Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Phương pháp giải bài tập dạng oxit axit tác dụng với dung dịch kiềm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.06 KB, 21 trang )

PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Hoá học là bộ môn khoa học quan trọng trong nhà trường phổ thông.
Môn Hoá học cung cấp cho học sinh một hệ thống kiến thức phổ thông, cơ bản
và thiết thực. Giáo viên Hoá học cần hình thành ở các em một kỹ năng cơ bản,
thói quen học tập và làm việc khoa học làm nền tảng cho việc giáo dục, phát
triển năng lực nhận thức, năng lực hành động, giúp học sinh có những phẩm
chất cần thiết như: cẩn thận, kiên trì, trung thực, tỉ mỉ, chính xác, yêu chân lí
khoa học, có ý thức trách nhiệm với bản thân, gia đình, xã hội. Từ đó có thể
hoà hợp với môi trường thiên nhiên, chuẩn bị cho học sinh học tiếp lên hoặc đi
vào cuộc sống lao động.
Trong môn Hoá học thì bài tập Hoá học có một vai trò cực kỳ quan trọng,
nó là nguồn cung cấp kiến thức mới, vận dụng kiến thức lí thuyết, giải thích hiện
tượng các quá trình hoá học, giúp tính toán các đại lượng như khối lượng, thể
tích, số mol... Việc giải bài tập sẽ giúp học sinh củng cố kiến thức lí thuyết đã
được học, vận dụng linh hoạt kiến thức vào làm bài. Để giải được bài tập, đòi hỏi
học sinh nắm vững các tính chất hoá học của các đơn chất và hợp chất đã học,
nắm vững các công thức tính toán, biết cách tính theo phương trình hóa học và
công thức hoá học... Đối với những bài tập đơn giản thì học sinh thường đi theo
mô hình đơn giản: như viết phương trình hoá học, dựa vào các đại lượng bài ra để
tính số mol của một chất sau đó theo phương trình hoá học để tính số mol của các
chất còn lại, từ đó tính được các đại lượng theo yêu cầu của bài. Nhưng đối với
nhiều dạng bài tập thì nếu học sinh không nắm được bản chất của các phản ứng
thì việc giải bài toán của học sinh sẽ gặp rất nhiều khó khăn và thường là giải sai,
điển hình như dạng bài tập: Oxit axit phản ứng với dung dịch kiềm.
Chúng ta đã biết, để giải được một bài toán hoá học tính theo phương trình
hoá học thì bước đầu tiên học sinh phải viết được chính xác phương trình hoá
học rồi mới tính đến việc làm tới các bước tiếp theo và nếu viết phương trình sai
thì việc tính toán của học sinh trở lên vô nghĩa.
Đối với dạng bài tập: Oxit axit phản ứng với dung dịch kiềm thì để viết
được phương trình hoá học chính xác, học sinh phải hiểu được bản chất của phản


ứng nghĩa là phản ứng diễn ra theo cơ chế nào. Khi một oxit axit phản ứng với
dung dịch kiềm thì có thể tạo ra muối trung hoà, muối axit hoặc hỗn hợp cả hai
muối. Điều khó đối với học sinh là phải biết xác định xem phản ứng xảy ra thì tạo
ra những sản phẩm nào, từ đó mới viết được phương trình hoá học chính xác.
Mặt khác, kỹ năng giải toán hoá học chỉ được hình thành khi học sinh nắm
vững lý thuyết, nắm vững các kiến thức về tính chất hoá học của chất, biết vận
dụng kiến thức vào giải bài tập. Học sinh phải hình thành được một mô hình giải
toán, các bước để giải một bài toán, kèm theo đó là phải hình thành ở học sinh
thói quen phân tích đề bài và định hướng được cách làm đây là một kỹ năng rất
quan trọng đối với việc giải một bài toán hóa học. Do đó để hình thành được kỹ
1


năng giải toán dạng oxitaxit phản ứng với dung dịch kiềm thì ngoài việc giúp học
sinh nắm được bản chất của phản ứng thì giáo viên phải hình thành cho học sinh
một mô hình giải (các cách giải ứng với từng trường hợp) bên cạnh đó rèn luyện
cho học sinh tư duy định hướng khi đứng trước một bài toán và khả năng phân
tích đề bài.
Chính vì vậy việc cung cấp cho học sinh các cách giải bài toán oxit axit
phản ứng với dung dịch kiềm là xây dựng cho học sinh mô hình để giải bài toán
và các kỹ năng phân tích đề giúp học sinh định hướng đúng khi làm bài tập là
điều rất cần thiết, nó giúp học sinh có tư duy khoa học nhằm nâng cao chất lượng
trong giảng dạy và học tập của giáo viên và học sinh.
Qua thực tế giảng dạy, tôi thấy rằng đây là một dạng bài tập tương đối khó
song nó lại rất quan trọng với học sinh THPT.
Thứ nhất: Nếu không nắm được bản chất thì sẽ định hướng sai dẫn đến làm sai.
Thứ hai: Nếu không nắm được bản chất thì viết thiếu hoặc thừa phương trình
dẫn đến giải sai.
Thứ ba: Nếu không nắm được bản chất thì sẽ lẫn lộn số mol OH - hoặc số mol
oxit axit.

Tuy nhiên, tôi thấy một số giáo viên còn xem nhẹ dạng bài tập này, vì thế học
sinh gặp rất nhiều khó khăn khi gặp phải những bài toán dạng này. Chính vì
những lý do trên mà tôi đã chọn đề tài: “Phương pháp giải bài tập dạng oxit axit
phản ứng với dung dịch kiềm’’
1.2. Mục đích nghiên cứu
Hướng dẫn học sinh cách làm bài tập khi cho các oxit axit như : CO2, SO2 tác
dụng với dung dịch bazơ ( NaOH, KOH… và Ba(OH)2 , Ca(OH)2…)
1.3. Đối tượng nhiên cứu
Áp dụng cho học sinh các khối 10, 11, 12 Cơ bản và Nâng cao THPT.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Kết hợp và sử dụng các phương pháp : Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở
lí thuyết, phương pháp điều tra khảo sát thực tế và phương pháp thống kê, xử lí số
liệu.

2


PHẦN 2: NỘI DUNG
2.1. Những vấn đề về cơ sở lí luận
Như ta đã biết Hoá học là một môn học có tính thực nghiệm cao, là một môn
học khó đối với học sinh THPT. Việc nắm bắt các kiến thức lí thuyết của môn
Hóa học đã là khó đối với học sinh còn việc vận dụng kiến thức đó vào làm các
bài tập định lượng còn khó hơn, để việc vận dụng lí thuyết vào làm bài tập đòi hỏi
học sinh cần phải có tư duy logic tốt. Để đạt được điều đó giáo viên phải xây
dựng được cơ sở lí thuyết cơ bản, từ đó hướng dẫn học sinh vận dụng cơ sở lí
thuyết đó vào giải các bài tập.
2.2. Thực trạng của vấn đề
2.2.1. Ưu điểm
Kiến thức hóa học liên hệ mật thiết với thế giới tự nhiên và cuộc sống của con
người.

