

29

17

38 4


9

0

0

Từ kết quả khảo sát trên, cho ta thấy “Tích hợp kiến thức liên môn trong dạy
học Bài 13: "Đời sống vật chất và tinh thần của cư dân Văn Lang, môn lịch sử
6 ở trường THCS VạnThắng” là một phương pháp dạy học tích cực, góp phần
nâng cao chất lượng bộ môn.
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Từ kết quả thu được và kinh nghiệm của bản thân thu được sau khi vận dụng
“Tích hợp kiến thức liên môn trong dạy học Tiết 14, Bài 13: Đời sống vật chất
và tinh thần của cư dân Văn Lang, môn Lịch sử 6 ở trường THCS Vạn Thắng”,
tôi có thể khẳng định rằng :
- Việc vận dụng tích hợp kiến thức liên môn trong dạy học môn lịch sử là một
phương pháp dạy học học rất tích cực góp phần đổi mới phương pháp, nâng cao
năng lực chuyện môn, nghiệp vụ sư phạm khắc phục những hạn chế của bộ môn
“đọc-chép”..., phát triển năng lực tư duy, khả năng chủ động sáng tạo chiếm lĩnh tri
thức và vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết các vấn đề lịch sử cũng như vận
dụng kiến thức lịch sử giải quyết các vấn đề trong cuộc sống... giúp các em phát
triển một cách toàn diện, đáp ứng yêu cầu đổi mới của thời đại hiện nay.
- Phương pháp tích hợp, lồng ghép các nội dung kiến thức liên quan vào bài
học lịch sử là không khó, hoàn toàn có tính khả thi bởi trong bản thân môn lịch sử
đã có tính liên môn – đề cập đến nhiều vấn đề của cuộc sống. Chỉ cần giáo viên
nắm chắc kiến thức chuyên môn có kiến thức cơ bản về các bộ môn khác hoặc
dành một chút thời gian tra cứu các nguồn tư liệu khác sẽ có đủ tư liệu tích hợp.
Vận dụng kiến thức liên môn trong dạy học lịch sử dù thực hiện dưới hình thức

nào đều nhằm đáp ứng được yêu cầu mục tiêu của môn học là trang bị những kiến
thức đầy đủ về lịch sử như F. Enghen đã từng khẳng định: “ Đối với chúng ta lịch
sử là tất cả, lịch sử được chúng ta đánh giá cao hơn bất kì thứ gì khác bởi lịch sử
chính là cuộc sống do con người xây dựng nên trong lao động và trong đấu tranh
giai cấp. Nhìn trong lịch sử ta thấy gương mặt của quá khứ, hình ảnh của hiện tại
và hướng đi của tương lai…”
Vì thời gian có hạn, SKKN của tôi chưa đề cập được nhiều vấn đề, chỉ giới
hạn trong một tiết, một môn học nhưng những kình nghiệm dạy học tích hợp kiến
thức liên môn mà tôi đã nêu ra có thể vận dụng trong bộ môn lịch sử và thể áp
dụng đối với các môn học khác.
2. Kiến nghị:
* Đối với Sở, phòng Giáo dục và Đào tạo:
14


- Trang bị cho GV cơ sở lí luận và thực tiễn về dạy học lí luận liên môn thông
qua các chương trình bồi dưỡng.
- Bỗi dưỡng cho GV các kiến thức của các môn học liên quan đến chủ đề liên
môn thông qua các chương trình bồi dưỡng thường xuyên.
- Bố trí lại phân phối chương trình của các môn học nhằm đáp ứng trình tự
logic của các kiến thức tạo thuận lợi cho HS khi học tích hợp.
- Tăng ường sự cộng tác của các giáo viên bộ môn.
- Nâng cao nhận thức của cán bộ quản lí, của GV về tính cấp thiết của dạy học
tích hợp liên môn đến phát triển năng lực học sinh.
* Đối với nhà trường: cần trang bị cơ sở vật chất đầy đủ, khuyến khích giáo
viên, học sinh tham gia các cuộc thi vận dụng kiến thức liên môn.
Với thời gian nghiên cứu có hạn, nên sản phẩm của tôi chắc chắn không tránh
khỏi những khiếm khuyết. Tôi rất mong được sự đóng góp chân thành của Hội
đồng khoa học, của quý bạn đọc để sáng kiến kinh nghiệm của tôi hoàn thiện hơn,
hữu ích và thiết thực hơn nữa.