Đa số các em thích học môn hoá mặc dù trong trường phổ thông còn nhiều
môn học khác nữa. Các em thích học môn hoá vì nhiều lý do khác nhau. Nhưng
có lẽ lý do được các em chọn nhiều nhất là do môn hoá có nhiều ứng dụng trong
thực tế, kế đến là môn hoá có nhiều thí nghiệm vui hấp dẫn. Nhiều em thích học
môn hoá vì nó là một môn học trong số những môn mà các em sẽ thi đại học. Và
lý do khác thì thích học hóa vì nó là môn học bắt buộc. Các lý do trên hoàn toàn
chính đáng và rất hợp lý.
Nhờ tài năng của người giáo viên, những nét đặc trưng riêng của môn Hoá
học so với môn khác, yếu tố quan trọng để các em học sinh yêu thích môn Hóa
học sẽ được làm rõ, phát huy. Bởi vậy, nguời giáo viên cần phải cố gắng phát huy
những nét đặc trưng của môn hoá đồng thời khơi dậy ở các em lòng say mê học
hỏi, nghiên cứu khoa học.
2.2.2. Hạn chế
Một bộ phận học sinh cho rằng môn hoá vừa nhàm chán và hơi khó.
Các em thấy khó phần lớn là không hiểu bài, không học bài và không biết
làm bài tập. Xin trích lời của một em học sinh: “Môn hoá sẽ trở nên dễ nếu một
học sinh cố gắng tìm hiểu học hỏi cho dù thầy cô dạy khó hiểu. Nhưng môn hoá
sẽ trở nên khó nếu học sinh không muốn học dù thầy cô dạy dễ hiểu” Vậy sự yêu
thích, cảm nhận về môn hoá khó hay dễ phụ thuộc cả hai phía từ nguời giáo viên
và cả từ phía học sinh.
Nguời giáo viên không cố gắng phát huy những nét đặc trưng của môn hoá
đồng thời không khơi dậy ở các em lòng say mê học hỏi, nghiên cứu khoa học.
Theo kết quả điều tra cho thấy một số em có ý thức học tập chưa cao. Các
em dành thời gian cho môn hoá không nhiều, chủ yếu là khi có giờ hoá và khi sắp
thi. Như vậy, cách học của các em có phần đối phó học để trả bài để được điểm
3


tốt, còn số các em học hoá thường xuyên nhưng có hứng thú không nhiều và
trong số các em có ý kiến khác thì không học gì hết hoặc thi thoảng mới học môn

hóa chứng tỏ các em còn lơ là đối với việc học môn hoá.
Trong giờ học phần nhỏ các em ngồi tập trung nghe giảng nhưng nghe
giảng một cách thụ động số em ngồi nghe giảng có tham gia phát biểu ý kiến xây
dựng bài chỉ chiếm rất ít. Ở đây không thể đổi lỗi cho học sinh, nó phản ánh lối
truyền thụ kiến thức một chiều truyền thống của nền giáo dục nước ta.
Giáo viên giảng, học sinh chép bài một cách thụ động, sự bất hợp lý trong
chương trình hiện nay. Tuy nhiên, người giáo viên chưa tạo mọi điều kiện khuyến
khích các em tham gia phát biểu ý kiến xây dựng bài trong giờ học. Như vậy các
em mới chưa có hứng thú học tập.
So sánh giữa lý do làm cho các em thích học và không thích học môn hoá
thì thấy vai trò của người giáo viên rất quan trọng, các em yêu thích môn học do
những nét đặc trưng riêng của giáo viên dạy môn Hoá học.
2.2.3. Nguyên nhân của thực trạng
2.2.3.1. Từ học sinh
- Một số học sinh không hứng thú học tập bộ môn: Khác với các môn
khác, môn Hóa học có nhiều khái niệm trừu tượng, khó, học sinh rỗng
kiến thức cơ bản, do đó học sinh tiếp thu kiến thức ngày càng khó khăn
và thiếu hụt.
- Chất lượng đầu vào thấp, học sinh học yếu môn Toán, Lý khó có khả
năng tiếp thu kiến thức môn Hóa học do đó sợ môn Hóa và không ham
thích học Hóa.
- Một số em lười học, thiếu sự chuẩn bị chu đáo dụng cụ học tập dẫn tới
không nắm được các kĩ năng cần thiết trong việc học và vận dụng vào
việc giải quyết các dạng bài tập Hóa học.
- Một số em thiếu tìm tòi, sáng tạo trong học tập, không có sự phấn đấu
vươn lên, có thói quen chờ đợi lười suy nghĩ hay dựa vào giáo viên, bạn
bè hoặc xem lời giải sẵn trong sách giải một cách thụ động.
2.2.3.2. Từ giáo viên
- Chưa thực sự quan tâm đến tất cả các đối tượng học sinh trong cả lớp
mà chỉ chú trọng một số em học khá, giỏi; giáo viên chưa thật tâm lý,

chưa động viên khéo léo kịp thời đối với những tiến bộ của học sinh dù
nhỏ.
- Chưa cân đối giữa việc truyền thụ kiến thức với rèn luyện kỹ năng
thực hành Hóa học.
- Không nắm chắc đối tượng dẫn tới ra đề quá cao hoặc quá thấp đối với
trình độ học sinh.
- Chưa tạo được không khí học tập thân thiện. Giáo viên chưa phối kết
hợp tốt với giáo viên chủ nhiệm và phụ huynh học sinh.
4


- Phương pháp dạy học chậm đổi mới: nhiều giáo viên chưa chú ý đến
phương pháp dạy học đặc trưng của bộ môn: không có thí nghiệm trên
lớp, bỏ giờ thực hành thí nghiệm, phương tiện dạy học nghèo nàn, lạc
hậu.
- Việc kiểm tra, đánh giá chưa nghiêm túc, chưa có tác dụng khích lệ
học sinh trong học tập, thậm chí còn tạo điều kiện cho học sinh chây
lười.
- Chưa tổ chức được các buổi ngoại khóa, những hoạt động ngoài giờ
lên lớp cho học sinh tham gia.
2.2.3.3. Từ phụ huynh học sinh và xã hội
- Học sinh là con em nhân dân lao động, ít có điều kiện đầu tư việc học
cho con cái.
- Một số phụ huynh không quan tâm đến việc học của con em, khoán
trắng việc học tập của con em họ cho nhà trường.
- Sự phát triển bùng nổ của công nghệ thông tin với các dịch vụ vui
chơi, giải trí hấp dẫn đã lôi cuốn các em.
2.3. Đề xuất giải pháp
2.3.1. Các yếu tố cần đảm bảo
2.3.1.1. Tính mới

- Học sinh nắm được bản chất của phản ứng nên các em cảm thấy dễ hiểu, hiểu
sâu sắc vấn đề giải thích được nguyên nhân dẫn đến các trường hợp của bài toán.
- Có thể áp dụng cho nhiều đối tượng học sinh THPT, với đối tượng học sinh đại
trà, học sinh khá, giỏi.
- Tài liệu này có thể giúp ôn thi TN THPTQG, dùng cho các học sinh khối trung
học phổ thông hoặc giáo viên có thể tham khảo.
2.3.1.2. Tính hiệu quả.
- Sau khi áp dụng giải pháp, tôi thấy có tính hiệu quả cao về thái độ học tập và kết
quả học tập.
- Nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy- học hoá học.
- Giúp cho học sinh nắm chắc được bản chất của các bài tập dạng oxit axit phản
ứng với dung dịch kiềm từ đó rèn kỹ năng giải bài tập nói chung và bài tập dạng
này nói riêng.
- Phát huy tính tích cực và tạo hứng thú cho học sinh trong học tập đặc biệt là
trong giải bài tập Hoá học
- Là tài liệu rất cần thiết cho việc ôn tập cho học sinh và giúp giáo viên hệ thống
hoá được kiến thức, phương pháp dạy học.
- Cơ sở lí thuyết, bản chất của phản ứng oxit axit với dung dịch kiềm của kim loại
hoá trị I.
5


- Cơ sở lí thuyết, bản chất của phản ứng oxit axit với dung dịch kiềm của kim loại
hoá trị II
- Xây dựng các cách giải với bài tập dạng oxit axit tác dụng với dung dịch kiềm.
- Các dạng bài tập định lượng minh hoạ.
- Một số bài tập định tính minh hoạ
- Áp dụng giải pháp vào chương trình giảng dạy đối với học sinh THPT đại trà và
ôn thi học sinh giỏi.
2.3.2. Phạm vi áp dụng

- Lớp 11C3, 11C4 và các lớp đại trà lớp 10A4, 10A9, 10A10. Nhân rộng cho cả
các khối lớp có chương trình liên quan đến đề tài.
2.4. Một số dạng bài tập điển hình
2.4.1. Khi cho oxit axit (CO2, SO2...) vào dung dịch kiềm hoá trị I (NaOH,
KOH...)
* Trường hợp 1
Khi cho CO2, SO2 vào dung dịch NaOH, KOH dư sản phẩm là muối trung
hoà + H2O.
n(CO2, SO2 ) < n( NaOH, KOH)
Phương trình:
CO2 + 2NaOH dư  Na2CO3 + H2O
SO2 + 2KOH dư  K2SO3 + H2O
* Trường hợp 2
Khi cho CO2, SO2 dư vào dung dịch NaOH, KOH thì sản phẩm thu được là muối
axit. Tức là:
n(CO2, SO2 ) > n (NaOH, KOH...)
Phương trình:
CO2 + NaOH  NaHCO3
Hoặc cách viết:
CO2 + 2NaOH  Na2CO3 + H2O.
Vì CO2 dư nên CO2 tiếp tục phản ứng với muối tạo thành:
CO2 + Na2CO3 + H2O  2NaHCO3 .
* Trường hợp 3
Nếu biết thể tích hoặc khối lượng của oxit axit và dung dịch kiềm thì trước
hết ta phải tính số mol của cả 2 chất tham gia rồi lập tỉ số.
a. Nếu

n( NaOH ,KOH )
n(CO2 ,SO2 )


1

Kết luận: Sản phẩm tạo ra muối axit và CO2 hoặc SO2 còn dư.
Phương trình phản ứng:(xảy ra cả 2 phản ứng)
CO2 + 2NaOH  Na2CO3 + H2O.
6


CO2 +

Na2CO3 hết +

H2O  2NaHCO3.

b. Nếu

n( NaOH , KOH )
n(CO2 ,SO2 )

2

Kết luận: Sản phẩm tạo ra muối trung hoà do nNaOH, nKOH dư.
Phương trình phản ứng:
CO2 + 2NaOH  Na2CO3 + H2O.
c. Nếu
1<

n( NaOH , KOH )
n(CO2 ,SO2 )


<2

Kết luận: Sản phẩm tạo ra là hỗn hợp hai muối. Muối axit và muối trung hoà.
Phương trình phản ứng:
CO2 + NaOH  NaHCO3
(I)
CO2 + 2NaOH  Na2CO3 + H2O.
Hoặc cách viết:
CO2 + 2NaOH  Na2CO3 + H2O.
CO2 + Na2CO3 + H2O  2NaHCO3.

(II)

Hoặc:
CO2 + NaOH
 NaHCO3
NaHCO3 + NaOH  Na2CO3

+

H2 O

(III)

Nhận xét.
- Trong cách viết phản ứng (II) ta viết phản ứng tạo thành Na 2CO3 trước, sau đó
dư CO2 mới tạo thành muối axit.
- Cách này là đúng nhất vì lúc đầu lượng CO 2 sục vào còn rất ít, NaOH dư do
đó phải tạo thành muối trung hoà trước.
- Cách viết (I) và (III) nếu như giải bài tập sẽ vẫn ra cùng kết quả như cách viết

(II), nhưng bản chất hoá học không đúng. Ví dụ khi sục khí CO 2 vào nước vôi
trong, đầu tiên ta thấy tạo thành kết tủa và chỉ khi CO 2 dư kết tủa mới tan tạo
thành dung dịch trong suốt.
CO2 + Ca(OH)2  CaCO3 + H2O
CaCO3 + CO2 + H2O  Ca(HCO3)2 tan
Cách viết (I) chỉ được dùng khi khẳng định tạo thành hỗn hợp hai muối, nghĩa là:
nCO2 < nNaOH < 2 nCO2
Hay:
7


n

1<

(NaOH,KOH)
<2
n
(CO 2 ,SO 2 )

2.4.2. Khi cho dung dịch kiềm (NaOH, KOH...) tác dụng với P2O5 (H3PO4)
Tuỳ thuộc vào tỉ lệ số mol có thể có nhiều trường hợp xảy ra:
n
n