Tôi xin chân thành cảm ơn !
XÁC NHẬN CỦA NHÀ TRƯỜNG

VạnThắng, ngày 28 tháng 3 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của tôi,
không sao chép nội dung của người khác.

Nguyễn Thị Hằng

MỤC LỤC
TT
1
2
3
4

Tên mục
Mở đầu
Lí do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Trang
1
1
2
2
15



5
6
7
8
9
10
11
12

Phương pháp nghiên cứu
2
Nội dung
2
Cơ sở lí luận
2
Thực trạng vấn đề
3
Giải pháp và tổ chức thực hiện
4
Hiệu quả của
kiếnDỤC
kinhVÀ
nghiệm
SỞsáng
GIÁO
ĐÀO TẠO THANH HÓA 17
Kết luận
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NÔNG CỐNG 18
Kiến nghị
19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
TT

Tên tài liệu

Tác giả

Nhà xuất
bản
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1
Khảo cổ học
Đức Vượng,Nguyễn
Nxbgiáo
Văn Khoan
dục
2
Kể Chuyện Lịch Sử Nước Nhà Ngô Văn Phú
Nhà xuất
dành cho học sinh thời cổ đại
bản trẻ.
3
Một số chuyên đề phương pháp Phan Ngọc Liên
Nxb
dạyHỢP
học lịch
sử MÔN TRONG DẠY HỌC BÀI ĐHQGHN
TÍCH
LIÊN

13- LỊCH
4
Một số vấn đề về Lịch sử
Trường Đại học sư NXB Đại
SỬ 6" ĐỜI SỐNG VẬT CHẤT
VÀHàTINH

phạm
Nội THẦN CỦA
học quốc
DÂN VĂN LANG"
gia Hà Nội
5
Phương pháp dạy học lịch sử
Phan Ngọc Liên
Nxb giáo
dục
6
Sách giáo khoa Lịch sử lớp 6
Bộ giáo dục và đào tạo Nxb giáo
dục
7
Sách giáo viên Lịch sử lớp 6
Bộ giáo dục và đào tạo Nxb giáo
dục

Người thực hiện: Nguyễn Thị Hằng
Chức vụ: Giáo viên.
Đơn vị công tác: Trường THCS Vạn Thắng
SKKN môn: Lịch Sử


NÔNG CỐNG, NĂM 2018
16


17


SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NÔNG CỐNG

TÍCH HỢP LIÊN MÔN TRONG DẠY HỌC BÀI 13- LỊCH
SỬ 6" ĐỜI SỐNG VẬT CHẤT VÀ TINH THẦN CỦA CƯ
DÂN VĂN LANG"
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

HÓA
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NÔNG CỐNG

Người
thựcTRONG
hiện: Nguyễn
HằngBÀI 13- LỊCH
TÍCH HỢP LIÊN
MÔN
DẠYThị
HỌC
ChứcVẬT
vụ: Giáo

viên.
SỬ 6" ĐỜI SỐNG
CHẤT
VÀ TINH THẦN CỦA CƯ
Đơn vị công tác: Trường THCS Vạn Thắng
DÂN VĂN LANG"
SKKN môn:
Sử KINH NGHIỆM
SÁNGLịch
KIẾN

TÍCH HỢP LIÊN MÔN TRONG DẠY HỌC
thực hiện:
Hằng VẬT CHẤT
BÀINgười
13- LỊCH
SỬNguyễn
6" ĐỜIThị
SỐNG
NÔNG
CỐNG,
NĂM 2018
ChứcTINH
vụ:
Giáo
viên.

THẦN
CỦA CƯ DÂN VĂN
Đơn vị công tác: Trường THCS Vạn Thắng

LANG"
SKKN môn: Lịch Sử

Người thực hiện: Nguyễn Thị Hằng
viên.
Đơn vị công tác: Trường THCS Vạn

NÔNG CỐNG,
NĂM
Chức
vụ:2018
Giáo

Thắng
SKKN môn: Lịch Sử

18



×