NaOH
= T (1)
H 3 PO4

Do ta có tỉ lệ (1) vì khi cho P2O5 vào dung dịch KOH, dung dịch NaOH thì P2O5

sẽ phản ứng trước với H2O.
Pthh:
P2O5 + 3H2O  2H3PO4
Nếu: T≤ 1 thì sản phẩm là NaH2PO4
Pthh: NaOH + H3PO4 dư  NaH2PO4 + H2O
Nếu:
1 < T < 2 Sản phẩm tạo thành là NaH2PO4 + Na2HPO4
Pthh: 3NaOH + 2H3PO4 dư  NaH2PO4 + Na2HPO4 + 3H2O.
Nếu: T = 2 thì sản phẩm tạo thành là Na2HPO4
Pthh: 2NaOH + H3PO4  Na2HPO4 + 2H2O.
Nếu: 2Pthh: 5NaOH + 2H3PO4  Na3PO4 + Na2HPO4 + 5H2O.
Nếu: T ≥ 3 thì sản phẩm tạo thành là Na3PO4 và NaOH dư
Phh: 3NaOH + H3PO4  Na3PO4 + 3H2O.
2.4.3. Cho oxit axit (SO2 , CO2...) vào dung dịch kiềm hoá trị II: Ca(OH)2,
Ba(OH)2...
*Trường hợp 1: Nếu đề bài cho CO2, SO2 vào dung dịch Ca(OH)2, Ba(OH)2 dư
thì sản phẩm tạo ra là muối trung hoà và H2O.
Phương trình phản ứng:
CO2 + Ca(OH)2 dư  CaCO3 + H2O
*Trường hợp 2 Nếu đề bài cho CO2, SO2 từ từ vào dung dịch Ca(OH)2, Ba(OH)2
đến dư cho sản phẩm duy nhất là muối axit.
Phương trình phản ứng:
2SO2 dư + Ba(OH)2  Ba(HSO3)2
Hoặc:
CO2 + Ca(OH)2  CaCO3 + H2O
CaCO3 + CO2 + H2O  Ca(HCO3)2 tan
*Trường hợp 3 Nếu bài toán chỉ cho biết thể tích hoặc khối lượng của một chất
thì phải biện luận các trường hợp:
n


* Nếu:

n

CO 2
≤1
(Ba(OH) 2 ,Ca(OH) 2 )

Kết luận: Sản phẩm tạo thành là muối trung hoà.
Phương trình phản ứng:
CO2 + Ca(OH)2 dư  CaCO3 + H2O
8


nCO2

* Nếu : n
≥2
Ba ( OH ) ,Ca ( OH )
Kết luận: Sản phẩm tạo thành là muối axit.
Phương trình phản ứng:
2CO2 dư + Ca(OH)2  Ca(HCO3)2
Hoặc:
CO2
+ Ca(OH)2  CaCO3 + H2O
CaCO3 + CO2 + H2O  Ca(HCO3)2 tan
2

2


n

* Nếu:

1<

n

CO 2
<2
(Ba(OH) 2 ,Ca(OH) 2 )

Kết luận: Sản phẩm tạo thành là muối trung hoà và muối axit.
Cách viết phương trình phản ứng:
Cách 1:
CO2
+ Ca(OH)2  CaCO3 + H2O
CaCO3 + CO2 + H2O  Ca(HCO3)2 tan
Cách 2:
CO2 + Ca(OH)2  CaCO3 + H2O
2CO2 dư + Ca(OH)2  Ca(HCO3)2
Cách 3:
2CO2 dư + Ca(OH)2  Ca(HCO3)2
Ca(HCO3)2 + Ca(OH)2  2CaCO3  + 2H2O.
*Chú ý: Cách viết 1 là đúng bản chất hoá học nhất. Cách 2 và 3 chỉ được dùng
khi biết tạo ra hỗn hợp 2 muối.
2.5. Một số bài tập minh họa
2.5.1. Dạng bài tập CO2, SO2 phản ứng với dung dịch kiềm NaOH, KOH
Bài 1: Dẫn khí CO2 điều chế được bằng cách cho 100 g đá vôi tác dụng với dung

dịch HCl dư, đi qua dung dịch chứa 60 g NaOH. Tính khối lượng muối tạo thành.
* Phân tích đề bài
- Trước khi tính khối lượng muối tạo thành ta phải xác định muối nào được
tạo ra sau phản ứng
- Khi cho axit HCl tác dụng với CaCO 3 có một sản phẩm tạo ra là khí CO 2
ta sẽ tính được số mol CO2 dựa vào mCaCO3 = 100 g.
- Tính số mol của 60 g NaOH.
- Xét tỉ lệ nNaOH : nCO2.
- Dựa vào tỉ lệ xác định muối tạo thành từ đó dựa vào số mol CO 2, số mol
NaOH tính được khối lượng muối.
Bài giải
nCaCO3 =

100
= 1 (mol)
100

Phương trình phản ứng
CaCO3 + 2HCl CaCl2 + CO2 + H2O (1)
Theo ( 1 ) nCO2 = nCaCO3 = 1(mol)
9


nNaOH =
Ta có:

60
= 1,5 (Mol)
40
n

NaOH
1< n
= 1,5 < 2
CO 2

Kết luận: Sản phẩm tạo ra 2 muối ta có phương trình phản ứng.
*Cách1 (Phương pháp song song)
Sau khi tính số mol lập tỉ số khẳng định sản phẩm tạo ra hai muối:
Ta có thể viết phương trình theo cách sau:
Phương trình phản ứng:
2NaOH + CO2  Na2CO3 + H2O
(4)
CO2 + NaOH  NaHCO3
(5)
Gọi x,y lần lượt là số mol CO2 tham gia phản ứng (4),(5) (hoặc có thể đặt
số mol của hai muối tạo thành ).
Ta có:
Phương trình:
x+y=1
(I)
Theo (4) => nNaOH = 2nCO2 = 2x (mol)
Theo (5) => nNaOH = nCO2 = y (mol)
nNaOH = 1,5 (mol) do đó ta có: 2x + y = 1,5
(II)
Kết hợp (I),(II) ta có hệ phương trình :
x+y=1
x = 0,5 ( mol )
2x + y = 1,5
y = 0,5 ( mol )
Vậy:

mNaHCO3 = 0,5.84 = 46 (g)
mNa2CO3 = 0,5.106 = 53 (g)
*Cách 2 (Phương pháp nối tiếp)
Số mol
các chất

2NaOH
Trước P/ư 1,5
Phản ứng

1,5

+

CO2  Na2CO3 + H2O
1
1
.1,5
2

(5)

1
.1,5
2

Sau P/ư
0
0,25
0,75

Vì CO2 dư nên tiếp tục phản ứng với Na2CO3 theo phương trình:
CO2 + N a2CO3 + H2O  2NaHCO3 (6)
Số mol
Trước P/ư 0,25
0,75
các chất
Phản ứng
0,25
0,25
2. 0,25
Sau P/ư
0
0,5
0,5
Dung dịch sau phản ứng gồm: nNa2CO3 = 0,5 (mol)
nNaHCO3 = 0,5 (mol)
10


→ mNa2CO3 = 0,5 . 106 = 53 (g)
→ mNaHCO3 = 0,5 . 84 = 46 (g)
*Cách 3 (Viết phương trình theo đúng tỉ lệ số mol)
n



NaOH
= 1,5 / 1 = 3/2
n
CO 2


Do đó ta lập phương trình theo đúng tỉ lệ mol như trên
2CO2 + 3 NaOH  NaHCO3 + Na2CO3 + H2O
Theo pt :
2
3
1
1
Theo bài : 1
1,5
0,5
0,5
Vậy số gam muối thu được là :
mNaHCO3 = 0,5.84 = 46 (g)
mNa2CO3 = 0,5.106 = 53 (g)
Bài 2: Người ta dùng dung dịch NaOH 0,1M để hấp thụ 5,6 l CO 2 (đo ở đktc).
Tính V dung dịch NaOH đủ để.
a. Tạo ra muối axit. Tính nồng độ mol/l của muối này trong dung dịch sau phản
ứng?
b. Tạo ra muối trung hoà. Tính nồng độ mol/l của muối này trong dung dịch
sau phản ứng?
c. Tạo ra cả hai muối với tỉ lệ số mol là 2:1. Tính nồng độ mol/l của mỗi
muối có trong dung dịch sau phản ứng ?
*Phân tích đề bài
- Để tạo ra muối axit thì tỉ lệ: nCO2 : nNaOH = 1:1.
- Để tạo ra muối trung hoà: nCO2 : nNaOH = 2:1.
- Để tạo ra cả hai muối tỉ lệ 2:1 thì tỉ lệ về số mol. 1 < nCO2 : nNaOH < 2.
Bài giải
5,6


a.

nCO2 = 22,4 = 0,25 ( mol)
Trường hợp tạo ra muối axit.
Phương trình phản ứng
CO2 + NaOH  NaHCO3
1
1
Theo(1) : nNaOH = nCO2 = 0,25 (mol) do đó

(1)
mol

0,25

Vd2 NaOH = 0,1 = 2,5 (mol)
và nNaHCO3 = nCO2 = 0.25 (mol) do đó.
0,25

CM(NaHCO3) = 2,5 = 0,1 (M)
b.

Trường hợp tạo ra muối trung hoà
Phương trình phản ứng
2NaOH + CO2  Na2CO3 + H2O

(2)
11



2(mol)
1(mol)
1 ( mol)
n
n
Theo (2): NaOH = 2 CO2 = 2.0,25 = 0,5 (mol) do đó:
V 2

d

Và:

0,5

= 0,1 = 5 ( lit )
= nCO2 = 0,25 (mol)

NaOH

nNaOH

 CM(NaOH) =

0,25
= 0,05 (M)
5

c.

Trường hợp tạo ra cả hai muối với tỉ lệ số mol 2 muối là 2:1

 nNaHCO3 : nNa2CO3 = 2 : 1 (*)
Phương trình phản ứng
CO2 + NaOH  NaHCO3
(3)
2NaOH + CO2  Na2CO3 + H2O (4)
Theo (*) ta phải nhân đôi (3) rồi cộng với (4) ta được
4NaOH + 3CO2  2NaHCO3 + Na2 CO3 + H2O (5)
4
.0,25 = 0,33 (mol)
3
0,33
Do đó: VNaHCO3 = 0,1 = 3,3 (lít)
2
2
và : (5) → nNaHCO3 = nCO2 = .0,25 = 0,167 (mol)
3
3
1n
1
(5) → nNa2CO3 = CO2 = .0,25 = 0,083 (mol)
3
3

Theo (5) nNaOH =

Vậy :
0,167

CM(NaHCO3) = 3,3 = 0,05M
CM(Na2CO3) =


0,083
= 0,025M
3,3

Bài 3: Hấp thụ hoàn toàn 4,48 lít CO2 (đktc) vào 500 ml dung dịch NaOH thu
được 17,9 gam muối. Tính CM của dung dịch NaOH.
*Phân tích đề bài
Ta có CM =

n
V

VNaOH = 500(ml) = 0,5 lít
Để tính CM(NaOH) ta phải tính được nNaOH.
Khi cho CO2hấp thụ hoàn toàn vào dung dịch NaOH chưa biết nNaOH. Ta không thể
lập được tỉ số nNaOH : nCO2
Để xác định sản phẩm. Ta phải xét cả 3 trường hợp xảy ra.
Bài giải
*Trường hợp 1: nCO2 ≥ nNaOH Sản phẩm tạo ra là muối axit.
Phương trình phản ứng:
CO2 + NaOH  NaHCO3 (1)
12


4,48

nCO2 = 22,4 = 0,2 (mol)
Muối sau phản ứng là NaHCO3.
nNaHCO3 =

Theo (1)

17,9
= 0,2 ( mol).
84

nCO2 = nNaOH = 0,2 (mol)
0,2

CM(NaOH) = 0,5 = 0,4 (mol/l)
*Trường hợp 2: nNaOH ≥ nCO2 sản phẩm tạo ra là muối trung hoà.
Phương trình phản ứng:
2NaOH + CO2  Na2CO3 + H2O (2)
nNa2CO3 =

17,9
= 0,17 (mol)
106

Theo (2)

nNaOH = nCO2 = 0,17 (mol) → nCO2 dư .
nCO2 dư = 0,2 - 0,17 = 0,03 (mol)
Do CO2 dư sẽ phản ứng với sản phẩm của phản ứng (2).
CO2 + Na2CO3 + H2O  2NaHCO3 (3)
Theo (3):

1
nNaHCO3 = nCO2 = nNa2CO3 = 0,03 (mol)
2


→ nNa2CO3 dư còn lại trong dung dịch sau phản ứng (3) là:
nNa2CO3 = 0,17 - 0,03= 0,14 ( mol )
→ mNa2CO3 = 0,14 . 106 = 14,8 (g)
(3) → nNaHCO3 = 2.0,03 = 0,06 (mol) → mNaHCO3 = 0,06.84 = 5,04 (g)
Do đó khối lượng của hai muối là:
m = 5,04 + 14,84 = 19,8 (g) > 17,9 (g).
Vậy trường hợp 2 loại
*Trường hợp 3 Tạo ra hai muối (muối axit và muối trung hoà)
Phương trình phản ứng:
CO2 + NaOH  NaHCO3 ( 4 )
2NaOH + CO2  Na2CO3 + H2O (5)
Gọi x, y lần lượt là số mol của NaHCO3 và Na2CO3 (x, y > 0)
Theo bài ra ta có phương trình :
84 x + 106 y = 17,9 (*)
Theo phương trình phản ứng (4), (5) tổng số mol CO 2 bằng tổng số mol 2 muối ta
có phương trình:
x + y = 0,2
(**)
Kết hợp (*) và (**) ta được:
84 x + 106 y = 17,9
x +
y = 0,2

x = 0,15 (mol)
y = 0,05 (mol)

nNaOH = nNaHCO3 = x = 0,15 (mol)
nNaOH = 2 nNa2CO3 = 2.0,05 = 0,1 (mol)
13



Do đó: Tổng số mol NaOH tham gia phản ứng là:
nNaOH = 0,1 + 0,15 = 0,25 (mol)
0,25

→ CM(NaOH) = 0,5 = 0,5 (mol)
*Chú ý: Nếu bài toán chỉ cho thể tích hoặc số mol một chất ta phải xét cả ba
trường hợp tao ra muối axit hoặc muối trung hoà hoặc tạo ra hỗn hợp hai muối.
Bài 4: Người ta dẫn 2,24 lít khí CO2 (ở đktc) qua bình đựng dung dịch NaOH.
Khí CO2 bị hấp thụ hoàn toàn. Sau phản ứng muối nào được tạo thành với khối
lượng là bao nhiêu gam?
*Phân tích đề bài
Với bài tập này chỉ cho trước số mol (tức VCO2 ở đktc) của CO2 còn số mol
NaOH chưa biết.
Vì vậy muốn biết muối nào được tạo thành và khối lượng là bao nhiêu ta
phải xét các trường hợp xảy ra.
Bài giải
2,24

nCO2 = 22,4 = 0,1 (mol)
*Trường hợp1 Sản phẩm tạo thành là Na2CO3.
nCO2 = 2nNaOH.
Phương trình phản ứng
2NaOH + CO2  Na2CO3 + H2O (1)
Theo (1)
nCO2 = nNaCO3 = 0,1 (mol)
→ mNa2CO3 = 0,1 . 106 = 10,6 (g)
*Trường hợp 2 Sản phẩm tạo thành là muối axit NaHCO3.
nCO2 = nNaOH

Phương trình phản ứng
CO2 + NaOH  NaHCO3 ( 2 )
Theo (2)
nNaHCO3 = nCO2 = 0,1 (mol)
→ mNaHCO3 = 0,1 . 84 = 8,4
(g)
*Trường hợp 3 Sản phẩm tạo thành là hỗn hợp hai muối.
NaHCO3 và Na2CO3
n

Khi đó

1<

NaOH
< 2.
CO 2

n

Các phương trình phản ứng
CO2 + NaOH  NaHCO3
2NaOH + CO2  Na2CO3 + H2O
Và khối lượng hỗn hợp hai muối:
8,4 (g) < mNaHCO3 + mNa2CO3 < 10,6 (g)

(3)
(4)

2.5.2. Dạng bài tập P2O5 phản ứng với dung dịch NaOH, KOH

14


Ví dụ: Đốt cháy hoàn toàn 6,2 g photpho thu được chất A. Cho chất A tác dụng
với 800 ml dung dịch NaOH 0,6 M . Thì thu được muối gì? Bao nhiêu gam?
* Phân tích đề bài:
- Đốt cháy phốtpho ta thu được P 2O5 (A). Cho A (P2O5 )tác dụng với
dungdịch NaOH thì P2O5 sẽ phản ứng với H2O trước tạo ra H3PO4.
- Tính số mol H3PO4 và số mol NaOH.
n

- Xét tỉ số:

n

NaOH
H 3 PO4

từ đó xác định được muối gì được tạo thành.
Bài giải

nP =

6,2
= 0,2 (mol)
31

nNaOH = 0,8 . 0,6 = 0,48 (mol).
Các phương trình phản ứng :
4P + 5O2  2P2O5

(1)
P2O5 + 3H2O  2H3PO4 (2)
Theo (1) → nP2O5 =

1
0,2
nP =
= 0,1 (mol)
2
2

Theo (2) → nH3PO4 = 2 nP2O5 = 2.0,1 = 0,2 (mol)
Xét tỉ lệ
n

2<

n

0,48
NaOH
= 0,2 = 2,4 < 3 .
H 3 PO4

*Kết luận: Sản phẩm tạo ra là hỗn hợp hai muối.
Phương trình phản ứng :
5NaOH + 2H3PO4  Na2HPO4 + Na3PO4 + 5H2O (3)
Hay:
2NaOH + H3PO4  Na2HPO4 + 2H2O
(4)

3NaOH + H3PO4  Na3PO4 + 3H2O
(5)
Gọi x,y lần lượt là số mol của Na2HPO4 và Na3PO4
Theo (4) → nNaOH = 2n Na2HPO4 = 2x (mol)
→ n H3PO4 = n Na2HPO4 = x (mol)
Theo (5) → nNaOH = 3n Na3PO4 = 3y (mol)
→ n H3PO4 = n Na3PO4
= y (mol)
Theo bài ra:
 nNaOH = 0,48 (mol) = 2x +3y (*)
 n H3PO4 = 0,2 (mol) = x + y (**)
Do đó ta có :
2x +3y = 0,48
x = 0,12 (mol)
x+y
= 0,2
y = 0,08 (mol)
Vậy khối lượng muối:

m Na2HPO4 = 0,12 . 142 = 17,04 (g)
m Na3PO4 = 0,08 . 164 = 13,12 (g)
15


2.5.3. Dạng bài tập oxit axit (CO2, SO2...) phản ứng với dung dịch kiềm hoá trị
II: Ca(OH)2, Ba(OH)2 ...
Bài 1: Nêu hiện tượng xảy ra và giải thích khi sục từ từ CO 2 vào dung dịch nước
vôi trong trong ống nghiệm sau đó đun nóng ống nghiệm trên ngọn lửa
Bài giải:
*Hiện tượng

Khi sục CO2 từ từ vào dung dịch nước vôi trong thì lúc đầu thấy xuất hiện kết tủa
trắng và lượng kết tủa tăng dần.
- Nếu tiếp tục sục CO2 thì thấy lượng kết tủa lại giảm dần và tan hết tạo dung dịch
trong suốt.
- Nếu đun nóng dung dịch sau phản ứng thì ta lại thấy xuất hiện kết tủa trắng
* Giải thích
- Lúc đầu khi mới sục CO2 thì lượng CO2 ít lượng Ca(OH)2 dư khi đó chỉ xảy ra
phản ứng
CO2 + Ca(OH)2  CaCO3 + H2O
Vậy kết tủa trắng xuất hiện là CaCO3 lượng kết tủa này tăng dần đến khi
nCO2 = nCa(OH)2 lúc đó lượng kết tủa là cực đại.
- Nếu tiếp tục sục khí CO2 vào thì thấy kết tủa tan dần là do lúc đó lượng Ca(OH) 2
đã hết CO2 dư khi đó xảy ra phản ứng
CaCO3+ CO2 + H2O  Ca(HCO3)2 tan
Sản phẩm tạo thành là Ca(HCO 3)2 tan nên lượng kết tủa giảm dần đến khi lượng
kết tủa tan hết thì tạo dung dịch trong suốt.
Lúc đó: nCO2 = 2 nCa(OH)2 sản phẩm trong ống nghiệm chỉ là Ca(HCO3)2
- Nhưng nếu ta lấy sản phẩm sau phản ứng đun nóng trên ngọn lửa đèn cồn thì lại
thấy xuất hiện kết tủa trắng là do
Ca(HCO3)2 to CaCO3 + CO2 + H2O
Bài 2: Hoà tan hết 2,8 (g) CaO vào H 2O được dung dịch A. Cho dung dịch A hấp
thụ hoàn toàn 1,68 lít khí CO2 (đktc). Hỏi có bao nhiêu gam muối tạo thành ?
* Phân tích đề bài
- Đề bài cho 2,8 g CaO ta sẽ tính được n CaO. Dựa vào phản ứng CaO tác
dụng với nước tính được nCa(OH)2.
- Mặt khác biết VCO2 = 1,68 lít tính được nCO2
n

- Lập tỉ số


n

CO 2
ta sẽ xác định được muối nào được tạo thành và tính
Ca(OH) 2

được khối lượng của muối.
Bài giải
nCaO
nCO2

2,8
=
= 0,05 (mol)
56
1,68
= 22,4 = 0,075 (mol)

Phương trình phản ứng
16


CaO + H2O  Ca(OH)2
(1)
(1) => nCa(OH)2 = nCaO = 0,05 (mol)
n

Xét tỉ lệ:

1<


n

0,075
CO 2
= 0,05
Ca(OH) 2

= 1,5 < 2.

*Kết luận: Vậy sản phẩm tạo ra là hỗn hợp hai muối. Muối trung hoà và muối
axit.
Các phương trình phản ứng :
CO2 + Ca(OH)2  CaCO3 + H2O
(2)
2CO2 dư + Ca(OH)2  Ca(HCO3)2
(3)
*Cách 1 Gọi x, y lần lượt là số mol CO2 ở phản ứng (2) và (3).
Theo bài ra ta có:  nCO2 = 0,075 (mol) do đó.
x + y = 0,075
(*)
Theo (2) nCa(OH)2 = nCO2 = x (mol)
Theo (3) nCa(OH)2 =

1
1
nCO2 = y (mol)
2
2


Mặt khác:  nCa(OH)2 = 0,05(mol). Do đó ta có .
x +

1
y
2

= 0,05 (**)

Kết hợp (*) và (**) ta được
x + y = 0,075

x = 0,025 (mol)

1
y
2

y = 0,05 (mol)

x +
Theo (2): nCO2 = nCaCO3
Theo (3):

= 0,05

= 0,025 (mol) => mCaCO3 = 0,025.100 = 2,5 (g)

1
1

nCa(HCO3)2 = nCO2 = .0,05 = 0,025
2
2

→ mCa(HCO3)2 = 0,025.162 = 4,05 (g) .
*Cách 2 Sau khi tính số mol lập tỉ số xác định được sản phẩm tạo ra là hỗn hợp
hai muối ta viết phương trình phản ứng như sau:
CO2 + Ca(OH)2  CaCO3 
+ H2O (4)
Số mol
Trước P/ư 0,075
0,05
các chất Phản ứng 0,05
0,05
0,05
Sau P/ư 0,025
0
0,05
Theo phương trình phản ứng (4) nCO2 dư nên tiếp tục phản ứng với sản
phẩm CaCO3 theo phương trình:
CO2 + CaCO3  + H2O  Ca(HCO3)2 (5)
Trước P/ư : 0,025
0,05
Phản ứng : 0,025
0,025
0,025
Sau P/ư : 0
0,025
0,025
17



Vậy Sau phản ứng thu được các chất là:
Ca(HCO3)2 = 0,025 (mol)
CaCO3 = 0,025 (mol)
Vậy khối lượng các chất thu được trong hỗn hợp :
m Ca(HCO3)2 = 0,025.162 = 4,05 (g)
m CaCO3
= 0,025.100 = 2,5 (g)
Bài 3:
Cho 10 lít hỗn hợp khí gồm N 2 và CO2 đi qua 2 lit dung dịch Ca(OH) 2
0,02M được 1 g kết tủa. Xác định % theo thể tích của các chất khí có trong hỗn
hợp. (Các thể tích khí đo ở đktc).
*Phân tích đề bài
- Khi cho N2, CO2 đi qua dung dịch Ca(OH)2 chỉ có CO2 phản ứng với Ca(OH)2.
- Trong 10 lít hỗn hợp khí N 2 và CO2 chúng ta không biết số mol CO 2 bằng bao
n

nhiêu.do vậy không thể xét tỉ lệ

n

CO 2
do đó không thể xác định được chính
Ca(OH) 2

xác muối nào được tạo thành nên phải xét các trường hợp:
- Trường hợp 1: Tạo ra muối trung hoà.
- Trường hợp 2: Tạo ra muối axit (Trường hợp này loại vì muối axit tan mâu
thuẫn với đề bài cho 1g kết tủa).

- Trường hợp 3: Tạo ra hỗn hợp hai muối.
Bài giải
Khi cho 10 lít hỗn hợp N2 và CO2 vào dung dịch Ca(OH)2 chỉ có CO2 phản ứng
với Ca(OH)2.
*Trường hợp 1 Nếu nCO2 < nCa(OH)2 tạo ra muối trung hoà.
Phương trình phản ứng:
CO2 + Ca(OH)2 dư CaCO3  + H2O (1)
Kết tủa là CaCO3 nCaCO3 =

1
= 0,01 ( mol ).
100

Theo (1) nCO2 = nCaCO3 = 0,01 (mol).
→ VCO2 = 0,01 . 22,4 = 0,224 (lit)
→ % CO2 =

0,224
. 100 = 2,24 (%)
10

→ % N2 =

100 - 2,24 = 97,76 (%).
n

*Trường hợp 2

1<


n

CO 2
< 2 .sản phẩm tạo thành là hỗn hợp của
Ca(OH) 2

hai muối : CaCO3, Ca(HCO)2.
Phương trình phản ứng:
CO2 + Ca(OH)2  CaCO3  + H2O (2)
2CO2 + Ca(OH)2  Ca(HCO)2
(3)
nCa(OH)2 = 0,02 .2 = 0,04 (mol).
Theo (2) nCaCO3 = nCa(OH)2 = nCO2 = 0,01 (mol).
nCa(OH)2 ở phản ứng (2) là 0,04 - 0,01 = 0,03 (mol).
18


Theo (3) nCO2 = 2 nCa(OH)2 = 0,03 .2 = 0,06 (mol)
→ nCO2 phản ứng là 0,06 + 0,01 = 0,07 (mol)
→ VCO2 = 0,07.22,4 =1,57 (lit)
→ % VCO2 =
→ %V N2

1,57
.100 = 15,68 (%)
10

= 100 - 15,68 = 84,3 (%)

n


* Trường hợp 3

n

CO 2
≥2.
Ca(OH) 2

Sản phẩm tạo ra muối axit. Loại trường hợp này vì muối axit ta hết mà đầu bài
cho thu được 1 g kết tủa.
2.6. Kết quả thực hiện
Khi áp dụng phương pháp “Phương pháp giải bài tập dạng oxit axit phản
ứng với dung dịch kiềm” đối với học sinh trong năm học 2017 – 2018 thu được
kết quả khá tích cực trên các mặt như sau:
2.6.1. Thái độ

Lớp

Hứng thú

Sĩ số

Bình thường

Không hứng thú

Số HS

Tỉ lệ %


Số HS

Tỉ lệ %

Số HS

Tỉ lệ %

11C3

44

35

79,5

6

13,6

3

6,9

11C4

40

30


75,0

7

17,5

3

7,5

10A4

40

33

82,5

5

12,5

2

5,0

10A9

43


35

81,4

5

11,6

3

7,0

10A10

45

32

71,1

8

17,7

5

11,2

2.6.2. Kết quả học tập

Lớp


số

Giỏi

Khá

(8-10)

(từ 6,5 đến
dưới 8)

Trung
bình
(từ 5 đến
dưới 6,5)

Yếu

Kém

(từ 3,5
đến dưới
5)

(dưới
3,5)


19


Số
HS

Tỉ
lệ
%

Số
HS

Tỉ lệ
%

Số
HS

Tỉ
lệ
%

Số
HS

Tỉ
lệ
%


Số
HS

Tỉ
lệ
%

11C3

44

10

22,7

20

45.5

10

22,7

4

9.1

0

0


11C4

40

8

20,0

15

37,5

14

35,
0

3

7,5

0

0

10A4

40


6

15,
0

16

40,0

13

32,
5

4

12,5

0

0

10A9

43

10

23,3


14

32,5

13

30,2

6

14,0

0

0

10A10

45

8

17,7

15

33,3

16


35,
6

5

11,2

1

2,2

PHẦN 3: KẾT LUẬN
3.1.

Kết luận

Khi áp dụng đề tài trên vào việc giảng dạy môn hóa học, tôi đã thu được một số
kết quả nhất định cụ thể là:
Tạo được hứng thú học tập bộ môn cho học sinh: số học sinh yêu thích môn hóa
ngày càng tăng.
Kết quả học tập môn hóa học của học sinh tiến bộ rõ rệt: khá, giỏi ngày càng
tăng còn yếu kém ngày càng giảm dần.
Tạo được môi trường thi đua học tập rất lành mạnh cho học sinh.
Với phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ là một mảng kiến thức tương đối hẹp so
với toàn bộ chương trình hoá học nhưng tôi hi vọng nó sẽ giúp ích cho các em
học sinh và các thầy cô giáo trong việc giảng dạy phần kiến thức này, giúp các em
và thầy cô có cách nhìn tổng quát hơn về dạng toán này và là tài liệu hữu ích cho
việc ôn luyện học sinh giỏi cho học sinh cấp 3 tham khảo. Các bài tập trong đề tài
ở mức độ từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, giúp các em rèn luyện được kỹ
năng không chỉ giải được dạng bài tập phần này mà còn rèn được một số kỹ năng

khác như kỹ năng tính số mol, kỹ năng phân tích,viết phương trình phản ứng...
Trên đây là những kinh nghiệm mà bản thân tôi đã đúc rút được trong quá trình
giảng dạy. Xin được chia sẻ cùng với các giáo viên đang giảng dạy môn Hóa học.
Mặc dù đã rất cố gắng song không thể tránh được các thiếu sót rất mong
được sự đóng góp ý kiến các cấp lãnh đạo, các bạn đồng nghiệp để đề tài của tôi
được hoàn thiện hơn.
20


3.2. Kiến nghị.
+ Đối với học sinh.
- Cần có ý thức trong học tập, tính tự giác, tự tìm tòi, tự nghiên cứu.
- Không phân biệt các môn học đặc biệt đối với các lớp khối C và D.
+ Đối với giáo viên.
- Tạo hứng thú cho học sinh học tập bộ môn Hóa học.
- Phải hướng dẫn học sinh tìm tòi tài liệu phục vụ cho việc học tập.
- Phải đầu tư thời gian cho việc bồi dưỡng học sinh yếu, kém để nâng cao chất
lượng đại trà.
+ §èi víi nhµ trêng.
- Nhà trường cần tổ chức các buổi hội giảng nhiều hơn nữa để thúc đẩy sự đổi
mới phương pháp giảng dạy, nâng cao hiệu quả nghiên cứu cho giáo viên. Có tủ
sách lưu lại các chuyên đề bồi dưỡng học tập của giáo viên hàng năm để làm cơ
sở nghiên cứu.
- Đề nghị sở GD&ĐT hàng năm trích một nguồn kinh phí bổ sung thêm đồ dùng
thí nghiệm đặc biệt là hóa chất.
Mặc dù rất tâm huyết và nỗ lực trong thực hiện đề tài nhưng không tránh
khỏi còn thiếu sót và hạn chế. Vì vậy tôi rất mong nhận được sự góp ý của các
đồng nghiệp để đề tài được hoàn thiện và áp dụng rộng rãi.
Tĩnh Gia,ngày 20 tháng 5 năm 2018
Người thực hiện


LÊ ĐÌNH LƯƠNG

21



×